Tự thán 30 Vận trị cùng loàn, chỉn mặc thì, Bằng ta sinh uổng có làm chi. Ơn vua luống nhiều phần đội, Việc nước nào ích mỗ bề. Rắp tới, đã chăng hay chốn tới, Hầu đi, lại chửa biết đường đi. Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu, Ai há liều nơi thịnh suy. Cước chú: vận: khí vận, mệnh vận trị: bình trị, trái với loạn ; vận trị: thời vận thái bình loàn: loạn, không có trật tự, không chính đáng chỉn: nên mặc thì: mặc thời bằng ta: giống như ta; sinh uổng: sinh ra uổng phí luống: những là, từ đệm nào: gì, chi rắp: định, toan chăng hay: chẳng hay hầu: sắp, gần tôi ngươi: tôi - bạn há: nào có, có lẽ đâu, liệu có phải.
Tự thán 31 Nước xuôi nước ngược nổi đòi triều, Thuyền khách chơi thu các lướt chèo. Mui thác trăng dương thế hứng, Buồm nhân gió, mặc khi phiêu. Phơ phơ đầu bạc ông câu cá, Lẻo lẻo duềnh xanh con mắt mèo. Âu lộ cùng ta dường có ý, Đến đâu thì thấy nó đi theo. Cước chú: nổi: bơi, thả (thuyền) đòi: theo, tuỳ, thuận theo, tuỳ theo triều: thủy triều các: từng, mỗi, đều, mỗi một cá thể đều, ai nấy đều, mỗi nơi đều. mui (mái): mái chèo thác: gửi theo, nương theo thế: tình hình, trạng thái của động tác. hứng: cảm hứng phiêu: trôi, dạt. Lẻo lẻo: âm cổ của leo lẻo duềnh: dòng nước tự nhiên [Hoàng Phê 2000: 260], các ngữ liệu hiện còn cho phép phân xuất nghĩa "vùng nước" lúc trỏ đầm ao, lúc trỏ sông, lúc trỏ biển. âu lộ: âu và cò, hai loài chim nước, bạn của ẩn sĩ.
Tự thán 32 Chặm tự nhiên lều một căn, Giũ không thảy thảy tấm hồng trần. Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ, Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân. Thấy nguyệt tròn thì kể tháng, Dìn hoa nở mới hay xuân. Cày ăn đào uống yên đòi phận, Sự thế chăng hay đã Hán Tần. Cước chú: chặm: dùng dây xuyên kết các vật liệu như củi gỗ, phên liếp lại với nhau, nghĩa như đan, kết giũ: vứt bỏ, giũ thảy thảy: <từ cổ> tất thảy, tất cả. cam quýt: chỉ tư nghiệp nghèo khó con đòi: người giúp việc bậu bạn: bạn bè dìn: nhìn Hán Tần: đc. theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm ghi chuyện người dân ở nguồn Đào hoa nói : "Đời trước tránh loạn nhà tần, đem vợ con và người trong ấp đến tuyệt cảnh này, chẳng ra nữa, cách ly hẳn với người ngoài, hỏi nay thuộc đời nào, thì chẳng biết đến nhà Hán, huống chi bàn đến nhà Nguỵ nhà Tấn."
Tự thán 33 Kẻ thì nên Bụt kẻ nên tiên, Tượng thấy ba thân đã có duyên. Bành được thương thua: con tạo hoá, Diều bay cá dảy: đạo tự nhiên. Có thân mựa lệ bượp bằng hữu, Đọc sách thì xem thấy thánh hiền. Ta nẻo ở đâu vui thú đấy, Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền. Cước chú: tượng: có lẽ, dường như ba thân: thân kiếp trước, hiện tại, và tương lai Bành: Bành Tổ (bên Trung Quốc), tính điềm tĩnh, không thích công danh phú quý, chỉ chuyên chú việc dưỡng sinh. Khi phải ra làm quan, ông thường cáo ốm ở nhà, không dự gì đến chính sự. thương: người chết trẻ thua: trái với được; Ý cả câu: sống lâu được như Bành Tổ hay phải chết trẻ - đều do tạo hóa, lẽ trời. dảy: nhảy mựa: chớ lệ bượp: thiếu gì; sợ gì thiếu (bằng hữu: bạn bè) lọ: đâu cần lâm tuyền: rừng và suối, nơi ở ẩn
Tự thán 34 Tự nhiên đắp đổi đạo trời, Tiêu trưởng doanh hư một phút dời. Muối miễn dưa dầu đủ bữa, Thao cùng gấm mặc chưng đời. Công danh bịn rịn già lú, Tạo hoá đong lừa trẻ chơi. Sự thế đã hay thì vậy, Có ai cốc được mỗ cười cười. Cước chú: đắp đổi: xoay vần, chu tuần, luân lưu theo một chu trình định sẵn, "xếp có thứ tự" đạo trời: lẽ trời sắp đặt tiêu trưởng: tăng giảm, thịnh suy, tiêu mất và phương trưởng trỏ hai sự đối lập. doanh hư: đầy vơi, được mất, thịnh suy, thành bại, trỏ hai mặt đối lập trong cuộc sống, đó là lẽ thường hằng của đại đạo (tự nhiên). thao: dây dệt từ tơ lụa có hoa văn đẹp. chưng: từ đệm, không có nghĩa bịn rịn: "thương nhớ, bứt đi không đặng" lú: lãng trí, đầu óc chậm chạp. đong lừa: <từ cổ> lừa gạt, nói tắt từ câu đong đấu lựa thưng, Tng. lừa thăng tráo đấu, trỏ việc gian lận. cốc: hiểu biết
Tự thán 35 Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều, Chân rừng chặm một căn lều. Cửa hiềm khách tục nào cho đến, Song vắng chim phàm chớ tới kêu. Lặt hoa tàn, xem ngọc rụng, Soi nguyệt xủ, kẻo đèn khêu. Chàu những của tự nhiên ấy, Khỏng khảnh dầu lòng ở đất Nghiêu. Cước chú: chẳng lọ nhiều: đâu cần nhiều chặm: dùng dây xuyên kết các vật liệu như củi gỗ, phên liếp lại với nhau, nghĩa như đan, kết hiềm: e ngại lặt: nhặt nguyệt xủ: trăng mờ kẻo: khỏi phải; đèn khêu: đèn thắp chàu: giàu Khỏng khảnh: thích thú đất Nghiêu: đất của vua Nghiêu (vua Nghiêu TQ là minh quân).
