

Họ Nguyễn là họ của người châu Á. Đây là họ phổ biến nhất của người Việt Nam. Họ Nguyễn cũng xuất hiện ở Triều Tiên và Trung Quốc.
Theo nhiều cuộc điều tra dân số, khoảng 40% người Việt Nam có họ này, và số người có họ này đứng thứ tư trên thế giới, chỉ sau họ Lý, họ Vương và họ Trương ở Trung Quốc.
Ngoài Việt Nam, họ Nguyễn cũng phổ biến ở những nơi khác có người Việt Nam sinh sống. Ở Úc, họ này đứng thứ 7 và là họ phổ biến nhất không bắt nguồn từ Vương quốc Anh. Ở Pháp, họ này đứng thứ 54. Tại Hoa Kỳ, họ Nguyễn đứng thứ 57 trong cuộc điều tra dân số năm 2000 và là họ thuần châu Á phổ biến nhất. Ở Na Uy, họ Nguyễn đứng thứ 73. Và ở Cộng hòa Séc, họ Nguyễn đứng đầu danh sách các họ nước ngoài.
Trong lịch sử Việt Nam, đã có rất nhiều trường hợp và sự kiện khiến những người vốn mang họ khác đã thay đổi họ của mình thành họ Nguyễn.
Năm 1232, nhà Lý suy vong, Trần Thủ Độ ép họ Lý đổi họ Nguyễn với lý do phạm huý vì: Ông nội của vua Trần Thái Tông tên là Trần Lý. Về lý do tại sao Trần Thủ Độ lại chọn họ Nguyễn để bắt họ Lý đổi sang, thì vẫn chưa rõ, và có lẽ đó chỉ là một sự lựa chọn ngẫu nhiên. Họ Nguyễn có sớm và nhiều ở nước ta.
Cũng có thể luận theo chữ Nho, chữ tượng hình, thì khi chữ Nguyên thêm liễu leo sẽ thành chữ Nguyễn. Về chữ Nguyên thì chính là ở trong niên hiệu Nguyên Phong của vua Trần Thái Tông.
Trong 1000 năm, từ năm 457 đến thời Hồ Quý Ly, trên vùng Hải Dương và một phần Hải Phòng ngày nay có huyện Phí Gia (cả huyện là họ Phí). Cuối thời Lý, Trần, nhiều người ở đây cũng thay đổi họ thành Nguyễn và Nguyễn Phí. Do đó mà sang thời nhà Lê, triều đình đã đổi tên huyện Phí Gia thành Kim Thành.
Nhà Tây Sơn vốn là hậu duệ của Hồ Quý Ly, thuộc dòng họ Hồ ở tỉnh Nghệ An. Ông cố nội của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long, lấy vợ và sinh được một người con trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không làm nông nghiệp mà đến ấp Tây Sơn làm nghề buôn trầu và lập gia đình tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Tùng, con gái duy nhất của một doanh nhân giàu có, nên con cái của họ được mang họ mẹ. Cũng có tài liệu nói rằng họ Hồ đã đổi theo họ của Chúa Nguyễn từ khi mới vào Nam.
Nguyên nhân chính của việc đổi họ là do tổ tiên của các dòng họ lên nắm quyền và lập triều đại, sau đó bị phế truất và bị nghi ngờ, con cháu buộc phải đổi họ.
Năm 1592, nhà Mạc sụp đổ, con cháu họ Mạc vào Nam theo Nguyễn Hoàng và đổi thành họ Nguyễn.
Khi nhà Nguyễn (vua Gia Long) lên nắm quyền vào năm 1802, việc nhiều người đổi họ sang họ Nguyễn không có gì lạ. Con cháu họ Trịnh sợ bị trả thù nên đã lần lượt đổi họ. Thêm vào đó, trong pháp luật của nhà Nguyễn, người họ Nguyễn được hưởng nhiều đặc ân, được triều đình ban thưởng, nên những tội nhân cũng đổi họ sang họ Nguyễn để khỏi bị bắt, được hưởng quyền lợi..
Vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân từng làm quan cao của triều đại Tây Sơn, chống lại Nguyễn Ánh. Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, con cháu của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị trả thù dữ dội, do đó phải đổi họ thành Nguyễn.
Trường hợp "hoành tráng" hơn cả là được ban họ theo họ của vua. Ví dụ: Huỳnh Tường Đức có công với vua Gia Long, được ban họ Nguyễn - họ của vua. Huỳnh Tường Đức được đổi tên thành Nguyễn Huỳnh Đức và con cháu của ông sau này tất nhiên cũng theo họ Nguyễn.
Từ cuối thế kỷ 19 cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ 2, nhà Nguyễn cầm quyền và trong thời gian đó, họ Nguyễn cũng được ban cho nhiều người.
Vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam mang họ Nguyễn. Những người nuối tiếc triều đại cũ cũng lấy họ theo họ của vị cựu hoàng này.
Về nguồn gốc họ Nguyễn, tổ tiên của người Việt - Kinh Dương Vương, người lập nên nước Xích Quỷ thời tiền sử, tiền thân của nước Việt Nam ngày nay - tên thật chính là Nguyễn Quảng, cha là Nguyễn Minh Khiết. Hiện nay có rất nhiều tài liệu về vấn đề này. Đó cũng là lý do họ Nguyễn có từ sớm và nhiều người mang họ Nguyễn ở nước ta.
Bên cạnh đó, có người cho rằng họ Nguyễn có nguồn gốc từ họ Trung Quốc, và thời gian dài Trung Quốc đô hộ Việt Nam thời phong kiến cả nghìn năm khiến số lượng người Việt mang họ Nguyễn tăng cao.
Dù sao đi nữa, dòng họ Nguyễn cũng đã có từ lâu đời ở Việt Nam và nhiều thế hệ con cháu dòng họ Nguyễn đã góp phần dựng nước, giữ nước, mở mang, rạng danh nước Việt.
Theo nhiều cuộc điều tra dân số, khoảng 40% người Việt Nam có họ này, và số người có họ này đứng thứ tư trên thế giới, chỉ sau họ Lý, họ Vương và họ Trương ở Trung Quốc.
Ngoài Việt Nam, họ Nguyễn cũng phổ biến ở những nơi khác có người Việt Nam sinh sống. Ở Úc, họ này đứng thứ 7 và là họ phổ biến nhất không bắt nguồn từ Vương quốc Anh. Ở Pháp, họ này đứng thứ 54. Tại Hoa Kỳ, họ Nguyễn đứng thứ 57 trong cuộc điều tra dân số năm 2000 và là họ thuần châu Á phổ biến nhất. Ở Na Uy, họ Nguyễn đứng thứ 73. Và ở Cộng hòa Séc, họ Nguyễn đứng đầu danh sách các họ nước ngoài.

Trong lịch sử Việt Nam, đã có rất nhiều trường hợp và sự kiện khiến những người vốn mang họ khác đã thay đổi họ của mình thành họ Nguyễn.
Năm 1232, nhà Lý suy vong, Trần Thủ Độ ép họ Lý đổi họ Nguyễn với lý do phạm huý vì: Ông nội của vua Trần Thái Tông tên là Trần Lý. Về lý do tại sao Trần Thủ Độ lại chọn họ Nguyễn để bắt họ Lý đổi sang, thì vẫn chưa rõ, và có lẽ đó chỉ là một sự lựa chọn ngẫu nhiên. Họ Nguyễn có sớm và nhiều ở nước ta.
Cũng có thể luận theo chữ Nho, chữ tượng hình, thì khi chữ Nguyên thêm liễu leo sẽ thành chữ Nguyễn. Về chữ Nguyên thì chính là ở trong niên hiệu Nguyên Phong của vua Trần Thái Tông.

