Quản lý tài nguyên sinh vật ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Tiểu nô nô, 30 Tháng mười 2021.

  1. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
  2. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Mở đầu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1. Lý do chọn đề tài

    Tài nguyên sinh vật là toàn bộ giống loài trên trái đất có khả năng phục vụ cho nhu cầu của con người. Tài nguyên sinh vật là một nguồn tài nguyên to lớn và vô cùng quan trọng, chúng có giá trị về nhiều mặt đối với con người và hệ sinh thái. Tài nguyên sinh vật là cơ sở cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, văn hóa, xã hội.. Thêm vào đó, tài nguyên sinh vật là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho xây dựng, sinh hoạt, thủ công mỹ nghệ.. cũng là nơi dự trữ và cung cấp bộ dữ liệu di truyền cho sự sống và tiến hóa trên trái đất. Tuy nhiên, trong những năm qua do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, văn hóa, xã hội kết hợp với sự thay đổi của yếu tố khí hậu gây ra bởi các hoạt động của con người đã tác động mạnh mẽ đến tài nguyên sinh vật trên trái đất.

    Tại Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm gia tăng mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Việc đáp ứng nhu cầu của con người thông qua sự khai thác đến mức cạn kiệt nguồn tài nguyên là một trong những nguyên nhân khiến cho hệ sinh thái đứng trước nguy cơ bị suy thoái, các loài sinh vật bị tuyệt chủng. Mặt khác, công tác quản lý tài nguyên sinh vật tại Việt Nam chưa được chú trọng và thực thi một cách nghiêm túc; các vấn nạn trong công tác quản lý là lỗ hổng cho những sai phạm nghiêm trọng dẫn đến hàng loạt loài động - thực vật quý hiếm đứng trên bờ tuyệt chủng. Tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam, đặc biệt là tài nguyên sinh vật, đang suy giảm một cách nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng và dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề.

    Nhằm xây dựng bộ cơ sở dữ liệu cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên trong đó đặc biệt quan tâm đến quản lý tài nguyên sinh vật, việc xây dựng các nghiên cứu làm rõ hiện trạng tài nguyên sinh vật tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. Tác giả thực hiện "Nghiên cứu hiện trạng và đề suất giải pháp quản lý tài nguyên sinh vật ở Việt Nam" nhằm đóng góp các tri thức toàn diện và cụ thể về hiện trạng tài nguyên sinh vật từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể trong công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên sinh vật và phục hồi hệ sinh vật tại Việt Nam. Nghiên cứu này cập nhật các nội mới nhất và toàn diện nhất về hiện trạng tài nguyên sinh vật tại Việt Nam, cũng như tạo tiền đề cho các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên môi trường.

    2. Mục tiêu nghiên cứu

    Mục tiêu chung:

    Nghiên cứu cung cấp tri thức toàn diện về nguồn tài nguyên sinh vật tại Việt Nam, hiện trạng sử dụng tài nguyên sinh vật cũng như đề xuất các biện pháp hướng đến việc sử dụng tài nguyên bền vững.

    Mục tiêu cụ thể:

    - Làm rõ hiện trạng tài nguyên sinh vật tại Việt Nam bao gồm có hiện trạng sử dụng - khai thác, hiện trạng quản lý - bảo tồn.

    - Đề xuất các giải pháp nhằm quản lý bền vững tài nguyên sinh vật tại Việt Nam.

    3. Phương pháp nghiên cứu

    Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý tài nguyên sinh vật ở Việt Nam là một nghiên cứu tổng hợp với yêu cầu các thông tin tổng quát cả trong và ngoài nước về hệ thống tài nguyên sinh vật. Vì vậy phương pháp quan trọng nhất được sử dụng trong đề tài là Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu tài liệu với mục đích nhằm tìm hiểu những luận cứ từ trong lịch sử nghiên cứu mà đồng nghiệp đi trước đã làm, không mất nhiều thời gian lặp đi lặp lại những công việc đã được thực hiện. Nghiên cứu này tham khảo và tổng hợp các tài liệu có liên quan bao gồm: Các báo cáo khoa học, các bài báo trong và ngoài nước, báo cáo của chính quyền địa phương về điều kiện kinh tế xã hội, các dữ liệu thống kê của các cơ quan quản lý.

