Bài viết: 17 

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
* Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM.
- Chủ thể:
+Nguyên đơn là ông Phạm Bá Minh
+ Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Bùi Khắc Thảo
- Tranh chấp về vụ kiện tranh chấp hợp đồng dịch vụ vay tiền.
- Lí do tranh chấp: Vào ngày 14/09/2007 bà Khen và ông Thảo có thế chấp cho ông Minh một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng lãi xuất thỏa thuận là 3%/ tháng. Khi hết hạn hợp đồng, do bà Khen và ông Thảo không có khả năng thanh toán nên kéo dài số nợ trên cho đến nay. Ông Minh yêu cầu bà Khen và ông Thảo trả tiền lãi và tiền nợ là 70.000.000 đồng.
- Quyết định của Tòa án: Bác bỏ yêu cầu kháng cáo của ông Minh, buộc bà Khen và ông Thảo thanh toán 38.914.800 đồng cho ông Minh. Ông Minh có trách nhiệm trả lại cho bị đơn giấy chứng nhận sạp D29.
* Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
- Chủ thể:
+ Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành, bà Hồ Thị Hết.
- Tranh chấp về vấn đề: Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
- Lý do tranh chấp: Vào năm 1995, ông Ôn và bà Xanh có cầm cố cho ông Rành 3000m2 đất với giá 30 chỉ vàng 24k. Vợ chồng ông Rành đã giao đủ vàng, hai bên thỏa thuận 3 năm sẽ chuộc lại, nếu không chuộc lại thì ông sẽ canh tác vĩnh viễn. Hiện tại, phần đất tranh chấp vợ chồng ông Rành đang canh tác và còn 2, 5 tháng sẽ thu hoạch.
- Quyết định của Tòa án:
+ Quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành: Hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất đối với phần đất 3.072, 7m2, buộc ông Rành phải giao trả lại phần đất 3.072, 7m2 cho ông Ôn, bà Xanh và yêu cầu ông Ôn, bà Xanh liên đới trả cho ông Rành hết 30 chỉ vàng 24k (loại vàng nhẫn).
+ Tại Quyết định Giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang và cho rằng: Giao dịch giữa ông Ôn, bà Xanh và ông Rành là giao dịch tương tự như là giao dịch cầm cố tài sản phải áp dụng nguyên tắc tương tự là các quy định về cầm cố tài sản để giải quyết, cũng như hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc "Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất".
* Tóm tắt quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
- Chủ thể:
+Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V.
+ Bị đơn: Công ty PT.
- Tranh chấp về: Hợp đồng thế chấp.
- Lý do tranh chấp: Ngân hàng V và Công ty PT đã ký kết các hợp đồng tín dụng, Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết các hợp đồng thế chấp, trong đó có Hợp đồng thế chấp bất động sản được ký kết với ông Trần T, bà Trần Thị H là bên bảo lãnh. Hợp đồng này đã được tất toán tương ứng với khoản vay tuy nhiên ngân hàng muốn xử lý tài sản thế chấp cho khoản vay khác.
- Hướng giải quyết của Tòa án:
+Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm: Tuyên hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Ngân hàng V có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp
+ Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm: Tuyên hợp đồng thế chấp chấm dứt hiệu lực. Ngân hàng phải trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất.
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- Tài sản bảo đảm:
+ Theo Khoản 1, Điều 295: "Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm", quy định này thể hiện hai điểm mới:
- Thứ nhất là không yêu cầu điều kiện tài sản phải "được phép giao dịch" như quy định tại khoản 1 Điều 320 BLDS năm 2005.
- Thứ hai, tài sản bảo đảm có thể là tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ được bảo đảm (bên bảo đảm đồng thời là bên có nghĩa vụ được bảo đảm) hoặc của người thứ ba (bên bảo đảm và bên có nghĩa vụ được bảo đảm là 02 chủ thể khác nhau).
+ Tại Khoản 2, Điều 295: "Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được" . Pháp luật quy định, tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng yêu cầu về tài sản bảo đảm phải xác định được nhằm hạn chế việc dùng tài sản hình thành trong tương lai mà chưa được xác định để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự vì các bên đứng trước nguy cơ hiệu lực của hợp đồng bị tác động bởi việc mô tả tài sản bảo đảm chung chung và không xác định được.
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn trích dẫn của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: "Ông Phạm Bá Minh trình bày: Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày 14-09-2007 bà Bùi Thị Khen và ông Bùi Khắc Thảo có thể chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2- 9 tại chợ Tân Hương để vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3 % tháng. [..] Bị đơn bà Bùi thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một tờ giấy sạp D2-9 tại chợ tân Hưng để vay 60.000.000 đồng Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất 3 % tháng".
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản.
- Cơ sở pháp lý:
+ Khoản 1, Điều 105 BLDS 2015: "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản "
+ Khoản 9, Điều 3 Nghị định số 163 / 2006 / NĐ CP.
• Tiền do Ngân hàng Nhà nước phát hành, Giấy chứng nhận sạp không phải do Ngân hàng Nhà nước phát hành nên đây không phải là tiền.
• Giấy tờ có giá theo khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng thì Giấy chứng nhận sạp không phải là giấy tờ có giá Quyền tài sản theo Điều 115 BLDS 2015 thì Giấy chứng nhận sạp không phải là quyền tài sản.
