Tự thán 10 Tơ tóc chưa hề báo sở sinh, Già hoà lú, tủi nhiều hành. Chông gai nhẻ đường danh lợi, Mặn lạt no mùi thế tình. Sách một hai phiên làm bậu bạn, Rượu năm ba chén đổi công danh. Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa, Cầu một ngồi coi đời thái bình. Cước chú: tơ tóc: <từ cổ> tơ và tóc, dịch từ chữ ti phát, chỉ những sợi rất nhỏ, dẫn thân sang nghĩa rất ít như tơ hào, mảy may. báo: trả ơn. sở sinh: bố mẹ, song thân phụ mẫu, người sinh ra mình. hòa: và; già hòa lú: tuổi già lú lẫn tủi: thẹn, hổ hành: đường, lối; tủi nhiều hành: tủi thẹn nhiều đường nhẻ: nhiều, lắm lạt: nhạt no mùi: đủ mùi (nếm trải đủ mùi) thế tình: tình đời, nói tắt của thế thái nhân tình chưng: hư từ không vó nghĩa cầu: cần
Tự thán 11 Con lều mọn mọn cách hồng trần, Vướng vất tư mùa những bạn thân. Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng, Mai Lâm Bô đâm được câu thần. Trượng phu non vắng là tri kỉ, Tiên khách nguồn im ấy cố nhân. Mấy của yêu đương đà chiếm được, Lại mong chiếm cả hết hoà xuân. Cước chú: con lều mọn mọn: chiếc lều nhỏ cách hồng trần: xa cách chốn trần tục Tưởng Hủ: tự Nguyên Khanh, người đỗ lăng (nay Tây An tỉnh Thiểm Tây), làm thứ sử duyện châu đời Đông Hán, tính liêm khiết, trung trực. Sau vì bất mãn với sự chuyên quyền của Vương Mãng mà từ quan về ở ẩn ở quê nhà, đóng cửa không ra nữa. tiết: đốt, gióng của cây trúc; tiết cứng: đốt trúc cứng cáp (ẩn dụ sĩ khí người quân tử). Lâm Bô: tự Quân Phục, ẩn sĩ, nhà thơ, từ gia, thư Pháp Gia nổi tiếng đời Bắc Tống, người thôn hoàng hiền nước Đại Lý (nay là thôn Hoàng Hiền, Trấn Cừu Thôn, thành phố Phụng Hoá), từ nhỏ đã hiếu học, hiếu cổ, thông chư tử bách gia, tính cô độc, cao khiết, điềm đạm, thích bần hàn, không dua danh lợi. đâm: viết, sáng tác, nảy ra câu thần: câu thơ thần diệu, câu thơ hay nguồn: thượng lưu của con nước; nguồn im: dòng nước lặng, không có tiếng động. mấy của: mấy việc; đà: đã hòa: cả, tất cả, thảy
Tự thán 12 Lọ chi tiên Bụt nhọc tìm phương, Được thú an nhàn ngày tháng trường. Song có hoa mai đìa có nguyệt, Án còn phiến sách triện còn hương. Tôi ngươi một tiết bền bằng đá, Biên tóc mười phần chịu những sương. Chữ học ngày xưa quên hết dạng, Chẳng quên có một chữ "cương thường". Cước chú: lọ chi: cần chi Câu 1: cần chi tìm tiên bụt nhọc nhằn các phương đìa: ao, đầm phiến sách: cuốn sách triện hương được dùng như bàn hương 盤香 (vòng hương), nén hương vòng. tôi ngươi: <từ cổ> "tôi với anh, tôi với ngài" biên tóc: tóc mai cương thường: tức tam cương ngũ thường, là các mối quan hệ nhân luân cơ bản theo đạo Nho.
