Mạn thuật 8 Chân chăng lọt đến cửa vương hầu, Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu. Liều cửa nhà xem bằng quán khách, Đam công danh đổi lấy cần câu. Thân đà hết luỵ, thân nên nhẹ, Bụt ấy là lòng, Bụt khá cầu. Bui một quân thân ơn cực nặng, Tơ hào chửa báo hãy còn âu. Cước chú: chăng: chẳng cửa vương hầu: cửa vua, quan thay: từ biểu thị nhấn mạnh hơn nữa cảm xúc đang nói đến liều: liệu, liệu lượng, lường xem: cho rằng bằng quán khách: coi như nhà trọ đam: đem, mang lụy: đau buồn, phiền não nên: trở nên cầu: tìm, muốn, mong, muốn nhờ tơ hào: mảy may chửa báo: chưa báo âu: lo lắng
Mạn thuật 9 Am quạnh thiêu hương đọc ngũ canh, Linh đài sạch một dường thanh. Nhà còn thi lễ âu chi ngặt, Đời bượp văn chương uổng mỗ danh. Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ, Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh. Chi là của tiêu ngày tháng? Thơ một hai thiên rượu một bình. Cước chú: am quạnh: lều cỏ vắng thiêu hương: đốt hương đọc: đọc sách ngũ canh: năm canh linh đài: cõi lòng thanh: liêm khiết, thanh nhàn, trái với ô trọc. thi lễ: nói tắt của Kinh Thi và kinh lễ, hai bộ kinh của nho gia. âu chi: lo chi, lo gì ngặt: nghèo khó bượp: thiếu, ít, "bượp gì: thiếu gì" mỗ: ngôi tự xưng, ta, có thể dùng làm chủ ngữ, cũng có thể làm tính từ với nghĩa "của ta". Đỗ Phủ, Uyên Minh: nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc chi: gì, đứng đầu câu, dùng để hỏi thiên: thiên thơ, bài thơ, áng thơ
Mạn thuật 10 Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo, Chí cũ công danh vuỗn rã keo. Viện có hoa tàn chăng quét đất, Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo. Lòng người tựa mặt ai ai khác, Sự thế bằng cờ, bước bước nghèo. Không hết kể chi tay trí thuật, Để đòi khi ngã thắt khi eo. Cước chú: chí cũ: chí xưa vuỗn: vẫn rã keo: mất hết chất dính, (bóng) mất hết ý hướng viện: vườn có tường rào vây quanh chăng quét đất: không nỡ quét đất sá thôi chèo: nên thôi không chèo (thuyền) nữa ai ai: người người khác: không giống với, không như nhau. Ý cả câu: lòng người cũng như khuôn mặt, không ai giống ai. sự thế bằng cờ: việc đời giống như chơi cờ nghèo: nguy hiểm, trong từ hiểm nghèo, ngoằn nghèo (ngoèo), ngặt nghèo, bệnh nghèo, nghèo nàn, thì nghèo chi: gì, từ để hỏi đứng sau động từ, tỏ ý phủ định, trong làm chi, nài chi. tay: người trí thuật: trí tuệ và mưu thuật đòi: đuổi, theo, trong từ theo đòi, làm đòi thắt: buộc thít vào, chèn ép thêm. eo: chỗ uốn cong, nghĩa bóng trỏ khi khó khăn, như "eo nghèo: chật hẹp, nghèo nàn; eo hẹp: chật hẹp, khốn khó".