• Vật (phụ thuộc vào ý chí của các bên hướng đến để xét khi nào là vật, khi nào không phải là vật). Giấy chứng nhận sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn bán tại chợ Tân Hưng, không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ được sử dụng chứ không có đặc quyền nào khác đối với cái sạp, cái sạp đó không phải là tài sản của bà nên giấy chứng nhận sử dụng sạp không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá trị tại khoản 9 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ – CP và cũng không là vật, tiền và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không là tài sản.
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo nghĩa vụ dân sự không được chấp nhận. Đoạn của bản án cho thấy câu trả lời: "Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cấm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hưng là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh".
1.5. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa với việc dung giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Tòa án xét thấy, sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ tân Hưng chỉ là giấy đăng kí sử dụng sạp chứ không phải quyền sở hữu nên giấy chứng nhận trên không dủ cơ sở pháp lý mà để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015.
Vậy, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Theo đó tài sản cầm cố nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền định đoạt trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố?
Trong Quyết định số 02 đoạn cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố là: "Ngày 30/8/1995 vợ chồng ông Võ Văn Ôn và bà Lê Thị Sang cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập" Giấy thục đất làm ruộng "với nội dung giống như việc cầm cố tài sản".
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Văn bản hiện hành có cho phép quyền sử dụng đất để cầm cố. Với quy định hiện nay của BLDS 2015 và Luật Đất đai 2013 thì hoàn toàn có thể cầm cố quyền sử dụng đất miễn là không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Bởi lẽ, BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động sản, Luật Đất đai 2013 không cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Căn cứ Khoản 1, Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà không có quy định hạn chế quyền của người sử dụng. Do đó, người sử dụng đất hoàn toàn có quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS 2015.
1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong quyết định trên, Tòa án đã chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố. Đoạn trong quyết định cho thấy điều này: "Xét việc giao dịch thục đất nêu trên là tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết. Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp với quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó cần áp dụng các quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên giao dịch."
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý và thuyết phục.
- Căn cứ vào Điều 309 BLDS 2015 có quy định: "Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ" và Khoản 2, Điều 310 BLDS 2015 quy định: "Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký" , điều này đã cho thấy khả năng cầm cố bất động sản nếu luật cho phép.
- Như vậy, theo quy định của BLDS 2015 chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng quyền sử dụng đất để cầm cố:
■ Thứ nhất: Theo Khoản 1, Điều 107 BLDS 2015 quy định: "1. Bất động sản bao gồm: A) Đất đai; b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật"; và theo quy định tại Khoản 1, Điều 105 BLDS 2015; Điều 115 BLDS 2015: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác" . Mặc dù BLDS 2015 không quy định quyền sử dụng đất là bất động sản nhưng trong Luật Kinh doanh bất động sản đã có nhiều điều khoản quy định cho thấy quyền sử dụng đất là bất động sản.
■ Thứ hai, BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động sản, Luật Đất đai 2013 không cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất "được" thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai (Khoản 1, Điều 167) mà không có quy định hạn chế quyền của người sử dụng.
■ Thứ ba, theo Khoản 2, Điều 3 BLDS 2015 quy định: "Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng". Điều này cho thấy chỉ cần giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất được xác lập trên nguyên tắc này thì sẽ được pháp luật chấp nhận.
→ Do đó, hoàn toàn có thể cầm cố quyền sử dụng đất miễn không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
Trong quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa trụ trả nợ khoản vay của công ty PT ngân hàng theo Khoản 1, Điều 317 BLDS 2015: "1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)".
Trong Hợp đồng thế chấp của ngân hàng với công ty có ghi: ".. Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp..".
1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt?
"Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 20/2020/KDTM-PT ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ án" Tranh chấp hợp đồng tín dụng "giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V với bị đơn Công ty PT".
"Tòa án cấp sơ thẩm tuyên Hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã ký giữa ông Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng V và Công ty PT chấm dứt hiệu lực. Ngân hàng phải trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H số hồ sơ gốc: 3859/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 05/02/2002 mang tên ông Trần T, bà Trần Thị H là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật".
-> Từ 2 đoạn này cho thấy tòa án xác định hợp đồng đã chấm dứt theo tòa án sơ thẩm
1.12. Vì sao Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Qua Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại Khoản 1, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và Khoản 1, Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp của ông T, bà H để thu hồi nợ là không có cơ sở. Do hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H.
Điều 327 BLDS 2015: Chấm dứt thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.
1.13. Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục không? Vì sao?
Việc tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là thuyết phục vì:
- Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 được ký kết với bên bảo lãnh của công ty PT là ông Trần T, bà Trần Thị H để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của công ty PT với ngân hàng với đảm bảo khoảng vay 1.500.000.000 đồng. Tại Khoản 2, Điều 1 của Hợp đồng thế chấp có ghi: ".. Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp.." . Nhưng công ty PT và ngân hàng có nâng hạn mức tín dụng lên mà lại không có không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà Trần Thị H là không đúng quy định. Mặt khác, việc Ngân hàng ký nâng hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp là điều bất hợp lý.
- Qua đó xét theo Khoản 2, Điều 1 của Hợp đồng thế chấp giữa công ty PT và ngân hàng thì không hợp lí, do vậy hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 chỉ đảm bảo khoảng vay 1tỷ5.
- Ngân hàng Việt Nga cũng đã thừa nhận công ty PT đã tất toán các khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại Khoản 1, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và Khoản 1, Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp của ông T, bà H để thu hồi nợ là không có cơ sở.