Tự thán 13 Phú quý lòng hơn phú quý danh, Thân hoà tự tại, thú hoà thanh. Tiền sen tích để bao nhiêu thúng, Vàng cúc đam cho biết mấy bình. Ngoài cửa, mận đào là khách đỗ, Trong nhà cam quýt ấy tôi mình. Ai hay ai chẳng hay thì chớ, Bui một ta khen ta hữu tình. Cước chú: phú quý lòng: giàu có trong lòng phú quý danh: giàu có về danh lợi hòa: vừa thú: ý hướng, chỉ thú thanh: thanh nhã, cao khiết tiền sen: ví lá sen tròn như vành đồng tiền. tích: tích trữ, để dành vàng cúc: hoa cúc vàng đam: đem, mang mận đào: chỉ chốn quan trường khách: người đời (đối lập với ta) cam quýt: chỉ gia sản ít ỏi, cuộc sống thanh bần ai hay: ai biết; ai chẳng hay: ai chẳng biết; thì chớ: thôi, thì thôi, từ đứng sau ngữ phủ định hữu tình: có tình cảm.
Tự thán 14 Lều hèn vô sự ấy lâu đài, Nằm ở chăng từng khuất nhiễu ai. Tuyết đượm chà mai câu dễ động, Đìa in bóng nguyệt hứng thêm dài. Quyển "thi thư" những màng quen mặt, Tiếng thị phi chăng dộng đến tai. Chẳng thấy phồn hoa trong khuở nọ, Ít nhiều gưởi kiến cành hoài. Cước chú: lều hèn: căn lều nhỏ vô sự: bình an, không có biến cố xảy đến chăng từng: chẳng từng khuất nhiễu: cưỡng ép và gây phiền nhiễu chà mai: cành mai câu: câu thơ; câu dễ động: câu thơ động trong lòng; tứ thơ chợt đến đìa: ao, đầm hứng: cảm hứng (hứng làm thơ) thi thư: Kinh Thi, Kinh Thư - sách kinh điển của Nho gia màng: mong, muốn chăng động: chẳng động, chẳng chạm đến khuở: thuở (chỉ thời gian) gưởi kiến cành hoài: Gửi kiến cành hòe (tích xưa Thuần Vu Phần uống rượu ngủ quên bên gốc hòe, mơ mình được vinh hoa phú quý bên đất Hòe An, tỉnh dậy thì chỉ thấy tổ kiến) => Gửi kiến cành hòe ngụ ý công danh như giấc mộng, Nguyễn Trãi không màng tới.
Tự thán 15 Lòng người Man Xúc nhọc đua hơi, Chẳng cốc nhân sinh gưởi chơi. Thoi nhật nguyệt đưa qua mỗ phút, Áng phồn hoa họp mấy trăm đời. Hoa càng khoe tốt, tốt thì rã, Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi. Mới biết doanh hư đà có số, Ai từng cải được lòng trời. Cước chú: Man Xúc: nước Man và nước Xúc. Trang Tử thiên Tắc dương có đoạn: "Có một nước nằm bên sừng trái của con sên tên là xúc thị, lại có một nước khác nằm ở bên phải sừng con sên tên là man thị, tranh đất đánh nhau suốt, chết mất mấy vạn." đời sau gọi đó là Man Xúc tương trì. nhọc đua hơi: đua tranh sức lực cho nhọc nhằn, khổ sở cốc: hiểu, biết, trong giác ngộ gưởi chơi: dịch chữ sinh ký trong cụm sinh ký tử quy (sống gửi thác về); nhân sinh gưởi chơi ý là cuộc sống con người chỉ là sống gửi, sống tạm cõi nhân sinh thoi nhật nguyệt: mặt trăng, mặt trời thay nhau lặn mọc như thoi đưa áng phồn hoa: chốn phồn vinh, náo nhiệt, đông người rã: rã rời, tàn lụi doanh hư: đầy vơi, được mất, thịnh suy, thành bại, trỏ hai mặt đối lập trong cuộc sống, đó là lẽ thường hằng của đại đạo (tự nhiên). cải: đổi