Mạn thuật 11 Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, Lưởng thưởng chưa lìa lưới trần. Ở thế những hiềm qua mỗ thế, Có thân thì sá cốc chưng thân. Vườn còn thông trúc đương năm mẫu, Câu ước công danh đổi một cần. Miệt bả hài gai khăn gốc, Xênh xang làm mỗ đứa thôn nhân. Cước chú: lưởng thưởng: bộ mệt nhọc, yếu đuối, bộ đi xiêu xó, không vững hiềm: e, ngại, sợ qua: sống cho hết một quãng thời gian nào đó mỗ thế: đời ta sá: hãy, nên cốc: hiểu, biết, trong giác ngộ chưng: hư từ vô nghĩa, đứng giữa động từ và tân ngữ đương: gần gần, xấp xỉ, lưu tích còn trong từ tương đương câu: cần câu ước: ước định, ý cả câu: đổi công danh lấy cần câu (cá) miệt bả: cái tất bằng vải thô hài gai: đôi hài làm bằng vỏ hoặc sợi cây gai, khăn gốc: khăn dệt từ sợi thô xênh xang: ung dung mỗ: ta đứa thôn nhân: người quê mùa, nông dân
Mạn thuật 12 Trường văn nằm ngả mấy thu dư, Uổng tốn công nhàn biện "lỗ ngư". Còn miệng tựa bình đà chỉn chử, Có lòng bằng trúc mỗ nên hư. Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ, Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư. Chỉn sá lui mà thủ phận, Lại tu thân khác mặc thi thư. Cước chú: Trường văn: văn đàn, rộng hơn là chỉ việc học hành thi cử. mấy thu: mấy năm dư: dài hơn so với quãng thời gian đã nhắc đến. uổng tốn: uổng phí công: công nghiệp và danh vọng nhàn: vô sự, an tĩnh, hư không biện: phân biệt, biện biệt chữ lỗ 魯 và chữ ngư 魚, hai chữ gần giống nhau nên hay bị lầm, giống như chữ tác đánh chữ tộ chỉn: vẫn, chỉ một mực chử: giữa (ý: giữ miệng như nâng bình) lòng bằng trúc: lòng thẳng ngay như cây trúc hư: để lòng nhàn nhã, không còn bộn tạp, không chịu bất kỳ tác động nào của cuộc sống, của ngoại giới. Vương Tạ: họ Vương và họ Tạ, hai vọng tộc đời Lục Triều; Vương Tạ để chỉ thay cho các nhà thế môn vọng tộc. hầu: toan, định, muốn. Tiệp Dư: tức Ban Tiệp Dư 班婕妤 (48 tcn- 2 scn), từ phú gia đời Tây Hán, là phi tử của Hán Thành Đế, có đức hạnh, giỏi thơ phú, viết nhiều nhưng nay chỉ còn ba bài, là tự thương phú, đảo tố phú và bài ngũ ngôn đoàn phiến ca. Bài cuối bà làm khi không còn được vua sủng ái nữa, trong đó có ví thân phận người con gái trong cung như chiếc quạt, chỉ được sủng ái nhất thời mà thôi. chỉn sá: chỉ nên khác: sau, trái với này - hiện tại thi thư: nói tắt của Kinh Thi và Kinh Thư, hai bộ kinh điển của nho gia.
Mạn thuật 13 Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao. Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch, Kề nước cầm đưa tiếng cửu cao. Khách đến, vườn còn hoa lác, Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào. Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ, Lẩn thẩn làm chi áng mận đào. Cước chú: cách: ngăn song mai: cửa sổ có hoa mai Cô Dịch: biểu tượng cho người đẹp có phẩm cách cao khiết hay chỉ chung cho thần tiên; nghĩa cả câu 3: Hoa mai thanh khiết như thần nhân ở núi Cô Dịch cửu cao: chín cái đầm; nghĩa bóng tả tiếng đàn trong trẻo, tao nhã như tiếng hạc. lác: nhìn, ngắm nên: thành chăng: chẳng áng mận đào: chốn quan trường nhiều bon chen