Trong 1000 năm, từ năm 457 đến thời Hồ Quý Ly, trên vùng Hải Dương và một phần Hải Phòng ngày nay có huyện Phí Gia (cả huyện là họ Phí). Cuối thời Lý, Trần, nhiều người ở đây cũng thay đổi họ thành Nguyễn và Nguyễn Phí. Do đó mà sang thời nhà Lê, triều đình đã đổi tên huyện Phí Gia thành Kim Thành.
Nhà Tây Sơn vốn là hậu duệ của Hồ Quý Ly, thuộc dòng họ Hồ ở tỉnh Nghệ An. Ông cố nội của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long, lấy vợ và sinh được một người con trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không làm nông nghiệp mà đến ấp Tây Sơn làm nghề buôn trầu và lập gia đình tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Tùng, con gái duy nhất của một doanh nhân giàu có, nên con cái của họ được mang họ mẹ. Cũng có tài liệu nói rằng họ Hồ đã đổi theo họ của Chúa Nguyễn từ khi mới vào Nam.
Nguyên nhân chính của việc đổi họ là do tổ tiên của các dòng họ lên nắm quyền và lập triều đại, sau đó bị phế truất và bị nghi ngờ, con cháu buộc phải đổi họ.
Năm 1592, nhà Mạc sụp đổ, con cháu họ Mạc vào Nam theo Nguyễn Hoàng và đổi thành họ Nguyễn.
Khi nhà Nguyễn (vua Gia Long) lên nắm quyền vào năm 1802, việc nhiều người đổi họ sang họ Nguyễn không có gì lạ. Con cháu họ Trịnh sợ bị trả thù nên đã lần lượt đổi họ. Thêm vào đó, trong pháp luật của nhà Nguyễn, người họ Nguyễn được hưởng nhiều đặc ân, được triều đình ban thưởng, nên những tội nhân cũng đổi họ sang họ Nguyễn để khỏi bị bắt, được hưởng quyền lợi..
Vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân từng làm quan cao của triều đại Tây Sơn, chống lại Nguyễn Ánh. Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, con cháu của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị trả thù dữ dội, do đó phải đổi họ thành Nguyễn.
Trường hợp "hoành tráng" hơn cả là được ban họ theo họ của vua. Ví dụ: Huỳnh Tường Đức có công với vua Gia Long, được ban họ Nguyễn - họ của vua. Huỳnh Tường Đức được đổi tên thành Nguyễn Huỳnh Đức và con cháu của ông sau này tất nhiên cũng theo họ Nguyễn.
Từ cuối thế kỷ 19 cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ 2, nhà Nguyễn cầm quyền và trong thời gian đó, họ Nguyễn cũng được ban cho nhiều người.
Vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam mang họ Nguyễn. Những người nuối tiếc triều đại cũ cũng lấy họ theo họ của vị cựu hoàng này.
Về nguồn gốc họ Nguyễn, tổ tiên của người Việt - Kinh Dương Vương, người lập nên nước Xích Quỷ thời tiền sử, tiền thân của nước Việt Nam ngày nay - tên thật chính là Nguyễn Quảng, cha là Nguyễn Minh Khiết. Hiện nay có rất nhiều tài liệu về vấn đề này. Đó cũng là lý do họ Nguyễn có từ sớm và nhiều người mang họ Nguyễn ở nước ta.
Bên cạnh đó, có người cho rằng họ Nguyễn có nguồn gốc từ họ Trung Quốc, và thời gian dài Trung Quốc đô hộ Việt Nam thời phong kiến cả nghìn năm khiến số lượng người Việt mang họ Nguyễn tăng cao.
Dù sao đi nữa, dòng họ Nguyễn cũng đã có từ lâu đời ở Việt Nam và nhiều thế hệ con cháu dòng họ Nguyễn đã góp phần dựng nước, giữ nước, mở mang, rạng danh nước Việt.