34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
20. Bích Khê

Chính tên là Lê Quang Lương. Quê quán: Thu Xà (Quảng Ngãi).

Đã đăng thơ: Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ năm. Người mới.. (ký Lê Mộng hoặc Bích Khê).

Đã xất bản: Tinh huyết (1939).

Tôi đã gặp trong "Tinh huyết" những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam.

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.

Hay mấy câu này trích trong bài "Tranh lõa thể" :

Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ.

Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?

Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây?

Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc

Đêm y huyền ngủ mơ trên mái tóc

Và chút trăng say đọng ở làn môi

Mấy câu ấy đã được Hàn Mạc Tử phẩm bình bằng những lời xứng đáng: "Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xó sang địa hạt huyền diệu.. Ở" Tranh lõa thể ", sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ"

Vừa bước vào đã thấy vàng ngọc sáng ngời như thế, ai không tin đây là biệt thự một nhà triệu phú. Huống chi chủ nhân còn nói: "Không, quúi gì những vật mọn ấy! Kho tàng của tôi chính ở trong mấy phònh kia". Nhưng tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân. Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa.. Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc.

Tháng 11- 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
21. J. Leiba

Chính tên là Lê Văn Bái. Sinh năm 1921 ở Yên Bái. Chánh quán: Làng Nam Trực, phủ Nam Trực (Nam Định). Học trường Bảo hộ Hà Nội đến năm thứ ba rồi bỏ đi theo một bon giang hồ mãi võ chót một năm. Sau về quê học chữ Hán. Năm 1935 đậu thành chung, rồi vào ngạch thư ký tòa sứ Bắc kỳ. Vì đau nặng nên được nghỉ phép dài hạn (Đã mất rồi)

Đã viết giúp: Ngọ báo, Loa, Tin văn, L'Annam Nouveau, Tiểu thuyết thứ bảy. Ích hữu, Việt Báo, Nam Cường (ký Thanh Tùng Tử và sau J. Leiba)

Thơ dăng báo Loa với một tên ký chẳng Việt nam tí nào, thế mà vừa ra đời Leiba liền được người ta thích.

Người ta thích người vần thơ có giọng Đường rõ rệt, mà lại nói được nỗi lòng riêng của người thời nay. Trong khuôn khổ xưa, cái hương vị mới ấy rất dễ say người. Thơ Leiba ra đời (1934) giữa lúc ai nấy đều cảm thấy mình như trẻ lại. Các nhà thơ đương thời, Thế Lữ, Đông Hồ, Thái Can, kẻ trước người sau, đều tả bằng người nét âu yếm nỗi lòng của người thiếu nữ lúc mới bén tình yêu. Nhưng không ai nói được đầy đủ như tác giả bài "Năm qua" người giai đoạn của một cuộc yêu đương nhóm lên từ hồi tóc còn xõa bỏ vai. Ít ai nói được như Leiba những vui buồn của người xuân nữ. Những câu như:

Hoa tặng vừa tàn bông thược dược,

Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa..

Hay là:

Sầu đối gương loan, bóng lạ người,

Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?

Có thể để ngang những câu tuyệt hay trong thơ cổ.

Hồi ấy là hồi đẹp nhất trong lời thơ Leiba. Về sau thơ Leiba không được hồn nhiên như thế nữa. Không rõ những gì đã đến trong đời thi nhân. Nhưng lời thơ như vương tí cặn của những đêm phóng túng. Hình như Leiba đã đau khổ nhiều lắm. Người tức tối lúc nghĩ đến nấm cỏ đương chờ mình:

Ví biết phù sinh đời có thế,

Thông minh, tài bộ, thế gia chi!

Học thành, danh đạt, chung quy hão:

Mắt nhắm, tay buông, giữ được gì?

Thà chọn sinh vào nhà ấu phụ,

Cục cằn, mất dạy, lại ngu si.

Leiba là một người bao giờ cũng có dáng điệu quý phái, ưa cái không khí quý phái, tin ở tài năng, ở dòng dõi mình, và rất tự trọng, cả trong những lúc buông tuồng. Một người như thế mà nói những lời như thế hẳn phải chán nản lắm.

Chán nản đưa người về tôn giáo. Thơ Leiba hồi sau có bài đượm mùi Phật, mặc dầu chưa đúng hẳn với tinh thần đạo Phật. Bài 'Bến giác' chẳng hạn có một giọng lạnh lùng, chua chát chưa phải là giọng của kẻ đã dứt hết trần duyên. Cho đến cái bình tĩnh của nàng Kiều khi ở trong am Giác Duyên lần thứ hai, Leiba cũng chưa có (1). Tuy thế người gần đạo Phật hơn hết các nhà thơ bấy giờ.

Thơ Leiba đã thay đổi theo một hai điều thay đổi trong tâm trí thanh niên khoảng bảy tám năm nay. Xem thơ ta có thể thấy khi tỏ khi mờ hình ảnh của thời đại.

Tháng 10-1931

Chú thích

(1) Xin nhắc lại Kiều nói với Vương ông khi tái hợp:

Mùi thiền, đã bén muối dưa

Màu thiền, ăn mặc đã ưa nâu sồng.

Sự đời đã tắt lửa lòng.

Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
22. Thái Can

Sinh ngày 22-10 -1910 ở Văn Lâm, phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh). Học Trường phủ, trường Vinh, trường Bảo hộ, trường Thuốc Hà Nội. Tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1940, hiện ở nhà học xhữ Hán và làm thơ chữ Hán.

Thơ Thái Can phần nhiều đã đăng ở Phong hóa, Tiểu thuyết thứ bảy, Hanoi báo, Văn học tạp chí 1935. Những bài thơ đầu (ký Th. C) đã in trong quyển Những nét đan thanh. Ngân Sơn tùng thư, Huế, xuất bản 1934.

Tôi đã cố đọc lại thơ Thái Can để mong tìm lại cái say sưa ngày trước. Nhưng lòng tôi cứ dửng dưng. Sao bây giờ tôi thấy thơ Thái Can sáo quá mà người thiếu nữ trong thơ Thái Can thì hầu hết ẻo lả đến khó chịu. Nhất là người nụ cười. Những nụ cười sao mà vô duyên, mà trơ trẽn thế!

Thơ Thái Can vẫn như trước. Dễ lòng tôi đã khác xưa? Một người thơ cũng như một người tình, yêu đó rồi bỏ đó sao cho đành. May thay tôi vẫn có thể thích được dăm bảy bài. Kể người bài đó đều phỏng theo lối thơ xưa. Chữ dùng cũng xưa. Nhưng có cái gì bảo ta rằng ở đây có một người khóc cười thật. Ở đây không còn cái thói khóc gượng cười vờ nó vẫn lưu hành trên sân khấu tuồng cổ và trên thi đàn Việt Nam khoảng vài mươi năm trước.

Khóc bạn, Nguyễn Khuyến viết:

Rượu ngon, không có bạn hiền,

Không mua, không phải không tiền không mua,

Câu thơ nghĩ, đắn đo không viết;

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

Giường kia treo người hững hờ:

Đàn kia gảy người ngẩn ngơ tiếng đàn.

Tôi tưởng đó toàn chuyện bịa. Nguyễn Khuyến hẳn không treo giường để chờ người bạn họ Dương đã đành. Cả cái chuyện thơ rượu cũng bịa nốt. Ba năm không gặp nhau (1) chắc Nguyễn Khuyến vẫn thơ rượu như thường, thơ rượu nào cần phải có Dương Khuê. Nhưng chuyện không thực mà tình thực, chuyện mượn người xưa, mà tình là tình Nguyễn Khuyến.

Thái Can cũng mượn những chữ sẵn của người xưa nhưng người đã gửi được nỗi lòng mình trong đó. Khi ta đọc những câu:

Vó ngựa trập trùng trên ải Bắc;

Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!

Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ,

Ngựa hí vang lừng gió trận may.

Ta thấy trong người câu này, cũng như trong lời ngâm của Nguyễn Khuyến, mối cảm của thi nhân đã phát lộ ra bằng những âm thanh, bằng một nhịp lối nhịp nhàng riêng.

Thơ Thái Can nhạc điệu không có nhiều lối và cũng chỉ nằm trong khuôn khổ thơ thất ngôn, nhưng trong những câu thơ hay bao giờ cũng thấm thía. Một người kỹ nữ, lúc canh khuya sau lúc khách làng chơi đã ra về, một mình ngồi nhìn phía quê nhà và than:

Biết đâu mà gửi lòng thương nhớ,

Mà biết cùng ai gửi nhớ thương.