Mạn thuật 14 Án tuyết mười thu uổng đọc thư, Kẻo còn loạt loạt chữ Tương Như. Nước non kể khắp quê Hà Hữu, Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư. Con mắt hoà xanh đầu dễ bạc, Lưng khôn uốn lộc nên từ. Ai ai đều đã bằng câu hết, Nước chăng còn có Sử Ngư. Cước chú: án tuyết: dịch từ chữ tuyết án. Sách Tôn Thị Thế Lục ghi: "... đời Tấn thuở nhỏ nhà nghèo, thường nhờ ánh sáng của tuyết để đọc sách" Tương Như: tức Tư Mã Tương Như (179 tcn-?), tự là Trường Khanh , người quận Thục (nay là Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), là nhà từ phú nổi tiếng đời Tây Hán, được người đời sau ca ngợi là phú thánh. Hà Hữu: chốn không có gì, chốn hư không, dịch từ câu vô hà hữu chi hương (quê hương của không có gì) Tử Hư: tên một nhân vật hư cấu trong bài Tử Hư phú của Tư Mã Tương Như. Tử Hư phú kể chuyện Tử Hư (Chàng Hư Huyễn) người nước sở, khoe với Ô Hữu (làm gì có) người nước Tề về quy mô to lớn của đầm Vân Mộng và những cuộc săn bắn của vua sở. Ô Hữu cãi lại rồi cũng đem chuyện nước Tề ra khoác lác. Trong bài Thượng lâm phú, Tương Như tiếp tục kể chuyện Vong Thị Công (không có người ấy) bác bỏ ý kiến cả hai người: "việc săn bắn của nước sở cố nhiên là dở mà việc săn bắn của nước Tề cũng chẳng là hay", vì vua tề vua sở "chỉ chăm chăm muốn hơn nhau về việc xa xỉ, vượt nhau về việc hoang dâm; cả hai người Tử Hư và Ô Hữu đều khoác lác suông chứ cũng chưa bao giờ được nhìn tận mắt". Đời sau nhân đó gọi những việc hư vô là Tử Hư Ô Hữu. hòa: mà xanh: tuổi trẻ khôn: khó có thể uốn: khom lưng cong mình lộc: bổng lộc của quan từ: từ chối Sử Ngư: tên người, quan Đại phu nước Vệ thời Xuân Thu, là người ngay thẳng, ngạnh trực trong mọi hoàn cảnh.
陳情 Trần tình 1 Từ ngày gặp hội phong vân, Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân. Gánh, khôn đương quyền tướng phủ, Lui, ngõ được đất Nho thần. Ước bề trả ơn minh chúa, Hết khoẻ phù đạo thánh nhân. Quốc phú binh cường chăng có chước, Bằng tôi nào khuở ích chưng dân. Cước chú: bổ báo: <từ cổ> báo đền, như báo bổ. mỗ: chỉ số lượng nhỏ, chút, mảy may. phân: phần gánh: đảm đương khôn: khó có thể đương: nhận lấy, gánh vác, chịu trách nhiệm, trong đảm đương tướng phủ: tướng quốc hết khỏe: hết sức chước: mưu lược, kế sách, lưu tích trong mưu ma chước quỷ. khuở: chỉ khoảng thời gian chưng: đối với
Trần tình 2 Vàng bạc nhà chăng có mỗ phân, Lành thay cơm cám được no ăn. Lọn khuở đông, hằng nhờ bếp, Suốt mùa hè, kẻo đắp chăn. Ác thỏ tựa thoi xem lặn mọc, Cuốc cày là thú những xung xăng. Cậy trời còn có bây nhiêu nữa, Chi tuổi chăng hiềm kẻ khó khăn. Cước chú: mỗ: chỉ số lượng nhỏ, chút, mảy may; phân: phần; chăng có mỗ phân: không có được mấy phần Ý câu 2: tốt (may) thay cơm cám được ăn no, ăn đủ lọn: suốt hết; lọn khuở đông: trọn mùa đông kẻo: khỏi phải ác thỏ (ác thố): ác: con quạ, chim ác, chim ô, tên chữ là tuấn ô. Truyền thuyết cho rằng đó là thần điểu ba chân, điều khiển cỗ xe mặt trời; sau chim ô dùng để chỉ mặt trời; thố: mặt trăng; Ác thỏ tựa thoi: chỉ mặt trăng mặt trời lặn mọc luân phiên như con thoi xung xăng: thung thăng, ung dung, thảnh thơi bây nhiêu: bấy nhiêu chi: gì, từ để hỏi đứng sau động từ, tỏ ý phủ định, trong làm chi, nài chi. chăng hiềm: chẳng ngại, chẳng sợ
Trần tình 3 Pheo làm chèo, trúc làm nhà, Được thú vui, ngày tháng qua. Cơm kẻ bất nhân ăn ấy trớ, Áo người vô nghĩa mặc chăng thà. Khỏi triều quan mới hay ơn chúa, Sinh được con thì cảm đức cha. Mừng khuở thái bình yêu hết tấc, No lòng tự tại quản chi là. Cước chú: pheo: một loại tre, lưu tích còn trong tre pheo trớ: sai, trái vô nghĩa: không có đạo nghĩa chăng thà: chẳng thà, chẳng đành khỏi: dời khỏi, thoát yêu hết tấc: yêu tột độ no lòng: đủ lòng, tự thấy đủ