    4. Nội dung nghiên cứu

    Nghiên cứu tập trung vào ba nội dung chính như sau:

    - Tổng quản hiện trạng tài nguyên sinh vật của Việt Nam theo các tài liệu trong và ngoài nước tại các thời kì trong quá khứ và hiện tại;

    - Làm rõ hiện trạng khai thác, sử dụng và bảo tồn tài nguyên sinh vật tại Việt Nam;

    - Đề xuất các giải pháp quản lý tài nguyên sinh vật phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam;
     
  3. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Chương 1. Tổng quan

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1.1. Một số khái niệm có liên quan

    Theo giáo trình Quản lý tài nguyên và môi trường ứng phó biến đổi khí hậu của TS. Trần Thị Mai Phương (Đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội) :

    Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng.

    Tài nguyên sinh vật (TNSV) là toàn bộ giống loài trên trái đất có khả năng phục vụ cho nhu cầu của con người. Tài nguyên sinh vật bao gồm tài nguyên thực vật và tài nguyên động vật. Giá trị của TNSV thể hiện ở mức độ phong phú về chủng loại, số lượng cả thể và mức độ phong phú của loài.

    Quản lý tài nguyên thiên nhiên là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất, nước, thực vật, động vật và tập trung chủ yếu về các tác động đến chất lượng cuộc sống cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.

    Đai dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên Trái Đất, là hàng triệu loại thực vật, động vật và vi sinh vật.

    1.2. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về tài nguyên sinh vật tại Việt Nam

    TNSV tại Việt Nam vô cùng đa dạng do các đặc trưng về địa lý và khí hậu. Mỗi khu vực khác nhau có những loài sinh vật đặc hữu khác nhau. Là khu vực có hệ thống TNSV phong phú, Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, các nghiên cứu này được trình bày một cách hệ thống như sau:

    1.2. 1. Các nghiên cứu trong nước

    Có rất nhiều nghiên cứu trong nước về TNSV. Trong đề tài nghiên cứu năm 2020, Trần Văn Bằng đã đưa ra các kết luận quan trọng rằng: Việt Nam là 1 trong 25 điểm nóng về đa dạng sinh học toàn cầu; đa dạng sinh học ở Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới. Đặc điểm nổi bật trong nguồn tài nguyên về đa dạng sinh học ở Việt Nam là tính đặc hữu về loài, đồng thời cũng là về nguồn gen quý hiếm. Thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi đưa ra các con số cụ thể về sự đa dạng của hệ thống sinh vật tại Việt Nam, các con số này được cập nhật thường xuyên trong các báo cáo định kì nhằm phục vụ công tác quản lý và cung cấp dữ liệu cơ sở đáng tin cậy cho các nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2015), đưa ra các thông tin về số lượng các khu bảo tồn trên cạn, khu bảo tồn sinh quyển tại Việt Nam nhằm chứng minh sự giàu có về TNSV của nước ta.

    Ngoài các nghiên cứu hướng đến TNSV tự nhiên, chúng ta còn có các nghiên cứu về TNSV nhân tạo bao gồm hệ thống cây trồng và vật nuôi sử dụng trong nông nghiệp của tác giả Lê Trần Chấn, 2002.

    Bên cạnh các nghiên cứu tổng thể về nguồn TNSV trên phạm vi toàn lãnh thổ, chúng ta cũng có các nghiên cứu cụ thể đối với hệ sinh vật tại các địa phương cụ thể, mà tập trung chủ yếu tại các vườn quốc gia, nơi có dự trữ TNSV phong phú. Phạm Mạnh Thế (2011) đã thực hiện nghiên cứu đa dạng khu hệ động vật có xương trên cạn tại Hương Sơn, Hà Nội và đưa ra kết luận rằng tài nguyên động vật hoang dã ở Hương Sơn đang bị suy giảm bởi các nguy cơ: Săn bắt và buôn bán động vật trái phép, khai thác lâm sản, canh tác nông nghiệp ở các thung lũng trong rừng sâu, phát triển cơ sở hạ tầng, lượng lớn người xâm nhập vào rừng đặc biệt là khách du lịch đến thăm quan trong mùa lễ hội. Tác giả Hoàng Thị Yến (2018) đã hoàn thành nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc và đa dạng của các trạng thái rừng tự nhiên tại Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang với các kết luận về chỉ số phát triển của các rừng tự nhiên trong nghiên cứu và so sánh được mức độ phát triển của 2 khu vực từ đó đưa ra các kiến nghị để phát triển các kiểu rừng trong tương lai.

    Tác giả Nguyễn Thị Tâm (2015) đã làm rõ hiện trạng quản lý tài nguyên sinh học tại vườn quốc gia Bến En trong nghiên cứu của mình. Tác giả đã cho thấy rằng vườn quốc gia Bến En là một vùng có độ đa dạng sinh học cao cần được bảo tồn, giữ gìn và phát triển.