Một thiếu niên gọi bạn tình trong mộnh tưởng:

Thu liễu em ơi, có biết không?

Những là ngày ngày nhớ lại đêm mong.

Thu này người tưởng cùng em gặp,

Dưới nguyệt đôi ta tỏ chút lòng.

Có gì sáo hơn những câu ấy. Nhưng có những lúc ta buồn và mỏi không muốn tìm tòi gì: Ta buông xuôi tay, ta buông xuôi lòng cho trôi theo những lời, dầu sáo, dầu cũ miễn là âm điệu khi lên khi xuống cùng ăn nhịp với lòng ta. Những lúc đó ngâm thơ Thái Can thì tuyệt.

Cho đến những bức tranh thỉnh thoảng ta gặp trong thơ Thái Can cũng không phải là những bức tranh tô bằng nét, bằng màu, mà chính là hòa bằng nhạc điệu:

Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng,

Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi.

Sương tỏa bên mình như khói nhẹ;

Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.

Hãy đọc đi đọc lại bốn câu này. Có phải lời thơ yểu điệu và mềm mại như một người đẹp?

Những lúc thi nhân tìm được âm điệu thích hợp để diễn đạt nỗi lòng mình, ta thấy người khoan khoái như được giải thoát. Nếu không, người ra chiều uất ức, khó chịu. Người phân vân trước những ham muốn, những mộng tưởng nhiều khi trái ngược nhau. Tâm hồn Thái Can rất phức tạp. Tuy vẫn thường mơ tưởng cái cảnh thanh gươm yên ngựa, song nhác thấy bóng khăn san áo màu thời nay, người cũng không muốn hững hờ qua. Người thực lòng thương những gái giang hồ, người thống trách xã hội đã dẫn họ vào đường truỵ lạc, song những yến diên có ca nhi điểm vui, tất cả cái hào hoa, cái êm dịu của cuộc đời phú quý người cũng không nỡ từ. Người muốm gây một sự nghiệp, người không muốn sống vô ích, người gét hữu hạn và khao khát vô cùng.

Bấy nhiêu điều trái ngược chỉ có thể đưa người ta đến chán nản. Ta hãy nghe Thái Can khuyên người ca nhi vừa tự sát mà không chết:

Đứng dậy em ơi! Sống cõi đời

Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,

Em nên điểm phấn tô son lại

Ngạo với nhân gian một nụ cười.

Trong hai người, thi nhân và kỹ nữ, dễ đã biết ai chán hơn ai? Cho đến ái ân thi nhân cũng không thiết nữa:

Thôi! Thế lòng anh mãn nguyện rồi

Vì tình là mộng đó mà thôi,

Lòng em một phút yêu anh đó

Cũng thể yêu anh suốt một đời.

Thái Can nói mãn nguyện mà lại đau đớn hơn người lời oán hận của một thi nhân khác, Lan Sơn:

Một phút lòng em mơ bạn mới

Yêu anh sau nữa cũng bằng không.

Tháng 8 - 1941

Chú thích

(1) Trong bài Nguyễn Khuyến có câu: "Trước ba năm gặp bác một lần".

Nguồn: Thi Nhân Việt Nam, Tác giả: Hoài Thanh - Hoài Chân

Mời quý vị đọc thêm:

Chùm thơ Thái Can

Anh Biết Em Ði

Anh biết em đi chẳng trở về,

Dặm ngàn liễu khuất với sương che.

Em đừng quay lại nhìn anh nữa:

Anh biết em đi chẳng trở về.

Em nhớ làm chi tiếng ái ân.

Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm..

Dây loan chẳng đuợm tính âu yếm,

Em nhớ làm chi tiếng ái ân.

Bên gốc thông già ta lỡ ghi

Tình ta âu yếm lúc xuân thì.

Em nên xóa dấu thề non nước

Bên gốc thông già ta lỡ ghi.

Chẳng phải vì anh chẳng tại em:

Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm.

Ái tình sớm nở chiều phai rụng:

Chẳng phải vì anh chẳng tại em.

Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan,

Tình kia sao giữ được muôn vàn..

Em đừng nên giận tình phai lạt:

Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan.

Anh biết em đi chẳng trở về

Dặm ngàn liễu khuất với sương che.

Em đừng quay lại nhìn anh nữa;

Anh biết em đi chẳng trở về.

Chép theo một bức thư (1934).

Nguồn: Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh- Hoài Chân)

Chiều Thu

Hoa hồng rũ cánh bay đầy đất

Trĩu nặng sương thu mấy khóm lan

Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng

Ta ngỡ Hằng Nga náu Quảng hàn.

Mỹ nhân lững thững thăm hoa rụng

Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi

Sương tỏa bên mình như khói nhẹ

Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.

Ta đứng bên hiên kiếm ý thơ

Mỹ nhân vô ý bước đi qua

Cánh hồng quyến luyến bên chân ngọc

Như muốn cùng ai sống phút thừa

Chẳng được như hoa vướng gót nàng

Cõi lòng man mác, giá như sương

Ta về nhặt lấy hoa thu rụng

Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.

Những Ngày Qua

Một ngày là một đóa hoa tươi

Sớm với bình minh mỉm miệng cười

Theo bóng tà dương chiều đã tạ

Trong thời gian mãi lững lờ trôi

Cảnh đoạn trường

Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn".

Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.

(Tâm sự một cô gái nhảy)

Anh nhớ năm xưa trong yến diên

Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên.

Rót chén rượu nồng cùng vui chơi

Trước khi chia tay người mỗi nơi.

Điểm vui yến tiệc bọn ca nhi

Ba bảy mai kia đương vừa thì.

Hoa khôi hôm ấy là em đó,

Liếc mắt đưa tình đá cũng mê.

Hôm nay nức nở sầu ảm đạm

Kể lại đời em nghe thê thảm:

Không quê, không quán, không mẹ cha,

Như cánh bèo trôi không chỗ bám.

Em dấn thân vào hồng lâu

Lụy từ nô bộc đến công hầu.

Rồi lại giạt trôi trường khiêu vũ

Hết lòng chiều khách lại chiều chủ.

Liễu bồ sức vóc được bao nhiêu

Dạn gió dày sương thực đến điều.

May thay em gặp khách phiêu lưu

Cảm thấy tình em thảm đạm nhiều,

Nhặt cánh hoa tàn rơi dưới đất

Chung tình trong một mối thương yêu.

Khách nhớ quê xa trở gót về.

Đêm trường nhớ khách dạ đê mê,

Cảm thấy đời em buồn lạnh, tẻ,

Ngoài đường sương lạnh bước ra đi.

Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,

Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh,

Kinh khiếp vì đời như vực thẳm

Xui em trụy lạc hỡi trời xanh!

Nếu cũng như ai có mẹ cha,

Buồng xuân rủ gấm với phong là,

Thời em ngày tháng cùng vui sương

Hớn hở nô đùa với cỏ hoa.

Rồi ngày đào lý nở nhành bông,

Em cũng như ai được tấm chồng

Quyền cả chức cao trong xã hội

Êm đềm chia ngọt sẻ bùi chung.

Than ôi! Em có được như người:

Hoa tạ lia cành trước gió rơi

Lăn lóc cát lầm hoen cánh ngọc

Đem thân làm thú vạn muôn người.

*

Lững thững em đi bên vệ đường,

Âm thầm buồn bã; gió cùng sương

Ướt cả áo xiêm, em chẳng biết..

Lòng em mang nặng dấu đau thương.

Chán nản quay đầu em lại nhìn

Cuộc đời quá khứ tựa đêm đen.

Tương lai bước tới chân chồn mỏi,

Một bước đau lòng, một bước thêm!

Lầu các, kìa ai vợ với chồng

Êm đềm trong giấc phụng loan chung.

Riêng em lững thững bên hè vắng

Khóc mãi, mắt em úa đỏ hồng.

Ôi thôi! Em quyết chỉ quyên sinh

Quyết bỏ trần gian, bỏ ái tình.

Trong một gian buồng thuê buổi tối

Đau lòng, em uống thuốc quyên sinh.

Khinh thay! Những gái tiếng con nhà

Vì tính buông tuồng phải trụy sa

Vào chỗ bùn lầy nghề kỹ nữ;

Nhưng em.. nào phải muốn giăng hoa.

Giời đất này! Hãy chứng minh:

Vì chưng xã hội quá bất bình.

Thân em thật đã bùn than lấm

Lòng tuyết, em còn giữ tiết trinh.

Mang tấm thân lòng đau xuống suối vàng

Ai người nhân thế chạnh lòng thương?

Ai người biết được em đau khổ?

Đêm lạnh.. thân ôi! Cảnh đoạn trường.

