Tam Quốc Diễn Nghĩa - La Quán Trung - NXB vh Đông Á Thể loại: Dã sử Trung Hoa Dịch giả: Phan kế Bính Năm phát hành: 1522 1. Tác giả La Quán Trung (khoảng 1330 – 1400) là một nhà văn Trung Hoa sống cuối thời Nguyên, đầu thời Minh tác giả tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nổi tiếng, một trong Tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Hoa. Ông tên thật là La Bản, chữ là Quán Trung, lại có hiệu là "Hồ Hải tản nhân", có thể là người Thái Nguyên (còn có thuyết cho rằng ông là người Lư Lăng, Tiền Đường , Đông Nguyên . V. V). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1330 đến năm 1400 giữa thời thống trị của nhà Nguyên Thuận Đế và Minh Thái Tổ . Có thuyết còn nói rõ ông sinh năm 1328 và mất năm 1398. Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng nổi tiếng nhất là về tiểu thuyết. Ông là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa và còn có thuyết cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biên tác phẩm Thủy hử, đó là hai cuốn tiểu thuyết trong Tứ đại danh tác – bốn tác phẩm nổi tiếng nhất trong văn học cổ điển Trung Hoa. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người này là một, hay là tên Thi Nại Am được dùng làm bút danh của Thủy hử vì tác giả không muốn bị dính líu vào việc chống chính phủ như trong tác phẩm này. Ông là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời Minh-Thanh. La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý tộc. Tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân . Ông là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương". Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được. La Quán Trung tương truyền từng tham gia cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên của Trương Sĩ Thành. Sau khi Trương Sĩ Thành thất bại, Minh Thái Tổ lên ngôi, thống nhất Trung Hoa, ông lui về quy ẩn, sưu tầm và biên soạn tiểu thuyết dã sử. Về tiểu thuyết thì ngoài Tam quốc diễn nghĩa, tương truyền có tất cả hơn 10 bộ, như nay ta biết còn có: Tùy Đường chí, Tản Đường ngũ đại sử diễn ca, Tam toại bình yêu truyện.. (hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết lại, không còn nguyên bản của ông nữa) Tùy Đường chí truyện Tùy Đường lưỡng triều chí truyện Tàn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa Phấn Trang Lâu 2. Tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa Tam quốc diễn nghĩa , nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa , là một tiểu thuyết về lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14, kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190 –280) với 120 chương hồi, theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu). Tiểu thuyết này được xem là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc. Một trong những thành công lớn nhất của Tam quốc diễn nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Do vậy mình sẽ chỉ liệt kê ra một số sự kiện chính trong toàn bộ cuốn dã sử như sau: 1. Nhà Hán suy yếu 2. Cái chết của Đổng Trác và sự nổi dậy của Lý Thôi-Quách Dĩ 3. Liên minh chư hầu tan rã 4. Viên Thuật xưng đế 5. Tào Tháo nắm thiên tử 6. Chiến tranh Viên-Tào 7. Lưu Bị kháng Tào 8. Trận Xích Bích 9. Thế chân vạc hình thành 10. Cái chết của Quan Vũ 11. Ba nước cùng xưng đế 12. Nhà Tây Tấn thống nhất Trung Hoa Giữa tác phẩm văn học và ghi chép lịch sử, giữa tiểu thuyết và sử, đặc biệt là giữa loại tiểu thuyết lịch sử có tính chất sáng tác tập thể của nhân dân quần chúng như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa với loại sách gọi là "chính sử" do các sĩ phu phong kiến biên soạn, giữa hai thứ đó bản chất khác hẳn nhau. Quên mất điểm khác nhau đó sẽ dẫn tới cái nhìn sai lầm lệch lạc. Hiểu rõ và đánh giá một tác phẩm văn học nổi tiếng như Tam quốc là việc không đơn giản. Cách kể chuyện thời Tam quốc của La Quán Trung cũng cho chúng ta thấy sự phản ánh tình hình chính trị thời tác giả sống. Hoàng đế nhà Minh Vạn Lịch đã chính thức nâng Quan Vũ thành thánh để nhấn mạnh đức tính quả cảm và tuyệt đối trung thành của ông (những tính cách mà rõ ràng hoàng đế muốn đề cao để các bề tôi, thần dân noi theo). Tuy nhiên La Quán Trung lại xây dựng cho chúng ta một nhân vật Quan Vũ tinh tế hơn ở chỗ Quan Vũ chết như một thần tượng tan vỡ, đáng thương vì tính cả tin của mình. Các lời bình cổ đã không chú ý đến chi tiết này nhưng khám phá gần đây cho thấy nhân vật Quan Vũ của La Quán Trung là một sự phản ánh hấp dẫn của văn hóa Trung Quốc dưới luật thời nhà Minh, tác giả vừa theo chương trình tuyên truyền của triều đình phong kiến thời đấy mà vẫn phá luật một cách khá tinh tế. Lịch sử Trung Quốc đã từng xuất hiện rất nhiều thời loạn thế, chẳng hạn như Xuân Thu Chiến Quốc, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc, Ngũ Hồ Thập lục quốc, Nam Bắc triều hay Ngũ Đại Thập Quốc ; nhưng nếu nói về độ nổi tiếng và phổ biến nhất, các nhân vật được biết tới nhiều nhất thì không có thời đại nào có thể vượt qua Tam Quốc. Sở dĩ có điều đó là do thành công và ấn tượng mà cuốn tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" đem lại cho hậu thế. Tiểu thuyết này là ví dụ tuyệt vời cho mối tương tác hết sức phức tạp giữa chính sử, dã sử, văn học viết hư cấu, văn chương dân gian và sinh hoạt văn hóa bình dân diễn ra trong một truyền thống văn hóa lớn - truyền thống Trung Hoa kéo dài qua bao thời đại. Người Trung Hoa ví các tác phẩm văn chương bất hủ như "mặt trăng mặt trời trường tồn cùng sông núi", Tam Quốc Diễn Nghĩa có thể nói chính là "Nhật nguyệt treo cao" trong kho tàng văn học Trung Quốc.
Chương 1: Hồi 1 Bấm để xem Bài Ca Mở Đầu (Và cũng là bài ca kết thúc) Sông dài cuồn cuộc ra khơi, Anh hùng: Sóng dập, cát vùi thiên thu.. Dở hay, thành bại nào đâu? Bể dâu chớp mắt, nghoảnh đầu thành mơ! Non xanh còn đó trơ trơ, Tà dương lần lửa sưởi hơ ánh hồng. Lão tiều gặp lại ngư ông, Bên sông gió mát, trăng trong, kho trời. Rượu vò lại rót khuyên mời, Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa.. Kể ra biết mấy cho vừa? Nói cười hỉ hả, say sưa quên đời.. Phàm thế cuộc trong thiên hạ (#1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để thu về một mối. Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ lấy ngai vàng cho Đến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (#2), rồi truyền Đến đời vua Hiến Đế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn Đế và Linh Đế. Vua Hoàn Đế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước bị suy vị Khi vua Hoàn Đế băng hà, vua Linh Đế lên nối ngôi, có quan Đại Tướng Quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Đậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm hại. Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái. Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Đế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện ôn Đức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội cung cứu cấp. Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số. Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị sóng cuốn ra khơi mất tích. Cũng vào đời vua Linh Đế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện ôn Đức. Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Đường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người. Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước.." Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý. Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác. Vua Linh Đế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Đến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "á phụ". Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn lên như ong vỡ tổ. Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn: - Đây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này, con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ gặt lấy quả báo không nhỏ. Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão nói: - Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây. Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất. Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân". Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Đế), có bệnh thời khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng gian, lấy hiệu là "Đại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du khắp nơi. Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm. Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó. Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết, trời vàng nên lên thạy Đến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát". Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Đại Hiền lương sư Trương Giác" mà thờ. Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng. Trương Giác lại bàn với hai người em rằng: - Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm. Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Đường Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến. Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Đại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người. Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong cho Trương Bảo làm Địa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân. Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc." Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài. Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn địch lập công. Đồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc. Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán. Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu úy Châu Tĩnh vào bàn kế. Châu Tĩnh nói: - Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này. Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh. Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Đức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Đế nhà Hán. Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Đế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác Lộc Đình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (#3), và từ đấy con cháu mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp. Lưu Huyền Đức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm. Huyền Đức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền Đức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu Tang, phía Đông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông như một chiếc lọng vậy. Đã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói: - Nhà này ắt sanh quý tử. Lúc còn nhỏ, Huyền Đức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc cây dâu mà nói: - Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy! Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng: - Cháu chỉ nói bậy. Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng: - Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau. Nhân thấy nhà Huyền Đức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Đức ăn học. Năm Huyền Đức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản. Đến nay, Huyền Đức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Đức cảm khái thở dài một tiếng. Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn: - Đại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì? Huyền Đức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người thường, Huyền Đức liền hỏi thăm tên họ. Người ấy đáp: - Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Đức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên hỏi thử một lời. Huyền Đức nói: - Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng than thở. Trương Phi nói: - Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng? Huyền Đức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói: - Đem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc. Huyền Đức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt. Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Đức vội đứng dậy tiếp mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh. Người ấy đáp: - Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh. Huyền Đức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu rồi theo Huyền Đức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc. Trương Phi nói: - Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết làm anh em. Huyền Đức và Vân Trường đồng thanh khen phải. Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng: "Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt." Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Đức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út. Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê. Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi. Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo: - Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này. Huyền Đức nói: - Đây là trời giúp ta! Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại. Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được. Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Đức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ. Khách cáo từ, Huyền Đức tạ Ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu". Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái Thú Lưu Yên. Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Đức còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Đức làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác). Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo: - Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận. Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức cùng năm trăm quân hương dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Đức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó. Huyền Đức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm hộ. Huyền Đức giơ roi thét mắng quân giặc: - Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm. Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Đặng Mậu ra đánh. Đặng Mậu vừa nhảy ra đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa. Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Đao cản lại. Uy lực của Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân Trường chém một đao đứt làm hai đoạn. Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau: Anh hùng xuất trận buổi đầu tay, Một thử xà mâu, một thử đao. Khí tiết rạng ngời oai lực khét, Chia ba thiên hạ rạng anh hào. Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Đức xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng vô số. Đoàn quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và ủy lạo quân sĩ. Sáng hôm sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Đến vây phá Thanh Châu, và quan Thái Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền Đức đến thương lượng. Huyền Đức nói: - Giặc cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện đem quân để cứu Thanh Châu. Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Đức kéo đi. Giặc thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Đức thấy mình ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ trại. Đoạn nói với Quan, Trương: - Muốn phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được. Rồi chia cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi. Sáng hôm sau, Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân giặc ra nghênh chiến, Huyền Đức giả thua kéo quân chạy về. Tưởng mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo ra một lượt đánh bộc hậu. Đạo quân của Huyền Đức quay lại tác chiến. Ba mặt đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Đức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân tràn ra tiếp ứng. Nhờ đó mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền Đức: Mưu hay tỏ rõ sức thần công, Hai cọp suy ra kém một rồng. Gặp lúc cô cùng, người mới rõ, Tam phân thiên hạ, xứng anh hùng Cung Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Đức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Đức nói: - Gần đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến đó giúp ân sư một phen. Châu Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Đức dưới trướng để đợi lệnh. Bấy giờ, Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại. Lư Thực bảo Huyền Đức: - Nay Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh. Huyền Đức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên. Bấy giờ Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại. Hoàng phủ Tung bàn với Châu Tuấn: - Giặc tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng hỏa công mà đốt. Liền đó Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai phục. Đêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ tán. Quân Hán chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết. Quân giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu chạy trốn không còn một manh giáp. Vị tướng nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Đô úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Đức. Trước kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan Trung Thường Thị Tào Đằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát Lợi. Lúc thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết. Mỗi lần như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra một kế. Một hôm, thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió. Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc nhiên hỏi: - Kìa, sao chú con bảo là con trúng gió? Tào Tháo thản nhiên thưa: - Từ trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú, nên chú giận rủa con như vậy. Tào Tung nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa. Tháo được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo Tháo rằng: - Thiên hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy. Lại có một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói: - Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy. Tào Tháo thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và hỏi: - Ông thấy tôi là người như thế nào? Hứa Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần, Hứa Thiệu mới nói: - Đời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng. Nghe nói thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm quan Lang rồi được thăng Đô úy Lộc Dương. Lúc vừa Đến nhậm chức, Tháo đã sai treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí. Có một lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa. Uy danh của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Đốn Khâu. Nay giặc Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Đô úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo đến Dĩnh Xuyên trợ chiến. Vừa đến nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng, Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo. Bấy giờ, Huyền Đức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực. Hoàng Phủ Tung nói: - Hai thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận, chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc. Huyền Đức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực. Thất kinh, Huyền Đức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ. Lư Thực nói: - Tôi vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn hối lộ, tôi nói với hắn: "Đến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền dư mà đãi sứ nhà vủa". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Đổng Trác đến thay tôi cầm quân, và bắt tôi giải về kinh trị tội. Trương Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Đức đã kịp ngăn lại và nói: - Việc của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo sát người của triều đình mà mang tội. Trương Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói: - Lư Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn. Huyền Đức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Đi chưa được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Đức liền trèo lên một đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn chữ: "Thiên Công Tướng Quân". Huyền Đức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương: - Chính thằng này là Trương Giác, kẻ cầm đầu giặc Khăn Vàng gây rối. Chúng ta tham chiến ngay. Ba anh em Huyền Đức đồng phi ngựa dẫn quân lướt tới. Bấy giờ Trương Giác đã đánh bại Đổng Trác, nên kéo binh truy kích rất ngặt. Đang lúc hăng thế, bỗng gặp toán quân của ba anh em Huyền Đức chặn lại, chúng rối loạn người ngựa đạp nhào lên nhau, mất cả hàng ngũ, bị quân Huyền Đức chém giết một trận, làm cho chúng quay đầu bỏ chạy hơn năm mươi dặm. Ba người cứu được Đổng Trác về trại. Sau khi hỏi thăm, biết được ba anh em Huyền Đức chưa có chức vụ gì, hiện còn là chân trắng, Đổng Trác làm mặt khinh khỉnh, không thèm thi lễ và tiếp đãi. Huyền Đức bước ra ngoài, không nói gì, nhưng Trương Phi thì hầm hầm nét mặt, tỏ ý bất mãn: - Hừ! Chúng ta lăn mình vào địch quân để cứu hắn, mà hắn lại dám vô lễ như thế! Phải giết hắn đi mới đã giận. Mắng rồi, Trương Phi cầm xà mâu quay vào trướng định giết Đổng Trác. Đó chính là: Nhân tình thế thái đáng buồn than, Ai biết anh hùng lúc trắng chân! Nếu được muôn người như Dực Đức, Trên đời đã hết giống vong ân Chú thích: (1-) Thiên hạ tức là Đế quốc Trung Hoa cổ gồm chín châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, và ích. Dưới mỗi Châu có Quận và Huyện (2-) Vua Hán Cao Tổ đóng đô ở Tràng An (phía Tây) cho nên gọi là nhà Tây Hán. Nhà Tây Hán truyền đến đời vua Bình Đế thì bị Vương Mãng giết và cướp ngôi. Lưu Tú giết được Vương Mãng, khôi phục lại cơ đồ nhà Hán, nhưng lại dời đô về Lộc Dương (phía Đông) cho nên từ vua Quang Vũ về sau gọi là nhà Đông Hán. (3-) Đời vua Hán Vũ Đế mỗi khi có cuộc tế Tông Miếu, các vị có tước Hầu trong họ Lưu đều phải vào dâng vàng làm lễ. Nếu vàng của ai có sắc xấu, không được sáng đẹp thì người đó bị mất tước Hầu.
Chương 2: Hồi 2 Bấm để xem Đổng Trác có hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũ Tây, vùng Lâm Thao, làm quan Thái Thú quận Hà Đông, vốn là một kẻ có tính kiêu ngạo. Bởi thế, Trương Phi vừa thấy mặt đã ghét, muốn giết đi. Huyền Đức và Vân Trường đồng can: - Dù sao hắn cũng là người của triều đình sai đến, chúng ta không nên giết. Trương Phi hầm hừ: - Nếu không giết thằng ấy mà ở lại đây chịu mệnh lệnh của nó thì em không thể chịu được. Hai anh ở lại, em đi nơi khác Huyền Đức nói: - Anh em ta đã thề đồng sanh tử thì việc đi ở có nhau. Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi vậy. Trương Phi mừng rỡ: - Nếu thế thì em mới nguôi giận. Ba anh em Huyền Đức lại từ bỏ Trác Quận, ngày đêm kéo quân qua Dĩnh Xuyên theo Chu Tuấn. Chu Tuấn tiếp đãi anh em Huyền Đức rất hậu, hợp binh làm một, tiến đánh Trương Bảo. Bấy giờ, Tào Tháo và Hoàng Phủ Tung cũng đang hợp quân đánh nhau với Trương Lương ở Khúc Dương, riêng Trương Bảo thì lại địch với Chu Tuấn. Trương Bảo đem tám, chín vạn quân đóng đồn sau chân núi khí thế rất vững. Chu Tuấn sai Huyền Đức là tiên phong, kéo quân đến giao binh. Trương Bảo hay tin sai Phó Tướng Cao Thăng dẫn ba ngàn quân ra đối địch. Huyền Đức khiến Trương Phi ra cự chiến. Đánh chưa đầy ba hiệp, Trương Phi đã vung xà mâu đâm Cao Thăng đổ ruột nhào xuống ngựa chết ngay. Trương Bảo thấy thế tức giận, lướt tới vung gươm niệm chú, đầu bỏ tóc xõa làm phép thuật, tức thì sấm chớp nổi lên, trên không bao phủ một vùng hắc khí. Trong vùng hắc khí ấy lại có vô số binh mã lần lượt rơi xuống. Trông thấy pháp thuật, binh của Huyền Đức rối loạn, nên Huyền Đức vội vã thu quân. Về đến dinh, Huyền Đức vào ra mắt Chu Tuấn và bàn: - Trương Bảo dùng tà thuật thắng chúng ta, ngày mai chúng ta phải dùng uế vật phá phép của nó mới được. Chu Tuấn khen phải, khiến quân sĩ sắm ống thụt cho nhiều, và truyền lệnh giết dê chó đẻ lấy máu. Kế đó, Huyền Đức khiến Quan Công dẫn một ngàn quân mai phục nơi phía chân núi, đem theo ống thụt, máu dê, máu chó cho nhiều. Tất cả đều dự bị sẵn sàng. Trời mờ sáng, Huyền Đức dẫn một đạo binh ra trước trới địch khiêu chiến. Trương Bảo cười lớn nói: - Hôm qua chúng đã bại binh, nay lại còn dám đến đây nạp mạng sao? Liền truyền lệnh ba quân nai nịt chỉnh tề rồi xách giáp ra trước trại. Trương Bảo vừa dẫn binh ra đã thấy Huyền Đức múa kiếm mắng nhiếc. Trương Bảo nổi giận niệm chú, tức thì cát bay đá chạy âm khí mịt mù, trên không trung ngàn vạn binh mã ào ạt rơi xuống. Huyền Đức quay ngựa bỏ chạy, Trương Bảo cười lớn giu. C ngựa đuổi theo. Vừa qua khỏi núi, hai đạo binh phục của Quan, Trương nổi lên một tiếng pháo hiệu, ba quân hăm hở xông ra một lượt, dùng ống thụt nhúng vào máu thụt lên không, tức thì binh tướng yêu ma của Trương Bảo biến mất hết. Trương Bảo thấy phép mình bị phá thất kinh, vừa muốn lui binh, thì hai đạo binh của Quan, Trương đã xông ra chận lại. Phía sau Huyền Đức xua quân đuổi tới. Ba ngã đánh dồn lại làm cho đại binh của Trương Bảo tan vỡ, bị chết rất nhiều. Trương Bảo mở huyết lộ, quất ngựa chạy dài, Huyền Đức đuổi theo được vài dặm, lẹ tay rút ra một mũi tên ngắm Trương Bảo bắn theo. Trương Bảo la lên một tiếng mũi tên cắm vào cánh tay phía tả, không còn cầm thương được nữa, phải ôm cổ ngựa chạy thẳng vào Dương Thành đóng của cố thủ. Chu Tuấn thừa thắng, một mặt đốc quân vây chặt bốn cửa thành, một mặt cho người đi dò la tin tức của Hoàng Phủ Tung. Nhắc lại từ khi Đổng Trác thay thế Lư Thực để đấu chiến với Trương Giác, Đổng Trác đã thua hơn bảy trận. Tin ấy đến tai triều đình. Vua liền triệu Đổng Trác về trách mắng, và sai Hoàng phủ Tung ra thay thế. Hoàng Phủ Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết vì bệnh. Trương Lương thống lĩnh binh mã thay thế. Trương Lương cự với Hoàng Phủ Tung. Nhưng chẳng bao lâu, lực lượng của Trương Lương mòn mỏi, bị Hoàng Phủ Tung lập kế chém chết Trương Lương tại Khúc Dương, rồi đào mả Trương Giác lên, chặt đầu đem về triều dâng nạp. Triều đình phong cho Hoàng Phủ Tung là Xa Kỵ Tướng quân, trấn nhậm tới Ký Châu. Hoàng Phủ Tung lại làm sớ dâng về triều xin cho Lư Thực khỏi tội, và phục hồi nguyên chức. Tào Tháo cũng có công dẹp giặc Trương Giác nên được phong làm Tể Tướng Nam. Chu Tuấn hay được tin ấy, lòng nao nao, vội thối thúc binh sĩ ngày đêm phá thành Trương Bảo rất gấp. Trong thành quân sĩ đều hết lương thực, thế giặc nguy cấp, nên tướng giặc là Nghiêm Chách đâm chết Trương Bảo, rồi chặt đầu đem ra ngoài thành dâng cho Chu Tuấn. Thế là Chu Tuấn đã dẹp yên được mấy Quận, vội viết thiệp gởi về dâng tấu. Bấy giờ còn dư đảng của giặc Khăn Vàng lẫn trốn trong núi non, rừng rậm, thỉnh thoảng kéo ra quấy nhiễu dân lành. Triều đình lại sai Chu Tuấn đem đoàn quân chiến thắng đi dẹp giặc các nơi hiểm yếu. Chu Tuấn tuân lệnh kéo quân ra đi. Nhưng đi được vài ngày thì bỗng thấy trước mặt có một đạo binh kéo tới. Ngỡ là quân giặc, Chu Tuấn toan cho lệnh đánh, nhưng xem lại tướng đi đầu không phải là giặc, mà là một trang thanh niên trán rộng, mắt sáng, lưng gấu, vai hùm, oai phong lẫm liệt. Người này họ Tôn tên Kiên, quê ở Ngô quận, đất Phú Xuân tự là Vân Đài, dòng dõi Tôn Vũ Tử, một nhà quân sự lừng danh. Năm Tôn Kiên lên mười bảy tuổi, theo cha tới sông Tiền Đường, thấy hơn mười tên hải tặc vừa cướp thuyền của một khách buôn, đang chia tiền nhau trên bờ. Tôn Kiên nói với cha: - Con xin phép bắt lũ giặc này. Rồi nhảy lên bờ múa đao hò hét, tay chỉ trỏ Đông Tây nhưng gọi quân bốn mặt đến. Giặc tưởng là quan quân đi tuần, vội bỏ hết của cải chạy trốn. Tôn Kiên đuổi theo chém được một đứa. Do đó, các quận huyện đều biết danh, được tiến cử làm Hiệu úy. Sau đó, lại có tên yêu tặc làm phản ở Cói Kê, xưng là Dương Minh Hoàng Đế, tụ tập thảo khấu có hơn vài vạn. Tôn Kiên cùng quan quân Châu Quận phá được giặc chém đầu Hứa Xương, và đứa con của hắn là Hứa Thiều. Quan Thứ Sử Tang Mân thấy Tôn Kiên lập được công lớn, liền dâng biểu về triều bảo tấu. Triều đình phong cho Tôn Kiên làm quan Thừa ở Diêm Tộc, sau đổi sang Hu Di Thừa, rồi lại làm Hạ Bì Thừa. Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi lên quấy nhiễu, Tôn Kiên lại một lần nữa tụ tập thiếu niên trong thôn ấp, và thu nạp một số võ sĩ ở miền sông Hoài, lập thành một đạo quân hơn một ngàn năm trăm người, kéo đi tiếp ứng cho quân triều. Chu Tuấn mừng rỡ liền thu dụng Tôn Kiên, cùng nhau hiệp binh để truy nã giặc cướp. Chẳng bao lâu, các nơi hẻo lánh đã dẹp xong, duy có ba tên giặc lớn, dư đảng của Truơng Giác, là Triệu Hoằng, Hàn Trung, Tôn Trọng, tụ tập hơn vài vạn quân, chiếm cứ nơi Uyển Thành, bên trong cướp của giết người, bên ngoài thinh thế là để trả thù cho ba anh em Trương Giác. Chu Tuấn liền léo quân đến nơi vây đánh, sai ba anh em Huyền Đức ngày đêm công thành. Trong thành hết lương, Hàn Trung liệu thế không chống nổi, sai người ra xin hàng. Chu Tuấn không cho. Huyền Đức nói: - Xưa, Hán Cao Tổ sở dĩ được thiên hạ nhờ ở chỗ chiêu dụ kẻ hàng, thu nạp kẻ thuận. Sao nay ông lại không cho Hàn Trung hàng? Chu Tuấn đáp: - Thời ấy khác, thời nay khác. Xưa nhà Tần bạo ngược, Hạng Vũ hung tàn, thiên hạ đại loạn, người dân không biết ai là thánh chúa, nên Hán Cao Tổ phải tỏ lượng khoan dung để thu phục thiên hạ. Nay bốn bể, dân gian ai cũng biết nhà Hán là chủ thiên hạ, chỉ có giặc Khăn Vàng làm phản. Nếu để chúng đắc thế thì làm loạn, yếu thế thì đầu hàng, là sao giữ được luật pháp? Tha cho chúng đầu hàng tức là khuyến khích sự phản nghịch đó. Huyền Đức đáp: - Không cho giặc hàng cũng phải. Nhưng hiện nay ta vây kín bốn mặt thành, giặc bí thế tất phải liều tử chiến. Muôn người một lòng thì khó chống. Hơn nữa trong thành có hơn ba vạn sanh linh, chẳng lẽ vì chiến sự mà phải chết cả sao? Chi bằng chúng ta triệt quân ở hai mặt Đông, Nam chỉ đánh hai mặt Tây, Bắc, để cho giặc bỏ thành chạy, rồi ta bắt sống là hơn. Chu Tuấn nghe lời, triệt hết quân hai mặt Đông, Nam, dồn về đánh hai mặt Tây, Bắc. Quả nhiên, Hà Trung dẫn quân bỏ chạy. Chu Tuấn liền cùng với anh em Huyền Đức thúc quân đuổi theo chém giết, và bắt Hàn Trung. Quân giặc sống sót chạy tán loạn. Đang lúc quân Hàn truy kích, bỗng có Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến vây đánh Chu Tuấn, Chu Tuấn thấy quân giặc đông nên phải tạm lui. Do đó, Triệu Hoằng thừa thế chiếm lại được Uyển Thành. Chu Tuấn lui mười dặm hạ trại, rồi ngày hôm sau lại đều binh khiển tướng vây thành. Chu Tuấn sai Tôn Kiên đánh phía Nam Uyển Thành, Huyền Đức đánh cửa Bắc, Chu Tuấn đánh cửa Tây, chừa cửa Đông nhử cho giặc chạy. Tôn Kiên tự mình nhảy lên mặt thành trước tiên, vung đao chém luôn một lúc hai mươi tên giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy xuống hết. Triệu Hoằng thấy thế liền cầm giáo dài phi ngựa tới đâm. Tôn Kiên từ mặt thành phi thân xuống, cướp luôn cây giáo của Triệu Hoằng, rồi xông vào giết giặc. Bị binh Tôn Kiên hãm thành quá mạnh, Tôn Trọng kéo tàn quân chạy vụt ra cửa Bắc, bỗng gặp Huyền Đức kéo quân chận lại. Tôn Trọng không còn lòng dạ nào giao đấu nữa, vội lách mình qua đám loạn quân chạy trốn. Huyền Đức giương cung bắn theo một phát trúng Tôn Trọng nhào xuống ngựa chết tức thì. Bấy giờ, đại quân của Chu Tuấn thừa thế đánh ập vào chiếm thành, chém hơn một vạn thủ cấp của giặc. Quân giặc lớp chết lớp đầu hàng. Thế là một giải Nam Dương hơn mười quận được bình định. Chu Tuấn truyền lệnh ban sư hồi trào, vào thẳng Ngân Loan Điện ra mắt. Hán Vương truyền dọn tiệc khao thưởng quân sĩ và phong cho Chu Tuấn làm chức Xa Kỵ Tướng Quân, kiêm lãnh Hà Nam. Chu Tuấn dâng biểu xin phong chức cho Tôn Kiên và ba anh em Huyền Đức. Tôn Kiên vì có thân thế nên được phong chức Tư Mã, lãnh quân đi trấn nhậm liền. Còn ba anh em Huyền Đức chờ đợi rất lâu, mà không thấy phong thưởng gì hết, lòng lấy làm hổ thẹn, chẳng biết vì sao triều đình lại có chuyện bất công như vậy. Một hôm, ba anh em Huyền Đức ra đường dạo mát giải khuây, bỗng gặp xe của Quan Lang là Trương Quân đi ngang qua đó. Huyền Đức tỏ hết tâm sự mình cho Trương Quân nghe. Trương Quân nghe nói cả kinh, lập tức vào triều tâu: - Xưa những cuộc nổi loạn gây nên thường bởi những kẻ nịnh thần. Sở dĩ giặc Khăn Vàng tạo phản là vì lũ Thập Thường Thị khi quân, mua quan bán tước, kẻ có công không được thưởng, kẻ có tội không bị trừng phạt xứng đáng, làm mất lẽ công bằng. Vậy nay bệ hạ phải chém đầu hết chúng nó và ban bố cho dân chúng biết, thì lòng dân mới yên ổn. Bọn Thập Thường Thị liền tâu với vua là Trương Quân khi chúa. Vua khiến kẻ tả hữu đuổi Trương Quân ra. Được vua tín dùng, bọn Thập Thường Thị lại càng đắc ý bàn với nhau: - Đây chắc có kẻ nào có công dẹp giặc Khăn Vàng mà không được trọng thượng nên oán hận sanh ra chuyện ấy. Bây giờ chúng ta phải tìm chức nào nho nhỏ phong cho nó, để chúng nó an lòng, rồi sẽ tìm cách sa thải chúng cũng không muộn. Bởi lẽ đó nên Huyền Đức được phong làm Huyện úy tới huyện An Hỉ, thuộc phủ Trnng San, và phải phó nhiệm liền nội ngày hôm ấy. Huyền Đức được lịnh cho tất cả các nghĩa binh của mình được trở về làng, chỉ còn để lại vài mươi người tâm phúc, rồi cùng Quan, Trương thẳng đến huyện An Hỉ nhận việc. Trấn nhậm được bốn tháng, nhân dân nơi đây rất mến phục ba anh em Huyền Đức là người có nhiều lương tâm và đạo đức. Ngày kia, Huyền Đức bắt được chiếu chỉ của Triều đình phán rằng: "Tất cả những kẻ có công dẹp giặc Khăn Vàng được phong làm chức Huyện úy đều phải bị cách chức." Huyền Đức đoán biết mình thế nào cũng bị sa thải, nên đêm ngày thường bàn bạc với hai em chưa biết vì duyên cớ gì. Bỗng có Đốc Bưu di hành đến huyện. Huyền Đức ra thành nghinh tiếp, vừa thấy Đốc Bưu vào đến quán dịch, Đốc Bưu gọi Huyền Đức nói: - Huyện úy làm người thế nào mà xuất thân đó? Huyền Đức nói: - Tôi vốn là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương vì lúc nọ nghe giặc Khăn Vàng tạo phản nên ra tụ tập nghĩa quân giúp nước. Từ ở Trác quận tôi đã dẹp lớn nhỏ hơn ba mươi trận, vì vậy mà được chút ít công lao nên được phong làm chức Huyện úy nầy. Huyền Đức nói chưa dứt lời thì Đốc Bưu đã hét lớn: - Sao ngươi dám xưng là Hoàng Thân, lại còn hư báo công lao của ngươi nữa? Nay ta vâng lệnh triều đình đến đây để sa thải các tham quan, ô lại, ngươi có biết không? Huyền Đức nghe Đốc Bưu nói thế, vội vàng lui ra không dám cãi, trở về huyện bàn vớì các quan lại. Các quan lại bàn tính một hồi rồi mới nói với Huyền Đức. - Đốc Bưu là một đứa bất liêm. Nay nó làm oai như vậy là ý nó muốn nài hối lộ đó. Huyền Đức lắc đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi nói: - Ta lâu nay chẳng hề lấy của ai một đồng, một chữ nào, vậy tiền đâu mà đưa cho nó. Vả chăng, nếu có tiền ta cũng không thể làm được cái chuyện hèn hạ như vậy. Đốc Bưu thấy Huyền Đức tỏ vẻ không phục tùng ý muốn của mình, bèn bắt tất cả các quan lại buộc vu cho Huyện úy là người hà lạm của dân. Các quan đều khóc lóc xin cho Huyền Đức. Lúc ấy, Trương Phi cũng vừa đi đến, thấy có năm sáu ông già ngồi buồn trước quán dịnh khóc lóc. Phi liền kêu lại hỏi thăm duyên cớ, thì các ông già kia nói: - Đốc Bưu bắt ép bọn tôi khai cho Lưu Công là kẻ hà lạm, chúng tôi vì cảm mến Lưu công nên đã xin ba bốn phen mà chưa được. Nhân lúc Trương Phi vừa uống xong mấy chén rượu để giải buồn, nghe nói như vậy, lòng nổi nóng, liền nhảy vội xuống ngựa xông vào quán dịch, chạy thẳng đến công đường, thấy Đốc Bưu đang ngồi vểnh chân trên cao thét mắng các Huyện lại bị trói để nằm dưới đất. Trương Phi bước đến thét lớn: - Thằng khốn nạn kia! Ngươi biết ta là ai mà ngươi dám đến đây làm phách như vậy? Đốc Bưu chưa kịp nói nửa lời thì liền bị Trương Phi nhảy tới đá một đá vào quai hàm. Đốc Bưu đau quá, la lên một tiếng, nhào xuống đất. Chưa chịu thôi, Trương Phi nắm râu Đốc Bưu kéo đi xềnh xệch, dẫn thẳng đến huyện nha, trói vào cột cờ, rồi bẻ roi đánh Đốc Bưu một hồi nữa, đến gãy hết mấy chục cành roi liễu. Đốc Bưu chẳng biết làm sao, đau quá buộc lòng phải năn nỉ, nhưng Trương Phi không tha. Lúc ấy Huyền Đức đang ngồi một mình buồn bực, bỗng nghe có tiếng huyên náo liền hỏi kẻ tả hữu. Và bọn này thưa: - Trương tướng quân đang trói một người trước huyện nha mà đánh dữ lắm! Huyền Đức vội vã bước ra xem thì thấy người bị đánh là Đốc Bưu, ông ta thất kinh, chạy lại nắm tay Trương Phi kéo lại. Trương Phi nói với Huyền Đức: - Anh đừng cản ngăn. Thằng này là một đứa ăn cướp, không đánh cho chết để làm gì? Thấy Huyền Đức tới, Đốc Bưu năn nỉ: - Lưu công ơi! Xin cứu dùm tánh mớng tôi với. Huyền Đức vốn lòng nhân từ thấy vậy không cho Trương Phi đánh nữa. Quan Công đang đứng một bên, bước đến nói: - Đại ca đã lập được công lao rất lớn. Với công án ấy lẽ ra đại ca phải được trọng thưởng, thế mà đại ca chỉ được chức Huyện úy nhỏ mọn nầy. Đã vậy, Đốc Bưu lại còn đến đây đòi của hối lộ, làm nhục chúng ta nữa. Em nghĩ, không phải là chỗ để cho chim phụng hoàng nghỉ cánh, chỉ bằng giết quách Đốc Bưu cho đã giận rồi trả ấn, trở về làng tìm cơ lập nghiệp là hơn. Huyền Đức liền lấy ấn treo nơi cổ Đốc Bưu, và nói: - Cứ như cái tội nhũng lạm của dân cũng đủ cho chúng ta giết ngươi cho an lòng dân chúng, nhưng vì từ tâm, ta dung thứ cho ngươi đó. Ngươi hãy đem ấn này về giao nạp cho triều đình, và ăn năn hối cãi để khỏi ân hận sau nầy. Chúng ta đi đây. Khi Đốc Bưu được thả thì ba anh em Huyền Đức đi hết. Đốc Bưu quá tức giận, lén đi cáo với quan Thái Thú quận Dĩnh Châu, vu cáo cho anh em Huyền Đức mưu phản. Quan Thái thú Dĩnh Châu ra lệnh khắp các huyện tầm nã ba anh em Huyền Đức. Bấy giờ, ba anh em Huyền Đức dắt nhau qua Đới Châu ở với Lưu Khôi. Lưu Khôi thấy Huyền Đức là dòng dõi nhà Hán nên có cảm tình giấu nuôi trong nhà. Tới triều, bọn Thập Thường Thị lúc nầy lại lộng quuyền thái quá. Chúng dùng đủ cách tham ộ Những người nào phục tùng theo chúng thì được chức quyền, bằng trái lại thì đều bị chúng làm hại. Chúng lại sai người đi khắp quận huyện bắt những người nào có công dẹp giặc Khăn Vàng, được phong chức tước đều phải nạp lễ vật cho chúng, nếu không chúng tâu với vua sa thải ngay. Bởi lẽ đó, nên nhiều người liêm chính đã bỏ chức về làng làm dân, không chịu mang tiếng nhục. Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn là người có công lớn trong việc dẹp giặc Khăn Vàng, cũng bị bọn Thập Thường thị tâu với vua bãi chức. Vua lại phong cho nhóm nịnh thần như Triệu Trung làm chức Xa Kỵ Tướng quân, và hết thảy mười ba người trong bọn Trương Nhượng đều lãnh chức Liệt Hầu. Từ đó, việc triều chính càng ngày càng hư nát, triều thần lộn xộn, dân tình ly tán. Tới quận Trường Xa có tên Khu Tỉnh nổi loạn. - Ngư Dương có bè lũ Trương Cử, Trương Thuần làm phản. Trương Cử xưng Thiên tử, Trương Thuần xưng Đại Tướng Quân. Biểu văn hàng ngày cấp báo về triều như cánh bướm, nhưng bọn Thập Thường Thị nhẹm hết, không cho vua hay. Một hôm vua ngự Ở hậu viên, đang yến ẩm với bọn Thập Thường Thị bỗng có quan Giám Nghị Đại Phu Lưu Đào đi thẳng vào, quỳ trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi duyên cớ, Lưu Đào tâu: - Vận mạng thiên hạ có thể nguy biến trong một sớm một chiều, thế mà bệ hạ cứ ngồi yến ẩm với bọn yểm hoạn này ư? Vua nói: - Nước nhà đang lúc thái bình thanh trị, sao khanh lại nói là nguy biến? Lưu ựào tâu: - Bốn phương giặc giã nổi lên như ong, hiện đang xâm chiếm từ Châu nọ đến Quận kia! Cái tai vạ này cũng chỉ vì mười tên Thường Thị buôn quan bán chức, hại dân mà ra! Chúng dối vua loạn phép, cho nên những người ngay thẳng đều xa lánh triều đình. Cái nguy biến trước mắt, mong bệ hạ suy xét. Mười tên Thường Thị nghe vậy liền quỳ xuống trước mặt vua, trật mũ ra, tâu: - Quan đại thần đã không dung thì lũ hạ thần này phải chết. Xin bệ hạ mở lòng hiếu sinh cho chúng tôi được trở về làng cày ruộng, làm vườn, nguyện đem hết tài trí giúp nước nhà nuôi quân phá giặc. Tâu xong, tât cả mười tên Thường thị đều khóc rống lên rất thảm thiết, như sắp bị đem đi hành hình vậy. Vua giận mắng Lưu Đào: - Nhà ngươi cũng có đầy tớ, sao lại không dung kẻ hầu, người hạ của trẫm. Nói xong vua lại truyền võ sĩ bắt Lưu Đào đem chém. Lưu Đào kêu lớn: - Đầu thần rơi không đáng tiết, chỉ tiếc cho cơ nghiệp nhà Hán gây dựng trên bốn trăm năm, nay phút chốc phải tan tành. Võ sĩ trói Lưu Đào đem ra ngoài, sắp sửa hành hình, thì bỗng có một vị đại thần chạy đến quát lớn: - Không được hạ thủ. Để ta vào can vua đã! Võ sĩ thấy đó là quan Tư Đồ Trần Đam, nên chưa dám khai đao, còn chờ lệnh. Trần Đam đi thẳng vào hỏi vua: - Lưu Giám nghị có tội gì mà bệ hạ truyền đem chém? Vua Linh Đế nói: - Tội sàm báng cận thần và khi quân. Trần Đam nói: - Hầu hết dân chúng trong thiên hạ ai cũng muốn ăn sống mười đứa Thường Thị, sao bệ hạ lại kính nể chúng như cha mẹ? Không một tấc công lao mà sao đứa nào cũng được phong tước Hầu. Đã vậy, bọn Phong Tư là kẻ tư thông với giặc Khăn Vàng, toan làm nội phản, thế mà nay bệ hạ còn chưa tỉnh ngộ, mến chuộng bọn hoạn quan như thế sao? Linh Đế nói: - Phong Tư làm phản, việc ấy còn mù mờ chưa rõ hư thật. Còn như trong mười người Thường Thị há lại không có kẻ nào là trung thần sao? Trần Đam dập đầu dưới đất, nhất định can vua cho kỳ được. Vua nổi giận truyền võ sĩ trói lại đem ra hạ ngục cùng với Lưu Đào, chờ xét xử sau. Ngay đêm đó, bọn Thường Thị kéo nhau vào ngục giết chết hai vị trung thần này, rồi chúng lại giả chiếu vua phong Tôn Kiên làm Thái Thú Trường Sa, sai đi đánh Khu Tỉnh, bình định phiến loạn. Chưa đầy ba mươi ngày, Tôn Kiên đã dẹp yên, viết thiệp về triều cáo báo. Thế là vùng Giang Hạ được yên, Tôn Kiên được phong làm ý Trình Hầu, Lưu Ngu thì được phong làm U Châu Mục, lãnh quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử. Bấy giờ Lưu Khôi ở Đới Châu viết thơ tiến cử và bảo ba anh em Huyền Đức đến ra mắt Lưu Ngụ Lưu Ngu rất mừng, cử anh em Huyền Đức làm Đô úy, dẫn binh vào thẳng sào huyệt của giặc đánh phá kịch liệt hai ba ngày liền. Trương Thuần vốn là kẻ hung bạo hay chém giết, nên lòng quân sinh biến. Một tên đầu mục núp trong trướng lừa giết chết Trương Thuần rồi đem đầu ra ngoài nạp cho Huyền Đức. Trương Cử thấy tình thế nguy nan, nên tự tử chết luôn. Quân sĩ kéo ra đầu hàng hết. Ngư Dương bình đinh, Lưu Ngu dâng biểu tâu rõ công lớn của Lưu Bị. Triều đình xá cho Huyền Đức cái tội đánh Đốc Bưu và phong chức Hạ Mật Thừa, rồi thăng Cao Đường úy. Sau đó, Công Tôn Toản lại dâng biểu trần thuật công lao của Huyền Đức khi dẹp giặc Khăn Vàng trước kia mà tiến cử làm Liệt Bộ Tư Mã, lãnh chức Bình Nguyên Huyện Lệnh. Triều đình y tấu, Huyền Đức tới chấn nhậm Bình Nguyên, có đủ lương tiền, quân mã, ba anh em mới được thanh nhàn. Còn Lưu Ngu có công dẹp giặc được phong làm Thái úy. Năm Trung Bình thứ sáu, mùa hạ, tháng tư, vua Linh Đế đau nặng, bèn triều Đại Tướng Hà Tiến vào cung để thương nghị. Hà Tiến vốn con nhà hàng heo, nhân cơ hội em gái vào cung làm quý nhân, nhờ sanh được hoàng tử Biện, nên mới được phong làm Hoàng Hậu. Hà Tiến cũng nhờ đó mà nhậm được trọng chức. Vua lại lấy Vương Mỹ Nhân sanh đặng Hoàng tử Hiệp, vì thế Hà thái hậu ghen ghét dùng thuốc độc giết Vương Mỹ Nhân đi. Đổng Thái Hậu liền đem Hoàng tử Hiệp về cung riêng của mình để nuôi dưỡng. Đổng Thái Hậu là mẹ của vua Linh Đế, thường ngày khuyên vua lập Hoàng tử Hiệp làm thái tử. Vua cũng bằng lòng, ngặt vì đau nặng nên chưa tính đến việc ấy được. Trung Thường Nghị là Kiển Thạc biết việc ấy bèn vào tâu với vua: - Nếu bệ hạ muốn lập Hoàng tử Hiệp lên ngôi thì bệ hạ phải giết Hà Tiến thì sau này mới khỏi sanh hậu hoạn. Vua suy nghĩ rồi cho đòi Hà Tiến vào cung. Khi Hà Tiến vừa vào tới cửa cung thì gặp quan Tư Mã là Phan ân đón lại nói: - Ông chớ vào cung, Kiển Thạc âm mưu muốn giết ông đấy. Hà Tiến nghe nói thất kinh vội vã bước ra về thẳng tư dinh, lập tức mời các quan đại thần đến bàn bạc công việc. Ông nói: - Nay bọn hoạn quan ỷ thế, làm nhiều đều sàm nịnh, nếu chúng ta không tìm cách trừ hết bọn nó, thì chúng ta ắt không khỏi mang hậu họa. Hà Tiến vừa nói dứt lời, thì bỗng có một người bước đến, thưa: - Quyền thế của hoạn quan rất mạnh, khởi từ lúc vua còn nhỏ, chi nhánh trong triều rất nhiều, giết làm sao hết được, phỏng như chúng ta không làm nổi để lộ cơ mưu ắt không khỏi bị diệt tộc. Hà Tiến quay mặt sang nhìn, thì thấy người ấy là Tào Tháo, ông nổi giận nạt lớn: - Ngươi là người tiểu bối, biết gì mà dám bàn đến. Trong lúc mọi người còn đang bàn bạc thì Phan An chạy đến nói: - Vua đã băng hà rồi, nhưng Kiển Thạc lại thương nghị với bọn Thập Thường Thị không cho phát lộ ra ngoài. Chúng nó muốn triệu Hà Quốc Cựu vào cung để diệt trừ hậu họa, hầu lập Hoàng tử Hiệp lên làm vua. Phan An nói vừa dứt lời thì quả có chiếu triệu đòi Hà Tiến vào cung. Tào Tháo thấy vậy bước ra nói: - Hôm nay hãy lo tôn tân quân trước đã, rồi sẽ tính kế trừ lũ nịnh thần sau. Hà Tiến nói: - Như vậy ai vì ta, vì xã tắc mà lo việc chánh quân và việc trừ lũ nịnh hay không? Bỗng có người từ góc trái bước ra, thưa: - Xin cho tôi lãnh năm ngàn quân đến tới cung phá cửa lập tân quân và bắt tất cả bọn Thập Thường Thị mà giết cho rồi. Hà Tiến xem lại người nói đó là Tư Đồ Viên Thiệu, tự là Bôn Sồ, hiện đang giữ chức Tư Đồ Huyện úy. Hà Tiến mừng rỡ, vội vã điểm năm ngàn quân giao cho Viên Thiệu. Viên Thiệu nai nịt hẳn hòi dẫn năm ngàn quân Ngự Lâm kéo thẳng vào cung. Còn Hà Tiến thì cùng với các quan đại thần như: Hà Ngung, Tuân Nhu, Trịnh Thái v. V.. cộng cả thảy hơn ba mươi người, đồng kéo thẳng vào trào, lập Thái tử Biện lên ngôi Hoàng đế. Viên Thiệu dẫn quân đi thẳng vào cung tìm bắt Kiển Thạc, và nã tróc bọn Thập Thường Thị. Kiển Thạc hay tin khiếp vía, vội vã nhảy ra ngự huê viên mà trốn, nhưng bất thời lại gặp Trung Thường Thị là Quách Thắng thấy được đâm một kiếm chết tốt. Bọn Trương Nhượng biết nguy đã đến nơi liền chạy vào cung van cầu Hà Thái Hậu: - Kẻ lập mưu hãm lại tướng công là Kiển Thạc, nay Kiển Thạc đã chết rồi, còn chúng tôi là kẻ vô can, mong Thái hậu mở lòng nhân che chở cho. Hà Thái hậu nói: - Các người đừng sợ nữa, để ta bảo hộ cho. Dứt lời, Hà Thái hậu liền triều Hà Tiến đến nói: - Anh em ta lúc trước hàn vi, nếu không nhờ bọn Trương Nhượng giúp đỡ một tay thì đâu có quyền cao lộc cả như ngày hôm nạy Vậy anh nên nghĩ lại vị tình mà dung tha bọn Trương Nhượng là phải hơn. Hà Tiến ngẫm nghĩ giây lâu rồi trở ra nói với các quan: - Kiển Thạc là một tên bạo phản, nay hắn đã đền tội rồi, còn các người khác ta có thể dung tha được, chớ nên sát hại chúng làm chi. Viên Thiệu nói: - Đốn cây mà không nhổ tận rễ thì làm sao khỏi bị nứt chồi. Hà Tiên nói: - Ý ta đã cương quyết như vậy, ngươi chớ có nhiều lời vô ích. Các quan nghe Hà Tiến nói thế, ai nấy đều hậm hực lui về dinh. Sáng hôm sau Hà Thái hậu giáng chỉ phong Hà Tiến làm Tham Lục Thượng Thơ, còn các quần thần cứ đẳng gia phong một trật. Công việc làm của Hà Tiến khiến cho Đổng Thái Hậu căm tức, bèn kêu bọn Trương Nhượng vào cung nói: - Em gái hắn trước kia chính nhờ ta tiến cử nó mới được vua yêu dùng đến ngày hôm nạy Hôm nay con trai của nó được nối ngôi Hoàng đế, thế lực trong ngoài của nó quá mạnh, như vậy bọn chúng ta có ngày e phải lâm hại. Trương Nhượng nghe Đổng Thái Hậu than thở, liền bày mưu: - Bây giờ Nương Nương làm sao chưởng chấp uy quyền, Cựu Đổng Trọng và phong thêm chức cho chúng tôi thì một ngày kia chúng tôi có cơ hội cứu nguy tình thế. Đổng Thái Hậu rất mừng khen Trương Nhượng có mưu cao. Ngày thứ Đổng Thái Hậu thiết trào rồi giáng chỉ phong cho Hoàng tử Hiệp làm Trần Lưu vương, Đổng Trọng làm Biên Kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng đều được gia thêm chức và cùng dự việc trào chính. Hà Thái Hậu thấy Đổng Thái Hậu lộng quyền trong lòng sanh nghi, bèn thiết yến diện trong cung rồi thỉnh Đổng Thái Hậu phó yến. Khi dự tiệc nửa chừng, Hà Thái Hậu đứng dậy tay bưng chén rượu nói với Đổng Thái Hậu: - Chúng ta là phận đàn bà mà dự đến việc trào chính chẳng khác nào chúng ta đã đi ngoài phận sự. Những gương xưa còn rành, Lữ Hậu cũng vì nắm trọn quyền mà cả dòng họ bị tru lục, và còn biết bao nhiêu việc tai hại khác. Chúng ta hãy noi gương đó mà tránh đi những cái dữ để khỏi ân hận ngày sau Đổng Thái Hậu giận dữ mắng lớn: - Mi ỷ thế lực của con mi làm vua mi dám loạn ngôn như vậy. Tội ngươi tra thuốc giết Vương mỹ nhân là một cựu thù ta chưa nói đến đó thôi. Hà Thái Hậu thấy Đổng Thái Hậu nói quá lời, lòng nổi giận cũng mắng lại: - Ta lấy lời hơn lẽ thiệt để bàn bạc, sao mi lại dám xúc phạm đến danh dự của ta? Hai bên không ai chịu nhịn ai, cứ mắng đùa với nhau không kể gì đến danh dự. Bọn Trương Nhượng hay tin, vội chạy đến can ngăn hết lời Đổng Thái Hậu mới chịu về cung. Hà Thái Hậu đêm ấy không ngủ được, bèn gọi Hà Tiến đến tỏ bày việc ấy. Rớng sáng Hà Tiến một mặt nhóm họp đình thần buộc Đổng Thái Hậu phải rời khỏi cung ra ở phủ Hà Giang, mặt khác vây nhà Biên Kỵ tướng quân Đổng Trọng. Đổng Trọng liệu thế khó thoát được liền cầm đao tự vận nơi hậu dinh. Bọn Trương Nhượng thất vía không biết chổ nào nương tựa vì thế lực của Đổng Thái Hậu đã tiêu tan trong phút chốc, bèn đem tiền bạc vàng lụa đến lo lót cho người em Hà Tiến là Hà Miêu nói với Hà Thái Hậu để được toàn mạng. Nhờ đó mà bọn Thập Thường Thị lại vẫn được dung dưỡng và giữ chức quyền như cũ. Việc triều chính đã tạm yên, Hà Tiến còn sợ những hậu họa nên sai người đến Hà Giang tìm cách đánh thuốc độc Đổng Thái Hậu. Cách mấy ngày sau có tin Đổng Thái Hậu bị ngộ độc mà chết, Hà Tiến bèn dạy đem xác Đổng Thái Hậu về chôn nơi Vương Lăng. Công việc ấy thấu tai đến lũ nịnh thần nên nhiều tiếng đồn làm cho Viên Thiệu hay được. Viên Thiệu liền vào nói lại với Hà Tiến: - Tôi có nghe tiếng đồn do bọn Thập Thường Thị rao ra rằng tướng công đã giết Đổng Thái Hậu. Nếu để chúng gièm pha như vậy e không lợi, chi bằng nhân cơ hội nầy mà giết chết bọn chúng đi thì mới khởi sợ sanh ra hậu hoạn. Hà Tiến nghe được việc ấy, ngày đêm còn đang suy đi tính lại để tìm cách diệt trừ bọn Thập Thường Thị, thì việc này bọn Trương Nhượng hay được. Nhưng thế yếu không biết làm sao, bọn Trương Nhượng lại đem vàng bạc thiệt nhiều đến lo lót cho Hà Miêu một lần nữa để vào nói Hà Thái Hậu. Hà Miêu vào cung tâu với Hà Thái Hậu: - Bọn Thập Thường Thị lâu nay rất có công với triều chính, nay vì vô cớ tướng công Hà Tiến muốn diệt trừ họ e sanh ra rối loạn triều thần. Hà Thái Hậu nghe nói khiến quân triệu Hà Tiến vào cung bảo: - Tiên Đế mới băng hà; việc triều chính còn nhiều rối lắm, không nên có ý làm hới các cựu thần mà sanh ra rối loạn. Hà Tiến là kẻ không cương quyết nên nghe Hà Thái Hậu nói như vậy cũng phải vâng lệnh lui ra thuật lại ý kiến của Hà Thái Hậu cho Viên Thiệu nghe. Viên Thiệu nói: - Lực lượng chúng ta bây giờ đâu có sợ bọn chúng. Nếu tướng công có nghi ngờ triệu tập các anh hùng hào kiệt trấn giữ khắp châu, quận rồi trở về cung mà giết sạch bọn chúng nó đi thì có lo gì bọn chúng phản ứng. Hà Tiến nói: - Kế ấy rất hay. Rồi, ông tính phát các hịch văn triệu hồi các trấn về hợp sức. Xảy có người bước tới cản ngăn: - Theo ý ngu hạ thì việc ấy tướng công không nên làm, và người xưa có câu: "Che mắt mà bắt chim én". Việc nhỏ mọn như thế mà còn phải dùng đến mưu chước huống chi việc quốc gia đại sự. Nay Tướng công chấp chưởng binh quyền, muốn làm gì chẳng được mà Tướng Công phải tính như vậy. Hơn nữa anh hùng khắp nơi, mỗi người có đều có chí hướng riêng, phỏng như Tướng Công triệu họ về mà có một số người không tuân lệnh có phải Tướng Công cầm giáo mà lại trở cán cho thiên hạ không? Hà Tiến nghe nói cười lớn và nói: - Ngươi là kẻ hủ nho, kiến thức bao nhiêu mà dám cùng bàn đến đại sự. Hà Tiến nói vừa dứt lời lại có một kẻ vỗ tay cười to, nói: - Việc nhỏ như vậy mà cần chi phải bàn đi bàn lại cho thêm mệt. Mọi người nghe nói quay lại thì thấy người ấy là Tào Tháo.