Tự thán 16 Chước toan chưa dẹp nẻo bình sinh, Đến khuở già lại trách mình. Khổ trúc chăng ưa lòng khách bạc, Lão mai sá học nết người thanh. Công danh trở đường vô sự, Non nước ghé chốn hữu tình. Nào của cổi buồn trong khuở ấy, Có thơ đầy túi, rượu đầy bình. Cước chú: chước toan: mưu chước, toan tính chưa dẹp: chưa buông, chưa bỏ sang một bên bình sinh: cuộc sống khuở già: lúc về già; Ý 2 câu đầu: Nếu cứ mãi mưu mô, toan tính trong cuộc sống thù về già lại phải tự trách mình. khổ trúc: trúc đắng, còn gọi là tán bính trúc, thân tròn cao khoảng bốn mét. Các nhánh nhỏ dài, hình tam giác, lá hình trâm, măng có vị đắng, không ăn được. chăng: chẳng khách bạc: kẻ sống bạc bẽo lão mai: cây mai già, mai cổ thụ sá học: nên học người thanh: người ngay thẳng, trong sạch trở: quay về, trong trở gót vô sự: không có việc gì xảy ra, không có gì phải lo lắng của: đồ, thứ cổi buồn: dịch chữ giải sầu, giải phiền, giải ưu
Tự thán 17 Gẫm hay mùi đạo cực chưng ngon, Nghìn kiếp dầu ăn vuỗn hãy còn. Nhật nguyệt dễ qua biên trắng, Cương thường khôn biến tấc son. Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc, La đá hay mòn nghĩa chẳng mòn. Chử khăng khăng ai nỡ phụ, Bù trì mựa khá để thon von. Cước chú: mùi: mùi vị (cảm giác) đạo: nguyên lý, thường trỏ chung cả trường phái triết học đạo đức, như đạo Nho. cực chưng ngon: cực là ngon (chưng: hư từ) vuỗn: vẫn nhật nguyệt: mặt trăng, mặt trời - chỉ sự biến thiên của thời gian biên trắng: tóc mai bạc trắng; ý cả câu: thời gian trôi qua dễ làm cho tóc bạc cương thường: tam cương, ngũ thường - các rường cột đạo lí của Nho giáo khôn biến tấc son: không biến đổi lòng son danh: tiếng tăm, thanh danh; ý nói mất vàng không tiếng, mất danh mới tiếc la đá: âm cổ của đá chử: ghi nhớ, để ý cẩn thận bù trì: săn sóc, giúp đỡ mựa: chớ, không; khá: có thể, (khả năng) thon von: (thôn viên): thôn nhân, ông lão nông thôn
Tự thán 18 Lân la mến cảnh sơn khê, Sự thế nên vong hết mọi bề. Ngòi khuở triều cường chờ nguyệt mọc, Cây khi ác lặn rước chim về. Chàu mặc phận, nguôi lòng ước, Rốt yên bần, ấy cổ lề. Ắt muốn đến chơi thành thị nữa, Âu là non nước nó đàn chê. Cước chú: cảnh sơn khê: cảnh núi rừng, sông suối sự thế: việc đời vong: quên ngòi: con nước, dòng nước. khuở: khi, lúc ác lặn: chỉ mặt trời lặn chàu: giàu nguôi: bớt, giảm, khuây, hết rốt: dịch chữ cùng (thực hiện đến cùng, cố cùng, làm cho rốt ráo), lưu tích còn trong từ rốt ráo. yên bần: cuộc sống yên ổn, thanh bần cổ lề: lề thói xưa ắt: hẳn âu là: lo là, có lẽ là đàn chê: <từ cổ> chê cười
Tự thán 19 Tài tuy chăng ngõ, trí chăng cao, Quyền đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh pha luỹ khúc, Mình làm thi tướng đánh đàn tao. Cầm xua hết mã, cờ xua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa? Đòi thì vậy dễ hơn nào. Cước chú: chăng ngõ: chẳng giỏi, chẳng khôn ngoan quyền: thế lực chính trị hào: bừng khởi, phấn phát tửu binh: rượu pha: làm cho tiêu hao luỹ khúc: bờ luỹ đắp bằng bã rượu thi tướng: tướng thơ. đàn tao: dịch chữ tao đàn, văn đàn, thi đàn. cầm - mã: cái đàn và cái ngựa đàn, tức thanh gỗ hay kim loại để cố định một đầu dây, từ đó mới dòng dây qua các nhạn đàn và cuối cùng néo vào khoá đàn để điều chỉnh độ căng và cung phím của dây đàn, tiếng anh gọi là cái cầu đàn (bridge) bao nả: bao nhiêu - nghi vấn đòi: nhiều, khắp.