Cõi đời dần tối, giấc âm thầm

Hình ảnh ngàn xưa cũng xóa dần,

Sau rốt cảm nghe như mẹ ẵm

Và lời ân ái khách xa xăm.

Sáng sớm người ta vào buồng ngủ,

Thất đảm kinh hồn người la rú

Vội vàng đưa em đến nhà thương,

Để em lạnh lẽo nằm trên giường.

Hồi lâu thuốc thang em tỉnh dậy

Mở mắt, lạ lùng nhìn thế gian;

Bất giác hai hàng lệ em tràn.

Chung quanh em, những người săn sóc

Gạn ghẽ dò la hết cỗi gốc

Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn",

Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.

*

- Anh cũng như em, chán cõi đời,

Nhưng mà quả quyết sống mà chơi.

Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm

Mình cũng yên vui, cũng nói cười!

Cười đời bạc bẽo khinh thế gian

Cho biết rằng ta chẳng phải hèn

Ta sống vì chúng ta quả quyết

Đạp bằng muôn vạn nỗi gian nan.

Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,

Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,

Em nên điểm phấn tô son lại,

Ngạo với nhân gian một nụ cười.

Ngày mai ở mãi chốn chân trời

Trong cảnh gia đình ấm áp vui

Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn

Cho em trở lại được tươi cười.

Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân)

Cảnh đoạn trường

Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn".

Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.

(Tâm sự một cô gái nhảy)

Anh nhớ năm xưa trong yến diên

Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên.

Rót chén rượu nồng cùng vui chơi

Trước khi chia tay người mỗi nơi.

Điểm vui yến tiệc bọn ca nhi

Ba bảy mai kia đương vừa thì.

Hoa khôi hôm ấy là em đó,

Liếc mắt đưa tình đá cũng mê.

Hôm nay nức nở sầu ảm đạm

Kể lại đời em nghe thê thảm:

Không quê, không quán, không mẹ cha,

Như cánh bèo trôi không chỗ bám.

Em dấn thân vào hồng lâu

Lụy từ nô bộc đến công hầu.

Rồi lại giạt trôi trường khiêu vũ

Hết lòng chiều khách lại chiều chủ.

Liễu bồ sức vóc được bao nhiêu

Dạn gió dày sương thực đến điều.

May thay em gặp khách phiêu lưu

Cảm thấy tình em thảm đạm nhiều,

Nhặt cánh hoa tàn rơi dưới đất

Chung tình trong một mối thương yêu.

Khách nhớ quê xa trở gót về.

Đêm trường nhớ khách dạ đê mê,

Cảm thấy đời em buồn lạnh, tẻ,

Ngoài đường sương lạnh bước ra đi.

Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,

Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh,

Kinh khiếp vì đời như vực thẳm

Xui em trụy lạc hỡi trời xanh!

Nếu cũng như ai có mẹ cha,

Buồng xuân rủ gấm với phong là,

Thời em ngày tháng cùng vui sương

Hớn hở nô đùa với cỏ hoa.

Rồi ngày đào lý nở nhành bông,

Em cũng như ai được tấm chồng

Quyền cả chức cao trong xã hội

Êm đềm chia ngọt sẻ bùi chung.

Than ôi! Em có được như người:

Hoa tạ lia cành trước gió rơi

Lăn lóc cát lầm hoen cánh ngọc

Đem thân làm thú vạn muôn người.

*

Lững thững em đi bên vệ đường,

Âm thầm buồn bã; gió cùng sương

Ướt cả áo xiêm, em chẳng biết..

Lòng em mang nặng dấu đau thương.

Chán nản quay đầu em lại nhìn

Cuộc đời quá khứ tựa đêm đen.

Tương lai bước tới chân chồn mỏi,

Một bước đau lòng, một bước thêm!

Lầu các, kìa ai vợ với chồng

Êm đềm trong giấc phụng loan chung.

Riêng em lững thững bên hè vắng

Khóc mãi, mắt em úa đỏ hồng.

Ôi thôi! Em quyết chỉ quyên sinh

Quyết bỏ trần gian, bỏ ái tình.

Trong một gian buồng thuê buổi tối

Đau lòng, em uống thuốc quyên sinh.

Khinh thay! Những gái tiếng con nhà

Vì tính buông tuồng phải trụy sa

Vào chỗ bùn lầy nghề kỹ nữ;

Nhưng em.. nào phải muốn giăng hoa.

Giời đất này! Hãy chứng minh:

Vì chưng xã hội quá bất bình.

Thân em thật đã bùn than lấm

Lòng tuyết, em còn giữ tiết trinh.

Mang tấm thân lòng đau xuống suối vàng

Ai người nhân thế chạnh lòng thương?

Ai người biết được em đau khổ?

Đêm lạnh.. thân ôi! Cảnh đoạn trường.

Cõi đời dần tối, giấc âm thầm

Hình ảnh ngàn xưa cũng xóa dần,

Sau rốt cảm nghe như mẹ ẵm

Và lời ân ái khách xa xăm.

Sáng sớm người ta vào buồng ngủ,

Thất đảm kinh hồn người la rú

Vội vàng đưa em đến nhà thương,

Để em lạnh lẽo nằm trên giường.

Hồi lâu thuốc thang em tỉnh dậy

Mở mắt, lạ lùng nhìn thế gian;

Bất giác hai hàng lệ em tràn.

Chung quanh em, những người săn sóc

Gạn ghẽ dò la hết cỗi gốc

Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn",

Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.

*

- Anh cũng như em, chán cõi đời,

Nhưng mà quả quyết sống mà chơi.

Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm

Mình cũng yên vui, cũng nói cười!

Cười đời bạc bẽo khinh thế gian

Cho biết rằng ta chẳng phải hèn

Ta sống vì chúng ta quả quyết

Đạp bằng muôn vạn nỗi gian nan.

Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,

Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,

Em nên điểm phấn tô son lại,

Ngạo với nhân gian một nụ cười.

Ngày mai ở mãi chốn chân trời

Trong cảnh gia đình ấm áp vui

Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn

Cho em trở lại được tươi cười.

Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân)

Trông Chồng

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

(Vương Xương Linh)

Chinh phu ruổi ngựa lên miền Bắc

Tiếng địch bên thành thổi véo von

Mây bạc lưng trời bay lững thững

Chim trời tan tác bóng hoàng hôn

Vó ngựa chập chùng lên ải Bắc

Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!

Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ

Ngựa hí vang lừng trận gió may

Đứng tựa bên thành xiêm áo lệch,

Kìa ai trông ngóng ải Phiên ngoài

Bóng cờ phất phới xa xa, lạt..

Tình cũ xin nguyên chẳng lạt phai..

Mang ấn phong hầu khi trở lại,

Rỡ ràng chinh phụ nét cười tươi

Thái Can

(1910-1998)
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
23. Vân Đài

Vợ một ông chủ sự vô tuyến điện. Sinh ngày 29-1-1908.

Quên quán ở Hà Nội.

Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa, Đàn bà.

Chọn thơ Vân Đài tôi phân vân quá. Bài nào cũng được. Không có gì sâu sắc. Vân Đài chỉ là một người chơi thơ. Nhưng lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng, êm ái. Ít khi tiếng nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy cũng vì Vân Đài ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên.

Những câu xôn xao nhất như:

Gió xuân đâu biết cho lòng thiếp

Ôm ấp bên mình thiếp mãi chi?

Thì lại là những câu phỏng theo thơ Đường. Ai ngờ thơ Đường còn có thể gửi cho thơ Việt thời nay chút hương sắc dục.

Tháng 10- 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
24. Đỗ Huy Nhiệm

Sinh ngày 16-3-1915 ở Nam Định. Chính gốc người Phú Yên, họ Hồ sau đổi thành họ Đỗ. Học trường Nam Định đến đậu thành chung, lên Hà Nội học đến tú tài. Hiện làm sở Trước bạ Hà Nội. Viết báo thường ký Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.

Đã xuất bản: Khúc ly tao (1934), Thiên diễm tuyệt (1936).

Đỗ Huy Nhiệm kể:

Lắm khi đứng tựa bên cây,

Thẫn thờ đôi mắt đắm say nhìn trời.

Nhưng đến lúc cắt lời để gọi

Thì nàng như làn khói thoảng tan

Mặc tôi đứng sững mơ màng,

Một mình với một chiếc đàn chùng dây.