Chương 3: Hồi 3 Bấm để xem Nhắc lới Tào Tháo thấy Hà Tiến muốn gọi binh mã các nơi về triều, thì nói rằng: - Xưa nay những bọn gian nịnh thì đời vua nào chẳng có, ấy là việc thường sự trong đời. Nhưng vì Vua gần đây quá sủng ái, cho chúng nó giữ quyền bính mà không nỡ tước bỏ, nên mới đến nỗi này. Còn muốn trừ chúng nó thì chỉ cần trị tội đứa cầm đầu là đủ, và chỉ cần một tên quản ngục bắt giam cũng xong. Việc gì phải triệu quân ngoài ùn ùn kéo về? Nếu cố giết hết bọn chúng, việc ắt tiết lộ. Tôi e rằng thất bại đấy. Hà Tiến bực tức gắt: - Mạnh Đức cũng có một ý khác trong bụng nữa sao? Tào Tháo bỏ ra ngoài, nói một mình: - Kẻ làm cho thiên hạ loạn, chính là thằng Tiến. Hà Tiến bèn ngầm sai sứ đem mật chiếu, ngày đêm đi tới các Trấn.. Đây nhắc lới Tiền Tướng Quân Ngao Lương Hầu, Tây Lương Thứ Sử là Đổng Trác vì trước kia đánh giặc Khăn Vàng không có công lao gì, bị thua luôn Trương Giác mấy trận nên triều đình triệu về buộc tội. Nhưng Trác đã đem của đút lót cho bọn Thập Thường Thị nên khỏi tội. Sau lại khéo luồn cúi bọn quyền quý trong triều nên Trác lới được thăng quan vùn vụt: Từ Trung Lang Tướng, nhảy lên Tiền Tướng Quân, Ngao Hương Hầu, Tây Lương Thứ Sử! Từ lúc trấn thủ ở ngoài, trong tay thống lãnh hơn hai mươi vạn quân tới Tây Lương, Đổng Trác đã có lòng phản nghịch, nhưng chưa dám. Lúc ấy, lại được chiếu triệu về, thật là dịp may hiếm có, Đổng Trác mừng như cọp gặp mồi, liền điểm binh mã, lục tục kéo về triều. Trác cử con rể là Ngưu Phụ làm Trung Lang Tướng ở lại trấn đóng Thiểm Tây, còn mình tự dẫn Lý Thôi, Quách Dĩ, Phàn Trù, Trương Tế đều nhắm Lộc Dương tấn phát. Mưu sĩ Lý Nhu, cũng là con rể của Đổng Trác, bàn rằng: - Nay mặc dầu tuy có chiếu triệu, song việc nầy xem ra có hơi ám muội, nếu muốn nên việc lớn thì phải sai người dâng biểu làm cho danh chánh ngôn thuận thì mới xong. Đổng Trác nghe Lý Nhu nói thế, cười vang: - Mưu sĩ thật đáng là kẻ tài ba xuất chúng. Nói rồi, Đổng Trác lập tức làm sớ như sau: "Nay trộm nghe triều đình lộn xộn, dân chúng oán than bởi lũ Thập Thường Thị ỷ quyền thế, hiếp chế vua nên mới sanh ra như vậy. Giết rắn không nên chừa độc, đốn cây phải bại cho tận gốc. Mổ nhọt tuy đau nhưng một lần lành bệnh còn hơn nuôi dưỡng bệnh hoạn trong mình. Nay Hạ thần xin khua chiêng gióng trống, đem binh về Lộc Dương quyết diệt trừ bọn Trương Nhượng để cứu nguy cho xã tắc, cho thiên hạ được an, ấy là vạn hạnh." Hà Tiến tiếp được biểu ấy, vội vã triệu tập các quan văn võ đến thương nghị. Quan Thị Ngự Sử là Trịnh Thái can rằng: - Đổng Trác là giống sài lang, nếu để hắn về triều, ắt nó sẽ ăn thịt người. Hà Tiến nhìn Trịnh Thái cười: - Ngươi lấy chi làm bằng cớ. Công việc lớn mà đa nghi như thế thì bao giờ mới thành sự được. Lư Thực thấy vậy, bước ra can: - Tôi vốn biết Đổng Trác là hạng mặt người mà lòng thú dữ, một khi vào cấm đình sẽ gây họa hoạn. Phải mau mau chận hắn lại, đừng cho vào, thì mới được yên. Các quan văn võ đều cố can ngăn Hà Tiến, nhưng Tiến vẫn khăng khăng một mực không nghe. Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà về. Các quan đại thần thấy vậy, cũng lần lượt bỏ đi quá nửa. Hà Tiến lại cho người đi đón Đổng Trác tới Dẵn Trì. Trác đóng quân lại, không tiến nữa. Bọn Trương Nhượng hay được việc ấy, liền bàn với nhau: - Ấy là mưu của Hà Tiến. Chúng ta hiện bây giờ như cá nằm trong chậu, nếu chẳng lo ra tay trước, đợi nước đến trôn mới nhảy thì sẽ bị chết ba họ. Liền cho năm mươi tên đao phủ mai phục ở cung Trường Lộc, phía trong điện Gia Đức, rồi kéo cả bọn vào quỳ trước mặt Hà Thái Hậu, khóc lóc thưa: - Nay Đại Tướng quân phát chiếu triệu quân ngoài về kinh để giết lũ thần. Vậy mong Thái Hậu mở lòng từ bi, cứu mạng cho. Hà Thái Hậu nói: - Việc ấy bọn ngươi hãy đến phủ Đại Tướng quân mà tạ tội để cho người cứu vớt cho. Bọn Trương Nhượng vừa khóc vừa nói: - Nếu lũ Hạ thần đem thân tới Tướng phủ, ắt sẽ nát thịt tan xương ngạy Xin Thái Hậu thương chúng tôi mà tuyên triệu Đại Tướng quân vào cung mà phủ dụ. Nếu bấy giờ, Đại Tướng quân không nghe nữa, thì lũ thần xin chịu chết trước mặt Thái hậu. Thái hậu liền giáng chiếu đòi Hà Tiến vào. Tiến được chiếu, vừa muốn ra đi thì Trần Lâm can: - Chiếu của Thái hậu đây ắt là mưu của lũ Thập Thường Thị, thiết nghĩ không nên vào. Vào ắt mang họa. Tiến nói: - Rõ ràng là chiếu của Thái hậu đây, sợ tai vạ gì nữa? Viên Thiệu cũng xen vào: - Nay cơ mưu đã bại lộ, Đại Tướng quân còn vào cung làm gì? Tào Tháo nói: - Hãy đòi hết lũ Thập Thường Thị ra đây rồi Đại Tướng quân sẽ vào thì chẳng can chi. Nhưng Hà Tiến gạt đi: - Đó là ý kiến trẻ con. Ta nắm việc thiên hạ trong tay, lũ Thập Thường Thị dám động đến mình ta sao? Các người đừng nghi ngờ như thế! Viên Thiệu nói: - Nếu Đại Tướng Quân muốn vào thì chúng tôi xin dẫn giáp sĩ theo hộ tống, để phòng bất trắc. Nói rồi, Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người nai nịt hẳn hòi, đem binh khí theo mình, lới tuyển năm trăm tinh binh, giao cho em Thiệu là Viên Thuật chỉ huỵ Viên Thuật nai nịt gọn ghẽ, đem binh mai phục nơi Thanh Tỏa. Còn Tháo và Thiệu cầm gươm hộ tống Tiến vào trước cung Trường Lộc. Vừa đến cửa cung thì có Hoàng Môn Quan truyền chỉ rằng: - Thái Hậu chỉ vời một mình Đại Tướng quân. Ngoài ra, không ai được vào. Thế là Thiệu và Tháo bị cản lới ngoài cửa. Còn Hà Tiến cứ ngang nhiên vào không có chút e ngại.. Khi đến trước điện Gia Đức thì bỗng bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê xong ra đón chặn, miệng hô tả hữu vây chặt. Trương Nhượng lớn tiếng mắng: - Bớ Hà Tiến! Đổng Thái Hậu có tội gì mà mày nỡ phục độc giết hại? Ngày lễ táng vị Quốc Mẫu, sao mày giả đau không thèm ra dự? Mày chỉ là đồ con nhà hàng thịt hèn hạ, nhờ có bọn tao tiến cử lên Thiên Tử, mày mới được tôn quý đến mực này chứ! Thế mà mày đã không nghĩ đến báo đáp thì thôi, sao lới còn mưu hại bọn tả Mày chửi bọn ta là đồ ô trọc, vậy thì ai là mặt thanh cao? Bây giờ Hà Tiến mới biết nguy, vội tìm lối thoát nhưng các cửa cung đều đóng chặt. Hà Tiến chưa biết xử trí cách nào, đã bị phục quân đổ ra chém Tiến một đao đứt làm hai đoạn. Người sau có thơ rằng: Vận Hán lâm nguy, khiến giữa trào, Ngu như Hà Tiến nắm quyền cao. Khù khờ chẳng chịu nghe can gián, Mắc nạn trong đền, chết dưới đao. Bên ngoài Viên Thiệu, Tào Tháo đứng đợi mãi không thấy Hà Tiến trở ra, trong lòng sanh nghi. Viên Thiệu bèn hô lớn: - Mời Đại Tướng quân lên xe trở về! Bỗng bọn Trương Nhượng xách thủ cấp của Hà Tiến ném qua mặt tường ra ngoài, rồi lên tiếng tuyên dụ: - Đứa ngịch thần Hà Tiến mưu phản, đã bị giết rồi, còn tất cả bọn a tòng đều được tha thứ. Nghe nói, Viên Thiệu đùng đùng nổi giận, thét lớn: - Bọn yêm hoạn dám mưu sát đại thần! Ai muốn tru diệt ác đảng, phò xã tắc, hãy tới đây trợ chiến. Bộ tướng của Tiến là Ngô Khuông liền nổi lửa đốt cửa Thanh Tỏa. Viên Thuật liền dẫn binh sấn vào trong cung, hễ gặp tên yêm hoạn nào là giết liền, chẳng kể lớn nhỏ già trẻ. Viên Thiệu, Tào Tháo cũng vung gươm, chém khóa phá cửa, xông vào trong cung, lại gặp bọn Triệu Trung, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng toan chạy, liền đuổi đến Thúy Hoa Lâu, rồi bằm thây bọn nầy nát như tương. Lúc ấy, trong cung đình lửa cháy ngất trời. Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm bốn tên lập tức băng mình theo khói lửa, ép Thái hậu, Thiếu Đế, và Trần Lưu Vương ra phía nội tỉnh, theo lối sau, chạy về Bắc Cung. Nói về Lư Thực tuy đã bỏ quan tước, nhưng cũng còn ở tại triều, lúc bấy giờ nghe trong cung có biến, liền mặc giáp cầm thương, chạy tới chờ ở dưới lầu. Vừa gặp Đoàn Khuê đem Hà Thái Hậu chạy tới, Lư Thực thét lớn: - Nghịch tặc! Mày bức bách Thái Hậu đi đâu? Khuê quay đầu chạy trốn. Hà Thái Hậu liều nhào qua cửa sổ nhảy ra, được Lư Thực cứu thoát. Ngô Khuông chém giết tới nội đình thì gặp Hà Miêu cầm gươm chạy ra. Khuông hô lớn: - Thằng Miêu đồng mưu hại anh, hãy giết nó đi! Quân sĩ đồng thanh hô theo: - Mau chém thằng giặc phản anh! Miêu toan chạy, nhưng bốn mặt quân vây kín, băm xác ra như bùn. Viên Thiệu lới sai quân sĩ chia nhau lùng bắt các gia thuộc của mười tên Thường Thị, bất luận lớn nhỏ đều giết hết. Lúc ấy, tất cả những người không có râu, đều bị nghi là gia quyến của Thập Thường Thị, nên bị giết lầm vô số. Còn, Tào Tháo thì lo chữa lửa trong cung, cho mời Thái Hậu về triều để nhiếp chánh việc nước. Mặt khác, Tháo sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng để tìm vua Thiếu Đế. Nói về Trương Nhượng, Đoàn Khuê cướp Vua và Trần Lưu Vương, băng qua khói lửa, suốt đêm chạy không nghỉ ra núi Bắc Mang. Vào khoảng canh ba, bỗng nghe mặt sau có tiếng quân reo ó vang trời, một đoàn binh mã đuổi tới. Thì ra là quan Trung Bộ Duyện Lại ở Hà Nam là Mẫn Cống. Cống phóng ngựa lên chẹn đường, thét lớn: - Phản thần chớ chạy! Có ta đến để bắt chúng bây đây! Trương Nhượng hoảng vía, biết đã đến nước cuối cùng không thể nào trốn thoát được nữa, liền liều mạng nhảy xuống sông tự tử. Còn Vua và Trần Lưu Vương bơ vơ một mình, chẳng biết việc hung kiết thế nào, nên không dám lên tiếng. Cả hai dắt nhau nép mình nơi bờ sông, trong đám cỏ gai gần đấy. Mẫn Cống không thấy Vua đâu, bèn phân quân đi tứ tán kiếm tìm, nhưng rốt cuộc không thấy, đành phải kéo nhau trở về. Còn Vua và Trần Lưu Vương núp đó chờ cho đến đầu canh tư, thấy bốn bề vắng vẻ mới dám bò ra. Đêm ấy, sương xuống như mưa, hai người lạnh lẽo đói khát, buồn khổ ôm nhau mà khóc. Nhưng lại sợ có người hay được nên không dám khóc to. Trần Lưu Vương nói vại Vua: - Chốn nầy không thể ở lâu được, phải đi nơi khác gấp, mới sống được. Thế là Vua và Trần Lưu Vương lấy chéo áo buộc lới vại nhau cho khỏi lạc, rồi mò mẫm lên mặt đê, gai góc đây đất, cố mà len chân, nhưng bóng tối dầy đặc không nhìn thấy đường lối gì cả. Trong lúc đang lo sợ, bỗng có hàng ngàn đom đóm tụ tập lới, chiếu tỏa sáng như sao sa trước mặt Vua. Thấy vậy, Trần Lưu Vương nói: - Hoàng huynh ơi, đây là trời giúp anh em ta! Liền theo ánh sáng đom đóm mà đi, dần dần tìm thấy con đường. Tới canh năm thì chân đau quá, không thể đi được nữa, thấy bên chân núi có một gò cỏ cao, Thiếu Đế và Trần Lưu Vương đành tạm ẩn vào trong gò ấy. Gò này nằm ngay phía sau một trang viện. Trang chủ đêm ấy nằm mộng thấy có hai bóng mặt trời sa xuống đồng cỏ sau nhà, liền giật mình thức giấc, vội mặc áo ra ngoài, nhìn ngó bốn phía, thấy trên gò phía sau trang có hồng quan rực trời. Trang chủ lòng hoang mang kinh lạ, vội tới xem thì thấy có hai thiếu niên nằm trong đám cỏ, bèn hỏi: - Hai cậu là con nhà ai? Thiếu Đế lo sợ, không dám nói gì. Trần Lưu Vương trỏ vào anh mà đáp: - Đây chính là đương kim Hoàng đế, vì bị bọn Thập Thường Thị làm loạn nên phải lánh mình nơi đây. Còn ta là Hoàng đệ Trần Lưu Vương. Trang chủ nghe nói thất kinh, vội sụp xuống đất lạy hai lạy, rồi thưa: - Hạ thần tên là Thôi Nghị, em của quan Tư Đồ Thôi Liệt, nhân vì bọn Thập Thường Thị buôn quan bán tước, ghét người hiền, nên Hạ thần mới buồn lòng về ẩn dật nơi đây. Nói xong phò Vua về nhà dâng rượu thịt cho vua dùng đỡ đói. Nói về Mẫn Cống đuổi theo Đoàn Khuê, khi trời hừng sáng thì bắt được được Đoàn Khuê, liền cật vấn: - Thiên tử ở đâu? Khuê khai rằng khi chạy tới nửa đường thì lạc mất, không biết Vua đi về phía nào nữa. Mẫn Cống liền giết Đoàn Khuê, cắt lấy đầu, treo dưới cổ ngựa, rồi chia quân đi bốn mặt tìm kiếm. Còn Mẫn Cống thì một mình một ngựa, lần đi hỏi dò. Bỗng Cống đi tới nhà Thôi Nghị. Nghị ra đón, thấy một chiếc thủ cấp treo lủng lẳng trên cổ ngựa, liền hỏi duyên cớ. Cống thuật lại rõ ràng. Thôi Nghị mới dẫn Cống vào ra mắt Vụa Chúa tôi cùng khóc. Mẫn Cống tâu: - Một ngày không thể thiếu Vụa Xin Bệ Hạ hãy hồi triều. Bấy giờ nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, để riêng Vua ngự. Trần Lưu Vương phải cưỡi chung ngựa với Mẫn Cống. Đi được vài dặm gặp được Tư Đồ Vương Doãn, Thái úy Dương Bưu, Tả Quân Hiệu úy Thuần Vu Quỳnh, Hữu Quân Hiệu úy Triệu Manh, Hậu Quân Hiệu úy Bảo Tín, Trung Quân Hiệu úy Viên Thiệu cùng một đoàn khoảng trăm người ngựa đến nghinh tiếp thánh giá. Mừng mừng tủi tủi, Vua tôi đều khóc. Trước hết, các quan sai đem thủ cấp Đoàn Khuê về bêu ngoài cửa thành làm lệnh. Rồi chọn ngựa tốt để Thiếu Đế và Trần Lưu Vương ngự, cùng rước về kinh. Trước đó ít lâu, trẻ con ở Lộc dương thường hát mấy câu đồng dao rằng: Đế không ra đế, Vương chẳng phải Vương. Ngàn xe vạn ngựa, Chạy đến Bắc mang. Tức là điềm sau này đế bị truất làm Vương, Vương được lên ngôi đế. Đến bấy giờ biết ứng nghiệm vào việc đó. Xa giá đi chưa được vài dặm, bỗng đàng xa có tiếng trống vang lừng, tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, rồi một đoàn binh mã ào ào kéo đến. Bá quan đều thất sắc. Vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thét hỏi: - Binh mã của ai đấy? Từ dưới bóng ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra, lớn tiếng hỏi lại: - Thiên tử đâu? Vua càng sợ, không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra, nớt rằng: - Nhà ngươi là ai? Tướng ấy đáp: - Thứ Sử Tây Lương là Đổng Trác đây. Trần Lưu Vương gằn giọng hỏi: - Ngươi đến đây bảo giá hay cướp giá? Thấy vẻ mặt oai nghiêm của Trần Lưu Vương, Đổng Trác khiếp sợ, thưa: - Hạ thần đến đây để bảo giá. Trần Lưu Vương hạch rằng: - Đã tới hộ giá, vậy Thiên Tử ngồi kia, sao ngươi không xuống ngựa mà thi lễ? Đổng Trác sợ hãi, lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên đường, miệng tung hô "vạn tuế". Trần Lưu Vương lại lấy lời ngọt ngào mà phủ úy Đổng Trác. Từ đầu chí cuối, lời lẽ đường hoàng, không ngập ngừng lầm lỡ một tiếng nào. Đổng Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và từ đó, Trác đã có ý định phế Thiếu Đế mà lập Trần Lưu Vương lên làm vua. Hôm ấy, các quan phò Thiếu Đế về cung ra mắt Hà Thái Hậu. Mẹ con khóc lóc với nhau, mọi người đều ứa lệ. Khi kiểm điểm lới trong cung, không thấy cái ấn ngọc "truyền quốc" ở đâu nữa! Bấy giờ Đổng Trác đem binh đóng ngoài thành. Ngày ngày dẫn giáp sĩ cưỡi ngựa vào thành, hoành hành khắp phố xá, chợ búa. Nhân dân trăm họ lo sợ, hoang mang. Trác lại ra vào tự do nơi chốn cung đình, không kiêng kỵ gì hết. Quan Hậu Quân Hiệu úy là Bảo Tín tới bảo Viên Thiệu: - Đổng Trác ắt manh tâm làm loạn, nên kíp trừ đi. Viên Thiệu nói: - Triều đình đã bị hoang mang, nay vừa mới được yên, chớ nên khinh động. Bảo Tín lới tới gặp Vương Doãn để bàn về việc ấy. Doãn cũng nói: - Hãy thong thả, để tính kỹ xem đã. Bảo Tín thấy tình thế như vậy, liền bỏ triều đình, kéo hết quân bản bộ vào núi Thái Sơn. Nói về Đổng Trác lại đi chiêu dụ bọn bộ Hạ anh em Hà Tiến. Bao nhiêu binh mã của họ Hà đều về tay Trác hết. Ngày kia, Đổng Trác bàn riêng vội hỏi Lý Nhu: - Ta muốn phế bỏ Vua xuống mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi có được chăng? Lý Nhu nói: - Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên thừa thời cơ mà làm gấp đi, nếu để chậm e sinh biến. Ngày mai hãy triệu tập bá quan tới điện ôn Minh trong vườn, nói rõ việc phế lập. Kẻ nào không nghe theo, cứ chém đầu. Lấy quyền uy mà làm, kế sách hiện tới phải thế mới xong. Đổng Trác nghe nói, lòng mừng khấp khởi. Qua hôm sau, khiến quân bày yến tiệc nơi vườn ôn Minh và mời tất cả các quan đại thần đến đó để phó hội. Các quan lúc nầy đều sợ Đổng Trác, nên không có ai dám từ chối. Trác để cho các quan tới đông đủ rồi mới cỡi ngựa thẳng đến trước cửa viên mới chịu xuống ngựa, lại mang gươm vào tiệc. Uống vừa đặng vài tuần rượu, Trác ra lệnh ngừng rót, im tiếng nhạc, rồi lớn tiếng nói: - Hôm nay ta mời các quan đến đây với mục đích là bày tỏ một ý kiến. Bá quan ai nấy cũng đều lắng tai nghe, Trác nói tiếp: - Thiên tử là chúa tể muôn dân, nếu không có uy nghi xứng đáng, không thể phụng sự tông miếu, xã tắc được. Nay đức Kim Thượng là kẻ nhu nhược không đáng mặt cầm quyền chấp chánh. Còn Trần Lưu Vương vốn là bậc thông minh, hiếu học, có đủ tài đức để trị dân, đáng mặt kế vị ngôi cả. Vậy ý ta muốn phế Vua, mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi báu, chẳng hay ý các quan đới thần nghĩ như thế nào? Các quan đại thần nghe nói đều im lặng, chưa ai dám nói gì, bỗng có một người đứng dậy, xô ghế bước ra nói lớn: - Không được! Không được! Ngươi là hạng người gì mà dám làm đại ngôn như thế? Vả chăng đức Kim Thượng là con trưởng của Tiên Đế, sửa trị ngôi trời là lẽ phải, vả lại Người cũng chưa có việc gì lỗi lầm thì sao ngươi dám nghĩ đến chuyện phế lập? Ngươi muốn mưu đồ soán nghịch chăng? Các quan chăm chú nhìn ra người ấy là quan Thứ Sử Kinh Châu Đinh Nguyên, Trác nổi giận nạt lớn: - Nơi đây nếu có kẻ nào nghịch ý ta thì chắc không còn tánh mạng. Cả tiệc rượu ai nấy nhao nhao, còn Đổng Trác cầm gươm toan bước tới chém Đinh Nguyên. Lúc ấy, Lý Nhu đứng thấy sau lưng Đinh Nguyên có một người khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tay cầm một cây "Phương thiên họa kích", trừng trừng con mắt mà nhìn Đổng Trác. Nho biết việc chẳng xong, liền bước đến giả vờ can Đổng Trác: - Hôm nay trong yến ẩm không nên đem việc nước ra bàn, vậy xin để ngày mai cũng chẳng muộn. Các quan cùng khuyên giải Đinh Nguyên, nên Đinh Nguyên xô ghế bỏ ra về. Đổng Trác tay vẫn cầm kiếm, quay lại hỏi các quan: - Lời ta nói có hợp công đạo hay không? Lư Thực bước ra, nghiêm nghị nói: - Ông nói sai rồi. Việc phế lập vua phải có duyên cớ. Xưa vua Thái Giáp vì bất minh nên ông Y Doãn mới đuổi ra Đồng cung. Xương Ấp Vương lên ngôi mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba mươi điều ác, nên ông Hoắt Quang mới phải tế cáo nhà Thái Miếu mà phế đi. Nay Thánh Thượng tuy còn thơ ấu nhưng thông minh nhân trí, chưa lầm lỗi mảy mạy Ông chỉ là một vị quan ở ngoài, chưa từng tham dự triều chính, lới không có tài như Y Doãn, Hoắt Quang, mà dám bàn đến chuyện phế lập sao được? Thánh nhân có dạy rằng: "Có chí như Y Doãn thì được. Không có chí như Y Doãn mà bắt chước làm Y Doãn, ấy là kẻ soán nghịch." Đổng Trác nổi giận rút gươm toan chém Lư Thực, thì quan Nghị lang là Bành Bá vội can: - Lư Thượng thư là bậc có danh vọng, hải nội chư nhân đều mong mỏi. Nếu giết đi, e làm náo động thiên hạ. Bấy giờ Trác mới ngừng tạy Quan Tư Đồ Vương Doãn nói: - Việc phế lập rất quan trọng, không nên đem bàn lúc trà dư tửu hậu. Để một ngày khác. Khi tiệc tan, bá quan ra về, Trác mặt còn hầm hầm, tay cầm gươm đứng ở viên môn. Bỗng Trác thấy có một người lực lưỡng, cầm kích rong ngựa đi đi lới lới phía ngoài, bèn hỏi Lý Nhu: - Người nào đấy? Lý Nhu đáp: - Đó là con nuôi của Đinh Nguyên, họ Lữ tên Bố, tự là Phụng Tiên, người ấy là một anh hùng trên đời có một không hai. Tướng quân nên tránh nó kẻo mang họa. Đổng Trác nghe nói liền lánh mặt vào trong vườn. Rạng ngày có quân vào báo vại Đổng Trác: - Quân của Đinh Nguyên đến bên thành khiêu chiến đòi Tướng Quân phải ra binh. Đổng Trác tức giận, hiệp với Lý Nhu dẫn quân ra thành nghênh chiến. Hai bên giàn trận, rồi thấy Lữ Bố hiện ra, đầu búi tóc, đội kim quan, mình mặc bào gấm trăm hoa lồng giáp đường nghê, lưng thắt bảo đới Ti loan, tay cầm tay cầm Phương Thiên Họa Kích, giu. C ngựa phò Đinh Nguyên ra trước trận. Đinh Nguyên chỉ vào mặt Đổng Trác mắng: - Quốc gia gặp lúc không may, lũ yêm hoạn lộng quyền đến nỗi muôn dân đồ thán, mi không hề có thước tấc công lao nào, sao dám nói càn chuyện phế lập, làm loạn triều đình? Đổng Trác chưa kịp trả lời thì sau lưng Đinh Nguyên, Lữ Bố đã phi ngựa vung kích đánh tràn sang. Binh tướng của Đổng Trác không một người nào dám ra nghinh địch. Cây kích của Lữ Bố đến đâu là quân Trác chết đến đó, làm cho quân của Đổng Trác cả loạn. Trác hoảng sợ quay đầu chạy. Đinh Nguyên thúc quân đánh giết. Quân Trác đại bại một trận, phải lui hơn ba mươi dặm mới dám hạ trại, kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nửa. Trác họp các tướng, bàn rằng: - Ta thấy Lữ Bố quả là tay phi thường. Nếu được người ấy, ta còn lo gì việc thiên hạ? Trong lúc ấy có một người bước đến thưa: - Chúa công đừng lọ Tôi với Lữ Bố vốn cùng quê quán, biết rõ hắn tuy có tài xuất chúng, song là kẻ hữu dũng vô mưu, thấy lợi mà quên nghĩa. Vậy tôi xin đem ba tất lưỡi đi thuyết, khiến hắn phải chắp tay về hàng Chúa công. Trác nghe nói mừng rỡ, xem lới thì thấy người ấy là Hổ Bôn Trung Lang Tướng Lý Túc. Trác hỏi: - Cần đem theo vật gì để dụ hắn? Túc nói: - Tôi nghe Chúa công có con ngựa Xích Thố, ngày đi ngàn dặm. Nếu được ngựa ấy với ít vàng ngọc để lấy lòng hắn, rồi tôi lựa lời thuyết dụ, ắt Lữ Bố phản Đinh Nguyên, hàng Chúa công. Trác hỏi Lý Nhu: - Ý ấy thế nào? Nhu đáp: - Chúa công muốn gồm thâu thiên hạ lại tiếc chi một con ngựa. Trác nghe nói, truyền quân dắt con ngựa Xích Thố đến, lới cho lấy ra một ngàn lạng vàng, mươi hạt minh châu, và một cái đai ngọc giao cho Túc. Túc tức thì mang tất cả lễ vật thẳng đến trới Lữ Bố. Dọc đường bị quân phục bao vây, Túc nói: - Các ngươi kíp vào báo với Lữ Tướng quân rằng: "Có cố nhân muốn đến thăm." Quân vào báo, Bố ra lệnh cho Túc vào. Chào hỏi xong, Túc nói: - Bấy lâu nay xa cách hiền đệ, tôi rất thương nhớ, khi biết được hiền đệ Ở đây nên tôi đến thăm viếng. Nay thấy hiền đệ vẫn khang kiện, tôi rất mừng. Lữ Bố nắm tay Lý Túc thân mật nói: - Đã hằng lâu xa cách nhau, nay hiền huynh ở nơi nào? Lý Túc đáp: - Hiện nay tiện huynh đang làm chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, nghe hiền đệ có lòng khuôn phò xã tắc nên tiện huynh vui mừng khôn xiết. Nay có một con ngựa quý, ngày đi ngàn dặm có dư, lới có tài vượt nước trèo non như đi trên đất bằng, tên là Xích Thố, nên đem tới biếu cho hiền đệ, để thêm oai cho hùm đây. Lữ Bố bèn khiến quân dắt ngựa đến, quả nhiên con ngựa ấy cả mình đều đỏ như lửa, không bợn một sợi lông tạp màu. Từ đầu tới đuôi dài một trượng, từ móng lên đầu cao tám thước. Rồi bỗng nó gầm hí vang rền, giậm vó rung mặt đất, như sắp bay bổng lên không, băng mình qua bể vậy. Người sau có thơ vịnh ngựa Xích thố rằng: Ngàn dặm phi đằng, cát bụi tung, Băng sông vượt núi, xé sương hồng. Khác chi rồng lửa trên trời xuống, Muốn rứt cương tơ, vỡ nhạc đồng. Lữ Bố thấy ngựa tốt, lòng mừng khấp khởi, bèn tạ Ơn Lý Túc: - Hiền huynh có lòng tốt, cho con ngựa quý này, tôi chẳng biết lấy gì báo đáp? Lý Túc nói: - Tôi vì nghĩa khí mà đến đây há cần đâu ân huệ? Bố sai dọn rượu thết đãi. Rượu ngà ngà, Túc nói: - Tuy ít gặp hiền đệ, nhưng lệnh tôn thì Túc được gặp luôn. Bố đáp: - Hiền huynh say rồi! Cha tôi đã mất từ lâu, còn gặp làm sao được? Túc cười lớn: - Không phải thế. Tôi nói "lệnh tôn" tức là Đinh Thứ Sử đấy chứ. Bố buồn bã nói: - Tôi theo Đinh Kiến Dương cũng là bất đắc dĩ, bỏ đi chưa nỡ đấy thôi! Túc nói: - Hiền đệ là người tài ba lỗi lạc, sức mạnh hơn người, anh hùng xuất chúng, bốn bể biết tên. Lẽ ra phải được hưởng chức trọng quyền cao, có lý đâu lới phải cam chịu ở dưới trướng người ta vậy? Lữ Bố nói: - Tôi cũng muốn thế, ngặt vì chưa gặp được một đấng minh quân. Lý Túc cười bảo: - Chim khôn lựa cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nếu không sớm tìm thời cơ, e khi hối ra thì đã muộn đấy. Bố hỏi: - Hiền huynh đã ở trong triều, vậy có thấy ai xứng đáng là anh hùng đời nay? Túc đáp: - Hiện tới triều đình, các đới thần ai nấy tranh giành ngôi thứ, Vua thì còn nhỏ bị kẻ sàm nịnh chiếm đoạt quyền hành. Tôi thấy khắp mặt bá quan, không ai bằng Đổng công. Đổng công là người biết kính hiền ái sĩ, thưởng phạt công minh, lới có lòng diệt nịnh phò Vụa Thế nào về sau cũng nên nghiệp lớn, vậy hiền đệ còn đợi gì mà không theo phò để lập thân. Lữ Bố nói: - Tôi cũng muốn theo về Đổng công ngặt vì không ai tiến cử. Bấy giờ, Túc biết công việc đã có kết quả, lập tức đem cái đai ngọc và vàng bạc bày ra trước mặt Lữ Bố. Bố giật mình hỏi: - Hiền huynh đem những thứ này tới làm gì? Túc bảo cho tả hữu lui hết ra ngoài, rồi mới nói: - Đây là của Đổng công. Đổng công mộ tiếng lớn của hiền đệ từ lâu. Nay sai Túc này đem lễ vật tới kính biếu. Con Xích Thố kia cũng là của Đổng công sai đem tặng hiền đệ vậy. Bố nói: - Đổng công có lòng yêu thế này, tôi biết lấy gì đền đáp? Túc nói: - Tài thường sức mọn như Túc này, mà còn được phong chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, thì tài như hiền đệ, nếu theo về, ắt được quyền cao chức trọng, phú quý chưa biết đến bậc nào? Bố ngần ngừ nói: - Tôi chưa có chút công trạng nào mà làm lễ ra mắt Đổng công. Khó nghĩ quá. Túc lửng lơ nói: - Công trạng ấy đối với người khác thì khó thật, chứ như đối với hiền đệ thì dễ như trở bàn tay, có gì mà phải lọ Chỉ sợ hiền đệ không chịu làm đấy thôi. Bố trầm ngâm một lúc rồi nói: - Tôi muốn giết Đinh Nguyên rồi dẫn quân ra hàng Đổng công, chẳng biết có nên không? Hiền huynh xét thử? Túc vội xuýt xoa nói: - Hiền đệ làm được việc ấy thì còn công nào lớn bằng. Nhưng việc đó cốt phải khẩn mật mới được. Bố hẹn với Túc nội trong đêm ấy thế nào cũng xong việc. Túc rất hoan hỉ, từ giã ra về. Đêm ấy, vào lúc canh hai, Lữ Bố cầm gươm bước vào trong trướng Đinh Nguyên. Lúc ấy, Nguyên đang thức chong đèn xem sách, thấy Bố vào, bèn hỏi: - Đêm khuya, con vào đây có việc gì? Bố trở mặt mắng rằng: - Ta đường đường một kẻ trượng phu, há lại đi làm con của ngươi sao? Nguyên kinh ngớc, trố mắt nhìn Bố hỏi: - Phụng Tiên, cớ sao con lại đổi lòng như vậy? Bố chẳng đáp chẳng rằng, bước tới vung gươm chém Đinh Nguyên một nhát, đầu rơi xuống đất. Người sau có thơ than Đinh Nguyên rằng: Thuơng thay! Hán mạt có Đinh công, Nuôi được con tài, tưởng cậy trông.. Ai biết nòi nào ra giống ấy, Nuôi hùm, hùm cắn, xót xa lòng. Lại có thơ than Lữ Bố rằng: Tiếc thay! Mặt đẹp, lực vô song, Cử đỉnh bớt sơn nức tiếng hùng. Quen thói bạo tàn, không chút nghĩa, Trách gì thiên hạ chẳng ai dung. Chém xong, Lữ Bố xách đầu Đinh Nguyên ra ngoài, hô lớn: - Đinh Nguyên là kẻ bất nhân vô đạo, ta đã giết chết rồi. Vậy thì ai muốn theo ta thì theo, ai không theo thì cứ tự tìm chỗ khác mà đi. Quân sĩ thấy vậy bỏ đi hơn phân nửa. Hôm sau, Lữ Bố xách đầu Đinh Nguyên đến gặp Lý Túc. Túc vội dẫn Bố vào dinh ra mắt Đổng Trác. Đổng Trác lòng mừng khôn xiết, hối quân bày rượu thịt thết đãi Lữ Bố, và bước đến trước mặt Bố, cúi đầu nói: - Trác này được Tướng quân hôm nay chẳng khác đại hạn gặp mưa rào vậy. Lữ Bố vội vàng đứng dậy thi lễ, mời Trác ngồi lên, rồi sụp lạy mà tạ rằng: - Minh công đãi Bố này rất hậu, ơn ấy không biết lấy gì đền đáp. Nếu Minh công cho phép, Bố này xin bái Minh công làm nghĩa phụ. Trác mừng lắm, sai lấy giáp vàng, bào gấm ban thưởng cho Bố, rồi cùng Bố yến ẩm say sưa tối ngày. Từ đó, Đổng Trác oai quyền lừng lẫy, không biết nể nang ai nữa. Trác tự lĩnh công việc của Tiền Tướng Quân, phong cho em ruột là Đổng Mân làm Tả Tướng Quân tước Hổ Hầu, phong cho Lữ Bố làm Kỵ Đô úy Trung Lang Tướng tước Đô Đình Hầu. Lý Nhu khuyên Trác sớm định ngay mưu kế phế lập. Trác liền lập tiệc tới đình trung, rồi viết thiệp mời các quan đến phó yến. Lại sai Lữ Bố dẫn hơn ngàn quân giáp sĩ, nai nịt đầy đủ, mai phục xung quanh. Hôm ấy, quan Thái Phó Viên Ngỗi cùng bá quan đều đến. Rượu được vài tuần, Đổng Trác đứng dậy chống gươm nói: - Nay Vua nhu nhược, hôn ám, không thể phụng sự tôn miếu được. Ta noi gương Y Doãn, Hoắt Quang, phế Vua xuống làm Hoằng Nông Vương, lập Trần Lưu Vương lên làm Hoàng đế. Ai không thuận, ta chém đầu? Quần thần sợ hãi ngồi lặng thinh. Trung Quân Hiệu úy Viên Thiệu đứng dậy, bước ra khỏi ghế nói: - Đức Kim Thượng tức vị chưa bao lâu, chưa làm gì lỗi đạo, ngài muốn bỏ trưởng lập thứ, chính là muốn tạo phản rồi. Trác nổi giận mắng lớn: - Việc nước hiện ở trong tay tạ Ta muốn làm gì thì làm, ai dám không thuận? Ngươi tưởng lưỡi gươm của ta không bén chăng? Thiệu cũng rút gươm ra khỏi vỏ, nói lớn: - Gươm ngươi bén thật, nhưng gươm của ta đây cũng không phải là loại sắt cùn. Hai người toan đối địch trước tiệc. Đó chính là: Đinh Nguyên trượng nghĩa, thân vừa thác, Viên Thiệu tranh phong, thế cũng nguy.