    Như vậy, từ các nghiên cứu trong nước, chúng ta có thể kết luận tổng thể rằng, Việt Nam là quốc gia có nguồn TNSV vô cùng phong phú, điều này được tạo ra bởi sự đa dạng về địa hình và khí hậu cũng như sự ảnh hưởng của nền nông nghiệp truyền thống và các hoạt động của con người.

    1.2. 2. Các nghiên cứu ngoài nước

    Là khu vực có sự đa dạng về hệ thống sinh vật, Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của nhiều đề tài trên thế giới về sự đa dạng sinh học. Rất nhiều nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đã thực hiện tại Việt Nam và cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về TNSV như nghiên cứu của Myers và cộng sự, 2000; nghiên cứu về sự phân bố TNSV theo địa lý Việt Nam của Lộc và cộng sự 2018.

    Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa số liệu các loài sinh vật được phát hiện qua các năm trong các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy một sự thật rằng, các nghiên cứu thống kê tại Việt Nam chưa thực sự phản ánh đầy đủ về TNSV tại Việt Nam [13] . Nhận định này cũng được đồng ý trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Định (2017) [9] .
     
  4. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Chương 2. Hiện trạng sử dụng tài nguyên sinh vật ở Việt Nam

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Việt Nam nằm ở vị trí chuyển giao địa lý của các khối lục địa lớn trong khu vực dẫn đến sự giao thoa của nhiều hệ thống sinh vật: Phía đông mang các đặc điểm địa sinh học của dãy Hymalaya; phía nam có các kiểu hệ sinh thái (HST) tương tự với các HST biển đảo và đất liền của khu vực Đông Nam Á; dãy Trường Sơn là vùng chuyển tiếp giữa kiểu khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới [16] . Bên cạnh đó, Việt Nam còn có 16 hệ thống sông chính với 10 hệ thống sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai.. Bên cạnh HST rừng thì Việt Nam còn có nhiều kiểu HST khác như trảng cỏ, đất ngập nước nội địa, đồi cát, bãi bồi ven biển, cửa sông, bãi cỏ biển, rạn san hô và vùng biển sâu [14] . Mặt khác, các HST nhân tạo như đập nước, đất nông nghiệp, đô thị cũng mang lại sự đa dạng nhất định cho hệ thống sinh vật của Việt Nam.

    2.1. Hiện trạng tài nguyên sinh vật Việt Nam

    Việt Nam là một trong 25 điểm nóng đa dạng sinh học toàn cầu [15] . Việt Nam có diện tích lớn nhất ở phía Đông của Bán đảo Đông Dương, nằm dọc theo rìa Đông Nam của Bán đảo kết hợp với mạng lưới thủy văn đa dạng với nhiều sông suối vừa và nhỏ. Sự phân bố TNSV theo địa lý của Việt Nam là không đồng đều [12] .

    Hiện ở Việt Nam đã xác định được khoảng 49.200 loài, bao gồm gần 7.500 vi sinh vật; 20.000 cây trên cạn và dưới nước; khoảng 10.500 động vật trên cạn; khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; và ở biển, có hơn 11.000 loài sinh vật biển (6.300 loài động vật đáy, 2.500 loài cá biển, 653 loài rong biển, 657 loài động vật nổi, 537 loài thực vật nổi, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và 5 loài rùa biển) [1] .

    Thống kê cụ thể của Bộ Tài nguyên và Môi (2011) cho thấy, Việt Nam là nơi trú ngụ của 13.766 loài thực vật, 10.300 loài động vật trên cạn (312 loài thú, 840 loài chim, 167 loài ếch nhái, 317 loài bò sát, trên 7.700 loài côn trùng, và nhiều loài động vật không xương sống khác). Số loài sinh vật nước ngọt đã được biết đến là hơn 1.438 loài vi tảo, 800 loài động vật không xương sống, 1.028 loài cá nước ngọt.

    Thống kê từ cơ sở dữ liệu các nhóm động, thực vật cho thấy, Việt Nam có ít nhất 467 loài động vật đặc hữu, cao hơn nhiều so với các quốc gia lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan [2] .