Nàng đây lại là Nàng Thơ và câu này là một câu tâm sự. Quả Đỗ Huy Nhiệm đã ôm ấp một mối tình lãng mạn đi theo dõi Nàng Thơ luôn trong bảy tám năm trời, từ "Khúc ly tao", đến "Thiên diễm tuyệt", từ "Phụ nữ thời đàm hồi", ông Phan Khôi chủ trương đến Tân thiếu niên, Tiến hóa, Văn học tạp chí 1935, Hanoi báo, Tiểu thuyết thứ năm, Trào phúng, Đông thanh, Đông Á, Tin mới.. hầu hết trên các báo chí bắc Nam. Nàng Thơ có lẽ không nỡ phụ người có công. Một đôi lần Nàng đã gặp con người tình cờ trở nên người họ Đỗ và cố ý mạo danh Đỗ Phủ, Thiếu Lăng. Các cuộc gặp gỡ ấy đều ghi lại bằng những vần thơ phảng phất giọng Đường với một chút xôn xao mới.

Tháng 10- 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
25. Nguyễn Giang

Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Trên ba mươi tuổi. Đã du học bên Pháp. Về nước chủ trương Âu Tây tư tưởng và Đông Dương tạp chí.

Họa sĩ hơn là thi sĩ.

".. Ký giả lại nghĩ rằng nếu trong một bức tranh, cái Đẹp chẳng phải là ở riêng vật nào, mà là cách ta để cái vật này gần cái vật khác để cho hình nọ với hình kia nó cân đối nhau, thì trong văn thơ cái Đẹp cũng chẳng phải là một vật riêng nào, một chữ, một câu nào, mà là cái toàn thể cả bài thơ, ở cái tình cảnh tương đối và hòa hợp nhau". Câu này Nguyễn Giang viết trong tựa Trời xanh thẳm (t. 17-18). Tôi chép lại đây để thấy rõ quan niệm của Nguyễn Giang về thi ca: Làm thơ là tìm cái Đẹp mà cái Đẹp là "cái cách tình cảnh tương đối và hòa hợp với nhau".

Có hiểu quan niệm đặc biệt ấy, cái quan niệm từ nghề vẽ chuyển sang nghề thơ, họa may vì thú thật tôi không dám chắc là đã hiểu được. Tôi quá nặng lòng trần tục mà lối thơ này quá thuần tuý chăng? Tôi không hiểu được những nhà thơ nghệ sĩ chăng? Dầu sao, xem thơ tôi muốn tìm những tâm hồn. Mà sau câu thơ Nguyễn Giang ít khi tôi thấy có gì. Sự tương đối, sự hòa hợp của những tình, những cảnh trong thơ Nguyễn Giang thấy tầm thường quá, không đủ để rung động tôi. Người ta bảo lối thơ Đường bao giờ cũng thế. Nhưng tôi đã đọc thơ của Lý Bạch, của Đỗ Phủ những bài thơ khiến tôi rung cảm biết bao!

Đã vậy, sao tôi lại nói đến thơ Nguyễn Giang trong một quyển sách chỉ nói đến những nhà thơ và những bài thơ tôi thích? Ấy là vì đọc Nguyễn Giang tôi bỗng không dám hoàn toàn tin tôi. Ấy cũng vì những ý nghĩ thành thực và ngộ ngộ giãi bày trong bài tựa dài đầu quyển Trời xanh thẳm. Vậy tôi xin trích ra đây ba bài thơ tôi để ý nhất (bài nào câu cuối cũng hay). Hoặc giả bạn đọc sẽ thấy có gì chăng, ngõ hầu khỏi mai một nhà thơ có chân tài biết đâu?

Xuân

Gió xuân phơ phất thổi trong cành

Lớp lớp bên đường bóng lá xanh

Cây cỏ cười tươi hoa mũm mĩm

Học sinh qua lại áo phong phanh

Chim non ngoài nắng bay chi chít

Đàn sáo trong cây vẳng khúc tình

Bờ suối chờ ai chưa thấy lại

Nhìn cô áo đẹp bước đi nhanh.

Con đường nắng

Xào xạc đường trưa vắng bóng người

Bốn bề nắng hạ phẳng bằng soi

Lơ thơ dưới núi hàng thông cõi

Trắng xóa bên trời tảng đá vôi

Một bước ngạt ngào trăm thức cỏ

Trước sau thăm thẳm một màu trời

Dừng chân ngắm cảnh bên bờ đá

Kìa cánh hoa vàng tưởng nhớ ai

Tháng 9-1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
26. Quách Tấn

Sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (24 tháng giêng 1910) ở làng Trường Định, huyện Bình Khê (Bình Định). Hiện làm phán sự tòa sứ Nha Trang. Ông thân là người Tây học, bà thân là người Hán học. Bắt đầu học chữ Hán, năm mười một tuổi mới học chữ Quốc ngữ. Học trường Qui Nhơn. Có bằng thành chung.

Đã xuất bản: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941).

Đêm đã khuya, tôi ngồi một mình xem thơ Quách Tấn. Ngoài kia có lẽ trăng sáng lắm. Nhưng trời về thu, khí trời lạnh lạnh, cửa sổ bên bàn viết đóng kín. Ngọn nến trên bàn tỏa ra một bầu ánh sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi. Chung quanh tối cả. Tối và im. Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy có muôn ngàn thứ tiếng ta không nghe. Lúc này chính là lúc xem thơ xưa. Tôi lắng lòng tôi để đón một sứ giả đời Đường, đời Tống. Đời Đường có lẽ đúng hơn. Đời Đường mới có cái âm u ấy. Thơ Tống dầu xem được ít tôi nhớ hình như quang đãng và bình yên, không như thế.

Theo gót nhà thơ, tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu. Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm. Những tiếng khóc rộn ràng, người lời reo vui vẻ đều kiêng. Một sức mạnh vô hình, rất mềm mại nhưng rất chắc chắn nặng đè lên hết thẩy. Tình cảnh ở đây không còn là người tình cảnh ta vẫn thường quen biết. Tình cảnh ở đây đã biến thành một thứ hương mầu nhiệm. Nó quyện lấy mình ta và chân ta tự nhiên bước theo một điệu nhịp nhàng dìu dặt. Ta không thấy gì, ta không nghe gì. Nhưng ta biết thế giới này giầu sang lắm. Chốc chốc một cảnh rực rỡ vụt hiện ra trước mắt ta rồi vụt biến đi:

Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,

Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.

Bồn chồn thương kẻ nương song bạc

Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?

Ta có thể lơ đãng không thấy rõ sương trên bến Phong Kiều, trăng trên dòng Xích Bích. Không thấy cả cái giếng sầu rụng. Nhưng sắc vàng kia! Cái sắc vàng trong giây phút chiếu sáng cả trời thơ!

Rồi tất cả lại trở lại trong mờ mờ. Hương thiêng vẫn quấn quít bên mình ta, ta đã xa lắm những vui buồn lộn xộn, rộn rịp của cuộc đời; nhưng sao thỉnh thoảng giữa im lặng ta nghe như có tim ai thổn thức. Đây là lời than của một người mồ côi:

Cảnh có núi sông nhiều thú lạ,

Đời không cha mẹ ít khi vui.

Đây tiếng rên rỉ thấy mình bơ vơ trơ trọi:

Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ.

Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ!

Tiếng khóc âm thầm của con người dè dặt, kín đáo ấy, nó mới não lòng làm sao! Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ.

Tháng 10 - 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
27. Phan Khắc Khoan

Sinh nào khoảng tháng 6- 1916 ở làng Yên Lăng, huyện Yên Thành (Nghệ an). Mồ côi mẹ thuở bé. Năm 15 tuổi cha bị mù. Học trường huyện, trường Vinh. Có bằng thành chung.

Đã đăng thơ: Phong Hóa (ký chàng Chương), Thế giới, Mới (ký Hồng Chương), Hà Nội tân văn, Tri tân.

Hai năm trước tôi đã nói đến Xa xa, tập thơ đầu của Phan Khắc Khoan. Nhưng ngoài tập Xa xa, Phan Khắc Khoan còn làm một số thơ. Nhân hỏi xem, tôi dã nhận được một lần mười một tập kèm với một lá thư đại khái nói: "Đây chỉ chừng một nửa thi phẩm của tôi, nhưng tôi không muốn anh phải mệt vì thơ tôi hơn nữa". Dầu thế, tôi đã mệt vì thơ Phan Khắc Khoan nhiều lắm. Không phải đây đó tôi không lượm được những vần thơ dễ thương. Nhắc lại một mối tình hờ hững, Phan Khắc Khoan có những câu:

Đã chót tương phùng trong một quán

Dẫu trà ôi, chuyện nhạt cũng là duyên.