Chương 4: Hồi 4 Bấm để xem Đổng Trác muốn giết Viên Thiệu, Lý Nho can rằng: - Việc chưa định xong không nên giết càn. Viên Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa đông rồi bỏ về Ký Châu. Trác bảo với quan thái phó Viên Ngỗi rằng: - Cháu ngươi vô lễ, ta tha cho hắn cũng là nể ngươi. Việc phế vua lập Trần Lưu, ngươi nghĩ thế nào? Ngỗi thưa rằng: - Thái úy nghĩ thế phải đấy! Trác lới nói: - Ai dám ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội. Các quan sợ hãi, đều nói: - Ngày dạy thế xin vâng! Cuộc yến tan, Trác hỏi quan Thị Trung là Chu Bật và quan Hiệu úy là Ngũ Quỳnh rằng: - Viên Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao? Chu Bật đáp: - Viên Thiệu câm giận mà đi, hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu đâu củng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, tập họp đồ đảng, rồi những anh hùng trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn Đông sẽ không ở trong tay ông nữa. Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa. Ngũ Quỳnh nói: - Viên Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán, không đánh lo cho lắm. Bất nhược cứ cho hắn một chức quận thú để thu phục lòng dân! Trác nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái thú quận Bột Hải. Đến mồng một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền ôn Đức, họp hết cả văn võ lại. Trác tay cầm kiếm nói rằng: - Thiên tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách văn đọc cho các quan nghe. Rồi sai Lý Nho tuyên đọc: "Vua Hiếu Linh mất sớm, vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong. Nay xét ra vua ta, thiên tử mỏng mảnh, kém vẻ uy nghi nghiêm chỉnh, cư tang biếng nhác, đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn. Hoàng thái hậu không có uy nghi của người mẹ, nhiếp chính rối tung. Việc bà Vĩnh Lạc thái hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Đối với đạo tam cương và đường Trời đất, phải chăng có thiếu sót nhiều? Trần Lưu Vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang, khuôn phép kính cẩn, cư tang thương xót, nói năng chính đính, lời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết. Nên nối ngôi vua, làm phép cho vạn thế! Nay phế vua ra làm Hoằng Nông Vương, thái hậu thì phải trả quyền chính. Xin tôn Trần Lương Vương lên làm hoàng đế, Ứng thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!" Lý Nho đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ, ngoảnh mặt về phương Bắc, xưng thần nghe chiếu, lại bắt Hà thái hậu, cởi đồ phẩm phục ra mà đợi chiếu. Vua và Thái hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm. Lúc ấy ở dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng: - Thằng giặc Đổng Trác kia, ngươi dám lập mưu lừu trời dối đất, ta lấy máu cổ họng bôi vào mặt ngươi bây giờ! Nói rồi cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Đổng Trác. Trác giận lắm, sai võ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng thư Đinh Quản. Trác sai đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Đổng Trác cho đến lúc chết; chết rồi, thần sắc vẫn như lúc sống. Người sau có thơ than rằng: Giặc Đổng lòng mang dạ khuyển lang Cơ đồ nhà Hán đổ tan hoang, Trong triều văn võ mồm câm ca? Chỉ có Đinh công thực giỏi giang! Trác mời Trần Lưu Vương lên điện, Quần thần làm lễ mừng xong rồi. Trác sai bắt Hà thái hậu, vua và vợ vua là Đường thị giam ở cung Vĩnh An, khóa cửa cung, cấm quần thần, không ai được vào thăm. Thương thay! Thiếu đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín đã phải phế. Trầu Lưu Vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hòa, là con thứ vua Linh đế, tức là Hiến đế về sau. Lúc lập lên, Hiến đế mới lên chín tuổi, đổi niên hiệu năm đầu là Sơ Bình. Đổng Trác làm tướng quốc, lạy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, lên điện được đeo kiếm, tác uy tác phúc, không ai bì được. Lý Nho khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý Nho tiến cử tài năng Sái Ung. Trác cho mời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác giận sai người bảo Ung hễ không đến thì giết cả họ. Ung sợ, phải đến. Trác thấy Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức Thị Trung. Trác rất hậu đãi Ung. Thiếu đế, Hà thái hậu và Đường phi bị giam ở cung Vĩnh An, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày một kém. Thiếu đế không lúc nào ráo nước mắt. Một hôm Thiếu đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng: Xanh xanh khóm cỏ dày Cặp én phất phơ bay. Trong veo dòng lạc thủy, Người đồng nội khen hay. Xa trông mây thăm thẳm, Cung điện cũ ta đây. Biết ai kẻ trung nghĩa, Gỡ cho oán hận này! Đổng Trác thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Đổng Trác, Trác nói rằng: - Làm bài thơ oán vọng này, đem giết đi là có cớ rồi! Bèn sai Lý Nho và mười võ sĩ vào cung giết vua! Vua, thái hậu và Đường phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho đến, vua sợ giật mình. Nho đem rượu thuốc độc dâng vua. Vua hỏi việc gì. Nho thưa: - Ngày xuân mát mẻ, Đổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ. Thái hậu bảo Lý Nho: - Có phải rượu thọ thì ngươi thử uống trước đi! Nho giận lắm, hỏi vua: - Ngươi không uống phải không? Rồi gọi tả hữu cầm con dao với tấm lụa trắng, để trước mặt vua, mà nói rằng: - Rượu thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này. Đường phi quỳ xuống nói rằng: - Thiếp xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua. Lý Nho quát mắng: - Ngươi là đứa nào, mà dám đòi chết cho vua? Nho cầm chén rượu đưa cho Hà thái hậu và bảo rằng: - Bà phải uống trước đi! Hà thái hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh đô, để có cái vạ ngày nay. Nho bức vua phải uống rượu. Vua nói: - Hãy khoan! Để ta cùng thái hậu từ biệt đã. Vua đau xót lắm, làm bài ca như sau: Trời đất chao, trăng sao cũng đô? Bỏ ngôi cao, ra chỗ phiên phong Bởi ai nên sự lạ lùng? Việc đời ngán ngẩm, ròngròng châu tuôn. Đường phi cũng làm bài ca rằng: Trời nghiêng đất lại lở tan, Phận mình thê thiếp, trái oan lạ thường! Tử sinh nay đã khác đường, Một người một bóng xót thương tấm lòng! Vua và Đường phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng: - Tướng quốc đứng chờ tin! Các người dùng dằng để mong ai cứu đấy? Thái hậu thét mắng: - Thằng giặc Đổng kia! Ngươi hại mẹ con ta, rồi trời lại hại ngươi! Chúng bay tùng đảng với nhau làm điều ác, rồi chúng bay sẽ bị giết cả họ cho mà xem! Nho tức lắm, hai tay ôm lấy thái hậu ném xuống dưới lầu, giết chết; lại sai võ sĩ thắt cổ Đường phi, rót rượu độc bắt Thiếu đế uống chết, rồi về báo Đổng Trác. Trác sai đem táng ba mẹ con ở ngoài thành. Tự bấy giờ, Trác đêm nào cũng vào cung thông dâm với các cung nữ, rồi thì lên ngủ trên sập rồng. Thường thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa Trác đến Dương Thành. Bấy giờ đang tháng hai, dân mở hội hát, con trai con gái tụ họp nhau xem hội rất đông. Trác sai quân vây cả lại, rồi giết sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn một ngàn đầu lâu ở dưới xe, nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận. Trác lại sai đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải thì đem chia cho quân sĩ. Quan việt kỵ hiệu úy tên là Ngũ Phu, tên chữ là Đức Du, thấy Đổng Trác tàn bạo quá, tức lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại trào, giắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để giết Trác. Một hôm Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác. Phu rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lữ Bố trông thấy, chạy lại ôm Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng: - Ai xui ngươi làm phản? Phu trợn mắt thét mắng rằng: - Ngươi không phải là vua ta, ta không phải là tôi ngươi, sao lại gọi là phản được? Tội ngươi đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết ngươi? Ta tiếc rằng không xé nhỏ được xác ngươi ra để tạ thiên hạ! Trác tức lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác không buông miệng cho đến lúc chết. Đời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng: Ngũ Phu này cũng bậc anh hùng, Tiết liệt xem ai được thế không? Đánh giặc, hãy còn danh tiếng để, Ngàn thu vằng vặc mảnh gương chung! Đổng Trác từ khi ấy ra vào trường có quân sĩ mặc áo giáp đi theo hộ vệ. Viên Thiệu bấy giờ ở Bột Hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho tư đồ Vương Doãn, thư rằng: Giặc Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc kệ, để nó lăng ngược như con cá nhảy vượt qua đăng, làm thin như không nghe không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc! Thiệu nay chiêu tập binh mã cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc, nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi xin vâng mệnh. Vương Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội các, Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng: - Hôm nay là sinh nhật lão phụ đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu xơi rượu. Các quan đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ. Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Rượu được vài tuần, tự nhiên Doãn che mặt hu hu khóc. Các quan giật mình hỏi rằng: - Hôm nay là sinh nhật của quan tư đồ, sao ngài lại khóc như vậy? Doãn thưa rằng: - Hôm nay có phải là sinh nhật của tôi đâu! Tôi vì có một việc muốn nói với các vị, nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần, diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế! Các quan nghe nói cũng đều khóc cả. Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng: - Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được thằng Đổng Trác không? Doãn ngoảnh lại xem ai, thì là kiêu kỵ hiệu úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng: - Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại còn cười à? Tháo nói: - Tôi cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Đổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Đổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ. Doãn liền đứng dậy hỏi rằng: - Mạnh Đức có kế gì tài thế? Tháo nói: - Tôi lâu nay sở dĩ nép mình thờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó rất tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư đồ có con dao thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen nầy vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì. Vương Doãn mừng lắm nói rằng: - Nếu Mạnh Đức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm! Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu, cất lời thề. Doãn bèn đem dao thất bảo đưa chọ Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả. Hôm sau Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi: - Thừa tướng ở đâu? Đầy tớ nói: - - trong gác. Tháo vào, thấy Trác ngồi trên giường; Lữ Bố đứng hầu bên cạnh. Trác thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng: - Sao hôm nay Mạnh Đức đến chậm thế? Tháo nói: - Thưa, ngựa tôi gầy hóa đi chậm. Trác ngoảnh lại bảo Lữ Bố rằng: - Ta có ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Đức. Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng: - Thằng này số nó đến lúc chết đây! Lập tức muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khoẻ chưa dám đâm vội. Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống; ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng: - Thằng nầy thực số chết! Liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi: - Mạnh Đức làm gì thế? Bấy giờ Lữ Bố vừa giắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống thưa: - Tháo tôi có con dao quý xin dâng thừa tướng. Trác cầm lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý, bèn đưa cho Lữ Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lữ Bố. Trác đem Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi đi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy. Tào Tháo đi khỏi. Lữ Bố nói với Trác rằng: - Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái sư! Vì thái sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao. Trác nói: - Ta cũng hơi nghi. Đang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nhọ Nho nói: - Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi. Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lầu rồi trở về trình rằng: - Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng. Nho nói: - Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích. Trác nói: - Ta tin dùng hắn thế, sao hắn lại muốn hại ta? Nho thưa: - Tất nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả. Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng ngàn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; ai chứa chấp sẽ bị trị tội. Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn, họ tên là Hoàng Phủ. Quan huyện nhìn kỹ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói: - Trước ta cầu quản ở Lạc Dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam nó xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh lãnh thưởng. Quan huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về. Đến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng: - Ta nghe thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân? Tháo nói: - Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! Ựã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy công, hà tất phải hỏi nhiều! Quan huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng: - Anh đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu.. Cũng vì chưa gặp được chủ đấy thôi! Tháo nói: - Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Đổng Trác là muốn tìm cơ hội thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời! Quan huyện nói: - Mạnh Đức bây giờ định đi đâu? Tháo nói: - Ta muốn về làng, phát lời kêu gọi, vời cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh giết Đổng Trác. Đó là sở nguyện của ta! Quan huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên rồi thụp xuống lạy hai lạy mà nói rằng: - Ông thực là người trung nghĩa ở đời này! Tháo cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói: - Tôi họ Trần, tên Cung, tên chữ là Công Đài; tôi có mẹ già và vợ con ở Đông Quận. Nay cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn. Tháo mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh kiếm; cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào Tháo. Đi được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng: - - trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin nhà, rồi ngủ đấy một đêm; nên không? Cung nói: - Thế thì hay lắm! Hai người, đến cửa trại xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa, Sa hỏi Tháo rằng: - Ta nghe triều đình tầm nã anh gấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây? Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói: - Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi. Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói: - Cháu nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lới đây. Nói xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung: - Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống. Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi. Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung rằng: - Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện nầy đáng nghi đấy! Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói: - Trói lại mà giết! Tháo bảo Trần Cung: - Đúng rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt mất! Tháo và Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết. Cung giật mình nói: - Mạnh Đức ơi! Ta đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi. Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Lã Bá Sa hỏi hai người rằng: - Hiền đệ với sứ quân sao lại đi? Tháo nói: - Tôi là người có tội, không dám ở lâu. Lã Bá Sa nói: - Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền đệ ngại gì một đêm, xin quay ngựa lại cho! Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút kiếm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi: - Ai đi đằng sau ông đấy? Sa quay đầu lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết. Cung cả sợ hỏi Tháo: - Lúc nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế? Tháo nói: - Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay. Cung nói: - Biết rằng mình lầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa thực là đại bất nghĩa! Tháo nói: - Thà ta phụ người, không để người phụ ta! Cung im lặng, không nói gì nữa. Đêm trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. Đi được vài dặm, hai người vào nhà hàng ngủ. Sau khi cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước. Cung suy nghĩ: - Ta những tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo hắn. Ai ngờ hắn là hạng người tàn nhẫn. Nếu để hắn sống ở đời, tất có ngày hắn gây ra vạ lớn. Nghĩ vậy bèn rút kiếm toan giết Tào Tháo.. Ấy thực rõ là: Mang tâm hiểm độc người đâu thế, Trác, Tháo hai tên cũng một phường! Chưa biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ.
Chương 5: Hồi 5 Bấm để xem Nhắc lại Trần Cung rút gươm, đang sắp hạ thủ Tào Tháo, bỗng lại nghĩ: - Mình vì việc nước theo hắn đến đây, nếu mình lại giết hắn thì mình cũng bất nghĩa chẳng khác gì hắn. Thôi thì bỏ quách hắn mà đi nơi khác cho xong. Nghĩ như thế, Trần Cung tra kiếm vào vỏ, lên ngựa đi thẳng về hướng Ðông quận. Tào Tháo ngủ cho đến lúc mờ sáng mới thức giấc, không thấy Trần Cung đâu, Tháo nhủ thầm: - Hừ! Trần Cung có lẽ đã nghi ta là đứa bất nghĩa nên bỏ đi rồi. Thế thì ta cũng phải đi gấp, không nên trì hoãn nơi đây nữa. Nội ngày hôm ấy, Tháo bôn ba thẳng đến Trần lưu tìm gia quyến. Khi gặp được thân phụ, Tháo liền đem tất cả mọi việc đã xảy ra tại triều kể lại cho Tào Tung nghe, và tỏ ý muốn đem hết gia sản dùng vào việc chiêu mộ nghĩa binh để mưu đồ đại sự. Tào Tung nói: - Của nhà không được bao nhiêu, sợ không đủ dùng vào việc lớn. Gần nhà ta có người họ Vệ tên Hoằng, thi đỗ Hiếu liêm, gia cư thuộc vào hàng cự phú, tánh tình lại trọng nghĩa khinh tài. Nếu được người ấy giúp cho thì mới mong được việc. Tào Tháo mừng rỡ bày tiệc sai người mời Vệ Hoằng đến nhà yến ẩm và nói: - Nay nhà Hán suy vi, Ðổng Trác chuyên quyền làm bậy, dối vua hại dân, trăm họ đều thán oán. Tôi muốn nhân cơ hội này ra sức khuông phò xã tắc, khôi phục lại nhà Hán, nếu được ngài giúp cho một tay thì may mắn lắm. Vệ Hoằng khẳng khái nói: - Lòng tôi lâu nay đã ước vọng như thế, song chưa gặp được kẻ anh hùng. Nay Mạnh Ðức đã có chí lớn thì tôi còn tiếc gì mà không đem hết tài sản ra cống hiến. Tào Tháo mừng rỡ, liền thảo tờ hịch vặn phát khắp các đạo chiêu tập nghĩa binh, kéo cờ trắng đề hai chữ "Trung Nghĩa" rất lớn. Chưa được mấy ngày, các dũng sĩ khắp nơi đến ứng mộ đông như kiến. Trong số này đáng kể là một người ở đất Bình Dương nước Vệ, họ Nhạc tên Tiến, tự là Văn Khiêm, một người học Lý tên Ðiển, tự là Man Thành ở vùng Sơn dương, huyện Cư lộc. Tào Tháo lưu dùng làm thủ túc dưới trướng. Kế đó, có một người ở nước Bái, thuộc Tiêu quận, họ Hạ Hầu tên Ðôn, vốn là dòng dõi Hạ Hầu Anh thời xưa. Từ nhỏ, Hạ Hầu Ðôn đã tập cưỡi ngựa bắn cung, múa thương rất tài. Năm mười bốn tuổi, theo thầy học võ, gặp kẻ chửi mắng thầy, Ðôn nổi giận giết kẻ ấy, rồi trốn ra xứ ngoài. Nay nghe Tào Tháo khởi binh, Ðôn cùng người em họ là Hạ Hầu Uyên mỗi người dẫn một ngàn tráng sĩ đến giúp Tháo. Hai người này vốn là anh em họ của Tháo, vì cha Tháo là Tung vốn họ Hạ Hầu, sau làm con nuôi họ Tào, mới đổi ra họ này. Ít ngày sau lại có hai anh em Tào Nhân, Tào Hồng mỗi người dẫn hơn một ngàn quân đến giúp Tháo. Tào Nhân tự là Tử Hiếu, Tào Hồng tự là Tử Liêm, cả hai đều giỏi về nghề bắn cung cởi ngựa. Thu dụng được một số hào kiệt, Tào Tháo rất mừng, ngày ngày điều luyện quân mã ở trong thôn. Vệ Hoằng thì bỏ của cải ra sắm áo giáp, khí giới cho quân sĩ, may cờ quạt, tàng lọng. Thiên hạ nghe tin tải lương thực đến giúp vô số. Bấy giờ Viên Thiệu đang ở Bột Hải, cũng chiêu binh mãi mã, luyện tập suốt ngày. Khi nghe tin Tào Tháo cử sự, liền dẫn ba vạn quân rời Bột Hải kéo đến hội thề với quân Tào. Thấy đã đến lúc khởi sự, Tào Tháo bèn thảo một tờ hịch văn gởi đến các trấn chư hầu. Hịch rằng: Tôi Hiệu Úy tên là Tào Tháo, Tánh thẳng ngay bố cáo viên quan. Kể từ khi Ðổng Trác lăng loàn, Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi. Vua Thiếu đế vốn không lầm lỗi, Bỏ giết đều quyền nội trong tay. Ngoài nhân dân ngặm đắng nuốt cay, Trong triều sĩ đêm ngày ta thán. Ngũ Phu, Ðinh Nguyên, Ðinh Quảng, Ba gã đều bị nạn vong thân. Chốn cung đình uế trược phân vân, Trác tàn bạo xa gần thiết xĩ. Vâng ngày nọ thiên nhan mật chỉ, Ta hội binh nghĩa vị cần vương. Quận Trần lưu tề tận diện thương, Quét trừ đứa nhiễu nhương quân trắc. Ðồng hiệp sức ra tài phụ bọc, Như thuốc hay gặp tật mới lành. Tờ hịch văn đưa đến trấn thành, Xin liệt vị phụng hành cấp tốc. Nhắc lại Trần Cung rút gươm, đang sắp hạ thủ Tào Tháo, bỗng lại nghĩ: - Mình vì việc nước theo hắn đến đây, nếu mình lại giết hắn thì mình cũng bất nghĩa chẳng khác gì hắn. Thôi thì bỏ quách hắn mà đi nơi khác cho xong. Nghĩ như thế, Trần Cung tra kiếm vào vỏ, lên ngựa đi thẳng về hướng Ðông quận. Tào Tháo ngủ cho đến lúc mờ sáng mới thức giấc, không thấy Trần Cung đâu, Tháo nhủ thầm: - Hừ! Trần Cung có lẽ đã nghi ta là đứa bất nghĩa nên bỏ đi rồi. Thế thì ta cũng phải đi gấp, không nên trì hoãn nơi đây nữa. Nội ngày hôm ấy, Tháo bôn ba thẳng đến Trần lưu tìm gia quyến. Khi gặp được thân phụ, Tháo liền đem tất cả mọi việc đã xảy ra tại triều kể lại cho Tào Tung nghe, và tỏ ý muốn đem hết gia sản dùng vào việc chiêu mộ nghĩa binh để mưu đồ đại sự. Tào Tung nói: - Của nhà không được bao nhiêu, sợ không đủ dùng vào việc lớn. Gần nhà ta có người họ Vệ tên Hoằng, thi đỗ Hiếu liêm, gia cư thuộc vào hàng cự phú, tánh tình lại trọng nghĩa khinh tài. Nếu được người ấy giúp cho thì mới mong được việc. Tào Tháo mừng rỡ bày tiệc sai người mời Vệ Hoằng đến nhà yến ẩm và nói: - Nay nhà Hán suy vi, Ðổng Trác chuyên quyền làm bậy, dối vua hại dân, trăm họ đều thán oán. Tôi muốn nhân cơ hội này ra sức khuông phò xã tắc, khôi phục lại nhà Hán, nếu được ngài giúp cho một tay thì may mắn lắm. Vệ Hoằng khẳng khái nói: - Lòng tôi lâu nay đã ước vọng như thế, song chưa gặp được kẻ anh hùng. Nay Mạnh Ðức đã có chí lớn thì tôi còn tiếc gì mà không đem hết tài sản ra cống hiến. Tào Tháo mừng rỡ, liền thảo tờ hịch vặn phát khắp các đạo chiêu tập nghĩa binh, kéo cờ trắng đề hai chữ "Trung Nghĩa" rất lớn. Chưa được mấy ngày, các dũng sĩ khắp nơi đến ứng mộ đông như kiến. Trong số này đáng kể là một người ở đất Bình Dương nước Vệ, họ Nhạc tên Tiến, tự là Văn Khiêm, một người học Lý tên Ðiển, tự là Man Thành ở vùng Sơn dương, huyện Cư lộc. Tào Tháo lưu dùng làm thủ túc dưới trướng. Kế đó, có một người ở nước Bái, thuộc Tiêu quận, họ Hạ Hầu tên Ðôn, vốn là dòng dõi Hạ Hầu Anh thời xưa. Từ nhỏ, Hạ Hầu Ðôn đã tập cưỡi ngựa bắn cung, múa thương rất tài. Năm mười bốn tuổi, theo thầy học võ, gặp kẻ chửi mắng thầy, Ðôn nổi giận giết kẻ ấy, rồi trốn ra xứ ngoài. Nay nghe Tào Tháo khởi binh, Ðôn cùng người em họ là Hạ Hầu Uyên mỗi người dẫn một ngàn tráng sĩ đến giúp Tháo. Hai người này vốn là anh em họ của Tháo, vì cha Tháo là Tung vốn họ Hạ Hầu, sau làm con nuôi họ Tào, mới đổi ra họ này. Ít ngày sau lại có hai anh em Tào Nhân, Tào Hồng mỗi người dẫn hơn một ngàn quân đến giúp Tháo. Tào Nhân tự là Tử Hiếu, Tào Hồng tự là Tử Liêm, cả hai đều giỏi về nghề bắn cung cởi ngựa. Thu dụng được một số hào kiệt, Tào Tháo rất mừng, ngày ngày điều luyện quân mã ở trong thôn. Vệ Hoằng thì bỏ của cải ra sắm áo giáp, khí giới cho quân sĩ, may cờ quạt, tàng lọng. Thiên hạ nghe tin tải lương thực đến giúp vô số. Bấy giờ Viên Thiệu đang ở Bột Hải, cũng chiêu binh mãi mã, luyện tập suốt ngày. Khi nghe tin Tào Tháo cử sự, liền dẫn ba vạn quân rời Bột Hải kéo đến hội thề với quân Tào. Thấy đã đến lúc khởi sự, Tào Tháo bèn thảo một tờ hịch văn gởi đến các trấn chư hầu. Hịch rằng: Tôi Hiệu Úy tên là Tào Tháo, Tánh thẳng ngay bố cáo viên quan. Kể từ khi Ðổng Trác lăng loàn, Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi. Vua Thiếu đế vốn không lầm lỗi, Bỏ giết đều quyền nội trong tay. Ngoài nhân dân ngặm đắng nuốt cay, Trong triều sĩ đêm ngày ta thán. Ngũ Phu, Ðinh Nguyên, Ðinh Quảng, Ba gã đều bị nạn vong thân. Chốn cung đình uế trược phân vân, Trác tàn bạo xa gần thiết xĩ. Vâng ngày nọ thiên nhan mật chỉ, Ta hội binh nghĩa vị cần vương. Quận Trần lưu tề tận diện thương, Quét trừ đứa nhiễu nhương quân trắc. Ðồng hiệp sức ra tài phụ bọc, Như thuốc hay gặp tật mới lành. Tờ hịch văn đưa đến trấn thành, Xin liệt vị phụng hành cấp tốc.
Chương 6: Hồi 6 Bấm để xem Trương Phi tế ngựa xấn vào cửa quan, nhưng tên và đá bắn xuống như mưa, không thể nào tiến vào được, phải quay ngựa trở về. Chư hầu tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi lại sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng. Thiệu bèn đưa tờ hịch đến Tôn Kiên bảo Kiên tiến binh. Tôn Kiên liền đem Hoàng Cái, Trình Phổ, đến trại Viên Thuật, rồi cầm gậy vạch xuống đất nói rằng: - Ðổng Trác với tôi thật không có hằn thù gì, nay tôi không nghĩ gì đến thân, xông pha mũi tên hòn đạn để trừ hắn, trước vì nước nhà, sau để báo thù riêng cho nhà tướng quân (trỏ Viên Ngỗi), thế mà tướng quân nghe lời gièm pha, không phát lương cho tôi, để đến nỗi tôi bị thua, sao tướng quân đành lòng thế được? Thuật thấy vậy, sợ hãi không biết nói sao, bèn sai đem chém người gièm, để tạ lỗi Tôn Kiên. Khi ấy bỗng có người đến báo với Kiên rằng: - Trên cửa ải có một tướng cưỡi ngựa đến trại, muốn vào hầu tướng quân. Kiên từ giã Thuật về trại, gọi hỏi ai, hóa ra viên tướng yêu của Ðổng Trác, tên là Lý Thôi. Kiên hỏi: - Ngươi lại đây làm gì? Lý Thôi nói: - Thừa tướng chỉ kính trọng tướng quân thôi! Nay thừa tướng muốn kết thân với tướng quân; thừa tướng có một cô con gái muốn gả cho con trai tướng quân. Tôn Kiên nổi giận mắng rằng: - Ðổng Trác là thằng nghịch thiên vô đạo, làm xã tắc nghiêng đổ, ta muốn giết cả chín họ nhà hắn đi để tạ thiên hạ, sao lại thèm kết thân với hắn! Ta tha chém cho ngươi, ngươi về mau đem dâng cửa ải cho ta. Mau mau lên! Chậm thì ta băm xương ra bây giờ! Lý Thôi lủi thủi ra về, kể với Ðổng Trác. Trác giận lắm, bèn hỏi Lý Nho. Nho nói: - Lữ Ôn Hầu thua trận mới về, quân sĩ ngã lòng cả, không có bụng đánh nhau nữa. Nay nên kéo quân về Lạc Dương, đem vua sang Trường An, để ứng vào lời đồng giao mấy hôm nay có nói rằng: Mé Tây một nhà Hán. Mé Ðông một nhà Hán. Hươu chạy về Trường An, Mới khỏi phải gặp nạn. Mé Tây một nhà Hán nghĩa là: Đức Cao Tổ ngày xưa đóng đô ở Trường An, truyền ngôi được mười hai vua. Mé Ðông một nhà Hán nghĩa là: Vua Quang Vũ đóng đô ở Lạc Dương, cũng truyền ngôi được mười hai vua. Thế là vận trời xoay vần. Nay thừa tướng lại lên thiên đô về Trường An, mới khỏi lo được. Trác mừng nói rằng: - Ngươi không nói thì ta không biết! Trác bèn đem Lữ Bố về Lạc Dương, rồi hội ngay các quan văn võ để bàn việc thiên đô. Khi các quan đã đến đông. Trác nói rằng: - Nhà Hán ta ở Lạc Dương, hơn hai trăm năm nay, khí số đã hết. Ta xem bây giờ vương khí tụ ở Trường An. Vậy ta muốn rước vua về đó, các quan nên gấp rút sắm sửa hành trang. Tư Ðồ là Dương Bưu nói rằng: - Trường An bị tàn phá đã lâu rồi. Nay bỗng dưng ta bỏ cả tôn miếu, hoàng lăng mà đi sang đó, tôi sề rằng thiên hạ kinh động, mà thiên hạ kinh động lên thì dễ, yên lại thì khó. Xin Thừa Tướng hãy xét cho kỹ. Trác giận mắng Dương Bưu: - Ngươi lại dám ngăn trở việc lớn nước nhà à? Thái Úy là Hoàng Uyển cũng nói rằng: - Dương Tư Ðồ nói thế phải đấy: Trước kia trong lúc Vương Mãng thoán nghịch, kế đến Canh Thủy, Xích Mi nổi loạn, Trường An bị đốt cháy thành ra tro sỏi. Vả lại nhân dân xiêu tán, trăm phần không còn một hai phần. Tôi nghĩ không nên bỏ cả cung điện ở đây mà đi chỗ đất hoang ấy. Trác nói: - Tại Lạc Dương đây trộm giặc nhiều lắm, nhân dân loạn lạc, đi mất cả. Trường An có núi Hào, núi Hàm hiểm trở; lại gần Lũng Hữu, đá gỗ và gạch ngói dễ kiếm, sửa sang cung thất độ hơn một tháng thì xong, không ai được nói lôi thôi nữa! Tư Ðồ là Tuân Sảng lại can rằng: - Thừa Tướng thiên đô đi thì thiên hạ tất sẽ nhiễu động ngay. Trác tức mình gắt rằng: - Ta vì thiên hạ mà lo việc thiên đô, có xá gì những đứa tiểu nhân! Ngay hôm ấy Trác cách chức Dương Bưu, Hoàng Uyển, Tuân Sảng, giáng xuống làm thứ dân. Trác trở ra lên xe, thấy có hai người đứng trước vái, trông ra thì là Thượng Thư Chu Bật và Hiệu Úy Ngũ Quỳnh, Trác hỏi có việc gì. Bật nói: - Chúng tôi nghe thừa tướng muốn thiên đô, nên lại can ngăn. Trác giận nói: - Trước ta nghe hai ngươi, dùng Viên Thiệu cho hắn làm quan, bây giờ hắn làm phản. Thế ra hắn với các ngươi cùng một đảng! Nói rồi, Trác sai võ sĩ đem Chu Bật, Ngũ Quỳnh ra cửa phủ chém, rồi hạ lệnh thiên đô, hạn đến ngày hôm sau phải đi. Lý Nho xui Ðổng Trác: - Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giàu, ta nên tịch thu của cải, lấy phát lương cho quân. Phàm bao nhiêu môn hạ Viên Thiệu ngày trước, nên đem giết cả đi để lấy của, sẽ thu được vô số. Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt cả những người giàu ở Lạc Dương, cả thẩy mấy ngàn hộ, mỗi người cắm một lá cờ lên đầu, để bốn chữ "Phản Thần Nghịch Đảng" rồi đem ra ngoài chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ, bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Trường An, cứ mỗi một toán dân lại cho một đội quân đi đàn áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Lại cho quân sĩ đi hãm hiếp đàn bà con gái, cướp hết lương thực của dân, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc: Quân lính cầm đao, giết người ngay ở giữa đường. Lúc Trác ra đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân chúng, và tôn miếu, cung phủ; Nam, Bắc hai cung, lửa khói mù mịt; bao nhiêu cung cấm hóa ra tro cả. Trác lại sai Lữ Bố khai quật hết cả những lăng tiên hoàng, hậu phi để lấy vàng bạc châu báu. Quân sĩ thấy vậy cũng thừa thế đào mả các nhà quan, nhà dân. Ðổng Trác sai xếp những đồ vàng bạc vóc nhiễu được vài ngàn xe, rồi bức thiên tử và hậu phi phải sang Trường An. Tướng Ðổng Trác tên là Triệu Xầm, thấy Trác đã bỏ Lạc Dương, bèn dâng ngay cửa Dĩ Thủy cho Tôn Kiên. Kiên kéo binh vào trước. Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi vào cửa Hổ Lao; chư hầu cũng dẫn quân vào cả. Tôn Kiên đi đến Lạc Dương thấy trong thành lửa cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bốc lên tận trời; dưới đất khói đen mù mịt; trong một quãng hai ba trăm dặm, tịnh không có tiếng gà kêu chó cắn. Ðầu tiên Kiên sai quân vào dập lửa, đoạn ra lệnh cho chư hầu đến đóng quân mã ở trên bãi đất hoang. Tào Tháo đến, thấy Viên Thiệu cũng ở đấy, bèn hỏi rằng: - Nay Ðổng tặc đã kéo về Trường An rồi, ta nên thừa thế mà đuổi theo bắt hắn mới phải, Bản Sơ lại đóng quân ở đây, là ý làm sao? Thiệu nói: - Chư hầu đều mỏi mệt cả, đuổi theo, tôi sợ không được việc gì. Tháo nói: - Ðổng tặc đốt cung thất, bức vua thiên đô; trong nước rối động, dân không biết theo ai. Ðó là lúc trời hại hắn đấy, nhân lúc nầy chỉ đánh một trận là yên thiên hạ, sao các ông không đánh? Chư hầu đều nói: - Ta không nên khinh động! Tháo giận nói rằng: - Ðồ trẻ con cả, không đáng cùng mưu đồ việc lớn! Nói rồi tự dẫn hơn một vạn quân, sai Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Lý Ðiển, Nhạc Tiếu, luôn ngày đêm đuổi theo Ðổng Trác. Khi Ðổng Trác đi đến Vinh Dương, Thái Thú là Từ Vinh ra tiếp. Lý Nho nói: - Thừa Tướng mới đi khỏi Lạc Dương, tôi sợ có quân đuổi theo nên sai Từ Vinh phục quân ở bên cạnh núi ngoài thành; hễ có quân đuổi theo đi qua thì cứ để cho đi, đợi khi nào đi khỏi chỗ quân phục, trong này ta đánh trở ra, hắn tất thua chạy, bấy giờ ông sẽ đánh chẹn đường, còn quân đi sau tất không dám đánh đuổi nữa. Trác nghe kế ấy, sai Lữ Bố đem tinh binh đi chặn hậu. Bố đang đi bỗng có một toán quân Tào xấn đến. Bố cười nói rằng: - Lý Nho đoán không nhầm! Bố đem quân mã bày dàn, Tào Tháo tế ngựa lên gọi to: - Nghịch tặc! Bây bức thiên tử và đem trăm họ đi đâu? Lữ Bố mắng rằng: - Tên phản chủ kia, sao dám nói càn? Hạ Hầu Ðôn vác giáo nhảy ngựa, xông thẳng vào để đâm Lữ Bố. Ðôn với Bố đánh nhau được vài hiệp. Lý Thôi dẫn một đội quân từ bên tả kéo ra. Tháo lại sai Hạ Hầu Uyên ra địch. Lúc bấy giờ lại thấy ở bên hữu có tiếng reo. Quách Dĩ kéo quân ra. Tháo sai Tào Nhân ra địch, nhưng đằng kia ba mặt quân mã đánh dồn lại, thế khó đương nổi. Hạ Hầu Ðôn chống với Lữ Bố không lại, phi ngựa chạy về. Bố thúc quân vào đánh gấp. Quân Tháo thua chạy kéo về Vinh Dương. Khi chạy đến dưới sườn núi, bấy giờ đã canh hai, trăng sáng như ban ngày, Tháo sắp sửa hội quân lại làm bếp thổi cơm ăn, bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo ầm ầm; quân phục của Từ Vinh xông ra. Tào Tháo vội vàng tế ngựa cướp đường chạy trốn; không ngờ gặp ngay Từ Vinh, Tháo lại quay đầy chạy, Vinh giương cung bắn một phát tên trúng ngay vào vai Tháo. Tháo vừa đeo tên vừa chạy; chạy qua một rặng núi, có hai tên lính phục trong đám cỏ, trông thấy ngựa Tháo đi đến, hai ngọn giáo cùng phóng ra. May đâu một tướng vừa tế ngựa đến, múa đao chém chết hai tên lính, cứu được Tào Tháo. Tháo trông xem ai thì là Tào Hồng. Tháo bảo Hồng rằng: - Thôi! Ta đành chết ở đây, hiền đệ nên trốn đi mau. Hồng nói rằng: - Xin ngài lên ngựa ngay. Tôi tình nguyện đi bộ. Tháo hỏi: - Giặc đuổi đến nơi, ngươi làm thế nào? Hồng nói: - Thiên hạ có thể không có tôi, nhưng thiên hạ không thể không có ngài! Tháo nói: - Ta nếu lại được sống, thực là nhờ ngươi đó! Tháo lên ngựa. Hồng cởi áo giáp, cắp đao chạy theo sau. Chạy đến độ canh tư, chẹn mất đường đi. Ðằng sau nghe thấy tiếng reo hò đã đến nơi. Tháo nói: - Thôi! Mệnh ta đến thế này, sống sao được nữa! Hồng kíp vực Tháo xuống ngựa, cởi áo bào ra, cùng Tháo lội qua sông. Vừa qua đến bờ sông bên kia, quân đuổi cũng vừa đến, tên bắn qua sông như mưa. Tháo cứ mặc cả quần áo ướt, lướt thướt mà chạy, chạy mãi đến mờ mờ sáng, được hơn ba mươi dặm, đến một gò đất mới tạm nghỉ hơi một chốc. Bỗng nghe có tiếng reo, một toán quân mã kéo lại, thì ra Từ Vinh cứ bên kia sông chạy theo lên mạn trên, sang đò đuổi kịp. Trong khi Tháo đương hoảng hốt. Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên vừa đem vài mươi quân kỵ đến, quát to lên rằng: - Từ Vinh, chớ được hại chủ ta! Vinh xông đến đánh Hạ Hầu Ðôn. Ðôn vác giáo đâm Vinh ngã xuống ngựa, rồi đánh tan quân Vinh. Ðằng sau, Tào Nhân, Lý Ðiển, Nhạc Tiến cũng dần dần tìm đến, ra mắt Tào Tháo, nửa lo nửa mừng. Tháo thu thập tàn quân, còn độ năm trăm, kéo về Hà Nội. Tàn quân của Trác chạy về Trường An. Ðây nói ở Lạc Dương, chư hầu chia quân đóng trại. Tôn Kiên dập tắt lửa trong cung, đóng quân trong thành, đặt trướng ngay trên đền Kiến Chương rồi sai quân quét dọn những gạch ngói ở các cung điện. Phàm những lăng tẩm mà Ðổng Trác đã khai quật lên, Kiên sai chôn cất lại cả. Lại cất ba gian điện, lợp cỏ ở trên nền nhà Thái Miếu, đặt linh vị các vua, giết trâu mổ bò, mời chư hầu đến tế. Tế xong rồi, các tướng ai về trại ấy. Kiên về trại, đêm hôm ấy trăng sao vàng vặc. Kiên cầm thanh kiếm ra sân, ngẩng mặt lên xem thiên văn thấy trong tồ tử vi có khí trắng mờ mờ. Kiên than rằng: - Ðế tinh không được tỏ, cho nên tặc thần loạn nước, muôn dân phải lầm than, kinh thành không còn gì nữa. Vừa nói vừa rỏ nước mắt khóc. Bên cạnh có tên lính trỏ tay bảo Kiên rằng: - Kìa, ở phía Nam điện này có hào quang năm sắc, từ dưới đáy giếng bốc lên. Kiên liền sai quân sĩ đốt đuốc xuống giếng tìm xem. Một lát quân mò đem lên được một cái thây người đàn bà chết đã lâu ngày nhưng chưa nát; người này mặc theo lối của cung đình, dưới cổ đeo một cái túi gấm, mở túi ra xem thấy một cái ấn bằng ngọc, vuông bốn tấc, trên núm dấu chạm năm con rồng; bên cạnh có sứt một miếng phải lấy vàng bịt lại; mặt dấu khắc tám chử triện: "Phụ Mệnh Vu Thiên, Ký Thọ Vĩnh Xương" Kiên được ấn ngọc ấy, hỏi Trình Phổ, Phổ nói: - Ðấy là ngọc tỷ truyền quốc. Ngày xưa, Biện Hồ ở dưới núi Kinh Sơn trông thấy chim phượng hoàng đậu ở trên hòn đá, đem đá ấy về tiến vua Văn Vương nước Sở. Lúc phá đá ra trong có hòn ngọc. Ðến đời nhà Tần, năm thứ 26 (221 trước công nguyên) vua Tần sai thề ngọc dũa ra làm ấn quốc bảo. Tám chữ triện viết ở trên mặt ấn là chử Lý Tư. Năm thứ 28 Tần Thủy Hoàng đi tuần đến hồ Ðộng Ðình, gặp sóng to gió lớn, thuyền sắp đắm, vua vội vàng ném ngọc tỷ ấy xuống hồ mới không việc gì. Ðến năm thứ 38, Thủy Hoàng đi tuần đến núi Hoa Âm, đương đi gặp một người tay cầm ngọc tỷ đứng đón đường, đưa cho quân hầu nói rằng: "Ðem cái nầy về trả Tổ Long" Nói xong rồi biến mất. Ấn ngọc ấy lại về nhà Tần. Ðến năm sau, Thủy Hoàng mất. Tử Anh đem ngọc dâng cho Cao Tổ nhà Hán. Ðến lúc Vương Mãng khởi loạn, hoàng hậu vua Hiếu Nguyên cầm ngọc ấy đánh Vương Tầm, Tô Hiến sứt mất một góc, phải lấy vàng bịt vào. Vua Quang Vũ được ấn ngọc ấy ở Nghi Dương, truyền đến bây giờ. Khi mười tên hoạn quan làm loạn, bức đem Thiếu đế ra Bắc Mang, lúc về thấy mất ngọc tỷ. Nay tướng quân lại tìm được, tất là trời cho tướng quân đó. Ðiềm này là điềm báo tướng quân sẽ làm vua. Vậy tướng quân không nên ở lâu chốn nầy, mà nên về ngay Giang Ðông để mưu toan việc lớn! - Ngươi nói chính hợp ý ta. Ngày mai ta sẽ cáo bệnh về. Bàn định xong, Kiên truyền quân sĩ không được nói hở cho ai biết. Không ngờ trong đám quân sĩ có một người cùng làng với Viên Thiệu, biết việc đó, muốn nhân dịp tiến thân, ngay đêm hôm ấy lẻn sang báo với Viên Thiệu. Thiệu thưởng cho người ấy rồi giữ lại ở trong quân. Hôm sau Tôn Kiên sang trại Viên Thiệu để cáo từ, nói rằng: - Tôi hơi khó ở, xin phép về Trường Sa. Thiệu cười nói rằng: - Tôi đã biết bệnh của ông rồi. Bệnh ấy là bệnh ngọc tỷ! Kiên thất sắc, hỏi rằng: - Ai nói với ông thế? Thiệu nói: - Nay chúng ta vì nước đánh giặc. Ngọc tỷ là của báu triều đình, ông bắt được, nên ở chỗ minh chủ, đợi khi nào giết được Ðổng Trác, thì đem trả lại cho nhà vua. Nay ông giấu ấn ấy mà bỏ đi, định làm gì? Kiên cứ chối: - Ngọc tỷ làm gì có ở tôi? Thiệu nói: - Cái gì bắt được ở đáy giếng đền Kiến Chương, bây giờ ở đâu? Kiên nói: - Tôi không có của ấy cưỡng bức nhau làm gì thế? Thiệu nói: - Mau mau bỏ ra đây, kẻo vạ vào thân bây giờ! Kiên trỏ tay lên trời thề rằng: - Tôi được của ấy mà giấu đi, thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn. Các tướng đều nói rằng: - Văn Ðài đã thề như thế, chắc là không bắt được ngọc tỷ. Thiệu gọi người làm chứng ra, hỏi Tôn Kiên rằng: - Lúc mò được ngọc, có người này ở đấy không? Kiên giận lắm, rút ngay kiếm ra, định chém người ấy. Thiệu cũng rút kiếm ra bảo rằng: - Hễ ngươi chém hắn thì ngươi dối ta. Nhan Lương, Văn Sú đứng sau lưng Viên Thiệu cũng rút kiếm ra. Sau lưng Tôn Kiên, Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, cũng cầm đao lăm lăm ở trong tay. Các tướng đều xúm lại can đôi bên. Kiên lập tức trở ra, lên ngựa về nhổ trại, bỏ Lạc Dương đi. Thiệu giận lắm, liền viết một lá thư, sai người tâm phúc ngay đêm hôm ấy đem sang Kinh Châu, đưa cho quan Thứ Sử là Lưu Biểu, sai Biểu chẹn đường Kiên, lấy lại ngọc tỷ. Hôm sau có người báo rằng: - Tào Tháo đuổi Ðổng Trác, đánh nhau ở Vinh Dương thua to trở về. Thiệu bèn sai người đón Tháo vào trại, ở tiệc rượu cùng với Tháo giải phiền. Trong khi uống rượu, Tào Tháo than rằng: - Ta trước kia khởi nghĩa lớn, cốt là muốn vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng trượng nghĩa mà đến với tôi, ỵ tôi muốn phiền Bản Sơn đem quân Hà Nội sang đóng ở Mạch Tân; còn các quân Toan, Táo cứ giữ vững Thành Cao, giữ cửa ải Ngao Thương, ngăn Hoàn Viên, Ðại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu. Còn Công Lộ đem quân Nam Dương sang đóng ở Ðan Triết, tiến vào cửa Vũ Quan, để cho cái uy thế ở Tam Phụ to lên. Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau, chỉ giữ làm nghi binh, để thiên hạ trông rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ gian, thì việc lớn có thể định ngay được. Thế mà các ông dùng dằng mãi chẳng tiến quân, làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, tôi lấy làm xấu hổ quá! Lũ Thiệu không ai nói câu gì. Một chốc tiệc tan. Tháo thấy lũ Thiệu mỗi người một bụng, nghĩ cũng không làm được việc lớn, bèn tự kéo quân về Dương Châu. Công Tôn Toản thấy tình cảnh thế, cũng chán. Một bữa Toản bảo với Lưu, Quan, Trương: - Tôi xem Viên Thiệu không làm nên được trò trống gì đâu; ở lâu tất sinh biến, chi bằng chúng ta hãy về. Bèn nhổ trại về phía Bắc. Ði đến huyện Bình Nguyên, Toản sai Lưu Bị làm tướng ở đó, giữ lấy đất, nuôi lấy quân. Thái Thú Duyện Châu Lưu Ðại, thiếu lương hỏi vay Thái Thú Ðông Quận là Kiều Mạo, Mạo không cho vay, Ðại đem quân xông vào dinh Mạo, giết Mạo rồi thu phục quân sĩ và thu hết của quân lương. Viên Thiệu thấy chư hầu mỗi người đi một ngả, cũng rời Lạc Dương kéo quân về Quan Ðông. Thứ Sử Kinh Châu là Lưu Biểu, bắt được thư của Viên Thiệu xin đem quân chẹn đường Tôn Kiên, liền sai ngay Khoái Việt và Sái Mạo dẫn một vạn quân ra đón đường đánh Kiên. Lưu Biểu, tên chữ là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương, cũng là tôn thân nhà Hán. Lúc còn nhỏ, Biểu kết bạn với bảy danh sĩ, bấy giờ người ta gọi là "Giang Hạ bát tuấn". Trong tám người ấy thì một người là Lưu Biểu, còn tám người nữa là: 1- Trần Tường; 2- Phạm Phang; 3- Khổng Giực; 4- Phạm Khang; 5- Ðàn Phu; 6- Trương Kiệm; 7- Sầm Hĩnh. Biểu cùng bảy người ấy kết làm bạn, nhưng ngoài ra còn có mấy người phù tá. Một là Khoái Lương, người ở Diên Bình, hai là Khoái Việt cũng người ở Diên Bình, ba là Sái Mạo người ở Tương Dương. Khoái Việt, Sái Mạo dẫn một vạn quân ra chặn đường Tôn Kiên vừa đến đó, Khoái Việt bày trận rồi nhảy ngựa ra. Kiên thấy Việt, hỏi rằng: - Khoái Việt cớ sao chẹn đường ta? Việt nói: - Ngươi đã làm tôi nhà Hán, sao được giấu ngọc tỷ truyền quốc? Ðưa ra ngay ra đây, ta sẽ cho đi. Kiên tức lắm, sai ngay Hoàng Cái ra đánh. Sái Mạo múa đao lại địch. Ðược vài hiệp, Cái hoa ngọn roi, đánh trúng ngay miếng kính che ngực Mạo. Mạo quay đầu ngựa chạy. Kiên thừa thế đuổi đánh khỏi cửa ô. Lúc bấy giờ, ở trong núi bỗng thấy chiêng trống khua rầm lên. Thì ra Lưu Biểu vừa dẫn quân đến. Kiên ngồi trên ngựa chào hỏi tử tế, rồi nói với Lưu Biểu rằng: - Ta với Cảnh Thăng là láng giềng với nhau. Sao Cảnh Thăng lại nở tin lời Viên Thiệu và xử tệ với ta làm vậy? Biểu nói: - Nhà ngươi dấu quốc bảo, muốn làm phản à? Kiên lại thề: - Ta mà có của ấy ở trong mình, xin chết ở dưới mũi tên viên đạn. Biểu nói: - Muốn cho ta tin, nhà ngươi phải để cho ta khám cả đồ hành Lý. Kiên nổi khùng, mắng Lưu Biểu rằng: - Tài sức ngươi thấm vào đâu, mà dám khinh ta! Hai bên sắp sửa giao binh đánh nhau. Lưu Biểu lui ngay. Kiên thấy vậy thả ngựa sấn lại. Bấy giờ quân phục ở sau hai rặng núi kéo ồ ra; sau lưng Khoái Việt, Sái Mạo ập lại, vây bọc lấy Tôn Kiên ở giữa trận. Thế rõ thực là: Ngọc tỷ đem về không dùng được, Lại vì của ấy động binh đao. Chưa biết Tôn Kiên làm thế nào mà thoát được thân, xem hồi sau sẽ rõ. Trương Phi tế ngựa xấn vào cửa quan, nhưng tên và đá bắn xuống như mưa, không thể nào tiến vào được, phải quay ngựa trở về. Chư hầu tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi lại sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng. Thiệu bèn đưa tờ hịch đến Tôn Kiên bảo Kiên tiến binh. Tôn Kiên liền đem Hoàng Cái, Trình Phổ, đến trại Viên Thuật, rồi cầm gậy vạch xuống đất nói rằng: - Ðổng Trác với tôi thật không có hằn thù gì, nay tôi không nghĩ gì đến thân, xông pha mũi tên hòn đạn để trừ hắn, trước vì nước nhà, sau để báo thù riêng cho nhà tướng quân (trỏ Viên Ngỗi), thế mà tướng quân nghe lời gièm pha, không phát lương cho tôi, để đến nỗi tôi bị thua, sao tướng quân đành lòng thế được? Thuật thấy vậy, sợ hãi không biết nói sao, bèn sai đem chém người gièm, để tạ lỗi Tôn Kiên. Khi ấy bỗng có người đến báo với Kiên rằng: - Trên cửa ải có một tướng cưỡi ngựa đến trại, muốn vào hầu tướng quân. Kiên từ giã Thuật về trại, gọi hỏi ai, hóa ra viên tướng yêu của Ðổng Trác, tên là Lý Thôi. Kiên hỏi: - Ngươi lại đây làm gì? Lý Thôi nói: - Thừa tướng chỉ kính trọng tướng quân thôi! Nay thừa tướng muốn kết thân với tướng quân; thừa tướng có một cô con gái muốn gả cho con trai tướng quân. Tôn Kiên nổi giận mắng rằng: - Ðổng Trác là thằng nghịch thiên vô đạo, làm xã tắc nghiêng đổ, ta muốn giết cả chín họ nhà hắn đi để tạ thiên hạ, sao lại thèm kết thân với hắn! Ta tha chém cho ngươi, ngươi về mau đem dâng cửa ải cho ta. Mau mau lên! Chậm thì ta băm xương ra bây giờ! Lý Thôi lủi thủi ra về, kể với Ðổng Trác. Trác giận lắm, bèn hỏi Lý Nho. Nho nói: - Lữ Ôn Hầu thua trận mới về, quân sĩ ngã lòng cả, không có bụng đánh nhau nữa. Nay nên kéo quân về Lạc Dương, đem vua sang Trường An, để ứng vào lời đồng giao mấy hôm nay có nói rằng: Mé Tây một nhà Hán. Mé Ðông một nhà Hán. Hươu chạy về Trường An, Mới khỏi phải gặp nạn. Mé Tây một nhà Hán nghĩa là: Đức Cao Tổ ngày xưa đóng đô ở Trường An, truyền ngôi được mười hai vua. Mé Ðông một nhà Hán nghĩa là: Vua Quang Vũ đóng đô ở Lạc Dương, cũng truyền ngôi được mười hai vua. Thế là vận trời xoay vần. Nay thừa tướng lại lên thiên đô về Trường An, mới khỏi lo được. Trác mừng nói rằng: - Ngươi không nói thì ta không biết! Trác bèn đem Lữ Bố về Lạc Dương, rồi hội ngay các quan văn võ để bàn việc thiên đô. Khi các quan đã đến đông. Trác nói rằng: - Nhà Hán ta ở Lạc Dương, hơn hai trăm năm nay, khí số đã hết. Ta xem bây giờ vương khí tụ ở Trường An. Vậy ta muốn rước vua về đó, các quan nên gấp rút sắm sửa hành trang. Tư Ðồ là Dương Bưu nói rằng: - Trường An bị tàn phá đã lâu rồi. Nay bỗng dưng ta bỏ cả tôn miếu, hoàng lăng mà đi sang đó, tôi sề rằng thiên hạ kinh động, mà thiên hạ kinh động lên thì dễ, yên lại thì khó. Xin Thừa Tướng hãy xét cho kỹ. Trác giận mắng Dương Bưu: - Ngươi lại dám ngăn trở việc lớn nước nhà à? Thái Úy là Hoàng Uyển cũng nói rằng: - Dương Tư Ðồ nói thế phải đấy: Trước kia trong lúc Vương Mãng thoán nghịch, kế đến Canh Thủy, Xích Mi nổi loạn, Trường An bị đốt cháy thành ra tro sỏi. Vả lại nhân dân xiêu tán, trăm phần không còn một hai phần. Tôi nghĩ không nên bỏ cả cung điện ở đây mà đi chỗ đất hoang ấy. Trác nói: - Tại Lạc Dương đây trộm giặc nhiều lắm, nhân dân loạn lạc, đi mất cả. Trường An có núi Hào, núi Hàm hiểm trở; lại gần Lũng Hữu, đá gỗ và gạch ngói dễ kiếm, sửa sang cung thất độ hơn một tháng thì xong, không ai được nói lôi thôi nữa! Tư Ðồ là Tuân Sảng lại can rằng: - Thừa Tướng thiên đô đi thì thiên hạ tất sẽ nhiễu động ngay. Trác tức mình gắt rằng: - Ta vì thiên hạ mà lo việc thiên đô, có xá gì những đứa tiểu nhân! Ngay hôm ấy Trác cách chức Dương Bưu, Hoàng Uyển, Tuân Sảng, giáng xuống làm thứ dân. Trác trở ra lên xe, thấy có hai người đứng trước vái, trông ra thì là Thượng Thư Chu Bật và Hiệu Úy Ngũ Quỳnh, Trác hỏi có việc gì. Bật nói: - Chúng tôi nghe thừa tướng muốn thiên đô, nên lại can ngăn. Trác giận nói: - Trước ta nghe hai ngươi, dùng Viên Thiệu cho hắn làm quan, bây giờ hắn làm phản. Thế ra hắn với các ngươi cùng một đảng! Nói rồi, Trác sai võ sĩ đem Chu Bật, Ngũ Quỳnh ra cửa phủ chém, rồi hạ lệnh thiên đô, hạn đến ngày hôm sau phải đi. Lý Nho xui Ðổng Trác: - Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giàu, ta nên tịch thu của cải, lấy phát lương cho quân. Phàm bao nhiêu môn hạ Viên Thiệu ngày trước, nên đem giết cả đi để lấy của, sẽ thu được vô số. Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt cả những người giàu ở Lạc Dương, cả thẩy mấy ngàn hộ, mỗi người cắm một lá cờ lên đầu, để bốn chữ "Phản Thần Nghịch Đảng" rồi đem ra ngoài chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ, bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Trường An, cứ mỗi một toán dân lại cho một đội quân đi đàn áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Lại cho quân sĩ đi hãm hiếp đàn bà con gái, cướp hết lương thực của dân, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc: Quân lính cầm đao, giết người ngay ở giữa đường. Lúc Trác ra đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân chúng, và tôn miếu, cung phủ; Nam, Bắc hai cung, lửa khói mù mịt; bao nhiêu cung cấm hóa ra tro cả. Trác lại sai Lữ Bố khai quật hết cả những lăng tiên hoàng, hậu phi để lấy vàng bạc châu báu. Quân sĩ thấy vậy cũng thừa thế đào mả các nhà quan, nhà dân. Ðổng Trác sai xếp những đồ vàng bạc vóc nhiễu được vài ngàn xe, rồi bức thiên tử và hậu phi phải sang Trường An. Tướng Ðổng Trác tên là Triệu Xầm, thấy Trác đã bỏ Lạc Dương, bèn dâng ngay cửa Dĩ Thủy cho Tôn Kiên. Kiên kéo binh vào trước. Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi vào cửa Hổ Lao; chư hầu cũng dẫn quân vào cả. Tôn Kiên đi đến Lạc Dương thấy trong thành lửa cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bốc lên tận trời; dưới đất khói đen mù mịt; trong một quãng hai ba trăm dặm, tịnh không có tiếng gà kêu chó cắn. Ðầu tiên Kiên sai quân vào dập lửa, đoạn ra lệnh cho chư hầu đến đóng quân mã ở trên bãi đất hoang. Tào Tháo đến, thấy Viên Thiệu cũng ở đấy, bèn hỏi rằng: - Nay Ðổng tặc đã kéo về Trường An rồi, ta nên thừa thế mà đuổi theo bắt hắn mới phải, Bản Sơ lại đóng quân ở đây, là ý làm sao? Thiệu nói: - Chư hầu đều mỏi mệt cả, đuổi theo, tôi sợ không được việc gì. Tháo nói: - Ðổng tặc đốt cung thất, bức vua thiên đô; trong nước rối động, dân không biết theo ai. Ðó là lúc trời hại hắn đấy, nhân lúc nầy chỉ đánh một trận là yên thiên hạ, sao các ông không đánh? Chư hầu đều nói: - Ta không nên khinh động! Tháo giận nói rằng: - Ðồ trẻ con cả, không đáng cùng mưu đồ việc lớn! Nói rồi tự dẫn hơn một vạn quân, sai Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Lý Ðiển, Nhạc Tiếu, luôn ngày đêm đuổi theo Ðổng Trác. Khi Ðổng Trác đi đến Vinh Dương, Thái Thú là Từ Vinh ra tiếp. Lý Nho nói: - Thừa Tướng mới đi khỏi Lạc Dương, tôi sợ có quân đuổi theo nên sai Từ Vinh phục quân ở bên cạnh núi ngoài thành; hễ có quân đuổi theo đi qua thì cứ để cho đi, đợi khi nào đi khỏi chỗ quân phục, trong này ta đánh trở ra, hắn tất thua chạy, bấy giờ ông sẽ đánh chẹn đường, còn quân đi sau tất không dám đánh đuổi nữa. Trác nghe kế ấy, sai Lữ Bố đem tinh binh đi chặn hậu. Bố đang đi bỗng có một toán quân Tào xấn đến. Bố cười nói rằng: - Lý Nho đoán không nhầm! Bố đem quân mã bày dàn, Tào Tháo tế ngựa lên gọi to: - Nghịch tặc! Bây bức thiên tử và đem trăm họ đi đâu? Lữ Bố mắng rằng: - Tên phản chủ kia, sao dám nói càn? Hạ Hầu Ðôn vác giáo nhảy ngựa, xông thẳng vào để đâm Lữ Bố. Ðôn với Bố đánh nhau được vài hiệp. Lý Thôi dẫn một đội quân từ bên tả kéo ra. Tháo lại sai Hạ Hầu Uyên ra địch. Lúc bấy giờ lại thấy ở bên hữu có tiếng reo. Quách Dĩ kéo quân ra. Tháo sai Tào Nhân ra địch, nhưng đằng kia ba mặt quân mã đánh dồn lại, thế khó đương nổi. Hạ Hầu Ðôn chống với Lữ Bố không lại, phi ngựa chạy về. Bố thúc quân vào đánh gấp. Quân Tháo thua chạy kéo về Vinh Dương. Khi chạy đến dưới sườn núi, bấy giờ đã canh hai, trăng sáng như ban ngày, Tháo sắp sửa hội quân lại làm bếp thổi cơm ăn, bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo ầm ầm; quân phục của Từ Vinh xông ra. Tào Tháo vội vàng tế ngựa cướp đường chạy trốn; không ngờ gặp ngay Từ Vinh, Tháo lại quay đầy chạy, Vinh giương cung bắn một phát tên trúng ngay vào vai Tháo. Tháo vừa đeo tên vừa chạy; chạy qua một rặng núi, có hai tên lính phục trong đám cỏ, trông thấy ngựa Tháo đi đến, hai ngọn giáo cùng phóng ra. May đâu một tướng vừa tế ngựa đến, múa đao chém chết hai tên lính, cứu được Tào Tháo. Tháo trông xem ai thì là Tào Hồng. Tháo bảo Hồng rằng: - Thôi! Ta đành chết ở đây, hiền đệ nên trốn đi mau. Hồng nói rằng: - Xin ngài lên ngựa ngay. Tôi tình nguyện đi bộ. Tháo hỏi: - Giặc đuổi đến nơi, ngươi làm thế nào? Hồng nói: - Thiên hạ có thể không có tôi, nhưng thiên hạ không thể không có ngài! Tháo nói: - Ta nếu lại được sống, thực là nhờ ngươi đó! Tháo lên ngựa. Hồng cởi áo giáp, cắp đao chạy theo sau. Chạy đến độ canh tư, chẹn mất đường đi. Ðằng sau nghe thấy tiếng reo hò đã đến nơi. Tháo nói: - Thôi! Mệnh ta đến thế này, sống sao được nữa! Hồng kíp vực Tháo xuống ngựa, cởi áo bào ra, cùng Tháo lội qua sông. Vừa qua đến bờ sông bên kia, quân đuổi cũng vừa đến, tên bắn qua sông như mưa. Tháo cứ mặc cả quần áo ướt, lướt thướt mà chạy, chạy mãi đến mờ mờ sáng, được hơn ba mươi dặm, đến một gò đất mới tạm nghỉ hơi một chốc. Bỗng nghe có tiếng reo, một toán quân mã kéo lại, thì ra Từ Vinh cứ bên kia sông chạy theo lên mạn trên, sang đò đuổi kịp. Trong khi Tháo đương hoảng hốt. Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên vừa đem vài mươi quân kỵ đến, quát to lên rằng: - Từ Vinh, chớ được hại chủ ta! Vinh xông đến đánh Hạ Hầu Ðôn. Ðôn vác giáo đâm Vinh ngã xuống ngựa, rồi đánh tan quân Vinh. Ðằng sau, Tào Nhân, Lý Ðiển, Nhạc Tiến cũng dần dần tìm đến, ra mắt Tào Tháo, nửa lo nửa mừng. Tháo thu thập tàn quân, còn độ năm trăm, kéo về Hà Nội. Tàn quân của Trác chạy về Trường An. Ðây nói ở Lạc Dương, chư hầu chia quân đóng trại. Tôn Kiên dập tắt lửa trong cung, đóng quân trong thành, đặt trướng ngay trên đền Kiến Chương rồi sai quân quét dọn những gạch ngói ở các cung điện. Phàm những lăng tẩm mà Ðổng Trác đã khai quật lên, Kiên sai chôn cất lại cả. Lại cất ba gian điện, lợp cỏ ở trên nền nhà Thái Miếu, đặt linh vị các vua, giết trâu mổ bò, mời chư hầu đến tế. Tế xong rồi, các tướng ai về trại ấy. Kiên về trại, đêm hôm ấy trăng sao vàng vặc. Kiên cầm thanh kiếm ra sân, ngẩng mặt lên xem thiên văn thấy trong tồ tử vi có khí trắng mờ mờ. Kiên than rằng: - Ðế tinh không được tỏ, cho nên tặc thần loạn nước, muôn dân phải lầm than, kinh thành không còn gì nữa. Vừa nói vừa rỏ nước mắt khóc. Bên cạnh có tên lính trỏ tay bảo Kiên rằng: - Kìa, ở phía Nam điện này có hào quang năm sắc, từ dưới đáy giếng bốc lên. Kiên liền sai quân sĩ đốt đuốc xuống giếng tìm xem. Một lát quân mò đem lên được một cái thây người đàn bà chết đã lâu ngày nhưng chưa nát; người này mặc theo lối của cung đình, dưới cổ đeo một cái túi gấm, mở túi ra xem thấy một cái ấn bằng ngọc, vuông bốn tấc, trên núm dấu chạm năm con rồng; bên cạnh có sứt một miếng phải lấy vàng bịt lại; mặt dấu khắc tám chử triện: "Phụ Mệnh Vu Thiên, Ký Thọ Vĩnh Xương" Kiên được ấn ngọc ấy, hỏi Trình Phổ, Phổ nói: - Ðấy là ngọc tỷ truyền quốc. Ngày xưa, Biện Hồ ở dưới núi Kinh Sơn trông thấy chim phượng hoàng đậu ở trên hòn đá, đem đá ấy về tiến vua Văn Vương nước Sở. Lúc phá đá ra trong có hòn ngọc. Ðến đời nhà Tần, năm thứ 26 (221 trước công nguyên) vua Tần sai thề ngọc dũa ra làm ấn quốc bảo. Tám chữ triện viết ở trên mặt ấn là chử Lý Tư. Năm thứ 28 Tần Thủy Hoàng đi tuần đến hồ Ðộng Ðình, gặp sóng to gió lớn, thuyền sắp đắm, vua vội vàng ném ngọc tỷ ấy xuống hồ mới không việc gì. Ðến năm thứ 38, Thủy Hoàng đi tuần đến núi Hoa Âm, đương đi gặp một người tay cầm ngọc tỷ đứng đón đường, đưa cho quân hầu nói rằng: "Ðem cái nầy về trả Tổ Long" Nói xong rồi biến mất. Ấn ngọc ấy lại về nhà Tần. Ðến năm sau, Thủy Hoàng mất. Tử Anh đem ngọc dâng cho Cao Tổ nhà Hán. Ðến lúc Vương Mãng khởi loạn, hoàng hậu vua Hiếu Nguyên cầm ngọc ấy đánh Vương Tầm, Tô Hiến sứt mất một góc, phải lấy vàng bịt vào. Vua Quang Vũ được ấn ngọc ấy ở Nghi Dương, truyền đến bây giờ. Khi mười tên hoạn quan làm loạn, bức đem Thiếu đế ra Bắc Mang, lúc về thấy mất ngọc tỷ. Nay tướng quân lại tìm được, tất là trời cho tướng quân đó. Ðiềm này là điềm báo tướng quân sẽ làm vua. Vậy tướng quân không nên ở lâu chốn nầy, mà nên về ngay Giang Ðông để mưu toan việc lớn! - Ngươi nói chính hợp ý ta. Ngày mai ta sẽ cáo bệnh về. Bàn định xong, Kiên truyền quân sĩ không được nói hở cho ai biết. Không ngờ trong đám quân sĩ có một người cùng làng với Viên Thiệu, biết việc đó, muốn nhân dịp tiến thân, ngay đêm hôm ấy lẻn sang báo với Viên Thiệu. Thiệu thưởng cho người ấy rồi giữ lại ở trong quân. Hôm sau Tôn Kiên sang trại Viên Thiệu để cáo từ, nói rằng: - Tôi hơi khó ở, xin phép về Trường Sa. Thiệu cười nói rằng: - Tôi đã biết bệnh của ông rồi. Bệnh ấy là bệnh ngọc tỷ! Kiên thất sắc, hỏi rằng: - Ai nói với ông thế? Thiệu nói: - Nay chúng ta vì nước đánh giặc. Ngọc tỷ là của báu triều đình, ông bắt được, nên ở chỗ minh chủ, đợi khi nào giết được Ðổng Trác, thì đem trả lại cho nhà vua. Nay ông giấu ấn ấy mà bỏ đi, định làm gì? Kiên cứ chối: - Ngọc tỷ làm gì có ở tôi? Thiệu nói: - Cái gì bắt được ở đáy giếng đền Kiến Chương, bây giờ ở đâu? Kiên nói: - Tôi không có của ấy cưỡng bức nhau làm gì thế? Thiệu nói: - Mau mau bỏ ra đây, kẻo vạ vào thân bây giờ! Kiên trỏ tay lên trời thề rằng: - Tôi được của ấy mà giấu đi, thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn. Các tướng đều nói rằng: - Văn Ðài đã thề như thế, chắc là không bắt được ngọc tỷ. Thiệu gọi người làm chứng ra, hỏi Tôn Kiên rằng: - Lúc mò được ngọc, có người này ở đấy không? Kiên giận lắm, rút ngay kiếm ra, định chém người ấy. Thiệu cũng rút kiếm ra bảo rằng: - Hễ ngươi chém hắn thì ngươi dối ta. Nhan Lương, Văn Sú đứng sau lưng Viên Thiệu cũng rút kiếm ra. Sau lưng Tôn Kiên, Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, cũng cầm đao lăm lăm ở trong tay. Các tướng đều xúm lại can đôi bên. Kiên lập tức trở ra, lên ngựa về nhổ trại, bỏ Lạc Dương đi. Thiệu giận lắm, liền viết một lá thư, sai người tâm phúc ngay đêm hôm ấy đem sang Kinh Châu, đưa cho quan Thứ Sử là Lưu Biểu, sai Biểu chẹn đường Kiên, lấy lại ngọc tỷ. Hôm sau có người báo rằng: - Tào Tháo đuổi Ðổng Trác, đánh nhau ở Vinh Dương thua to trở về. Thiệu bèn sai người đón Tháo vào trại, ở tiệc rượu cùng với Tháo giải phiền. Trong khi uống rượu, Tào Tháo than rằng: - Ta trước kia khởi nghĩa lớn, cốt là muốn vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng trượng nghĩa mà đến với tôi, ỵ tôi muốn phiền Bản Sơn đem quân Hà Nội sang đóng ở Mạch Tân; còn các quân Toan, Táo cứ giữ vững Thành Cao, giữ cửa ải Ngao Thương, ngăn Hoàn Viên, Ðại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu. Còn Công Lộ đem quân Nam Dương sang đóng ở Ðan Triết, tiến vào cửa Vũ Quan, để cho cái uy thế ở Tam Phụ to lên. Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau, chỉ giữ làm nghi binh, để thiên hạ trông rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ gian, thì việc lớn có thể định ngay được. Thế mà các ông dùng dằng mãi chẳng tiến quân, làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, tôi lấy làm xấu hổ quá! Lũ Thiệu không ai nói câu gì. Một chốc tiệc tan. Tháo thấy lũ Thiệu mỗi người một bụng, nghĩ cũng không làm được việc lớn, bèn tự kéo quân về Dương Châu. Công Tôn Toản thấy tình cảnh thế, cũng chán. Một bữa Toản bảo với Lưu, Quan, Trương: - Tôi xem Viên Thiệu không làm nên được trò trống gì đâu; ở lâu tất sinh biến, chi bằng chúng ta hãy về. Bèn nhổ trại về phía Bắc. Ði đến huyện Bình Nguyên, Toản sai Lưu Bị làm tướng ở đó, giữ lấy đất, nuôi lấy quân. Thái Thú Duyện Châu Lưu Ðại, thiếu lương hỏi vay Thái Thú Ðông Quận là Kiều Mạo, Mạo không cho vay, Ðại đem quân xông vào dinh Mạo, giết Mạo rồi thu phục quân sĩ và thu hết của quân lương. Viên Thiệu thấy chư hầu mỗi người đi một ngả, cũng rời Lạc Dương kéo quân về Quan Ðông. Thứ Sử Kinh Châu là Lưu Biểu, bắt được thư của Viên Thiệu xin đem quân chẹn đường Tôn Kiên, liền sai ngay Khoái Việt và Sái Mạo dẫn một vạn quân ra đón đường đánh Kiên. Lưu Biểu, tên chữ là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương, cũng là tôn thân nhà Hán. Lúc còn nhỏ, Biểu kết bạn với bảy danh sĩ, bấy giờ người ta gọi là "Giang Hạ bát tuấn". Trong tám người ấy thì một người là Lưu Biểu, còn tám người nữa là: 1- Trần Tường; 2- Phạm Phang; 3- Khổng Giực; 4- Phạm Khang; 5- Ðàn Phu; 6- Trương Kiệm; 7- Sầm Hĩnh. Biểu cùng bảy người ấy kết làm bạn, nhưng ngoài ra còn có mấy người phù tá. Một là Khoái Lương, người ở Diên Bình, hai là Khoái Việt cũng người ở Diên Bình, ba là Sái Mạo người ở Tương Dương. Khoái Việt, Sái Mạo dẫn một vạn quân ra chặn đường Tôn Kiên vừa đến đó, Khoái Việt bày trận rồi nhảy ngựa ra. Kiên thấy Việt, hỏi rằng: - Khoái Việt cớ sao chẹn đường ta? Việt nói: - Ngươi đã làm tôi nhà Hán, sao được giấu ngọc tỷ truyền quốc? Ðưa ra ngay ra đây, ta sẽ cho đi. Kiên tức lắm, sai ngay Hoàng Cái ra đánh. Sái Mạo múa đao lại địch. Ðược vài hiệp, Cái hoa ngọn roi, đánh trúng ngay miếng kính che ngực Mạo. Mạo quay đầu ngựa chạy. Kiên thừa thế đuổi đánh khỏi cửa ô. Lúc bấy giờ, ở trong núi bỗng thấy chiêng trống khua rầm lên. Thì ra Lưu Biểu vừa dẫn quân đến. Kiên ngồi trên ngựa chào hỏi tử tế, rồi nói với Lưu Biểu rằng: - Ta với Cảnh Thăng là láng giềng với nhau. Sao Cảnh Thăng lại nở tin lời Viên Thiệu và xử tệ với ta làm vậy? Biểu nói: - Nhà ngươi dấu quốc bảo, muốn làm phản à? Kiên lại thề: - Ta mà có của ấy ở trong mình, xin chết ở dưới mũi tên viên đạn. Biểu nói: - Muốn cho ta tin, nhà ngươi phải để cho ta khám cả đồ hành Lý. Kiên nổi khùng, mắng Lưu Biểu rằng: - Tài sức ngươi thấm vào đâu, mà dám khinh ta! Hai bên sắp sửa giao binh đánh nhau. Lưu Biểu lui ngay. Kiên thấy vậy thả ngựa sấn lại. Bấy giờ quân phục ở sau hai rặng núi kéo ồ ra; sau lưng Khoái Việt, Sái Mạo ập lại, vây bọc lấy Tôn Kiên ở giữa trận. Thế rõ thực là: Ngọc tỷ đem về không dùng được, Lại vì của ấy động binh đao. Chưa biết Tôn Kiên làm thế nào mà thoát được thân, xem hồi sau sẽ rõ.
