1.1. Một số khái niệm có liên quan
Theo giáo trình Quản lý tài nguyên và môi trường ứng phó biến đổi khí hậu của TS. Trần Thị Mai Phương (Đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội) :
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng.
Tài nguyên sinh vật (TNSV) là toàn bộ giống loài trên trái đất có khả năng phục vụ cho nhu cầu của con người. Tài nguyên sinh vật bao gồm tài nguyên thực vật và tài nguyên động vật. Giá trị của TNSV thể hiện ở mức độ phong phú về chủng loại, số lượng cả thể và mức độ phong phú của loài.
Quản lý tài nguyên thiên nhiên là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như
đất,
nước,
thực vật,
động vật và tập trung chủ yếu về các tác động đến
chất lượng cuộc sống cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.
Đai dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên Trái Đất, là hàng triệu loại thực vật, động vật và vi sinh vật.
1.2. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về tài nguyên sinh vật tại Việt Nam
TNSV tại Việt Nam vô cùng đa dạng do các đặc trưng về địa lý và khí hậu. Mỗi khu vực khác nhau có những loài sinh vật đặc hữu khác nhau. Là khu vực có hệ thống TNSV phong phú, Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, các nghiên cứu này được trình bày một cách hệ thống như sau:
1.2. 1. Các nghiên cứu trong nước
Có rất nhiều nghiên cứu trong nước về TNSV. Trong đề tài nghiên cứu năm 2020, Trần Văn Bằng đã đưa ra các kết luận quan trọng rằng: Việt Nam là 1 trong 25 điểm nóng về đa dạng sinh học toàn cầu; đa dạng sinh học ở Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới. Đặc điểm nổi bật trong nguồn tài nguyên về đa dạng sinh học ở Việt Nam là tính đặc hữu về loài, đồng thời cũng là về nguồn gen quý hiếm. Thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi đưa ra các con số cụ thể về sự đa dạng của hệ thống sinh vật tại Việt Nam, các con số này được cập nhật thường xuyên trong các báo cáo định kì nhằm phục vụ công tác quản lý và cung cấp dữ liệu cơ sở đáng tin cậy cho các nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2015), đưa ra các thông tin về số lượng các khu bảo tồn trên cạn, khu bảo tồn sinh quyển tại Việt Nam nhằm chứng minh sự giàu có về TNSV của nước ta.
Ngoài các nghiên cứu hướng đến TNSV tự nhiên, chúng ta còn có các nghiên cứu về TNSV nhân tạo bao gồm hệ thống cây trồng và vật nuôi sử dụng trong nông nghiệp của tác giả Lê Trần Chấn, 2002.
Bên cạnh các nghiên cứu tổng thể về nguồn TNSV trên phạm vi toàn lãnh thổ, chúng ta cũng có các nghiên cứu cụ thể đối với hệ sinh vật tại các địa phương cụ thể, mà tập trung chủ yếu tại các vườn quốc gia, nơi có dự trữ TNSV phong phú. Phạm Mạnh Thế (2011) đã thực hiện nghiên cứu đa dạng khu hệ động vật có xương trên cạn tại Hương Sơn, Hà Nội và đưa ra kết luận rằng tài nguyên động vật hoang dã ở Hương Sơn đang bị suy giảm bởi các nguy cơ: Săn bắt và buôn bán động vật trái phép, khai thác lâm sản, canh tác nông nghiệp ở các thung lũng trong rừng sâu, phát triển cơ sở hạ tầng, lượng lớn người xâm nhập vào rừng đặc biệt là khách du lịch đến thăm quan trong mùa lễ hội. Tác giả Hoàng Thị Yến (2018) đã hoàn thành nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc và đa dạng của các trạng thái rừng tự nhiên tại Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang với các kết luận về chỉ số phát triển của các rừng tự nhiên trong nghiên cứu và so sánh được mức độ phát triển của 2 khu vực từ đó đưa ra các kiến nghị để phát triển các kiểu rừng trong tương lai.
Tác giả Nguyễn Thị Tâm (2015) đã làm rõ hiện trạng quản lý tài nguyên sinh học tại vườn quốc gia Bến En trong nghiên cứu của mình. Tác giả đã cho thấy rằng vườn quốc gia Bến En là một vùng có độ đa dạng sinh học cao cần được bảo tồn, giữ gìn và phát triển.
Như vậy, từ các nghiên cứu trong nước, chúng ta có thể kết luận tổng thể rằng, Việt Nam là quốc gia có nguồn TNSV vô cùng phong phú, điều này được tạo ra bởi sự đa dạng về địa hình và khí hậu cũng như sự ảnh hưởng của nền nông nghiệp truyền thống và các hoạt động của con người.
1.2. 2. Các nghiên cứu ngoài nước
Là khu vực có sự đa dạng về hệ thống sinh vật, Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của nhiều đề tài trên thế giới về sự đa dạng sinh học. Rất nhiều nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đã thực hiện tại Việt Nam và cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về TNSV như nghiên cứu của Myers và cộng sự, 2000; nghiên cứu về sự phân bố TNSV theo địa lý Việt Nam của Lộc và cộng sự 2018.
Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa số liệu các loài sinh vật được phát hiện qua các năm trong các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy một sự thật rằng, các nghiên cứu thống kê tại Việt Nam chưa thực sự phản ánh đầy đủ về TNSV tại Việt Nam [13] . Nhận định này cũng được đồng ý trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Định (2017) [9] .