Có khi lòng bâng khuâng, người muốn:

Hạ mái tình xưa: Sương về gió tạt

Nghiêng nghiêng hồn cho trút nhẹ chua cay

Có khi thấy lẻ loi, người than:

Thô vụng quá, sắm vai gì trên sâm khấu?

Hồn đơn cô, trông ngơ ngác chợ đời!..

Ồ! Những lúc bốn bên tường hiu quạnh

Thời gian không ngừng thoát một ly nào

Mà trong phòng hồn tôi cứ nao nao!

Bình yên lại, sao mà non yếu thế?

Lòng mơ khát gì đây chăng? Có lẽ,

Kìa mang ý lạ tự đâu về

Ngập hồn tôi như nước chảy tràn đê,

Rồi bút mực tình tự cùng giấy trắng.

Còn có thể tìm được nhiều lời khả ái như thế, nhất là trong những bài tả sự thờ ơ, sự phản trắc trong tình bạn. Nhưng cái tính dễ dãi của Phan Khắc Khoan thực sự dễ sợ! Ai lại đi xe lửa hạng tư chật không một chỗ đứng, từ Huế ra Thanh, mà làm luôn một thôi năm bài thơ dài! Cho nên Phan Khắc Khoan, thường không hay đi sâu vaog hồn mình để tìm thấy những điều riêng biệt.

Đi lại, tập Xa xa vẫn là tập thơ trội hơn cả. Hình như một cuộc tình duyên không toại đã vì tác giả khơi nguồn thơ. Người ta lắm khi cần phải có một mối thất vọng lớn mới sáng mắt mà nhìn rõ mình và tạo vật. Có lẽ Phan Khắc Khoan đã nhờ thế mà cảm được cái phong vị đặc biệt của cảnh trời biển miền Nam. Cả tập Xa xa đượm một mối buồn vô hạn, một nỗi nhớ không nguôi. Tuy chỉ là nỗi buồn riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, cái nhớ nhung khó hiểu của những nơi trời nước mênh mông. Người đọc thơ tưởng nghe điệu buồn dìu dìu muôn năm vẫn thì thầm trên bãi biển.

Những bức tranh nho nhỏ, xinh xinh, thu gọn trong bốn câu bảy chữ, đều buồn lây cái buồn kín đáo và man mác của thi nhân. Vì nói tình hay nói cảnh, người cũng chỉ nói lòng mình, nói cho một mình mình nghe. Hình ảnh người yêu luôn luôn theo dõi người trong lúc người muốn quên, muốn xa, đã đưa người về cuộc đời bên trong đầy ý nhị.

Tháng 7 - 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
28. Thâm Tâm

Chính tên là Nguyễn Tuấn Trình. Sinh ngày 12 - 5- 1917 ở Hải Dương. Học ở Hải Dương.

Hiện viết giúp: Tiểu thuyết thứ bảy, truyền bá.

Bài thơ này trích dưới đây rút ra ở tập Thơ Thâm Tâm chưa xuất bản.

Thơ thất ngôn của người ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.

Tháng 11- 1941

Tống biệt hành

Đưa người, ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng..

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

O O o

Ta biết người buồn chiều hôm trước.

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cùng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

O O o

Ta biết người buồn sáng hôm nay;

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay..

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

(Thơ Thâm Tâm)
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
29. Phan Thanh Phước

Dòng dõi Phan Thanh Giản. Chánh quán ở Nam kỳ. Sinh ở Huế năm 1916. Học ở Quản Trị, Faifo, Huế. Có bằng thành chung. Hiện làm việc ở nam Triều.

Phan Thanh Phước nói: "Một bài thơ của tôi xong là tôi tự thấy sút kém một tí sức trong sức khoẻ của tôi, như vậy tức nhiên có một phần sức khoẻ của tôi đã vào trong thơ tôi, tôi tự hỏi thế là trong thơ tôi có cả hồn lẫn xác tôi chăng".

Ai đọc hết tập Vương hương chắc cũng có cảm giác ấy: Trong thơ Phan Thanh Phước quả có cả hồn lẫn xác đã làm tội cái hồn. Một bài thơ hay, dầu nhẹ nhàng vui vẻ, dầ sầu não thương đau, bao giờ cũng là một sự giải thoát. Giải thoát ra khỏi cái u tối của xác thịt để sống cái sáng láng của linh hồn. "Tự giác nhi giác tha", cái tôn chỉ của nhà Phật cũng là tôn chỉ nhà thơ. Phan Thanh Phước ít khi đạt được tôn chỉ ấy. Ta thấy người khổ sở lắm, mỗi bước mỗi ngập ngừng, mỗi bước mỗi vấp vào xác thịt. Tập Vương hương với cái tên yêu kiều, đã bày ra một cuộc hỗn chiến gay go, đau dớn giữa xác và hồn.

Kể cũng đáng tiếc, mỗi lần Phan Thanh Phước thoát ly được ra ngoài cái vương víu của xác thịt, người tỏ ra có bản lĩnh lắm.

Tôi vẫn biết người có tính ưa lập dị, nhưng dầu sao cũng là một tâm hồn phong phú hay hay.

Khi người yêu, mối tình của người luôn luôn thắc mắc. Người có ngồi suốt đêm nhìn người yêu hay không, không ai biết được. Nhưng người đã có những cảm giác của một người thức đêm như thế:

Anh đã thức trọn đêm không biết nhọc

Ngồi lặng yên cho mắt ngắm em say;

Đời vắng xa, xa hết những chua cay

Còn em đẹp mềm thơm và chua ngọt.

Song gần nhau lâu rồi cũng có khi chán. Lúc bấy giờ người sẽ sống lại cái vui xưa:

Muốn sống êm ta gợi phút yêu đầu,

Anh bỡ ngỡ say em người xa lạ.

Thiết tưởng ta vẫn có thể để hy vọng vào những tác phẩm sau này của Phan Thanh Phước.

Tháng 10 - 1941

Chú thích

Các đoạn thơ trích trên rút trong tập Vương hương chưa xuất bản (10/19941).
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
30. Lưu Trọng Lư

Sinh năm 1912 ở Cao Lao Hạ, huyện Bố Trạch (Quảng Bình). Học trường Quốc học Huế đến năm thứ ba, ra Hà Nội học tư rồi bỏ đi làm báo, làm sách cho đến nay.

Chủ trương Ngân sơn tùng thư, Huế (1933- 1934).

Đã viết giúp: Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Tiến hóa, Hanoi báo, Tân thiếu niên, Tao đàn..

Đã xuất bản: Tiếng thu (1939).

Lư đang nằm trên giường xem quyển "Tiếng thu" bỗng ngồi dậy cười to:

- A ha! Thế mà mấy bữa ni cứ tưởng..

-?

- Hai câu:

Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh,

Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi.

Mấy bữa ni tôi ngâm luôn mà cứ tưởng là của Thế Lữ..

Thì ra hai câu ấy của Lư!

Ở đời này, ít người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ khôn lắm, có khi ranh nữa, Và yêu thơ, thường ta chả nên biết người: Thiệt thòi cho họ và thiệt thòi ngay cho mình. Nhưng yêu thơ Lư mà quen Lư vô hại, thì đời Lư cũng như một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không nên ngạc nhiên tí nào.

Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ tin, hay ta hãy tin rằng tiếng kia màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ hai mươi, ngày ngày nện gót giày xuống các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào.

Cảnh mộng có khi cũng có màu sắc như chiếc cánh diều lững thững trên sườn núi hay con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu. Nhưng thường ta chỉ thấy những cảnh rất mơ hồ, không có ở thời nay mà cũng không có ở thời nào. Hãy đọc bài "Thơ sầu rụng" : Bóng người con gái quay tơ trong đó ẩn sau một màn mây mờ. Ta biết có nàng nhưng ta không thấy nàng và ta cũng chớ nên tìm nàng làm chi.. Cứ để lòng trôi theo cái âm hưởng đặc biệt của bài thơ, ngân nga, dằng dặc, buồn buồn, đều như tiếng guồng xa.. Sau bài thơ bát ngát một trời đất ta không hiểu, thi nhân cũng không hiểu.

Nhưng dầu sao con người mơ mông ấy cũng đã rơi xuống giữa cõi trần, người đã sống một cuộc đời rất thực ở trần gian. Có điều mỗi khi kể lại những chuyện thực trong đời mình, người để xen vào rất nhiều chuyện trong mộng. Nhưng chuyện dầu chuyện mộng, tình bao giờ cũng thực. Và mối tình chan chứa trong bài thơ bắt ta phải bồi hồi.