Chương 7: Hồi 7 Bấm để xem Nhắc lại Tôn Kiên đang bị quân Lưu Biểu vây ngặt, may nhờ có ba tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương đánh phá vòng vây cứu thoát. Tôn Kiên thu góp tàn quân thấy hao hơn phân nữa, liền kéo về Giang Ðông. Và, từ đấy Tôn Kiên ôm mối hận với Lưu Biểu. Bấy giờ, Viên Thiệu đóng quân ở Hà nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu cấp cho binh lính. Quan Thứ sử Ký Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp. Mưu sĩ Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu: - Ðại trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương? Ký Châu đất rộng dân giàu, sao Tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi? Viên Thiệu nói: - Ta cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay. Phùng Kỷ nói: - Nay ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân đánh Ký Châu, và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào Công Tôn Toản cũng hưng binh. Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản đem quân đánh, thế nào cũng mời Tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức. Chừng ấy Tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì? Viên Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản. Công Tôn Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc, và chia đất Ký Châu, lòng mừng lắm, lập tức khởi binh. Trong lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết. Phúc hoảng sợ, triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị. Tuân Thầm bàn: - Công Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Ðại, đông lắm, nếu kéo binh đến đấy, Ký Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Ðức giúp sức thì chúng ta chống sao nổi? Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế không sợ gì Công Tôn Toản nữa. Hàn Phúc nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu. Quan Trưởng sử Cảnh Vũ vội can: - Không nên. Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẩn, phải nhờ đến chúng ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết. Sao chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn? Làm như thế chẳng khác nào dẫn cọp vào chuồng dê. Hàn Phúc nói: - Ta vốn là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cõi, may được trấn giữ châu quận nầy. Người xưa có nói: "Lựa người tài đức mà nhường ngôi". Huống hồ, ta với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao. Cảnh Vũ than: - Tướng quân đã có Ý như vậy thì Ký Châu coi như đã mất rồi. Hay được việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu. Vài ngày sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn Xủ giết ngay Quan Thuần, Viên Thiệu vào thành Ký Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn Uy tướng quân, rồi cắt đặt cho bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu. Thế là Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc. Hàn Phúc hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu, nương nhờ Thái Thú Trương Mạc. Công Tôn Toản hay tin Viên Thiệu đã chiếm Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt sang gặp Viên Thiệu, yêu cầu chia đất cho mình như lời hứa. Viên Thiệu bảo Công Tôn Việt: - Hãy về mời lệnh huynh sang đây mới tính chuyện ấy được. Công Tôn Việt ra về. Nhưng đi chưa đầy năm mươi dặm, có một toán quân phục xông ra chận đường, và hô lớn: - Ta là gia tướng của Ðổng Thái Sư đây. Dứt lời, quân sĩ dùng cung tên bắt như mưa. Công Tôn Việt không thoát khỏi, phải tử nạn. Những quân tùy tùng chạy thoát về báo rõ sự thể với Công Tôn Toản. Toản đùng đùng nổi giận mắng lớn: - Thằng Viên Thiệu lừa dối, gạt ta đem binh đánh Hàn Phúc, để chiếm trọn Ký Châu. Nay lại cho người giả làm quân Ðổng Trác, hại mạng em ta nữa. Thù nầy không lẽ không báo? Mắng rồi, liền khởi binh bản bộ đi đánh Ký Châu. Viên Thiệu được tin Công Tôn Toản kéo quân tới liền khai thành dẫn quân ra ứng chiến. Hai bên gặp nhau trên sông Bàn Hà. Viên Thiệu thì bố trận nơi đầu cầu phía Ịông, còn Công Tôn Toản thì dàn quân ở đầu phía Tây. Công Tôn Toản cỡi ngựa đứng trên cầu mắng lớn: - Thằng bội nghĩa! Ngươi dám dối gạt ta sao? Viên Thiệu cũng giục ngựa đến đầu cầu chỉ mặt Công Tôn Toản nói: - Hàn Phúc là đứa bất tài, tình nguyện đem Ký Châu giao cho ta, việc ấy can hệ gì đến ngươi. Công Tôn Toản thét lên: - Ngày trước, ta tưởng ngươi là kẻ trung nghĩa, lại con nhà dòng dõi Tam Công nên mới bầu ngươi làm Minh chủ. Ngờ đâu bây giờ ta mới biết ngươi là đồ sài lang! Ngươi còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời này nữa. Viên Thiệu nổi giận quay lại hỏi các tướng: - Ai dám ra bắt tên nghịch tặc ấy? Viên Thiệu vừa dứt lời, Văn Xú đã thúc ngựa vung thương xông thẳng lên cầu. Công Tôn Toản giục ngựa tới đầu cầu giao phong chưa đầy mười hiệp đã đuối sức bỏ chạy. Văn Xú thừa thế đuổi theo. Toản chạy vào giữa trận, Xú đuổi vào tận trung quân, xung đột Ịông Tây như vào chỗ không người, khiến cho đại binh của Công Tôn Toản sợ hãi kéo nhau chạy trốn. Bốn viên tướng thủ hạ của Công Tôn Toản đổ xô ra cự chiến. Văn Xú đâm một thương khiến một tướng bị té xuống ngựa, còn ba tướng kia bỏ chạy. Xú lại đuổi theo Toản ra mãi sau trận. Toản nhìn về phía hẻm núi mà chạy, Xú thúc ngựa đuổi sát tới, nạt lớn: - Mau xuống ngựa đầu hàng đi! Công Tôn Toản sợ quá, chạy đến nỗi rơi hết cung tên mà không hay, cái mũ trên đầu cũng rơi xuống đất, đầu tóc tối bù, cứ phi ngựa theo chân núi mà chạy quanh. Rủi thay, con ngựa lại vấp chân ngã phục xuống, làm cho Toản lăn xuống chân núi. Văn Xú hăm hở cầm thương tới đâm. Trong lúc tính mạng Công Tôn Toản sắp nguy, bỗng từ sau hòn đá cao có một thiếu niên dũng tướng phi ngựa ra, cầm giáo đâm Văn Xú một nhát. Văn Xú vội né mình lùi lại. Công Tôn Toản thừa dịp ấy bò lên sườn núi lánh nạn, và xem thử ai đã cứu mình. Thì ra thiếu niên mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt. Thiếu niên đánh với Văn Xú năm, sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Lúc đó có quân bộ hạ của Toản kéo tới tiếp cứu. Văn Xú vội quay ngựa bỏ chạy. Thiếu niên đuổi theo truy kích, nhưng Công Tôn Toản đã gọi lại để tạ ơn, và hỏi tên họ. Người ấy thi lễ rồi đáp: - Tôi vốn người Chân Ịịnh, huyện Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tự là Tử Long, cũng là người ở địa hạt thuộc quyền Viên Thiệu, nhưng thấy Viên Thiệu không có phò vua cứu nước, nên tôi mới bỏ Thiệu đến đây tìm hầu quan Thái Thú, không ngờ lại được gặp nơi đây. Công Tôn Toản mừng rỡ dắt Triện Vân về trại, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang khôi giáp. Hôm sau, Công Tôn Toản lại chia quân làm hai đội tả hữu, khí thế rất hùng mạnh như đôi cánh đại bàng. Có năm ngàn con ngựa thì quá nửa là ngựa trắng. Nguyên trước kia, khi đánh nhau với rợ Khương, Toản lựa một đoàn kỵ binh cưỡi rặt ngựa trắng đi tiên phong, nổi tiếng là "Bạch Mã tướng quân". Sau nhiều trận bị Toản đánh bại, quân Khương cứ trông thấy ngựa trắng là bỏ chạy. Do đó, Toản có rất nhiều ngựa trắng. Viên Thiệu hay tin, sai Nhan Lương, Văn Xú đi tiên phong, mỗi tướng dẫn một ngàn quân cung nỏ, cũng chia làm hai đội tả hữu, lại truyền lệnh rằng: - Ðội bên tả cứ bắn cánh quân bên hữu của Toản, đội bên hữu thì bắn cánh quân bên tả của Toản. Lại sai Cúc Nghĩa dẫn tám trăm quân cung thủ, hợp với một vạn năm ngàn bộ binh dàn ngay giữa trận. Còn Viên Thiệu thì tự dẫn vài vạn bộ binh theo sau tiếp ứng. Công Tôn Toản mới thu nạp được Triệu Vân, chưa rõ tài sức ra sao, nên sai Triệu Vân dẫn một toán quân đi ứng hậu, rồi sai đại tướng Nghiêm Cương dẫn quân đi tiền đạo. Toản thì thống lãnh trung quân, dừng ngựa trên cầu, bên mình có trương một lá cờ đỏ rất lớn, thêu chữ "Soái" bằng chỉ vàng lóng lánh, bay trước mặt. Công Tôn Toản truyền lệnh giục trống khiêu khích từ giờ Thìn qua đến giờ Tỵ, mà quân Viên Thiệu vẫn không tiến lại. Tướng của Viên Thiệu là Cúc Nghĩa truyền quân cung nỏ phục xuống sau những tấm mộc che tên, dặn khi nào nghe tiếng pháo lệnh mới được bắn. Bên kia, Nghiêm Cương sai đánh trống hò reo vang trời, rồi xông ra đánh Cúc Nghĩa. Quân của Nghiêm Cương đã kéo đến gần, mà quân của Cúc Nghĩa vẫn còn nằm yên không động. Chở cho địch quân đến vừa tầm, Cúc Nghĩa mới đốt lên một tiếng pháo lệnh, tức thì tám trăm tên cung nỏ bắn ra một loạt. Nghiêm Cương thất kinh quay về, nhưng Cúc Nghĩa đã tế ngựa theo, chém Cương một đao lăn xuống ngựa. Quân Toản thua to, hai cánh kỵ binh tả hữu ra cứu ứng đều bị quân cung nỏ của Nhan Lương, Văn Xú chia nhau bắn như mưa. Quân Thiệu nhất tề đồng tiếng lên cầu. Cúc Nghĩa phóng thẳng tới chém chết viên tướng vác cờ. Lá cờ "Soái" của Toản đổ xuống. Toản thấy thế quay ngựa bỏ cầu mà chạy. Cúc Nghĩa dẫn quân xông vào hậu quân của Toản thì gặp ngay Triệu Vân thúc ngựa xông ra cản lại. Ðánh được vài hiệp, Triện Vân đã đâm Cúc Nghĩa một giáo chết lăn, rồi một mình một ngựa xông thẳng vào trung quân của Viên Thiệu, tả xung, hữu đột, chém giết như đi vào chỗ không người. Công Tôn Toản thấy vậy cũng dẫn quân đánh quật trở lại, làm cho quân Viên Thiệu rối loạn, chạy tơi bời. Bấy giờ, Viên Thiệu đang ở phía sau, sai quân đi dò trận thế, được thám mã về báo rằng Cúc Nghĩa đã chém tướng đoạt cờ, đang đuổi giết quân Toản. Thiệu cả mừng, không phòng bị gì nữa, liền cùng Ðiền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài chục tay mã cung, cỡi ngựa ra trước quan sát. Thiệu cười ha hả bảo Công Tôn Toản là kẻ vô dụng. Nhưng trong lúc đang cười nói, bỗng đâu Triện Vân đã phi ngựa đến trước mặt. Quân cung thủ thất kinh vội lắp tên bắn, nhưng tên chưa kịp rời nỏ thì Triện Vân đã xông vào giết một loạt bảy, tám đứa, những tên khác khiếp vía bỏ chạy. Tiếp đó, quân Công Tôn Toản lại ùn ùn kéo đến, bao vây Viên Thiệu. Ðiền Phong thấy thế nguy, liền bảo Viên Thiệu: - Có bức tường đằng kia, mời Chúa công mau tạm lánh vào đó chốc lác. Viên Thiệu đưa tay trật cái mũ đâu mâu ném xuông đất, nói lớn: - Ðại trượng phu đã lâm trận, mong được chết giữa chiến trường, há lại chạy trốn sao? Quân binh của Viên Thiệu thấy thế nức lòng, vác kích xông đến tử chiến. Do đó, Triệu Vân không sao xông vào được. Kế đó lại có đại quân của Thiệu vừa đến kịp, lại thêm Nhan Lương cùng kéo quân tới, hai mặt cùng đánh. Triệu Vân phải bảo hộ Công Tôn Toản phá vòng vây, rút về bên kia đầu cầu. Quân Viên Thiệu lại thừa thế đuổi theo làm cho quân Công Tôn Toản chen nhau qua cầu mà té xuống nước chết vô số. Viên Thiệu xông lên trước, xua quân đuổi Công Tôn Toản. Ðuổi chưa được năm dặm đường, bỗng nghe sau lưng núi có tiếng reo hò vang dậy, rồi một đạo binh hùng hổ kéo ra, đi đầu là ba viên tướng dung mạo phi thường. Thì ra đó là ba anh em Lưu Huyền Ðức. Số là Huyền Ðức ở tại huyện Bình nguyên, nghe tin Công Tôn Toản giao binh với Viên Thiệu, nên đến trợ chiến. Bấy giờ vừa gặp lúc, ba con ngựa phi tới, ba thứ binh khí bay lại phía quân Ký Châu, nhắm thẳng Viên Thiệu mà đánh. Thấy ba anh em Huyền Ðức xuất hiện, Viên Thiệu sợ hãi rụng rời, hồn vía tức thì bay lên mây xanh. Cây bửu đao đang cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào không hay. Thiệu vội quay ngựa chạy một mạch.. Ba quân liều chết hộ vệ Viên Thiệu qua cầu. Công Tôn Toản thu binh về trại. Ba anh em Huyền Ðức vào hỏi thăm, Toản nói: - Nếu không có Huyền Ðức từ xa tới cứu, thì tôi khốn đốn rồi. Kế đó, Công Tôn Toản đem Triệu Vân đến giới thiệu với Huyền Ðức. Vừa trông thấy viên tướng trẻ này, Huyền Ðức đã đem lòng yêu mến, và sau khi trao đổi tâm tình, hai người không muốn rời nhau nữa Còn Viên Thiệu, sau khi thua trận ấy, đành cố thủ không dám ra binh. Công Tôn Toản cứ ít ngày lại đem binh khiêu chiến, nhưng thấy Viên Thiệu không đánh lại rút quân về. Bây giờ, tại triều Ðồng Trác đã xếp đặt công việc tạm ổn, cho người ra ngoài thám thính, mới hay tin Viên Thiệu và Công Tôn Toản đánh nhau đã hơn một tháng trời. LÝ Nhu nói với Ðổng Trác: - Viên Thiệu và Công Tôn Toản đều là hào kiệt trên đời, nay ta mượn chiếu Thiên tử sai người đến giải hòa, như thế tất cả hai người mang ơn và phục tùng Thái Sư. Ðổng Trác khen phải, liền sai quan Thái phó Mã Nhật Ðàn, và quan Thái bộc Triệu Kỳ đem chiếu mệnh ra đi. Hai người nầy cùng qua Hà Bắc một lúc. Viên Thiệu hay tin ra ngoài trăm dặm đón tiếp, lạy hai lạy mà vâng chiếu. Ngày hôm sau, hai người lại đến dinh Công Tôn Toản để hiểu dụ. Công Tôn Toản cũng bằng lòng, viết thư đưa sang Viên Thiệu giải hòa, rồi dâng biếu về triều tiến cử Lưu Huyền Ðức làm Bình Nguyên tướng. Huyền Ðức phải sang Bình Nguyên trấn nhậm nên từ biệt Triệu Vân. Hai người cầm tay nhau nhỏ lệ, không nỡ rời. Triệu Vân than rằng: - Trước đây tôi tưởng Công Tôn Toản là anh hùng, nay xem lại thì Công Tôn Toản cũng chỉ thường tình như Viên Thiệu mà thôi. Huyền Ðức nói: - Thôi, Tử Long hãy chịu khó khuất thân nơi đây, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ. Hai người bùi ngùi giã biệt, lòng lữu luyến không nguôi. Bấy giờ, Viên Thuật ở Nam Dương, nghe tin Viên Thiệu lấy được Ký Châu, vội sai sứ sang xin một ngàn con ngựa. Viên Thiệu không cho nên Viên Thuật oán hận, và từ đó anh em bất hòa nhau. Viên Thuật sai sứ sang Kinh Châu vay của Lưu Biểu hai chục vạn hộc lương. Lưu Biểu cũng không cho, nên Viên Thuật căm giận ngầm sai người mang thư cho Tôn Kiên, xúi Tôn Kiên đánh Lưu Biểu. Ðại lược lá thư ấy như sau: Trước đây, Lưu Biểu chận đường đánh ngày, chính là do kế của anh Bản Sơ tôi. Này tôi lại nghe tin anh Bản Sơ tôi ngầm mưu với Lưu Biểu muốn cùng đánh chiếm Giang Ðông của ông đấy. Vậy ông kíp khởi binh đánh Lưu Biểu. Tôi sẽ giúp ông mà đánh chẹn Bản Sơ. Như thế sẽ báo được hai mối thù. Và, ông chiếm lấy Kinh Châu, tôi chiếm lấy Ký Châu. Xin chờ ông chại ngại.. Tôn Kiên được thư liền nói: - Căm hận thay! Thằng Lưu Biểu trước đây dám chẹn đường về của ta. Nay không nhân cơ hội này mà rửa hận thì còn đợi đến bao giờ nữa. Liền tập họn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàng Dương dưới trướng để bàn luận. Trình Phổ nói: - Viên Thuật là đứa dối trá, không nên tin vội. Tôn Kiên nói: - Không cần! Ta muốn đánh Lưu Biểu một trận báo thù, dẫu Viên Thuật không giúp sức cũng được. Bàn định xong, Tôn Kiên sai Hoàng Cái ra bến sông, sắp đặt chiến thuyền, trang bị khí giới, tích lũy lương thảo, lựa những thuyền thật lớn để chở ngựa, sắp sẵn để bất thần khởi quân. Quân tế tác Kinh Châu hay được vội về báo với Lưu Biểu. Lưu Biểu sợ hãi triệu tập chư tướng bàn kế. Khoái Lương nói: - Việc này không đáng lo, chỉ cần sai Hoàng Tổ đem quân phục ở Giang Hạ làm tiền khu, rồi Chúa công thân hành dẫn đại binh Kinh tương đi làm hậu viện. Chờ cho quân Tôn Kiên mới qua sông mỏi mệt, đánh cho một trận tất quân giặc phải bị thua. Lưu Biểu nghe theo và ra lệnh cho Hoàng Tổ phòng bị ở Giang Hạ, rồi kéo đại binh sắp đặt ứng chiến.. Lại nói về Tôn Kiên vốn có bốn người con trai do Ngô phu nhân sinh ra. Con trưởng tên Sách, tự Bá Phù. Người thứ hai tên Quyền tự là Trọng Mưu. Người thứ ba tên Dực, tự là Thúc Bật. Người thứ tư tên Khuông, tự là QuÝ Tá. Còn người em gái của Ngô phu nhân lại cũng lấy anh rể, tức là vợ thứ của Tôn Kiên. Bà này sinh được một trai một gái. Trai tên là Lãng tự Tảo An, gái là Nhân. Tôn Kiên lại còn nuôi một người con trai họ Du, tên Thiều tự Công Lễ, tức là nghĩa tử Tôn Thiền vậy. Bấy giời, người em ruột của Tôn Kiên là Tôn Tĩnh, tự Ẩu Ðài, thấy anh mình sắp xuất quân, mới dắt cả các con mình ra vái lạy trước ngựa nà can ngăn khuyên giải: - Nay Ðổng Trác chuyên quyền, Thiên tử nhu nhược, nhân dân loạn lạc, các trấn chư hầu mỗi người làm bá một phương. Giang Ðông ta mới yên được ít lâu, theo lẽ phải củng cố binh lực, sao anh lại vì một chút giận nhỏ mà động binh? Xin anh xét lại. Tôn Kiên bảo Tôn Tĩnh - Thôi, em đừng ngăn cản. Anh đang muốn tung hoành khắp thiên hạ, lẽ nào một mối thù nhỏ mà không báo? Con trưởng Tôn Kiên là Tôn Sách nói: - Phụ thân đã quyết đi, con xin cùng đi với. Tôn Kiên nhận lời, dẫn Tôn Sách lên thuyền kép quân đến đánh Phàn thành. Bấy giờ, Hoàng Tổ đã phục sẵn cung nỏ ở bờ sông, thấy chiến thuyền của Tôn Kiên kéo đến, liền ra lệnh bắn như mưa. Tôn Kiên truyền cho quân sĩ không được vội động, cứ phục sát xuống thuyền, rồi cho thuyền chèo lui để dụ địch, đồng thời đánh trống thị uy ba ngày liền. Cứ mỗi ngày thuyền Tôn Kiên lại lượn sát vào bờ, rồi lùi ra xa. Quân của Hoàng Tổ cứ nhắm mắt bắn càn, bắn đến nỗi hết sạch cả tên. Bấy giờ Tôn Kiên mới ra lệnh thu nhặt số tên của địch bắn dính hai bên ven thuyền, ước độ vài chục vạn mũi. Ngày hôm sau, gặp chiều gió thuận, Tôn Kiên sai bắn lên bờ như mưa. Quân trên bờ đã hết tên, lại bị phản công bất ngờ nên ùn ùn bỏ chạy. Tôn Kiên kéo quân lên bờ. Trình Phổ, Hoàng Cái chi ra hai đường đánh thốc vào trại Hoàng Thổ, mặt sau, Hàn Ðương cũng kéo tới nơi. Thế là ba mặt đánh dồn lại. Hoàng Tổ thua to, đành bỏ Phàn thành chạy về Ðặng thành. Tôn Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ các chiến thuyền, còn mình thì thân hành kéo quân truy kích địch. Hoàng Tổ bị Tôn Kiên đuổi theo quá gấp, phải dùng lại bày trận giữa cách đồng, để nghênh địch. Tôn Kiên cũng dàn quân thành trận thế, thúc ngựa ra đứng dước cờ. Tôn Sách, toàn thân khôi giáp gọn ghẽ, cầm giáo đứng sát bên cha. Bên kia, Hoàng Tổ dẫn hai tướng ra trận. Một tướng là Trương Hổ, người Giang Hạ; một tướng là Trần Sinh, người Tương Dương. Hoàng Tổ đứng ở giữa, tay cầm roi trỏ Tôn Kiên mắng lớn: - Lũ chuột Giang Ðông! Sao dám xâm phạm đất đai của bậc tôn thân nhà Hán? Mắng rồi sai Trương Hổ ra đánh. Bên kia Hàn Ðương từ trong trận phi ngựa ra đón lại. Hai tướng đánh nhau đến ba mươi hiệp. Trần Sinh thấy Trương Hổ có vẻ đuối sức, liền phi ngựa ra trợ chiến. Tôn Sách thấy thế, vội cặp ngọn giáo và nách, giương cung bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa mặt Trần Sinh. Trần Sinh té nhào xuống ngựa. Trương Hổ thấy Trần Sinh bị chết một cách độc ngột như vậy, tay chân bủn rủn, bị Hàn Ðương chém một đao bay nửa cái sọ, óc văng ra ngoài. Thắng thế, Trình Phổ vội tế ngựa sang trận địch, định bắt sống Hoàng Tổ. Hoàng Tổ không còn tâm trí nào đề nghĩ cánh chống đỡ, vội bở bỏ mũ, bỏ luôn cả ngựa, lẫn trốn vào đám tàn quân tẩu thoát. Tôn Kiên xua quân chém giết, đuổi đến tận bò sông Hán thủy rồi truyền lệnh gọi Hoàng Cái đem chiến thuyền lên đống ở bến Hán giang, còn Tôn Kiên thì tiếp tục đánh Kinh Tương Hoàng Tổ thâu thập tàn quân, đến ra mắ Lưu Biểu, nói rõ thế quân của Tôn Kiên mạnh lắm, không sao cự nổi. Lưu Biểu lo sợ, cho triệu Khoái Lương vào bàn. Khoái Lương nói: - Ta vừa bị thua một trận, quân sĩ đã nản lòng. Vậy chỉ nên đào hào sâu đáp lũy cao cố thủ để tránh mũi giặc, rồi ngầm sai người qua Ký Châu để cầu cứu Viên Bản Sơ giải vây mới được. Thái Mạo nói: - Khoái Tử Nhu bàn kế như vậy không xong! Quân giặc nay đã đên sát chân thành mà còn đợi quân cầu cứu, chẳng lẽ chúng ta chờ chết hay sao? Tôi tuy bất tài cũng xinh lãnh binh khai thành quyết một trận tử chiến. Lưu Biểu thuận lời, Thái Mạo dẫn hơn một vạn quân ra khỏi thành Tương dương, kéo tới chân núi Hiệp sơn bày trận. Tôn Kiên kéo quân đắc thắng ồ ạt tiến đến. Thấy Thái Mạo cầm quân, Tôn Kiên chỉ vào mặt Thái Mạo nói với các tướng: - Thằng kia là anh ruột người vợ kế của Lưu Biểu đấy! Ai ra bắt nó cho ta? Trình Phổ liền vung cây thiết quyền xà mâu đến đánh Thái Mạo. Thái Mạo mới chỉ đánh đỡ vài hiệp đã đuối sức, quay ngựa chạy dài. Tôn Kiên xua quân đuổi theo giết quân Kinh tương tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang đầy đồng. Thái Mạo chạy thoát vào thành Tương Dương đóng cửa, không dám nói đến chuyện giao binh. Khái Lương nói với Lưu Biểu: - Thái Mạo không nghe lời phải, khiến cho quân đại bại, nay phải chiếu quân luật mà chém đầu làm lệnh. Lưu Biểu vì mới cưới em gái Thái Mạo, không nỡ gia hình nên bỏ qua việc ấy. Tôn Kiên kéo quân đến Tương dươntg liền chia quân vây chặct bốn cửa thành, đánh phá dữ dội. Trong thành cố thủ không ai dám ra đánh. Bỗng một hôm có trận gió lốc thổi đến làm gãy ngọn cờ "Súy" ở trung quân. Hàn Ðương thất kinh nói với Tôn Kiên: - Gãy cờ là điềm chẳng làm, xin Chúa công hãy tạm ban sư. Tôn Kiên nói: - Ta đánh trận nào thắng trận ấy, thành Tương dương chỉ sớm tối về tay ta, há vì chuyện gãy cờ mà thu quân sao? Rồi chẳng nghe lời Hàn Ðương, và thúc quân phá thành càng gấp. Lúc ấy, ở trong thành, Khoái Lương cũng đang bàn với Lưu Biểu: - Ðêm qua tôi xem thiên văn thấy một vì tướng tinh sắp sa xuống. Cứ theo phận dã mà đoán thì vì sao ấy ứng vào Tôn Kiên. Vậy Chúa công nên gấp rút viết thư sang cầu cứu Viên Bản Sơ đi. Lưu Biểu theo lời viết thư sang cầu cứu Viên Thiệu. Nhưng việc phá vòng vây đem thư ra ngoài là việc khó. Lưu Biểu hỏi các tướng: - Ai dám xông ra vòng vây địch đem thư nầy đến Ký Châu? Có một viên kiện tướng là Lữ Công xin lãnh việc ấy. Khoái Lương bảo Lữ Công: - Ngươi đã có gan đi thì hãy nghe kế của tay đây: Ngươi hãy lựa năm trăm quân thiện xạ, khi ra lọt vòng vây rồi phải chạy ngay đến núi Hiện sơn mà mai phục. Quân giặc thế nào cũng đuổi theo. Ngươi chia một trăm người lên núi tìm những hòn đá dự bị trên cao, một trăm người khác cầm cung tên vào phục trong rừng. Quân giặc đuổi đến nơi, ngươi chớ chạy thẳng mà phải kéo ba trăm quân chạy quanh co, loanh quanh chân núi, để dẫn giặc vào chỗ có mai phục, cho cung tên bắn ra, đá núi tống xuống. Thắng giặc thì đốt pháo liên châu làm hiệu để trong thành đánh ra tiếp ứng. Nếu giặc không đuổi thì đừng đốt pháo, cứ việc lên đường qua Ký Châu. Ðêm nay chắc trăng không sáng lắm đâu. Ðợi lúc nhá nhem tối ngươi dẫn quân ra khỏi thành là vừa. Lữ Công lãnh kế, sắp sẵn binh mã, chờ lúc trời sẫm tối bí mật mở cửa Ðông kéo ra. Bấy giờ Tôn Kiên đang ngồi trong trướng, bỗng nghe có tiếng quân mã di động, vội lên ngựa dẫn ba mươi tên quân kỵ ra khỏi trại để xem xét. Quân thám mã lại đến báo: - Có một toán quân từ trong thành vừa thoát ra đang chạy thẳng về phía chân núi. Tôn Kiên sợ bỏ lỡ cơ hội, vội vã tức tốc đuổi theo, không kịp gọi thêm tướng sĩ, chỉ đem có ba mươi tên quân kỵ có sẵn tới đấy. Lữ Công bấy giờ đã chia quân lên núi và vào rừng mai phục.. Tôn Kiên phóng ngựa chạy quá nhanh, nên chỉ chốc lát đã bỏ xa hẳn ba mươi tên quân kỵ lại phía sau. Thấy đằng trước quân giặc không còn cách bao xa, Tôn Kiên hét lớn: - Muốn sống thì dừng lại! Lữ Công quay ngựa lại đánh. Nhưng chỉ đánh được một hiệp, Công lại bỏ chạy, lẻn vào trong đường núi quanh co mà trốn. Tôn Kiên cứ đuổi theo mãi, nhưng khi đến sau núi thì còn thấy Lữ Công đâu nữa. Kiên toan trèo lên núi nhìn xem thì bỗng đâu một hồi cồng nổi lên vang dậy. Tức thì đá trên núi ném xuống như mưa và tên trong rừng bắn ra như châu chấu. Than ôi Tôn Kiên! Thân thể bị tên, đá bắn loạn, đầu vỡ phọc óc, một người một ngựa chết ở chân núi. Năm ấy Tôn Kiên mới ba mươi bảy tuổi. Lữ Công xuống chặn được cả ba mươi lính kỵ mã của Tôn Kiên, liền đánh giết hết, rồi nổi pháo hiệu. Trong thành nghe tiếng pháo, Khoái Việt, Hoàng Tổ, Thái Mạo mở cửa thành, chia làm ba đạo quân đánh ra. Quân sĩ Giang Ðông náo loạn, không biết đường nào mà chạy. Hoàng Cái đang giữ thuyền nới mé sông, nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, vội dẫn quân kéo lên bờ gặp ngay Hoàng Tổ. Mới đánh được vài hiệp, Hoàng Cái đã bắt sống được Hoàng Tổ. Còn Trình Phổ thấy loạn liền hộ vệ tiểu chủ Tôn Sách tìm đường chạy. Vừa ra khỏi trại gặp ngay Lữ Công, Trình Phổ tế ngựa lại đánh nhau với Công. Cũng chỉ vài hiệp, Phổ đã đâm Công một xà mâu chết lăn xuống ngựa. Hai bên đánh nhau đến trời sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu kéo vào thành. Còn quân Giang Ðông kéo về Hán thủy. Bấy giờ, Tôn Sách mới biết tin cha đã chết vì loạn tên, mà thi thể bị quân Kinh châu khiêng vào thành mất. Sách bèn khóc rống lên rất thảm thiết. Các tướng sĩ cũng đều rơi lệ. Trình Phổ đến khuyên giải, Tôn Sách gạt lệ hỏi chư tướng: - Bây giờ biết làm cách nào để lấy được thi thể của phụ thân ta đem về cố quận? Hoàng Cái nói: - Tôi có bắt dược Hoàng Tổ đây, nên cho một người vào thành giảng hòa với Lưu Biểu, và hẹn đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể Chúa công. Cái vừa dứt lời, thì viên Quân lại là Hoàn Khải bước ra thưa: - Trước đây tôi có quen biết với Lưu Biểu, nay xin lãnh việc nầy đi sứ vào thành. Tôn Sách bằng lòng. Hoàn Khải vào thành ra mắt Lưu Biểu nói rõ việc giảng hòa và trao đổi. Lưu Biểu nói: - Thi hài Văn Ðài ta đã cho tẩm liệm tử tế, bỏ vào áo quan rồi. Ngươi về bảo đem Hoàng Tổ đến đây, rồi hai nhà cùng bãi binh, từ nay không xâm phạm bờ cõi nhau nữa. Hoàng Khải bái tớ ra về, nhưng vừa bước xuống thềm, bỗng có Khoái Lương chạy đến can Lưu Biểu rối rít: - Không nên! Không nên hòa! Tôi đã có kế lấy Giang Ðông rồi. Xin hãy chém đầu Hoàn Khải trước, rồi sau hãy dụng kế của tôi. Ðó chính là Ðuổi địch Tôn Kiên vừa uổng mạng, Cầu hòa Hoàn Khải lại lâm nguy. Nhắc lại Tôn Kiên đang bị quân Lưu Biểu vây ngặt, may nhờ có ba tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương đánh phá vòng vây cứu thoát. Tôn Kiên thu góp tàn quân thấy hao hơn phân nữa, liền kéo về Giang Ðông. Và, từ đấy Tôn Kiên ôm mối hận với Lưu Biểu. Bấy giờ, Viên Thiệu đóng quân ở Hà nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu cấp cho binh lính. Quan Thứ sử Ký Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp. Mưu sĩ Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu: - Ðại trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương? Ký Châu đất rộng dân giàu, sao Tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi? Viên Thiệu nói: - Ta cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay. Phùng Kỷ nói: - Nay ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân đánh Ký Châu, và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào Công Tôn Toản cũng hưng binh. Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản đem quân đánh, thế nào cũng mời Tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức. Chừng ấy Tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì? Viên Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản. Công Tôn Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc, và chia đất Ký Châu, lòng mừng lắm, lập tức khởi binh. Trong lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết. Phúc hoảng sợ, triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị. Tuân Thầm bàn: - Công Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Ðại, đông lắm, nếu kéo binh đến đấy, Ký Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Ðức giúp sức thì chúng ta chống sao nổi? Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế không sợ gì Công Tôn Toản nữa. Hàn Phúc nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu. Quan Trưởng sử Cảnh Vũ vội can: - Không nên. Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẩn, phải nhờ đến chúng ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết. Sao chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn? Làm như thế chẳng khác nào dẫn cọp vào chuồng dê. Hàn Phúc nói: - Ta vốn là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cõi, may được trấn giữ châu quận nầy. Người xưa có nói: "Lựa người tài đức mà nhường ngôi". Huống hồ, ta với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao. Cảnh Vũ than: - Tướng quân đã có Ý như vậy thì Ký Châu coi như đã mất rồi. Hay được việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu. Vài ngày sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn Xủ giết ngay Quan Thuần, Viên Thiệu vào thành Ký Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn Uy tướng quân, rồi cắt đặt cho bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu. Thế là Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc. Hàn Phúc hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu, nương nhờ Thái Thú Trương Mạc. Công Tôn Toản hay tin Viên Thiệu đã chiếm Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt sang gặp Viên Thiệu, yêu cầu chia đất cho mình như lời hứa. Viên Thiệu bảo Công Tôn Việt: - Hãy về mời lệnh huynh sang đây mới tính chuyện ấy được. Công Tôn Việt ra về. Nhưng đi chưa đầy năm mươi dặm, có một toán quân phục xông ra chận đường, và hô lớn: - Ta là gia tướng của Ðổng Thái Sư đây. Dứt lời, quân sĩ dùng cung tên bắt như mưa. Công Tôn Việt không thoát khỏi, phải tử nạn. Những quân tùy tùng chạy thoát về báo rõ sự thể với Công Tôn Toản. Toản đùng đùng nổi giận mắng lớn: - Thằng Viên Thiệu lừa dối, gạt ta đem binh đánh Hàn Phúc, để chiếm trọn Ký Châu. Nay lại cho người giả làm quân Ðổng Trác, hại mạng em ta nữa. Thù nầy không lẽ không báo? Mắng rồi, liền khởi binh bản bộ đi đánh Ký Châu. Viên Thiệu được tin Công Tôn Toản kéo quân tới liền khai thành dẫn quân ra ứng chiến. Hai bên gặp nhau trên sông Bàn Hà. Viên Thiệu thì bố trận nơi đầu cầu phía Ịông, còn Công Tôn Toản thì dàn quân ở đầu phía Tây. Công Tôn Toản cỡi ngựa đứng trên cầu mắng lớn: - Thằng bội nghĩa! Ngươi dám dối gạt ta sao? Viên Thiệu cũng giục ngựa đến đầu cầu chỉ mặt Công Tôn Toản nói: - Hàn Phúc là đứa bất tài, tình nguyện đem Ký Châu giao cho ta, việc ấy can hệ gì đến ngươi. Công Tôn Toản thét lên: - Ngày trước, ta tưởng ngươi là kẻ trung nghĩa, lại con nhà dòng dõi Tam Công nên mới bầu ngươi làm Minh chủ. Ngờ đâu bây giờ ta mới biết ngươi là đồ sài lang! Ngươi còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời này nữa. Viên Thiệu nổi giận quay lại hỏi các tướng: - Ai dám ra bắt tên nghịch tặc ấy? Viên Thiệu vừa dứt lời, Văn Xú đã thúc ngựa vung thương xông thẳng lên cầu. Công Tôn Toản giục ngựa tới đầu cầu giao phong chưa đầy mười hiệp đã đuối sức bỏ chạy. Văn Xú thừa thế đuổi theo. Toản chạy vào giữa trận, Xú đuổi vào tận trung quân, xung đột Ịông Tây như vào chỗ không người, khiến cho đại binh của Công Tôn Toản sợ hãi kéo nhau chạy trốn. Bốn viên tướng thủ hạ của Công Tôn Toản đổ xô ra cự chiến. Văn Xú đâm một thương khiến một tướng bị té xuống ngựa, còn ba tướng kia bỏ chạy. Xú lại đuổi theo Toản ra mãi sau trận. Toản nhìn về phía hẻm núi mà chạy, Xú thúc ngựa đuổi sát tới, nạt lớn: - Mau xuống ngựa đầu hàng đi! Công Tôn Toản sợ quá, chạy đến nỗi rơi hết cung tên mà không hay, cái mũ trên đầu cũng rơi xuống đất, đầu tóc tối bù, cứ phi ngựa theo chân núi mà chạy quanh. Rủi thay, con ngựa lại vấp chân ngã phục xuống, làm cho Toản lăn xuống chân núi. Văn Xú hăm hở cầm thương tới đâm. Trong lúc tính mạng Công Tôn Toản sắp nguy, bỗng từ sau hòn đá cao có một thiếu niên dũng tướng phi ngựa ra, cầm giáo đâm Văn Xú một nhát. Văn Xú vội né mình lùi lại. Công Tôn Toản thừa dịp ấy bò lên sườn núi lánh nạn, và xem thử ai đã cứu mình. Thì ra thiếu niên mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt. Thiếu niên đánh với Văn Xú năm, sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Lúc đó có quân bộ hạ của Toản kéo tới tiếp cứu. Văn Xú vội quay ngựa bỏ chạy. Thiếu niên đuổi theo truy kích, nhưng Công Tôn Toản đã gọi lại để tạ ơn, và hỏi tên họ. Người ấy thi lễ rồi đáp: - Tôi vốn người Chân Ịịnh, huyện Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tự là Tử Long, cũng là người ở địa hạt thuộc quyền Viên Thiệu, nhưng thấy Viên Thiệu không có phò vua cứu nước, nên tôi mới bỏ Thiệu đến đây tìm hầu quan Thái Thú, không ngờ lại được gặp nơi đây. Công Tôn Toản mừng rỡ dắt Triện Vân về trại, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang khôi giáp. Hôm sau, Công Tôn Toản lại chia quân làm hai đội tả hữu, khí thế rất hùng mạnh như đôi cánh đại bàng. Có năm ngàn con ngựa thì quá nửa là ngựa trắng. Nguyên trước kia, khi đánh nhau với rợ Khương, Toản lựa một đoàn kỵ binh cưỡi rặt ngựa trắng đi tiên phong, nổi tiếng là "Bạch Mã tướng quân". Sau nhiều trận bị Toản đánh bại, quân Khương cứ trông thấy ngựa trắng là bỏ chạy. Do đó, Toản có rất nhiều ngựa trắng. Viên Thiệu hay tin, sai Nhan Lương, Văn Xú đi tiên phong, mỗi tướng dẫn một ngàn quân cung nỏ, cũng chia làm hai đội tả hữu, lại truyền lệnh rằng: - Ðội bên tả cứ bắn cánh quân bên hữu của Toản, đội bên hữu thì bắn cánh quân bên tả của Toản. Lại sai Cúc Nghĩa dẫn tám trăm quân cung thủ, hợp với một vạn năm ngàn bộ binh dàn ngay giữa trận. Còn Viên Thiệu thì tự dẫn vài vạn bộ binh theo sau tiếp ứng. Công Tôn Toản mới thu nạp được Triệu Vân, chưa rõ tài sức ra sao, nên sai Triệu Vân dẫn một toán quân đi ứng hậu, rồi sai đại tướng Nghiêm Cương dẫn quân đi tiền đạo. Toản thì thống lãnh trung quân, dừng ngựa trên cầu, bên mình có trương một lá cờ đỏ rất lớn, thêu chữ "Soái" bằng chỉ vàng lóng lánh, bay trước mặt. Công Tôn Toản truyền lệnh giục trống khiêu khích từ giờ Thìn qua đến giờ Tỵ, mà quân Viên Thiệu vẫn không tiến lại. Tướng của Viên Thiệu là Cúc Nghĩa truyền quân cung nỏ phục xuống sau những tấm mộc che tên, dặn khi nào nghe tiếng pháo lệnh mới được bắn. Bên kia, Nghiêm Cương sai đánh trống hò reo vang trời, rồi xông ra đánh Cúc Nghĩa. Quân của Nghiêm Cương đã kéo đến gần, mà quân của Cúc Nghĩa vẫn còn nằm yên không động. Chở cho địch quân đến vừa tầm, Cúc Nghĩa mới đốt lên một tiếng pháo lệnh, tức thì tám trăm tên cung nỏ bắn ra một loạt. Nghiêm Cương thất kinh quay về, nhưng Cúc Nghĩa đã tế ngựa theo, chém Cương một đao lăn xuống ngựa. Quân Toản thua to, hai cánh kỵ binh tả hữu ra cứu ứng đều bị quân cung nỏ của Nhan Lương, Văn Xú chia nhau bắn như mưa. Quân Thiệu nhất tề đồng tiếng lên cầu. Cúc Nghĩa phóng thẳng tới chém chết viên tướng vác cờ. Lá cờ "Soái" của Toản đổ xuống. Toản thấy thế quay ngựa bỏ cầu mà chạy. Cúc Nghĩa dẫn quân xông vào hậu quân của Toản thì gặp ngay Triệu Vân thúc ngựa xông ra cản lại. Ðánh được vài hiệp, Triện Vân đã đâm Cúc Nghĩa một giáo chết lăn, rồi một mình một ngựa xông thẳng vào trung quân của Viên Thiệu, tả xung, hữu đột, chém giết như đi vào chỗ không người. Công Tôn Toản thấy vậy cũng dẫn quân đánh quật trở lại, làm cho quân Viên Thiệu rối loạn, chạy tơi bời. Bấy giờ, Viên Thiệu đang ở phía sau, sai quân đi dò trận thế, được thám mã về báo rằng Cúc Nghĩa đã chém tướng đoạt cờ, đang đuổi giết quân Toản. Thiệu cả mừng, không phòng bị gì nữa, liền cùng Ðiền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài chục tay mã cung, cỡi ngựa ra trước quan sát. Thiệu cười ha hả bảo Công Tôn Toản là kẻ vô dụng. Nhưng trong lúc đang cười nói, bỗng đâu Triện Vân đã phi ngựa đến trước mặt. Quân cung thủ thất kinh vội lắp tên bắn, nhưng tên chưa kịp rời nỏ thì Triện Vân đã xông vào giết một loạt bảy, tám đứa, những tên khác khiếp vía bỏ chạy. Tiếp đó, quân Công Tôn Toản lại ùn ùn kéo đến, bao vây Viên Thiệu. Ðiền Phong thấy thế nguy, liền bảo Viên Thiệu: - Có bức tường đằng kia, mời Chúa công mau tạm lánh vào đó chốc lác. Viên Thiệu đưa tay trật cái mũ đâu mâu ném xuông đất, nói lớn: - Ðại trượng phu đã lâm trận, mong được chết giữa chiến trường, há lại chạy trốn sao? Quân binh của Viên Thiệu thấy thế nức lòng, vác kích xông đến tử chiến. Do đó, Triệu Vân không sao xông vào được. Kế đó lại có đại quân của Thiệu vừa đến kịp, lại thêm Nhan Lương cùng kéo quân tới, hai mặt cùng đánh. Triệu Vân phải bảo hộ Công Tôn Toản phá vòng vây, rút về bên kia đầu cầu. Quân Viên Thiệu lại thừa thế đuổi theo làm cho quân Công Tôn Toản chen nhau qua cầu mà té xuống nước chết vô số. Viên Thiệu xông lên trước, xua quân đuổi Công Tôn Toản. Ðuổi chưa được năm dặm đường, bỗng nghe sau lưng núi có tiếng reo hò vang dậy, rồi một đạo binh hùng hổ kéo ra, đi đầu là ba viên tướng dung mạo phi thường. Thì ra đó là ba anh em Lưu Huyền Ðức. Số là Huyền Ðức ở tại huyện Bình nguyên, nghe tin Công Tôn Toản giao binh với Viên Thiệu, nên đến trợ chiến. Bấy giờ vừa gặp lúc, ba con ngựa phi tới, ba thứ binh khí bay lại phía quân Ký Châu, nhắm thẳng Viên Thiệu mà đánh. Thấy ba anh em Huyền Ðức xuất hiện, Viên Thiệu sợ hãi rụng rời, hồn vía tức thì bay lên mây xanh. Cây bửu đao đang cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào không hay. Thiệu vội quay ngựa chạy một mạch.. Ba quân liều chết hộ vệ Viên Thiệu qua cầu. Công Tôn Toản thu binh về trại. Ba anh em Huyền Ðức vào hỏi thăm, Toản nói: - Nếu không có Huyền Ðức từ xa tới cứu, thì tôi khốn đốn rồi. Kế đó, Công Tôn Toản đem Triệu Vân đến giới thiệu với Huyền Ðức. Vừa trông thấy viên tướng trẻ này, Huyền Ðức đã đem lòng yêu mến, và sau khi trao đổi tâm tình, hai người không muốn rời nhau nữa Còn Viên Thiệu, sau khi thua trận ấy, đành cố thủ không dám ra binh. Công Tôn Toản cứ ít ngày lại đem binh khiêu chiến, nhưng thấy Viên Thiệu không đánh lại rút quân về. Bây giờ, tại triều Ðồng Trác đã xếp đặt công việc tạm ổn, cho người ra ngoài thám thính, mới hay tin Viên Thiệu và Công Tôn Toản đánh nhau đã hơn một tháng trời. LÝ Nhu nói với Ðổng Trác: - Viên Thiệu và Công Tôn Toản đều là hào kiệt trên đời, nay ta mượn chiếu Thiên tử sai người đến giải hòa, như thế tất cả hai người mang ơn và phục tùng Thái Sư. Ðổng Trác khen phải, liền sai quan Thái phó Mã Nhật Ðàn, và quan Thái bộc Triệu Kỳ đem chiếu mệnh ra đi. Hai người nầy cùng qua Hà Bắc một lúc. Viên Thiệu hay tin ra ngoài trăm dặm đón tiếp, lạy hai lạy mà vâng chiếu. Ngày hôm sau, hai người lại đến dinh Công Tôn Toản để hiểu dụ. Công Tôn Toản cũng bằng lòng, viết thư đưa sang Viên Thiệu giải hòa, rồi dâng biếu về triều tiến cử Lưu Huyền Ðức làm Bình Nguyên tướng. Huyền Ðức phải sang Bình Nguyên trấn nhậm nên từ biệt Triệu Vân. Hai người cầm tay nhau nhỏ lệ, không nỡ rời. Triệu Vân than rằng: - Trước đây tôi tưởng Công Tôn Toản là anh hùng, nay xem lại thì Công Tôn Toản cũng chỉ thường tình như Viên Thiệu mà thôi. Huyền Ðức nói: - Thôi, Tử Long hãy chịu khó khuất thân nơi đây, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ. Hai người bùi ngùi giã biệt, lòng lữu luyến không nguôi. Bấy giờ, Viên Thuật ở Nam Dương, nghe tin Viên Thiệu lấy được Ký Châu, vội sai sứ sang xin một ngàn con ngựa. Viên Thiệu không cho nên Viên Thuật oán hận, và từ đó anh em bất hòa nhau. Viên Thuật sai sứ sang Kinh Châu vay của Lưu Biểu hai chục vạn hộc lương. Lưu Biểu cũng không cho, nên Viên Thuật căm giận ngầm sai người mang thư cho Tôn Kiên, xúi Tôn Kiên đánh Lưu Biểu. Ðại lược lá thư ấy như sau: Trước đây, Lưu Biểu chận đường đánh ngày, chính là do kế của anh Bản Sơ tôi. Này tôi lại nghe tin anh Bản Sơ tôi ngầm mưu với Lưu Biểu muốn cùng đánh chiếm Giang Ðông của ông đấy. Vậy ông kíp khởi binh đánh Lưu Biểu. Tôi sẽ giúp ông mà đánh chẹn Bản Sơ. Như thế sẽ báo được hai mối thù. Và, ông chiếm lấy Kinh Châu, tôi chiếm lấy Ký Châu. Xin chờ ông chại ngại.. Tôn Kiên được thư liền nói: - Căm hận thay! Thằng Lưu Biểu trước đây dám chẹn đường về của ta. Nay không nhân cơ hội này mà rửa hận thì còn đợi đến bao giờ nữa. Liền tập họn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàng Dương dưới trướng để bàn luận. Trình Phổ nói: - Viên Thuật là đứa dối trá, không nên tin vội. Tôn Kiên nói: - Không cần! Ta muốn đánh Lưu Biểu một trận báo thù, dẫu Viên Thuật không giúp sức cũng được. Bàn định xong, Tôn Kiên sai Hoàng Cái ra bến sông, sắp đặt chiến thuyền, trang bị khí giới, tích lũy lương thảo, lựa những thuyền thật lớn để chở ngựa, sắp sẵn để bất thần khởi quân. Quân tế tác Kinh Châu hay được vội về báo với Lưu Biểu. Lưu Biểu sợ hãi triệu tập chư tướng bàn kế. Khoái Lương nói: - Việc này không đáng lo, chỉ cần sai Hoàng Tổ đem quân phục ở Giang Hạ làm tiền khu, rồi Chúa công thân hành dẫn đại binh Kinh tương đi làm hậu viện. Chờ cho quân Tôn Kiên mới qua sông mỏi mệt, đánh cho một trận tất quân giặc phải bị thua. Lưu Biểu nghe theo và ra lệnh cho Hoàng Tổ phòng bị ở Giang Hạ, rồi kéo đại binh sắp đặt ứng chiến.. Lại nói về Tôn Kiên vốn có bốn người con trai do Ngô phu nhân sinh ra. Con trưởng tên Sách, tự Bá Phù. Người thứ hai tên Quyền tự là Trọng Mưu. Người thứ ba tên Dực, tự là Thúc Bật. Người thứ tư tên Khuông, tự là QuÝ Tá. Còn người em gái của Ngô phu nhân lại cũng lấy anh rể, tức là vợ thứ của Tôn Kiên. Bà này sinh được một trai một gái. Trai tên là Lãng tự Tảo An, gái là Nhân. Tôn Kiên lại còn nuôi một người con trai họ Du, tên Thiều tự Công Lễ, tức là nghĩa tử Tôn Thiền vậy. Bấy giời, người em ruột của Tôn Kiên là Tôn Tĩnh, tự Ẩu Ðài, thấy anh mình sắp xuất quân, mới dắt cả các con mình ra vái lạy trước ngựa nà can ngăn khuyên giải: - Nay Ðổng Trác chuyên quyền, Thiên tử nhu nhược, nhân dân loạn lạc, các trấn chư hầu mỗi người làm bá một phương. Giang Ðông ta mới yên được ít lâu, theo lẽ phải củng cố binh lực, sao anh lại vì một chút giận nhỏ mà động binh? Xin anh xét lại. Tôn Kiên bảo Tôn Tĩnh - Thôi, em đừng ngăn cản. Anh đang muốn tung hoành khắp thiên hạ, lẽ nào một mối thù nhỏ mà không báo? Con trưởng Tôn Kiên là Tôn Sách nói: - Phụ thân đã quyết đi, con xin cùng đi với. Tôn Kiên nhận lời, dẫn Tôn Sách lên thuyền kép quân đến đánh Phàn thành. Bấy giờ, Hoàng Tổ đã phục sẵn cung nỏ ở bờ sông, thấy chiến thuyền của Tôn Kiên kéo đến, liền ra lệnh bắn như mưa. Tôn Kiên truyền cho quân sĩ không được vội động, cứ phục sát xuống thuyền, rồi cho thuyền chèo lui để dụ địch, đồng thời đánh trống thị uy ba ngày liền. Cứ mỗi ngày thuyền Tôn Kiên lại lượn sát vào bờ, rồi lùi ra xa. Quân của Hoàng Tổ cứ nhắm mắt bắn càn, bắn đến nỗi hết sạch cả tên. Bấy giờ Tôn Kiên mới ra lệnh thu nhặt số tên của địch bắn dính hai bên ven thuyền, ước độ vài chục vạn mũi. Ngày hôm sau, gặp chiều gió thuận, Tôn Kiên sai bắn lên bờ như mưa. Quân trên bờ đã hết tên, lại bị phản công bất ngờ nên ùn ùn bỏ chạy. Tôn Kiên kéo quân lên bờ. Trình Phổ, Hoàng Cái chi ra hai đường đánh thốc vào trại Hoàng Thổ, mặt sau, Hàn Ðương cũng kéo tới nơi. Thế là ba mặt đánh dồn lại. Hoàng Tổ thua to, đành bỏ Phàn thành chạy về Ðặng thành. Tôn Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ các chiến thuyền, còn mình thì thân hành kéo quân truy kích địch. Hoàng Tổ bị Tôn Kiên đuổi theo quá gấp, phải dùng lại bày trận giữa cách đồng, để nghênh địch. Tôn Kiên cũng dàn quân thành trận thế, thúc ngựa ra đứng dước cờ. Tôn Sách, toàn thân khôi giáp gọn ghẽ, cầm giáo đứng sát bên cha. Bên kia, Hoàng Tổ dẫn hai tướng ra trận. Một tướng là Trương Hổ, người Giang Hạ; một tướng là Trần Sinh, người Tương Dương. Hoàng Tổ đứng ở giữa, tay cầm roi trỏ Tôn Kiên mắng lớn: - Lũ chuột Giang Ðông! Sao dám xâm phạm đất đai của bậc tôn thân nhà Hán? Mắng rồi sai Trương Hổ ra đánh. Bên kia Hàn Ðương từ trong trận phi ngựa ra đón lại. Hai tướng đánh nhau đến ba mươi hiệp. Trần Sinh thấy Trương Hổ có vẻ đuối sức, liền phi ngựa ra trợ chiến. Tôn Sách thấy thế, vội cặp ngọn giáo và nách, giương cung bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa mặt Trần Sinh. Trần Sinh té nhào xuống ngựa. Trương Hổ thấy Trần Sinh bị chết một cách độc ngột như vậy, tay chân bủn rủn, bị Hàn Ðương chém một đao bay nửa cái sọ, óc văng ra ngoài. Thắng thế, Trình Phổ vội tế ngựa sang trận địch, định bắt sống Hoàng Tổ. Hoàng Tổ không còn tâm trí nào đề nghĩ cánh chống đỡ, vội bở bỏ mũ, bỏ luôn cả ngựa, lẫn trốn vào đám tàn quân tẩu thoát. Tôn Kiên xua quân chém giết, đuổi đến tận bò sông Hán thủy rồi truyền lệnh gọi Hoàng Cái đem chiến thuyền lên đống ở bến Hán giang, còn Tôn Kiên thì tiếp tục đánh Kinh Tương Hoàng Tổ thâu thập tàn quân, đến ra mắ Lưu Biểu, nói rõ thế quân của Tôn Kiên mạnh lắm, không sao cự nổi. Lưu Biểu lo sợ, cho triệu Khoái Lương vào bàn. Khoái Lương nói: - Ta vừa bị thua một trận, quân sĩ đã nản lòng. Vậy chỉ nên đào hào sâu đáp lũy cao cố thủ để tránh mũi giặc, rồi ngầm sai người qua Ký Châu để cầu cứu Viên Bản Sơ giải vây mới được. Thái Mạo nói: - Khoái Tử Nhu bàn kế như vậy không xong! Quân giặc nay đã đên sát chân thành mà còn đợi quân cầu cứu, chẳng lẽ chúng ta chờ chết hay sao? Tôi tuy bất tài cũng xinh lãnh binh khai thành quyết một trận tử chiến. Lưu Biểu thuận lời, Thái Mạo dẫn hơn một vạn quân ra khỏi thành Tương dương, kéo tới chân núi Hiệp sơn bày trận. Tôn Kiên kéo quân đắc thắng ồ ạt tiến đến. Thấy Thái Mạo cầm quân, Tôn Kiên chỉ vào mặt Thái Mạo nói với các tướng: - Thằng kia là anh ruột người vợ kế của Lưu Biểu đấy! Ai ra bắt nó cho ta? Trình Phổ liền vung cây thiết quyền xà mâu đến đánh Thái Mạo. Thái Mạo mới chỉ đánh đỡ vài hiệp đã đuối sức, quay ngựa chạy dài. Tôn Kiên xua quân đuổi theo giết quân Kinh tương tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang đầy đồng. Thái Mạo chạy thoát vào thành Tương Dương đóng cửa, không dám nói đến chuyện giao binh. Khái Lương nói với Lưu Biểu: - Thái Mạo không nghe lời phải, khiến cho quân đại bại, nay phải chiếu quân luật mà chém đầu làm lệnh. Lưu Biểu vì mới cưới em gái Thái Mạo, không nỡ gia hình nên bỏ qua việc ấy. Tôn Kiên kéo quân đến Tương dươntg liền chia quân vây chặct bốn cửa thành, đánh phá dữ dội. Trong thành cố thủ không ai dám ra đánh. Bỗng một hôm có trận gió lốc thổi đến làm gãy ngọn cờ "Súy" ở trung quân. Hàn Ðương thất kinh nói với Tôn Kiên: - Gãy cờ là điềm chẳng làm, xin Chúa công hãy tạm ban sư. Tôn Kiên nói: - Ta đánh trận nào thắng trận ấy, thành Tương dương chỉ sớm tối về tay ta, há vì chuyện gãy cờ mà thu quân sao? Rồi chẳng nghe lời Hàn Ðương, và thúc quân phá thành càng gấp. Lúc ấy, ở trong thành, Khoái Lương cũng đang bàn với Lưu Biểu: - Ðêm qua tôi xem thiên văn thấy một vì tướng tinh sắp sa xuống. Cứ theo phận dã mà đoán thì vì sao ấy ứng vào Tôn Kiên. Vậy Chúa công nên gấp rút viết thư sang cầu cứu Viên Bản Sơ đi. Lưu Biểu theo lời viết thư sang cầu cứu Viên Thiệu. Nhưng việc phá vòng vây đem thư ra ngoài là việc khó. Lưu Biểu hỏi các tướng: - Ai dám xông ra vòng vây địch đem thư nầy đến Ký Châu? Có một viên kiện tướng là Lữ Công xin lãnh việc ấy. Khoái Lương bảo Lữ Công: - Ngươi đã có gan đi thì hãy nghe kế của tay đây: Ngươi hãy lựa năm trăm quân thiện xạ, khi ra lọt vòng vây rồi phải chạy ngay đến núi Hiện sơn mà mai phục. Quân giặc thế nào cũng đuổi theo. Ngươi chia một trăm người lên núi tìm những hòn đá dự bị trên cao, một trăm người khác cầm cung tên vào phục trong rừng. Quân giặc đuổi đến nơi, ngươi chớ chạy thẳng mà phải kéo ba trăm quân chạy quanh co, loanh quanh chân núi, để dẫn giặc vào chỗ có mai phục, cho cung tên bắn ra, đá núi tống xuống. Thắng giặc thì đốt pháo liên châu làm hiệu để trong thành đánh ra tiếp ứng. Nếu giặc không đuổi thì đừng đốt pháo, cứ việc lên đường qua Ký Châu. Ðêm nay chắc trăng không sáng lắm đâu. Ðợi lúc nhá nhem tối ngươi dẫn quân ra khỏi thành là vừa. Lữ Công lãnh kế, sắp sẵn binh mã, chờ lúc trời sẫm tối bí mật mở cửa Ðông kéo ra. Bấy giờ Tôn Kiên đang ngồi trong trướng, bỗng nghe có tiếng quân mã di động, vội lên ngựa dẫn ba mươi tên quân kỵ ra khỏi trại để xem xét. Quân thám mã lại đến báo: - Có một toán quân từ trong thành vừa thoát ra đang chạy thẳng về phía chân núi. Tôn Kiên sợ bỏ lỡ cơ hội, vội vã tức tốc đuổi theo, không kịp gọi thêm tướng sĩ, chỉ đem có ba mươi tên quân kỵ có sẵn tới đấy. Lữ Công bấy giờ đã chia quân lên núi và vào rừng mai phục.. Tôn Kiên phóng ngựa chạy quá nhanh, nên chỉ chốc lát đã bỏ xa hẳn ba mươi tên quân kỵ lại phía sau. Thấy đằng trước quân giặc không còn cách bao xa, Tôn Kiên hét lớn: - Muốn sống thì dừng lại! Lữ Công quay ngựa lại đánh. Nhưng chỉ đánh được một hiệp, Công lại bỏ chạy, lẻn vào trong đường núi quanh co mà trốn. Tôn Kiên cứ đuổi theo mãi, nhưng khi đến sau núi thì còn thấy Lữ Công đâu nữa. Kiên toan trèo lên núi nhìn xem thì bỗng đâu một hồi cồng nổi lên vang dậy. Tức thì đá trên núi ném xuống như mưa và tên trong rừng bắn ra như châu chấu. Than ôi Tôn Kiên! Thân thể bị tên, đá bắn loạn, đầu vỡ phọc óc, một người một ngựa chết ở chân núi. Năm ấy Tôn Kiên mới ba mươi bảy tuổi. Lữ Công xuống chặn được cả ba mươi lính kỵ mã của Tôn Kiên, liền đánh giết hết, rồi nổi pháo hiệu. Trong thành nghe tiếng pháo, Khoái Việt, Hoàng Tổ, Thái Mạo mở cửa thành, chia làm ba đạo quân đánh ra. Quân sĩ Giang Ðông náo loạn, không biết đường nào mà chạy. Hoàng Cái đang giữ thuyền nới mé sông, nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, vội dẫn quân kéo lên bờ gặp ngay Hoàng Tổ. Mới đánh được vài hiệp, Hoàng Cái đã bắt sống được Hoàng Tổ. Còn Trình Phổ thấy loạn liền hộ vệ tiểu chủ Tôn Sách tìm đường chạy. Vừa ra khỏi trại gặp ngay Lữ Công, Trình Phổ tế ngựa lại đánh nhau với Công. Cũng chỉ vài hiệp, Phổ đã đâm Công một xà mâu chết lăn xuống ngựa. Hai bên đánh nhau đến trời sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu kéo vào thành. Còn quân Giang Ðông kéo về Hán thủy. Bấy giờ, Tôn Sách mới biết tin cha đã chết vì loạn tên, mà thi thể bị quân Kinh châu khiêng vào thành mất. Sách bèn khóc rống lên rất thảm thiết. Các tướng sĩ cũng đều rơi lệ. Trình Phổ đến khuyên giải, Tôn Sách gạt lệ hỏi chư tướng: - Bây giờ biết làm cách nào để lấy được thi thể của phụ thân ta đem về cố quận? Hoàng Cái nói: - Tôi có bắt dược Hoàng Tổ đây, nên cho một người vào thành giảng hòa với Lưu Biểu, và hẹn đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể Chúa công. Cái vừa dứt lời, thì viên Quân lại là Hoàn Khải bước ra thưa: - Trước đây tôi có quen biết với Lưu Biểu, nay xin lãnh việc nầy đi sứ vào thành. Tôn Sách bằng lòng. Hoàn Khải vào thành ra mắt Lưu Biểu nói rõ việc giảng hòa và trao đổi. Lưu Biểu nói: - Thi hài Văn Ðài ta đã cho tẩm liệm tử tế, bỏ vào áo quan rồi. Ngươi về bảo đem Hoàng Tổ đến đây, rồi hai nhà cùng bãi binh, từ nay không xâm phạm bờ cõi nhau nữa. Hoàng Khải bái tớ ra về, nhưng vừa bước xuống thềm, bỗng có Khoái Lương chạy đến can Lưu Biểu rối rít: - Không nên! Không nên hòa! Tôi đã có kế lấy Giang Ðông rồi. Xin hãy chém đầu Hoàn Khải trước, rồi sau hãy dụng kế của tôi. Ðó chính là Ðuổi địch Tôn Kiên vừa uổng mạng, Cầu hòa Hoàn Khải lại lâm nguy.