Tự thán 36 Uổng có thân nhàn cực thửa nuôi, Ghe đường dại dột mỗ nên xuôi. Nào ai dễ có lòng chân thật, Ở thế tin chi miệng đãi buôi. Khong khảy kẻ cười cùng kẻ thốt, Khó khăn người dể miễn người duôi. Nhân gian mọi sự đều nguôi hết, Một sự quân thân chăng khứng nguôi. Cước chú: uổng: phí cực: trỏ mức độ quyết liệt nhất về hành động. thửa nuôi: sự nuôi nấng ghe đường: nhiều đường đãi buôi: <từ cổ> xởi lởi bên ngoài, không thực Khong khảy: <từ cổ> "bộ thong dong, phong lưu" dể: <từ cổ> coi rẻ, coi khinh, trong khinh dể, dể duôi. khứng:đành lòng, ưng chịu chăng khứng nguôi: chẳng chịu nguôi, chẳng đành lòng nguôi.
Tự thán 37 Nẻo từ nước có đao binh, Nấn ná am quê cảnh cực thanh. Đình Thấu Ngọc tiên sanh tuyết nhũ, Song mai hoa điểm quyển Hy Kinh. Hẹn này nỡ phụ ba đường cúc, Tiếc ấy vì hay một chữ "đinh". Mọi sự đã chăng còn ước nữa, Nguyện xin một thấy khuở thăng bình. Cước chú: nẻo: khi lúc (chỉ thời gian) Thấu Ngọc: tên ngôi đình đẹp nổi tiếng ở Lô Sơn, do vị tăng đời Tống là Nhược Ngu dựng. tiên: đun nấu sanh: cái sanh bằng gang, có chân dùng để đun, nấu tuyết nhũ: nhũ tuyết, tức nước rỏ xuống bị đóng băng lại trông như hình bầu vú, cấu tạo cn thạch nhũ (vú đá) Hy Kinh: kinh do Phục Hy soạn, trỏ Kinh Dịch, hay Hy Dịch. đinh: chữ đinh, đây là chữ đơn giản, chỉ việc biết chữ học hành nói chung. khuở: thuở thăng bình: thái bình, phát triển
Tự thán 38 Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ, Mẽ chuông tàn cảnh sất sơ. Chim có miệng kêu, âu lại ngậm, Cáo khuyên lòng ở, mựa còn ngờ. Chăng cài cửa, tiếc non che khuất, Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ. Ta ắt muốn nhàn quan muốn lạnh, Lo thay vì luỵ phải thờ ơ. Cước chú: phồn hoa: phồn vinh, náo nhiệt đoạn: khúc, chặng, quãng mẽ: vẻ sất sơ: <từ cổ> xơ xác cáo: con cáo khuyên: răn nhủ mựa: chớ, không. chăng: chẳng sá: hãy, nên lạnh: trong trẻo một cách cô đơn và lạnh lẽo, nói tắt của thanh lãnh
Tự thán 39 Lấy đâu xuất xử lọn hai bề, Được thú làm quan trật thú quê. Ngòi cạn ước ở làm cấn cấn, Cửa quyền biếng mặc áo thê thê. Mừng cùng vượn hạc quen lòng thắm, Đã kẻo thuần lô bảo hẹn về. Thong thả dầu ta ngoài thế giới, La ngàn non nước một thằng hề. Cước chú: xuất xử: xuất sĩ và thoái ẩn, tức việc ra làm quan và việc từ quan về ở ẩn. lọn: trọn vẹn trật: mất cấn cấn: cá nhỏ sống ở các mặt nước ao hồ, nay đọc là cân cấn. biếng: lười, ngại thê thê: vẻ dài và xúng xính như đuôi cá lia thia kẻo: khỏi, không phải thuần lô: tức Thuần canh lô khoái . Sách Thế Thuyết Tân Ngữ phần Thuyết giám ghi: Trương Hàn giỏi văn chương, tính phóng khoáng, không câu nệ nhỏ nhặt. Ông vào đất Lạc, Tề Vương Quýnh vời đến cho giữ chức thuộc quan. Quýnh từng nói rằng: "Thiên hạ loạn lạc, mối hoạ chưa định được, phàm người có tên tuổi trong bốn bể cầu được lui về mà hưởng an nhàn là rất khó." rồi nhân một buổi gió thu bắt đầu thổi, trương hàn nhớ món canh rau thuần, gỏi cá vược quê nhà. Ông than rằng: "Đời người ta quý nhất là được thỏa chí, sao có thể chịu trói buộc mình ở ngoài ngàn dặm mà cầu danh cầu tước." Đoạn ông sai người nhà thắng ngựa, chuẩn bị hành lý rồi bỏ quan trở về quê cũ. la ngàn: ngàn, nghìn