Đặc sắc của Lư chính là ở chỗ này. Từ những kỷ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất, cho đến bao nhiêu buồn thương, bao nhiêu chán nản, bao nhiêu đâu khổ vì tình yêu, cả cái cảnh đời giá lạnh của đôi vợ chồng lúc "tình đà xế bòng", cùng cái thú ngây ngất của cuộc đời "giang hồ". Lư đều kể cho ta nghe một cách rất cảm động.

Một điều rõ ràng: Đọc thơ người khác ta có thể tìm thấy nhiều bài âm điệu tinh tế hơn, nhiều hình ảnh xinh đẹp hơn, nhưng ít bài cảm động như thơ Lư. Ấy, chỉ vì Lư thành thực hơn. Hãy xem: Tuy chẳng phải n của gia đình lư đã không ngần ngại mà nói đến vợ đến con, một điều các thi nhân ta gần đây hình như kiêng lắm.

Tôi bỗng nhớ câu nói của Pascal: "Tưởng kẻ viết là một nhà văn, không ngờ lại gặp một người".

Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt dũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy. Tình đã gửi trong lời thơ, Lư không còn đoái hoài đến nữa. Lư vứt chỗ này một bài, chỗ khác một bài, với cái phóng khoáng cả một kẻ khinh hết thảy những cái gì gọi là quý ở đời này. Sánh với những người yêu thơ Lư, Lư là người thuộc thơ mình ít nhất. Âu cũng là điều bất lợi. Một điều bất lợi nữa là trong khi thơ Việt Nam đương đi tìm nghệ thuật mới lạ, những tình cảm khuất khúc, những hình sắc phiền phức của thiên nhiên, thì Lư cũng chỉ có một ít khúc đàn bình dị, một ít khúc đàn xưa, dầu có đổi xoang đổi điệu cũng vẫn là những khúc đàn xưa.

Nhưng ngoài cái sở thích nhất thời còn những sở thích đời đời không thay đổi.

Bao giờ còn có những cặp vợ chồng nhớ tiếc buổi tân hôn thì những câu như:

Còn đâu ánh trăng vàng

Mơ trên làn tóc rối?

Đêm ấy xuân vừa sang

Em vừa hai mươi tuổi.

Vẫn khiến họ bâng khuâng.

Bao giờ còn có những kẻ say đắm tình yêu và đau khổ vì yêu thì những câu như:

Ta mơ trong đời hay trong mộng?

Vùng cúc bên ngoài động dưới sương.

Hay:

Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau

Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau.

Chờ anh dưới gốc sim già nhé!

Em hái đưa anh đóa mộng đầu.

Vẫn tìm thấy những tiếng dội trong lòng người.

Dầu chưa lăn lóc trong trường tình, đọc thơ Lư người ta cũn phải bồi hồi vì cảnh phong ba ngoài kia, nơi thi nhân đương trôi nổi. Qua khung cửa bài thơ, ngọn gió lạnh ngoài khơi đưa tới, người ta sẽ thấy xao động cho dầu đã khép chặt cõi lòng để sông một cuộc đời êm ấm.

Sao lại có người có thể đọc những câu như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thưong ấy thường quá. Vâng thường, thường lắm thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của loài ngườịTôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này hay người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức của lòng ta.

Tháng 3 - 1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
31. Nguyễn Nhược Pháp

Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất ngày 19-11-1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài Tây.

Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều truyện ngắn và kịch.

Có viết giúp: Annam nouveau, Hanoi báo, Tinh hoa, Đông Dương tạp chí.

Đã xuất bản: Ngày xưa (1935).

Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp.

Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những "thắt lưng dài đỏ hoe", những đôi "dép cong" nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần giành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:

Vung tay niệm thần chú. Núi từng dải,

Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò

Chạy mưa.

Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:

Theo sau cua đỏ và tôm cá,

Chia độ năm mươi hòm ngọc trai,

Khập khễnh bò lê trên đất lạ;

Trước thành tấp tểnh đi hai hàng.

Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá THuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:

Cá voi ngoác mồm to muốn đớp;

Cá mập vẫy đuôi cuồng nhe răng;

Càng cua lởm chởm giơ như mác;

Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.

Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: Kiếm chuyện cười chơi.

Cũng có khi người cười những nhân vật chính người đã tạo ra, như cái cô bé đi chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:

Em đi, chàng theo sau.

Em không dám đi mau,

Ngại chàng chê hấp tấp,

Số gian nan không giàu.

Có khi chẳng biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:

Mê nàng bao nhiêu người làm thơ,

Người vờ ngớ ngẩn để kiếm cớ giễu mình chơi, hay người muốn giễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?

Lại có khi không giễu mình không giễu người, thi nhân cũng cười: Cười vì cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con

Nhưng có một nàng mà hai rể,

Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều.

Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn khó chịu của các ông tú, từ Tú Xuất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật đáng quý: Với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi chùa Hương và cùng cô bé san sẻ mọi nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:

Lầu son nàng ngoái trông lần nữa,

Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.

Rồi:

Nhìn quanh khói tỏa buồn man mác,

Nàng kêu: "Phụ vương ôi! Phong Châu!"

Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó. Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng của ẠFrance, nhưng xem Ngày xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami. Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay giễu đời và thương người như ẠFrance? Không? Nói giễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ ngĩnh và cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ.

Tháng 10-1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
32. Phan Văn Dật

Sinh ngày 17-8-1909 ở làng Phú Xuân, huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Chánh quán: Làng Đạo Dầu, phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Học trường Quốc học Huế đến đậu thành chung. Hiện làm thư ký ngạch trước bạ Huế.

Viết văn từ 1924, đến 1927 có đăng Nam Phong, Thần Kinh, Rạng Đông, (ký Tiêu Lang và Thường Nga Phố).

Đã xuất bản: Bâng Khuâng (1935).

Hồi tháng 12-1935 tôi có viết trên báo Tràng An một bài về quyển Bâng Khuâng. Nay xem lại thơ Phan Văn Dật cảm tưởng vẫn không khác xưa. Vậy xin trích mấy đoạn chính trong bài thơ ấy.

Trong làng thơ, Phan Văn Dật thuộc về phái thanh niên. Nhưng có lẽ thanh niên vì tuổi hơn vì thơ. Giữa lúc ấy một luồng không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám ca tụng cái tình cha con, anh em; sách của người, người đề tặng song thân, tưởng ngày nay cũng là một điều ít có.

Những điều người mơ ước cũng giống hệt những điều mơ ước của các cụ ta ngày xưa: Một cuộc đời bình dị nơi thôn dã. Tôi thấy ở người cái lòng chán nản, hơn nữa cái lòng căm giận những nơi đô hội. Mối hận dài trong thơ Phan Văn Dật sẽ chẳng là cái hận của Dương Quý Phi bị hy sinh vì lẽ nước, nó là cái hận một người đàn bà bị sức quyến rũ của thành thị cướp mất chồng con. Nguyễn Nhược Pháp với tập "Ngày xưa" đã nhìn vào cảnh vật xưa bằng con mắt một người thời nay, Phan Văn Dật với tập "Bâng khuâng" đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa.

Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới lặng lẽ đầy mơ mộng. Cuộc đời như thế ắt sẽ bằng phẳng vô sự. Nhưng chỉ vô sự đối với những con mắt không tinh. Thực ra trong lòng thi nhân không phải là vô sự: Thi nhân không thiết chuyện hằng ngày nhưng vẫn luôn luôn sống với một cuộc đời đã qua rất phong phú:

Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại.

Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.

Chuyện ngày nay sau tôi sẽ xót xa,

Tôi chỉ tiếc những giờ không trở lại.

"Những giờ không trở lại" đó, Phan Văn Dật nhắc đến một cách âu yếm. Nào những mối tình xưa, xa hơn nữa, những cảm hoài thời thơ ấu, những khi nô đùa với những trẻ con hàng xóm, những khi anh em dắt tay nhau vơ vẩn trong vườn:

Vào buổi bình minh, năm ấy xưa,

Trong vườn đào lý, phủ sương mờ,

Dắt tay hai trẻ tìm hoa rụng,

Mơ chuyện thần tiên, nghĩ vẩn vơ.

Những cảnh ấy đã qua trong đời mình có khi thi nhân để lẫn với những cảnh đã qua mấy mươi năm đời trước. Nhân biệt một người bạn, Phan Văn Dật đã thay lời người đàn bà xưa tiễn chồng đi lính viết lên những câu nhịp nhàng và cảm động. Nỗi buồn riêng ấy của thi nhân còn khiến người nghĩ liên miên đến những nỗi đau đớn của người xương phụ cùng cái ngao ngán vì mọi cuộc tang thương.