Chương 8: Hồi 8 Bấm để xem Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng: - Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé, nên thừa thế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Ðông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khỏe, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy! Biểu nói: - Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được? Lương nói: - Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Ðông, việc gì mà còn phải cân nhắc? Biểu lại nói: - Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa. Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên nầy cho đem xác Tôn Kiên về. Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu cha về, rút quân về Giang Ðông, táng cha ở gò Khúc A. Việc tang xong, Tôn Sách dẫn quân về Giang Ðông với người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Ðổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng: - Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng! Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ, khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Ðổng Mẫn làm Tả tướng quân, tước vu hầu; cháu là Ðổng Hoành làm Thị Trung, coi cả quân cấm binh. Tôn tộc họ Ðổng chẳng cử già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả. Cách Trường An 250 dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là My, bắt hai mươi lăm vạn dân phu đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu chất vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành. Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn. Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc. Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất. Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không. Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bá quan, ngồi sắp ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lữ Bố đi tắt vào, ghé vào tai Ðổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: - Ạ ra thế! Nói rồi sai Lữ Bố lôi quan Tư Không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Ðổng Trác cười nói: - Các quan đừng sợ. Trương Ôn kết liên với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn Hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ. Các quan dạ dạ rồi lui về. Quan Tư Ðồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Ðến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời, mà khóc. Chợt nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Ðơn. Doãn rón rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng: - Con này đã có tư tình gì đây? Thuyền quỳ xuống thưa rằng: - Lạy cha, con đâu có dám tư tình. Doãn hỏi: - Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài? Thuyền nói: - Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng Doãn nói: - Con không được giấu giếm, phải nói cho thực. Thuyền nói: - Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không ngại. Doãn đập gậy xuống đất nói rằng: - Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo! Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Ðiêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy. Ðiêu Thuyền sợ hãi, cuối rạp xuống đất, thưa rằng: - Sao cha lại làm thế? Doãn nói: - Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán! Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa: - Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ. Doãn lại quỳ xuống nói: - Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Ðổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Ðổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố, sức khỏe lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: Trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Ðổng Trác. Con ở trong, tùy cơ lập kế, ly gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho Lữ Bố giết Ðổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Ðó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào? Ðiêu Thuyền thưa: - Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ lập mưu ở trong. Doãn nói: - Việc nầy nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết! Thuyền thưa rằng: - Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn ngọn giáo. Doãn lạy tạ. Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố. Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn. Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên. Bố nói: - Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Ðồ là là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy? Doãn nói: - Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó. Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Ðổng Thái Sư và cái tài Lữ Bố. Bố cười vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tạ lui ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng: - Gọi con em nó ra đây! Một lát hai thị tỳ đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lữ Bố trông thấy giật mình, hỏi: - Người nào vậy? Doãn nói: - Ðó là con gái nhỏ của lão, tên là Ðiêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân. Liền sai Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời. Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt. Vương Doãn giả tảng say, nói: - Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy. Bố mời Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói: - Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại. Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn. Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén. Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng: - Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không? Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng: - Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu. Doãn nói: - Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân. Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại. Một chốc tiệc tan, Doãn nói: - Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái Sư sinh nghi. Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về. Ðược vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Ðổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng: - Tôi muốn rước Thái Sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái Sư có lòng hạ cố chăng? Trác nói: - Ðược quan Tư Ðồ mời, tôi xin đến ngay. Doãn lạy tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị; giữa gian sảnh, kê một cái sạp: Gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn che. Buổi trưa hôm sau, Ðổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào. Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh. Doãn nói: - Công đức Thái Sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng! Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Ðến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng: - Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái Sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm. Trác nói: - Ta có đâu dám mong như thế! Doãn nói: - Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng. Trác cười và nói rằng: - Nếu mệnh trời về ta, Tư Ðồ phải làm nguyên huân. Doãn lại tạ. Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn. Doãn nói: - Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái Sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái Sư cho phép được gọi ra hầu. Trác nói: - Hay lắm! Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Ðiêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục. Có bài ca khen Ðiêu Thuyền như sau: Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ Cánh hồng bay phớn phở trên tay Ðộng Ðình chừng đã qua bay. Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giầy gót sen Một cành gió tả hoa mềm Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân Lại có một bài thơ nữa khen rằng: Én liệng la đà nhịp phách ngà, Mây bay một áng diễu thềm hoa. Mày ngài gợi khách sầu man mác. Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha, Hồ dễ ngàn vàng mua được miệng, Lọ cùng trăm báu xức vào da? Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm Nào biết Tương vương mấy kẻ là! Ðiêu Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần. Ðiêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy. Trác thấy Ðiêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn: - Con bé nầy là thế nào? Vương Doãn thưa: - Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Ðiêu Thuyền. Trác hỏi: - Biết hát không? Doãn sai Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài. Thật là: Môi son hé nở cánh đào tân Ngọc trắng hai hàng nhả ánh xuân Ðầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc Rắp toan chém cổ kẻ gian thần! Ðổng Trác khen nức nở. Doãn sai Thuyền dâng rượu. Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng: - Xuân xanh năm nay bao nhiêu? Thuyền thưa: - Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám. Trác cười nói rằng: - Thật là người chốn thần tiên! Doãn đứng dậy thưa rằng: - Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không. Ðổng Trác nói: - Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại. Doãn nói: - Nếu nó được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm. Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về. Doãn cưỡi ngựa về đến xấp nữa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng: - Tư Ðồ đã gả Ðiêu Thuyền cho ta, nay lại đem Ðiêu Thuyền dâng cho Thái Sư, sao lại đùa như thế? Doãn vội vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng: - Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu. Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói: - Sao tướng quân lại trách lão? Bố nói: - Có người nói vại ta rằng Tư Ðồ dùng xe đưa Ðiêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao? Doãn thưa: - Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều, Thái Sư bảo tôi rằng: - Ta có một việc phải đến nhà ngươi. Vậy tôi mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp. Trong khi uống rượu, Thái Sư hỏi: - Ta nghe ngươi có con gái tên là Ðiêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Ðem con lão ra đây cho ta coi! Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Ðiêu Thuyền ra lạy bố chồng. Thái Sư lại truyền rằng: - Hôm nay tốt ngày, để ta đem Ðiêu Thuyền về cho Phụng Tiên! Tướng quân thử nghĩ xem: Thái Sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở! Lữ Bố nói: - Quan Tư Ðồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội. Doãn lại nói: - Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến. Lữ Bố tạ, rồi về. Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu. Một người thưa: - Ðêm qua Thái Sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy. Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Ðổng Trác để dò xem. Bấy giờ Ðiêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố, Ðiêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt. Lữ Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào. Ðổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng: - Ở ngoài không có việc gì chứ? Bố thưa: - Không. Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Bố biết là Ðiêu Thuyền, tâm thần mê mẩn. Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền bảo rằng: - Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra! Lữ Bố bực tức trở ra. Trác từ khi được Ðiêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Ðiêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa. Một hôm Lữ Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Ðổng Trác đang ngủ, Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Ðổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt. Bố cảm thấy ruột như nát ra. Trác nằm, hai mắt lim dim, thấy Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng: - Mày ghẹo vợ yêu của tao à? Bèn sai tả hữu đuổi Lữ Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong. Lữ Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi. Nho lập tức vào ra mắt Ðổng Trác, nói rằng: - Thái Sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất. Trác hỏi: - Bây giờ nên làm thế nào? Nho nói: - Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa. Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lữ Bố vào nhà trong bảo rằng: - Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng. Nói rồi, sai đưa cho Lữ Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm. Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Ðổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Ðiêu Thuyền. Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo. Một bửa, Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Ðế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Ðiêu Thuyền. Thuyền bảo: - Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp! Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Ðiêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng. Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng: - Tiện thiếp tuy không phải Vương Tư Ðồ sinh ra, nhưng Tư Ðồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu Thái Sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giả lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp! Ðiêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống. Lữ Bố vội vàng ôm ngay lấy Ðiêu Thuyền, khóc nói rằng: - Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi! Ðiêu Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng: - Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau! Lữ Bố nói: - Nếu kiếp nầy không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa. Ðiêu Thuyền nói: - Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt. Bố nói: - Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay. Thuyền lôi vớt áo Lữ Bố lại nói rằng: - Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa! Bố dừng lại nói rằng: - Ðừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã. Nói rồi vác kích định đi ra. Ðiêu Thuyền níu lại nói rằng: - Khi tôi ở chốn buồng đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lới chịu dưới quyền áp chế của người khác! Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa. Lữ Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Ðiêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra. Ðổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói: - Ôn Hầu vào nhà sau. Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi Ðiêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa: - Ðiêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa. Trác vào vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Ðiêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên Ðình Phượng Nghi, họa kích dựng một bên. Trác giận quát to một tiếng. Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy. Trác vớ ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Ðổng Trác. Trác ngã quay xuống đất. Thế rõ thực là: Khi căm xông thẳng trên mây tía. Mình béo lăn kền đến đất đen. Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ. Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng: - Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé, nên thừa thế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Ðông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khỏe, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy! Biểu nói: - Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được? Lương nói: - Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Ðông, việc gì mà còn phải cân nhắc? Biểu lại nói: - Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa. Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên nầy cho đem xác Tôn Kiên về. Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu cha về, rút quân về Giang Ðông, táng cha ở gò Khúc A. Việc tang xong, Tôn Sách dẫn quân về Giang Ðông với người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Ðổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng: - Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng! Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ, khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Ðổng Mẫn làm Tả tướng quân, tước vu hầu; cháu là Ðổng Hoành làm Thị Trung, coi cả quân cấm binh. Tôn tộc họ Ðổng chẳng cử già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả. Cách Trường An 250 dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là My, bắt hai mươi lăm vạn dân phu đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu chất vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành. Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn. Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc. Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất. Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không. Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bá quan, ngồi sắp ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lữ Bố đi tắt vào, ghé vào tai Ðổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: - Ạ ra thế! Nói rồi sai Lữ Bố lôi quan Tư Không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Ðổng Trác cười nói: - Các quan đừng sợ. Trương Ôn kết liên với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn Hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ. Các quan dạ dạ rồi lui về. Quan Tư Ðồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Ðến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời, mà khóc. Chợt nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Ðơn. Doãn rón rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng: - Con này đã có tư tình gì đây? Thuyền quỳ xuống thưa rằng: - Lạy cha, con đâu có dám tư tình. Doãn hỏi: - Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài? Thuyền nói: - Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng Doãn nói: - Con không được giấu giếm, phải nói cho thực. Thuyền nói: - Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không ngại. Doãn đập gậy xuống đất nói rằng: - Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo! Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Ðiêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy. Ðiêu Thuyền sợ hãi, cuối rạp xuống đất, thưa rằng: - Sao cha lại làm thế? Doãn nói: - Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán! Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa: - Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ. Doãn lại quỳ xuống nói: - Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Ðổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Ðổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố, sức khỏe lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: Trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Ðổng Trác. Con ở trong, tùy cơ lập kế, ly gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho Lữ Bố giết Ðổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Ðó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào? Ðiêu Thuyền thưa: - Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ lập mưu ở trong. Doãn nói: - Việc nầy nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết! Thuyền thưa rằng: - Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn ngọn giáo. Doãn lạy tạ. Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố. Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn. Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên. Bố nói: - Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Ðồ là là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy? Doãn nói: - Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó. Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Ðổng Thái Sư và cái tài Lữ Bố. Bố cười vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tạ lui ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng: - Gọi con em nó ra đây! Một lát hai thị tỳ đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lữ Bố trông thấy giật mình, hỏi: - Người nào vậy? Doãn nói: - Ðó là con gái nhỏ của lão, tên là Ðiêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân. Liền sai Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời. Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt. Vương Doãn giả tảng say, nói: - Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy. Bố mời Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói: - Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại. Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn. Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén. Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng: - Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không? Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng: - Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu. Doãn nói: - Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân. Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại. Một chốc tiệc tan, Doãn nói: - Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái Sư sinh nghi. Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về. Ðược vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Ðổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng: - Tôi muốn rước Thái Sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái Sư có lòng hạ cố chăng? Trác nói: - Ðược quan Tư Ðồ mời, tôi xin đến ngay. Doãn lạy tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị; giữa gian sảnh, kê một cái sạp: Gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn che. Buổi trưa hôm sau, Ðổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào. Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh. Doãn nói: - Công đức Thái Sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng! Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Ðến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng: - Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái Sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm. Trác nói: - Ta có đâu dám mong như thế! Doãn nói: - Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng. Trác cười và nói rằng: - Nếu mệnh trời về ta, Tư Ðồ phải làm nguyên huân. Doãn lại tạ. Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn. Doãn nói: - Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái Sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái Sư cho phép được gọi ra hầu. Trác nói: - Hay lắm! Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Ðiêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục. Có bài ca khen Ðiêu Thuyền như sau: Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ Cánh hồng bay phớn phở trên tay Ðộng Ðình chừng đã qua bay. Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giầy gót sen Một cành gió tả hoa mềm Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân Lại có một bài thơ nữa khen rằng: Én liệng la đà nhịp phách ngà, Mây bay một áng diễu thềm hoa. Mày ngài gợi khách sầu man mác. Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha, Hồ dễ ngàn vàng mua được miệng, Lọ cùng trăm báu xức vào da? Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm Nào biết Tương vương mấy kẻ là! Ðiêu Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần. Ðiêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy. Trác thấy Ðiêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn: - Con bé nầy là thế nào? Vương Doãn thưa: - Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Ðiêu Thuyền. Trác hỏi: - Biết hát không? Doãn sai Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài. Thật là: Môi son hé nở cánh đào tân Ngọc trắng hai hàng nhả ánh xuân Ðầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc Rắp toan chém cổ kẻ gian thần! Ðổng Trác khen nức nở. Doãn sai Thuyền dâng rượu. Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng: - Xuân xanh năm nay bao nhiêu? Thuyền thưa: - Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám. Trác cười nói rằng: - Thật là người chốn thần tiên! Doãn đứng dậy thưa rằng: - Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không. Ðổng Trác nói: - Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại. Doãn nói: - Nếu nó được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm. Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về. Doãn cưỡi ngựa về đến xấp nữa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng: - Tư Ðồ đã gả Ðiêu Thuyền cho ta, nay lại đem Ðiêu Thuyền dâng cho Thái Sư, sao lại đùa như thế? Doãn vội vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng: - Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu. Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói: - Sao tướng quân lại trách lão? Bố nói: - Có người nói vại ta rằng Tư Ðồ dùng xe đưa Ðiêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao? Doãn thưa: - Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều, Thái Sư bảo tôi rằng: - Ta có một việc phải đến nhà ngươi. Vậy tôi mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp. Trong khi uống rượu, Thái Sư hỏi: - Ta nghe ngươi có con gái tên là Ðiêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Ðem con lão ra đây cho ta coi! Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Ðiêu Thuyền ra lạy bố chồng. Thái Sư lại truyền rằng: - Hôm nay tốt ngày, để ta đem Ðiêu Thuyền về cho Phụng Tiên! Tướng quân thử nghĩ xem: Thái Sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở! Lữ Bố nói: - Quan Tư Ðồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội. Doãn lại nói: - Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến. Lữ Bố tạ, rồi về. Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu. Một người thưa: - Ðêm qua Thái Sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy. Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Ðổng Trác để dò xem. Bấy giờ Ðiêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố, Ðiêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt. Lữ Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào. Ðổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng: - Ở ngoài không có việc gì chứ? Bố thưa: - Không. Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Bố biết là Ðiêu Thuyền, tâm thần mê mẩn. Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền bảo rằng: - Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra! Lữ Bố bực tức trở ra. Trác từ khi được Ðiêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Ðiêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa. Một hôm Lữ Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Ðổng Trác đang ngủ, Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Ðổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt. Bố cảm thấy ruột như nát ra. Trác nằm, hai mắt lim dim, thấy Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng: - Mày ghẹo vợ yêu của tao à? Bèn sai tả hữu đuổi Lữ Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong. Lữ Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi. Nho lập tức vào ra mắt Ðổng Trác, nói rằng: - Thái Sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất. Trác hỏi: - Bây giờ nên làm thế nào? Nho nói: - Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa. Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lữ Bố vào nhà trong bảo rằng: - Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng. Nói rồi, sai đưa cho Lữ Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm. Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Ðổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Ðiêu Thuyền. Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo. Một bửa, Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Ðế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Ðiêu Thuyền. Thuyền bảo: - Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp! Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Ðiêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng. Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng: - Tiện thiếp tuy không phải Vương Tư Ðồ sinh ra, nhưng Tư Ðồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu Thái Sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giả lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp! Ðiêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống. Lữ Bố vội vàng ôm ngay lấy Ðiêu Thuyền, khóc nói rằng: - Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi! Ðiêu Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng: - Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau! Lữ Bố nói: - Nếu kiếp nầy không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa. Ðiêu Thuyền nói: - Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt. Bố nói: - Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay. Thuyền lôi vớt áo Lữ Bố lại nói rằng: - Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa! Bố dừng lại nói rằng: - Ðừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã. Nói rồi vác kích định đi ra. Ðiêu Thuyền níu lại nói rằng: - Khi tôi ở chốn buồng đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lới chịu dưới quyền áp chế của người khác! Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa. Lữ Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Ðiêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra. Ðổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói: - Ôn Hầu vào nhà sau. Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi Ðiêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa: - Ðiêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa. Trác vào vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Ðiêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên Ðình Phượng Nghi, họa kích dựng một bên. Trác giận quát to một tiếng. Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy. Trác vớ ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Ðổng Trác. Trác ngã quay xuống đất. Thế rõ thực là: Khi căm xông thẳng trên mây tía. Mình béo lăn kền đến đất đen. Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ.
Chương 9: Hồi 9 Bấm để xem Người đi va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho. Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện. Trác hỏi Lý Nho: - Ngươi đến đây làm gì? Lý Nho thưa: - Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư giết ta. Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội chết! Trác nói: - Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết hắn mới nghe. Lý Nho can rằng: - Thái Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc "Dứt dải mũ" đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại. Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng: - Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem. Lý Nho từ tạ rồi ra. Trác vào ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng: - Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố? Ðiêu Thuyền khóc thưa rằng: - Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thiếp đến Ðình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh. Trác lại hỏi: - Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không? Ðiêu Thuyền giật mình, khóc rằng: - Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này! Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn. Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng: - Ta nói bỡn đấy mà! Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng: - Ðây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra. Trác nói: - Ta sao nỡ bỏ nàng. Ðiêu Thuyền lại nói: - Thái Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại. Trác dỗ dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng: - Ngày mai chúng ta về My, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa. Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ. Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng: - Hôm nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố. Trác nói: - Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi! Nho nói: - Thái Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà. Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng: - Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu. Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng: - Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà! Ðời sau có thơ rằng: Tư Ðồ khéo mượn khách má đào, Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao Hổ Lao ba trận hoài bao sức, Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao! Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My, trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe. Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm. Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng: - Ôn Hầu sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở? Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn. Chào hỏi xong, Doãn nói: - Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay Thái Sư về My, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than? Bố nói: - Chỉ vì con gái ông đấy! Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng: - Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à? Bố nói: - Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi! Doãn lại giả cách thất kinh: - Không ngờ lại như thế! Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng: - Không ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy.. Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng: - Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện. Bố theo Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi. Bố lại đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe. Doãn nói: - Thái Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này. Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to. Doãn vội vàng nói rằng: - Lão trót lỡ lời.. xin tướng quân nguôi giận! Bố nói: - Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục. Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng: - Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão. Bố nói: - Ðại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru! Doãn nói thêm một câu rằng: - Tài như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được. Bố lại nói: - Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng? Doãn tủm tỉm cười nói rằng: - Tướng quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không? Bố hăng hái đứng lên nói rằng: - Nếu Tư Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm. Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng: - Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời. Bố đứng dậy lạy Vương Doãn nói rằng: - Ý tôi đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa. Doãn nói: - Tôi sợ việc không xong thì vạ to. Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề. Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng: - Hương hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết. Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra. Doãn lập tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy. Thụy nói: - Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả. Uyển nói: - Nhưng có ai dám đi mời không? Thụy nói: - Có quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc. Bố nói: - Ngày xưa xui ta giết Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước. Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc: - Xưa ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào? Túc nói: - Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng? Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề. Doãn nói: - Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng. Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My, sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói: - Thiên tử có chiếu gì? Túc thưa: - Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây. Trác hỏi: - Ý Vương Doãn thế nào? Túc thưa: - Vương Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về. Trác mừng rỡ nói rằng: - Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ. Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh. Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc: - Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô. Túc lạy tạ, xưng thần. Trác vào từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác: - Con đi đâu? Trác nói: - Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy. Mẹ Trác nói: - Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay! Trác nói: - Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình! Nói rồi từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng: - Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi. Ðiêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ. Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương. Trác hỏi Lý Túc: - Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào? Túc nói: - Thế là cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng. Trác nghe lấy làm lọt tai. Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc: - Thế là điềm gì? Túc nói: - Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời. Trác lại mừng không lo gì nữa. Khi Ðổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón. Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng. Trác nói: - Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ. Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng. Ðêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn. Hát rằng: Thiên lý thảo Hà thanh thanh Thập nhật bốc Bất đắc sinh! (Cỏ ngàn dặm Sao xanh xanh? Trên mười ngày Chẳng được sống) Tiếng hát nghe thực ai oán. Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc: - Trẻ hát như thế, hay dở thế nào? Túc thưa: - Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên. Mờ mờ sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu. Trác lại hỏi Lý Túc: - Người ấy là người thế nào? Túc nói: - Hắn là một thằng rồ. Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi. Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào. Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc: - Họ cầm kiếm là ý gì? LÝ Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào. Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng: - Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu? Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng: - Con ta Phụng Tiên đâu? Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng: - Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này! Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên. Lữ Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng: - Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả! Các tướng sĩ đều reo: - Vạn tuế! Ðời sau có thơ rằng: Bá nghiệp thành công hóa đế vương Không thành cũng vẫn được giàu sang Ai biết lòng trời không thiên vị My thành ra đất nát hoang. Lữ Bố lại hô lên rằng: - Giúp Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta? Lý Túc xin đi. Chợt có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng: - Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp. Vương Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết. Thây Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây. Vương Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản. Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My, liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu. Lữ Bố đến My, trước hết tìm Ðiêu Thuyền. Hoàn Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Ðổng Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng, vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo với Vương Doãn biết. Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng. Ðang ăn bỗng có người vào báo rằng: - Thây Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên. Doãn giận lắm, quát rằng: - Giết được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi? Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức giận nói: - Nay trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao? Ung xin nhận tội nói rằng: - Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: Nếu bị thích chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá! Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng: - Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ. Doãn nói: - Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười. Mã Nhật Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng: - Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được? Doãn không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết. Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc. Người đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm. Có thơ than Ung rằng: Ðổng Trác chuyên quyền thật bất nhân Ung sao rước lấy vạ vào thân? Bấy giờ Gia Cát nằm trong núi Ðâu chịu ra thờ kẻ loạn thần? Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tha tội. Vương Doãn nói: - Ðổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy không thể tha được. Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói: - Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong! Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng: - Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn. Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng: - Vương Doãn muốn giết sạch cả người ở Tây Lương. Dân chúng đều sợ hãi. Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng: - Chịu chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không? Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ. Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau. Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói: - Tư Ðồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột! Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận. Phụ chống không nổi, thua chạy. Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng: - Sao ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta? Nói rồi liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân. Hôm sau Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng: - Lữ Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi. Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố. Bố hỏi đầu đuôi, người đi theo khai rằng: - Xích Nhi giết Phụ để lấy của. Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi. Lữ Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại. Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng: - Lữ Bố tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua. Mọi người dùng kế ấy. Lữ Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có người báo rằng: - Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại. Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng: - Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm! Bố vội vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm. Vài hôm sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo rằng: - Thế nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác. Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng: - May ra nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính việc nước. Lữ Bố hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi. Ðược một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật. Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước. Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế. Vua Hiến Ðế đứng trên lầu hỏi rằng: - Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì? Thôi, Dĩ ngẫng lên tâu rằng: - Muôn tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay. Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng: - Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc. Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng: - Vương Doãn đây! Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng: - Ðổng Thái Sư có tội tình gì mà ngươi giết? Doãn nói: - Tội Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à? Thôi, Dĩ lại hỏi rằng: - Ừ, Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không được? Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng: - Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi. Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu. Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng: Vương Doãn bày mưu hay, Gian thần bị giết ngay. Thương dân nên tức ruột, Xót nước lại chau mày. Sao tỏ, lòng trung giãi. Mây cao, khí nghĩa đầy. Ðến nay hồn vía ấy, Quanh quất Phượng Lâu này. Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch. Sĩ dân ai nấy đều thương khóc. Lý, Quách lại bàn nhau rằng: - Ðã đến thế nầy, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ? Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung. Thế rõ thực: Ðầu sỏ tạ tội, tai nạn hết Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy. Chưa biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ. Người đi va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho. Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện. Trác hỏi Lý Nho: - Ngươi đến đây làm gì? Lý Nho thưa: - Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư giết ta. Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội chết! Trác nói: - Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết hắn mới nghe. Lý Nho can rằng: - Thái Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc "Dứt dải mũ" đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại. Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng: - Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem. Lý Nho từ tạ rồi ra. Trác vào ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng: - Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố? Ðiêu Thuyền khóc thưa rằng: - Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thiếp đến Ðình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh. Trác lại hỏi: - Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không? Ðiêu Thuyền giật mình, khóc rằng: - Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này! Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn. Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng: - Ta nói bỡn đấy mà! Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng: - Ðây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra. Trác nói: - Ta sao nỡ bỏ nàng. Ðiêu Thuyền lại nói: - Thái Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại. Trác dỗ dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng: - Ngày mai chúng ta về My, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa. Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ. Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng: - Hôm nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố. Trác nói: - Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi! Nho nói: - Thái Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà. Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng: - Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu. Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng: - Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà! Ðời sau có thơ rằng: Tư Ðồ khéo mượn khách má đào, Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao Hổ Lao ba trận hoài bao sức, Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao! Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My, trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe. Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm. Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng: - Ôn Hầu sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở? Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn. Chào hỏi xong, Doãn nói: - Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay Thái Sư về My, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than? Bố nói: - Chỉ vì con gái ông đấy! Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng: - Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à? Bố nói: - Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi! Doãn lại giả cách thất kinh: - Không ngờ lại như thế! Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng: - Không ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy.. Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng: - Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện. Bố theo Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi. Bố lại đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe. Doãn nói: - Thái Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này. Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to. Doãn vội vàng nói rằng: - Lão trót lỡ lời.. xin tướng quân nguôi giận! Bố nói: - Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục. Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng: - Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão. Bố nói: - Ðại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru! Doãn nói thêm một câu rằng: - Tài như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được. Bố lại nói: - Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng? Doãn tủm tỉm cười nói rằng: - Tướng quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không? Bố hăng hái đứng lên nói rằng: - Nếu Tư Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm. Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng: - Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời. Bố đứng dậy lạy Vương Doãn nói rằng: - Ý tôi đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa. Doãn nói: - Tôi sợ việc không xong thì vạ to. Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề. Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng: - Hương hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết. Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra. Doãn lập tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy. Thụy nói: - Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả. Uyển nói: - Nhưng có ai dám đi mời không? Thụy nói: - Có quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc. Bố nói: - Ngày xưa xui ta giết Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước. Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc: - Xưa ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào? Túc nói: - Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng? Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề. Doãn nói: - Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng. Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My, sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói: - Thiên tử có chiếu gì? Túc thưa: - Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây. Trác hỏi: - Ý Vương Doãn thế nào? Túc thưa: - Vương Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về. Trác mừng rỡ nói rằng: - Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ. Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh. Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc: - Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô. Túc lạy tạ, xưng thần. Trác vào từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác: - Con đi đâu? Trác nói: - Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy. Mẹ Trác nói: - Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay! Trác nói: - Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình! Nói rồi từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng: - Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi. Ðiêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ. Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương. Trác hỏi Lý Túc: - Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào? Túc nói: - Thế là cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng. Trác nghe lấy làm lọt tai. Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc: - Thế là điềm gì? Túc nói: - Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời. Trác lại mừng không lo gì nữa. Khi Ðổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón. Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng. Trác nói: - Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ. Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng. Ðêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn. Hát rằng: Thiên lý thảo Hà thanh thanh Thập nhật bốc Bất đắc sinh! (Cỏ ngàn dặm Sao xanh xanh? Trên mười ngày Chẳng được sống) Tiếng hát nghe thực ai oán. Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc: - Trẻ hát như thế, hay dở thế nào? Túc thưa: - Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên. Mờ mờ sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu. Trác lại hỏi Lý Túc: - Người ấy là người thế nào? Túc nói: - Hắn là một thằng rồ. Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi. Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào. Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc: - Họ cầm kiếm là ý gì? LÝ Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào. Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng: - Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu? Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng: - Con ta Phụng Tiên đâu? Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng: - Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này! Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên. Lữ Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng: - Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả! Các tướng sĩ đều reo: - Vạn tuế! Ðời sau có thơ rằng: Bá nghiệp thành công hóa đế vương Không thành cũng vẫn được giàu sang Ai biết lòng trời không thiên vị My thành ra đất nát hoang. Lữ Bố lại hô lên rằng: - Giúp Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta? Lý Túc xin đi. Chợt có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng: - Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp. Vương Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết. Thây Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây. Vương Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản. Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My, liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu. Lữ Bố đến My, trước hết tìm Ðiêu Thuyền. Hoàn Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Ðổng Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng, vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo với Vương Doãn biết. Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng. Ðang ăn bỗng có người vào báo rằng: - Thây Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên. Doãn giận lắm, quát rằng: - Giết được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi? Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức giận nói: - Nay trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao? Ung xin nhận tội nói rằng: - Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: Nếu bị thích chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá! Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng: - Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ. Doãn nói: - Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười. Mã Nhật Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng: - Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được? Doãn không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết. Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc. Người đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm. Có thơ than Ung rằng: Ðổng Trác chuyên quyền thật bất nhân Ung sao rước lấy vạ vào thân? Bấy giờ Gia Cát nằm trong núi Ðâu chịu ra thờ kẻ loạn thần? Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tha tội. Vương Doãn nói: - Ðổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy không thể tha được. Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói: - Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong! Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng: - Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn. Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng: - Vương Doãn muốn giết sạch cả người ở Tây Lương. Dân chúng đều sợ hãi. Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng: - Chịu chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không? Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ. Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau. Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói: - Tư Ðồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột! Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận. Phụ chống không nổi, thua chạy. Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng: - Sao ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta? Nói rồi liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân. Hôm sau Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng: - Lữ Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi. Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố. Bố hỏi đầu đuôi, người đi theo khai rằng: - Xích Nhi giết Phụ để lấy của. Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi. Lữ Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại. Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng: - Lữ Bố tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua. Mọi người dùng kế ấy. Lữ Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có người báo rằng: - Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại. Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng: - Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm! Bố vội vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm. Vài hôm sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo rằng: - Thế nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác. Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng: - May ra nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính việc nước. Lữ Bố hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi. Ðược một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật. Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước. Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế. Vua Hiến Ðế đứng trên lầu hỏi rằng: - Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì? Thôi, Dĩ ngẫng lên tâu rằng: - Muôn tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay. Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng: - Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc. Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng: - Vương Doãn đây! Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng: - Ðổng Thái Sư có tội tình gì mà ngươi giết? Doãn nói: - Tội Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à? Thôi, Dĩ lại hỏi rằng: - Ừ, Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không được? Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng: - Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi. Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu. Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng: Vương Doãn bày mưu hay, Gian thần bị giết ngay. Thương dân nên tức ruột, Xót nước lại chau mày. Sao tỏ, lòng trung giãi. Mây cao, khí nghĩa đầy. Ðến nay hồn vía ấy, Quanh quất Phượng Lâu này. Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch. Sĩ dân ai nấy đều thương khóc. Lý, Quách lại bàn nhau rằng: - Ðã đến thế nầy, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ? Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung. Thế rõ thực: Ðầu sỏ tạ tội, tai nạn hết Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy. Chưa biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.