Nói cho đúng, thi nhân chẳng phải hoàn toàn sống trong cảnh xưa cảnh mộng và cái thế giới chung quanh tuyệt không có trong con mắt thi nhân. Người cũng biết say vì cảnh đẹp thoáng qua trước mắt. Có lúc bỗng sực nhớ mình là một trai trẻ đương tuổi yêu, nghệ sĩ nắn mấy vần thơ:

Ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp em,

Lời thơ réo rắt tôi săn tìm.

Cậy người mang tặng cho em đọc,

Em để vào ngăn em chẳng xem.

Thì xưa nay vẫn thế!

Thơ Phan Văn Dật không rực rỡ không réo rắt, không hùng tráng, khong làm tha bồi hồi ngây ngất, nhưng vẫn khiến ta ưa đọc: Nó là những vần thơ dễ thương. Ta không cảm phục mà ta lưu luyến, cũng như ta lưu luyến đất Kinh đô là nơi quê hương của thi nhân. Người yêu văn sẽ xem thi nhân như bạn nếu không thể xem như thầy.

Chính Phan Văn Dật cũng không muốn làm thầy ai. Người vốn biết:

Sự hoàn toàn tìm kiếm chỉn thêm hoài.

Ngọc lành là chuyện nói mà chơi,

Chớ kể ngọc nào không có vết!

Tháng 12-1935
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
33. Đông Hồ

Chính tên là Lâm Tấn Phác. Sinh ngày 16 tháng 2 năm Bính Ngọ (10-3-1906) ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Thôi học nhà trường năm 16 tuổi. Chịu ảnh hưởng tạp chí Nam Phong.

Lập trí đức học xá. Chủ trương báo Sống (1935).

Đã viết giúp: Nam Phong, Trung bắc tân văn, Đông Pháp thời báo, Kỳ lân báo..

Đã xuất bản: Thơ Đông Hồ (1932), Cô gái xuân (1935).

Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm, nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng.

Nhưng yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít. Thất học từ năm mười lăm, mười sáu; từ đó người chỉ học quốc văn, viết quốc văn, rồi mở trường chuyên dạy quốc văn. Cả những lúc người đai cơm bầu nước cùng học trò đi chơi các vùng thắng cảnh đất Phương thành, các đảo dữ miền duyên hải, tôi tưởng cũng chỉ vì quốc văn: Người đi tìm cảm hứng vậy.

Khốn nỗi, người ra đời vào lúc văn học nước nhà đương hồi tàn tạ. Vốn tính hiền lành, không đủ táp bạo để gây nên giữa làng văn một cuộc biến động cần phải có, lúc đầu người chỉ cam tâm hiến mình cho những lối xưa ràng buộc. Và người cũng không hề lấy thế làm bứt rứt khó chịu, chưa bao giờ người có ý muốn thoát ly.

Mặc dầu sự tình cờ đã đôi lần đưa người ra ngoài khuôn sáo. Trong tập Thơ Đông Hồ, giữa bao nhiêu câu trơn tru mà tầm thường, trống rỗng đột nhiên ta gặp đôi lời dường như trong ấy ẩn náu một linh hồn. Như những lời thuật hoài sau khi nàng Linh Phượng đã thành người thiên cổ:

Mối sầu khôn dãi cùng trời đất;

Chén rượu đành khuây với nước non.

Cùng những lời nhớ bạn, hoặc thật thà:

Khi biệt dễ dàng khi gặp khó;

Chốn vui ai nhớ chốn sầu chi.

Hoặc kín đáo

Cái oanh đâu bỗng ngoài hiên gọi:

Đã hai lần rồi xuân vắng mai (1)

Với nỗi thắc ấy, với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa trường thơ Nam Phong nhiều lắm.

Nhưng trong tập Thơ Đông Hồ, lạ nhất là bài "Tuổi xuân", người ta có thể tưởng nó đã ở đâu lạc tới. Đến khi tác giả đưa in lại vào tập Cô gái xuân, ta mới thấy nó tìm được hoàn cảnh tự nhiên của nó. Bởi vì trong bài "Tuổi xuân" có cái bồng bột, cái trịnh trọng trước tình yêu mà cả thế hệ trước đây không từng quen biết: Họ quen xem người đàn bà như một thứ đồ chơi.

Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới vừa nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình. Với phong trào thơ mới tưởng không có sự đắc thắng nào vẻ vang hơn.

Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phới phới yêu đương. "Cô gái xuân" của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đến dễ thương, những lời tuồng như lả lời mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cả cái êm dịu cái mơn trớn vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu? Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng mơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới ánh trăng thanh tiếng sóng.

Ai cũng thấy thơ Đông Hồ và Cô gái xuân khác nhau xa. Tuy vậy, nếu trong Thơ Đông Hồ ta thấy khơi nguồn thơ Cô gái xuân thì trong Cô gái xuân vẫn còn lai láng cái buồn những vần thơ cũ.

Tháng 8-1941

Chú thích

(1) - "Mai" cũng là tên người yêu (xem bài "Nhớ Mai" trong Cô gái xuân)
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
34. Mộng Tuyết

Chính tên là Lâm Thái Úc (đáng lẽ là Út, nữ sĩ vẫn nhận tên mình là út). Sinh ngày 9-1-1918 ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Chỉ học trường hết bậc Sơ đẳng, rồi luyện tập quốc văn ở Trí Đức học xã.

Trong những người do Trí Đức học xã đào luyện ra thì Mộng Tuyết có đặc sắc hơn cả. Nhờ ô. Đông Hồ nói dùm, tôi được xem tập Phấn hương rừng của nữ sĩ. Tập thơ bìa thếp vàng, giấy tàu tốt, chính nữ sĩ viết và vẽ để làm vui riêng trong khuê phòng. Nét bút hoa mỹ, nét vẽ phóng túng, thỉnh thoảng lại chen vào ít câu chữ Hán cũng của Mộng Tuyết, thực là một cái thú cho người xem.

Còn thơ, hoặc nhẹ nhàng dí dỏm, hoặc hàm xúc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tổng chi là lời một thiếu nữ, khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như khi được đọc thư tình gửi cho một người bạn: Người thấy mình đã phạm vào chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay như đương nắm cả một niềm ân ái.

Nhưng có một điều đáng suy nghĩ: Người thiếu nữ trong tập thơ này có làm ta quyên những thiếu nữ do trí tưởng thi nhân đàn ông tạo ra không? Nàng, một người đàn bà thiệt, nàng có đàn bà hơn những người đàn bà trong tưởng tượng kia không? Dầu sao, có những lời thơ như câu sau này tả cảnh xuân:

Chốn buồng khuê, xuân đến thăm em.

Hay như bài đề tặng bộ Việt Pháp tự điển (1), những lời tuy bình dị mà có một vẻ yêu kiều riêng tưởng ngòi bút đàn ông khó có thể viết ra được.

Tháng 8-1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
35. Nguyễn Xuân Huy

Sinh ngày 15-7-1915 ở làng Dũng Quyết, huyện ý Yên (Nam Định). Học ở Nam Định. Hiện dạy học ở Hà Nội.

Đã viết giúp: Đông tây, Phụ nữ thời đàm, Nhật Tân, Tân thiếu niên, Hanoi báo.

Cứ mỗi chiều Nguyễn Xuân Huy lại ra ngồi ở một mỏm đá trên bờ sông Vân (Ninh Bình) để sống những giờ thần tiên trong tưởng tượng với một nữ học sinh có gặp qua vài lần.

Thi nhân còn nhỏ, người tình trong mộng lại nhỏ hơn. Thi nhân sẽ dạy cho người yêu học. Hai người sẽ sống chung với nhau, âu yếm nhau, nhưng cũng dỗi nhau, đùa nhau và chơi với nhau đủ mọi trò trẻ con.

Tôi tưởng theo Nguyễn Xuân Huy thuật lại giấc mộng tình ấy mới có thể hiểu được hai bài thơ trích dưới đây, nhất là bài "Giận nhau", mà báo Phụ nữ thời đàm hồi Ô. Phan Khôi chủ trương đem sánh với bài "Trường can hành" của Lý Bạch. Tôi sẽ không có cái táo bạo của ông Phan, nhưng tôi cũng thấy thơ Nguyễn Xuân Huy hay lắm. Mối tình ở đây vừa thanh sạch như tình ruột thịt, vừa nồng say như tình yêu. Tình ấy, một đời người ta chỉ để nuôi trong mộng một lần, khi lòng xuân mới nhóm và người ta còn giữ được cái trong trắng của tuổi ngây thơ. Chúng ta - những ai không còn tuổi ấy - xem thơ Nguyễn Xuân Huy sẽ được hưởng chút gió trong lành thổi về thời mười tám.
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
36. Hằng Phương

Vợ Ô. Vũ Ngọc Phan (1). Con Ô. Lê Dư. Sinh năm 1908 ở làng Nông Sơn (Quảng Nam). Học chữ Hán bảy tám năm. Chữ Tây chỉ học đến lớp nhất.

Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn, Ngày nay, Hà Nội tân văn, Đàn bà.

Thơ Hằng Phương cùng một giọng êm dịu, ngọt ngào như thơ Vân Đài. Nhưng ít dấu tích thơ Đường và thành thực hơn. Như đoạn cuối trong bài "Lòng quê" trích theo đây lời thơ thực yểu điệu dễ thương. Hằng Phương mượn lời chim để nói nỗi lòng mình. Nhưng thực ta không còn biết đây là lời người hay lời chim. Bởi mối tình ở đây nhẹ nhàng quá, trong trẻo quá. Người thơ tưởng chừng đã biến thành chim..

Tình quê còn đưa thi hứng cho Hằng Phương nhiều lần nữa. Có khi nó lẫn với lòng thương người mẹ đã khuất:

Ngày nay bên khóm trúc

Em thơ khóc rưng rức,

Tìm mẹ biết tìm đâu?

Trời xanh xanh một màu..

Có khi nó chỉ là tình lưu luyến cảnh quê hương:

Ai về cố quận cho ta nhắn

Gửi chút lòng thương nhớ núi sông.

Hằng Phương rất mến cảnh. Ngườu âu yếm nhìn những lúc trăng lên:

Sáng trưng mái ngói nhà ai,

Đôi chim ngỡ buổi ban mai, giật mình.

Những lúc bình minh:

Sương đêm còn đọng trên cành,

Rưng rưng hạt ngọc, long lanh nhìn trời.

Và:

Nách tường đôi lứa chim sâu,

Nằm trong tổ ấm thò đầu nhởn nhơ..

Những bức tranh nho nhỏ ấy đơn sơ mà xinh tươi làm sao. Hồn thi nhân âu cũng thế.

Tháng 12-1941

Chú thích

(1) Hằng Phương là tên, không phải là biệt hiệụ
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
37. Nguyễn Bính

Sinh năm 1919 ở làng thiện Vịnh, huyện Vụ Bản (Nam Định).

Không hề học ở trường, chỉ học ở nhà với cha và cậu.

Làm thơ từ năm 13 tuổi. Đã làm được gần một nghìn bài. Được giải khuyến khích về thơ Tự lực văn đoàn năm 1937.

Đã đăng thơ: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, Nam cường.

Đã xuất bản: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi (Lê Cường, Hà Nội 1940), Hương cố nhân (Á Châu, Hà Nội 1941).

Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng khôn hay dại- chúng ta ngày một lìa xa nền nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh. Dầu sao, những tính tình tư tưởng ta hấp thụ ở học đường cám dỗ ta, những cái phiền phức của cuộc đời mới lôi cuốn ta, nên ở mỗi chúng ta người nhà quê kia vốn khiêm tốn và hiền lành ít có dịp xuất đầu lộ diện. Đến nỗi có lúc ta tưởng chàng đã chết rồi. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn toàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tình cảm căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm những âu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô sỗ những nhà thông thái nghiên cứu. Họ chẳng ngớt lời khen những câu như:

Nhà em có một giàn bầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Hay:

Lòng anh: Giếng ngọt trong veo

Giăng thu trong vắt biển chiều trong xanh

Lòng em như bụi kinh thành,

Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.

Tiếc thay Nguyễn Bính lại không phải là người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: "Thơ như thế nàythì có gì?". Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quý vô ngần: Hồn xưa của đất nước.

Kể, một phần cũng là lỗi thi nhân. Ai bảo người không nhà quê hẳn? Người đã biết trách người gái quê:

Hoa chanh nở ở vườn chanh,

Thầy u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về,

Hương đồng, gió nội bay đi ít nhiều.

Thế mà chính người cũng đã "đi tỉnh" nhiều lắm. Dấu thị thành chẳng những người mang trên quần áo, nó còn in vào tận trong hồn. Khi người than:

Đời có gì tươi đẹp nữa,

Buồn thì đến khóc, chết thì chôn.

Khi người tả cảnh xuân:

Đã thấy xuân về với gió đông,

Với trên màu má gái chưa chồng.

Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.

Ta thấy người không còn gì quê mùa nữa.

Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng có những câu ấy mà người ta khó nhận thấy cái đặc sắc của Nguyễn Bính, chỗ Nguyễn Bính thì hơn các nhà thơ khác, ít được người ta nhìn thấy, Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ. Cái lối gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng.

Tháng 8-1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
38. Vũ Hoàng Chương

Sinh ngày 5-5-1916 ở Nam Định. Có bằng tú tài Tây. Đã theo học trường Luật, nhưng lại bỏ để làm Phó thanh tra Sở Hỏa xa miền Bắc hơn một năm. Dạy tư một độ, hiện giờ theo học ban cử nhân toán học.

Đã xuất bản: Thơ say (1940).

Ý giả Vũ Hoàng Chương địng nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: Cái nghiệp say. Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhẩy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. Vũ Hoàng Chương có cái dụng ý muốn say để làm thơ. Cái dụng ý ấy không khỏi có hại. Nhưng một lần kia, bước chân vào tiệm nhảy, người quên dụng ý làm thơ ngoài cửa và lần ấy người đã làm một bài thơ tuyệt hay.

Tôi yêu những vần thơ chếnh choáng, lảo đảo mà nhịp nhàng theo điệu kèn khiêu vũ..

Âm ba gợn gợn nhỏ,

Ánh sáng phai phai dần..

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân.

Lui đôi vai, tiến đôi chân,

Riết đôi tay, ngả đôi thân,

Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió..

Quả là những vần thơ say.

Cái dụng ý làm thơ Vũ Hoàng Chương cũng còn bỏ quên lần nữa.

Kể, cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng còn dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây nó có cái vị chua chát, hằn học và bi đát riêng.

Mỗi lần nói đến hôn nhân, Vũ Hoàng Chương có giọng khinh bỉ vô cùng. Người thấy hôn nhân chỉ là sự chung chạ của xác thịt, một sưh bẩn thỉu đã làm dơ dáy bao mộng đẹp của tuổi hoa niên:

Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải,

Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn.

Khi tỉnh dậy bùn nhơ nơi Hạ giới

Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn.

Khốn nỗi! Thoát ly được hôn nhân cùng mọi trói buộc khác, nào người có tìm được hạnh phúc, người chỉ thấy bơ vơ:

Mênh mông đâu đó ngoài vô tận

Một cánh thuyền say lạc hướng đêm.

Con thuyền say kia chính là linh hồn và cuộc đời của thi nhân. Rút lại, hy vọng cao nhất của người là quên. Quên hết thảy những thứ lợm giọng của khách làng chơi:

Hãy buông lại gần đây làn tóc rối,

Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên,

Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,

Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.

Tháng 9-1941
 
34,442 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
39. Mộng Huyền

(1) Sinh ở Huế năm 1919. Hiện học ban thành tú tài ở Hà Nội.

Đã đăng thơ: Tràng An, Sông Hương.

Bài thơ trích sau rút trong tập Rung động chưa xuất bản.

Thơ Mộng Huyền có đôi ba bài đã đến với tôi như một hơi gió hiền hòa. Tôi nghĩ đến hơi gió ngàn năm vẫn đìu hiu trên sông Hương.

Trong lời thơ hiu hắt một linh hồn yểu điệu và buồn buồn, hay thương người mà cũng rất dễ thương. Nó không tràn ngập, không lấn áp hồn ta. Nó chỉ nhẹ nhàng, chỉ âm thầm và e lệ. Ta đừng nói to, đừng bước nặng, hãy lắng hồn ta lại để đón lấy hồn người.

Ngày nọ, thi nhân về thăm nhà một cô thôn nữ sớm từ trần. Người lẳng lặng đi qua, bước rất nhẹ nhàng vì:

Sợ làm kinh động sầu xưa cũ

Ẩn nấp mình trong bụi cỏ vàng.

Ta hãy theo gương ấy và chớ làm kinh động chút hồn thơ đang nương mình trong bụi cỏ lời thơ.

Tháng 7-1941

Chú thích

(1) Thi sĩ yêu cầu chúng tôi đừng để tên thật của người.
 
Chia sẻ bài viết
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back