    Kết quả nghiên cứu cho thấy hàng trăm loại trên đất và loài nước ngọt mới được khoa học nhắc đến lần đầu tiên ở Việt Nam trong các nghiên cứu thường niên. Chỉ tính riêng từ năm 2006 đến năm 2011, trên 100 loài mới lần đầu tiên được phát hiện và mô tả khoa học ở Việt Nam, đặc biệt có 21 loài bò sát, 6 loài ếch và 1 loài chồn hương. Nhiều nhà khoa học cho rằng, còn nhiều loài động vật hoang dã khác ở Việt Nam vẫn chưa được tìm ra và số lượng loài đã biết có thể thấp hơn nhiều so với số loài thực tế trong tự nhiên [1] .

    Trong các loài đã được biết đến tại Việt Nam có 882 loài động, thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao đang bị đe dọa ở các mức độ khác nhau và có tên trong Sách Đỏ Việt Nam 2007. Hiện nay Việt Nam có 28 khu vực di sản thế giới về tự nhiên và văn hóa, 128 khu bảo tồn trên cạn, 15 khu bảo tồn biển, 5 khu Ramsar và 8 khu bảo tồn sinh quyển [6] . Đây là nguồn dự trữ về TNSV cũng như bảo tồn giống và cung cấp nguồn gen cho khu vực và thế giới.

    Ngoài sự đa dạng về TNSV tự nhiên, Việt Nam còn có TNSV trong nông nghiệp. Điều này xuất phát từ hoạt động nông nghiệp với khoảng 733 loài cây trồng. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học, hệ thống sinh vật (bao gồm vật nuôi và cây trồng) ở nước ta càng ngày càng phong phú [3] .

    Các con số thống kê nêu trên chưa thực sự phản ánh đầy đủ tính đa dạng sinh học của Việt Nam, khi mà số lượng loài mới được phát hiện không ngừng tăng nhanh trong những năm gần đây. Ví dụ, hơn 18 loài côn trùng mới được công bố vào năm 2017 chỉ từ một nghiên cứu, 5 loài mới của một giống thực vật mới cũng đã được mô tả từ một công trình vào năm 2014 [2] . Điều đó chứng minh nguồn tài nguyên về đa dạng loài động, thực vật ở Việt Nam chưa thực sự được hiểu biết đầy đủ.

    Như vậy, có sự thống nhất giữa các nghiên cứu trong và ngoài nước về các nhận định sau:

    - Việt Nam là một quốc gia có TNSV phong phú, hệ thống sinh vật đa dạng được tạo ra bởi các yếu tố địa lý và khí hậu;

    - Việc khảo sát và cập nhật số liệu về TNSV được thực hiện khá thường xuyên nhưng vẫn chưa có được sự hiểu biết hoàn toàn đầy đủ.

    2.2. Hiện trạng sử dụng tài nguyên sinh vật tại Việt Nam

    Mặc dù có nguồn TNSV đa dạng và phong phú nhưng hiện trạng sử dụng TNSV tại Việt Nam đang đẩy các loài sinh vật đến sự suy thoái. Sự suy giảm nguồn TNSV diễn ra một cách mạnh mẽ do nhu cầu phát triển kinh tế [17] [10] .

    Theo kết quả nghiên cứu của Viện điều tra và quy hoạch rừng, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, khai thác quá mức lâm sản là nguyên nhân chính khiến rừng tự nhiên của Việt Nam bị suy giảm diện tích trong nhiều thập kỷ qua. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thời gian 20 năm từ năm 1975 đến năm 1995, diện tích rừng tự nhiên của cả nước đã giảm 2, 8 triệu hecta. Sự suy giảm của diện tích rừng tự nhiên là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến suy thoái TNSV tại nước ta. Theo dữ liệu từ Danh lục đỏ IUCN năm 2020, tổng cộng có 6.640 loài sinh vật tại Việt Nam đã được đánh giá, trong đó có 1.081 loài (gồm 771 loài động vật và 310 loài thực vật) đang có nguy cơ tuyệt chủng, chiếm 16, 28% tổng số loài đã được đánh giá. Con số này đã tăng hơn so với tỷ lệ 13% ở năm 2012 [2] . Thêm vào đó, các hoạt động buôn bán, khai thác và sử dụng TNSV trái phép cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự cạn kiệt loại tài nguyên này. Cụ thể:

    2.2. 1. Hiện trạng sử dụng động vật trên cạn:

    Việc khai thác đáp ứng cho nhu cầu sử dụng, giải trí hoặc buôn bán đã đẩy nhiều loài động vật tự nhiên ở Việt Nam đến bờ vực tuyệt chủng, và đang gây áp lực nặng nề lên các quần thể khác. Nhu cầu sửu dụng đối với các sản phẩm từ động vật hoang dã để chữa bệnh như trong sừng tê giác, xương hổ và mật gấu.. tăng cao đã đẩy số lượng các sinh vật này giảm xuống mức thấp đến mức gần như tuyệt chủng. Mặt khác, do nhu cầu về các sản phẩm từ động vật hoang dã tăng lên nên các đối tượng buôn bán động vật hoang dã trái phép đã tăng cường hoạt động khiến cho công tác bảo vệ động vật của cơ quan quản lý gặp nhiều khó khăn. Kết quả đến năm 2007 cho thấy, có ít nhất 4 loài động vật và 1 loài thực vật đã được xem là tuyệt chủng ở Việt Nam như loài Heo vòi (Tapirus indicus ), Tê giác 2 sừng (Dicerorhinus sumatrensis ). Gần đây nhất (2012) là sự tuyệt chủng của loài Tê giác 1 sừng (Rhinoceros sondaicus ) [2] .

    2.2. 2. Hiện trạng sử dụng động vật dưới nước và các loài thủy sinh vật

    Dân số bùng nổ và mức độ tiêu thụ của con người tăng lên đã dẫn đến việc đánh bắt quá mức ở nhiều vùng nước ngọt, dẫn đến giảm tổng sản lượng đánh bắt. Nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao bị suy giảm nghiêm trọng như cá anh vũ, cá lăng, tôm hùm, bào ngư, sò điệp.. Các kỹ thuật đánh bắt mang tính hủy diệt như sử dụng chất nổ, chất độc, kích điện được sử dụng tràn lan và thiếu kiểm soát đe dọa nghiêm trọng đến các HST tự nhiên ở các vùng ven biển Việt Nam [4] . Hiện nay, một số loài động vật biển đã tuyệt chủng tại Việt Nam (có thể vẫn còn một số cá thể trong vùng biển của nước ngoài) như: Loài Cá chép gốc (Procypris merus ), loài Giải lớn (Pelochelys cantorii ), loài Giải Thượng Hải (Rafetus swinhoei ) [11] .

    2.2. 3. Hiện trạng sử dụng thực vật

    Dựa vào các đặc tính quý của thực vật như cung cấp gỗ, dược liệu, thực phẩm.. tình trạng khai thác xuất khẩu trái phép các loại thực vật quý qua biên giới diễn ra khá phổ biến. Tại Cao Bằng, thương nhân Trung Quốc đã thành lập các trạm thu mua và chế biến dược liệu địa phương như: Củ bình vôi trắng, củ bình vôi vàng, giảo cổ lam.. Nhiều cây thuốc được nhập lậu vào Trung Quốc nhưng chưa rõ giá trị kinh tế và tác dụng chữa bệnh.

    Năm 1996, có 24 loài thực vật thuộc diện Nguy cấp được đưa vào Sách đỏ Việt Nam thì hiện nay con số này đã tăng lên 192 loài trong đó có 45 loài được coi là Rất nguy cấp. Phần lớn chúng thuộc Ngành Mộc Lan và Ngành Thông. Nhiều loại gỗ quý như Hoàng đàn rủ, Bách vàng, Ba gạc hoa đỏ, Sâm vũ điệp.. đã trở nên vô cùng hiếm với số lượng ít ỏi [11] .

    2.2. 4. Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên sinh vật

    Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của biến đổi khí hậu (BĐKH). Một số tác động như: Xâm nhập mặn tác động tới nhiều loài động - thực vật nước ngọt, làm biến mất nhiều loài sinh vật đặc hữu của nước ta. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão tố tăng sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật trong đó. Nhiệt độ tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều HST, làm suy giảm hoặc tuyệt chủng nhiều loài sinh vật [6] . Mặt khác, nghiên cứu của Hoàng Xuân Bền và cộng sự (2015) cho thấy, nhiều rạn san hô tại các vùng biển Việt Nam sau khi mất đi sẽ vĩnh viễn không thể phục hồi, kéo theo đó, các nhóm sinh vật biển có giá trị kinh tế cao cũng không có dấu hiệu phục hồi. Như vậy, dưới tác động của biến đổi khí hậu, nhiều loài sinh vật tại Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị suy giảm mạnh về số lượng thậm chí tuyệt chủng.
     
  5. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Chương 3. Hiện trạng và giải pháp quản lý tài nguyên sinh vật ứng phó với biến đổi khí hậu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    3.1. Hiện trạng quản lý tài nguyên sinh vật tại Việt Nam

    Có thể nói, những vấn đề liên quan đến quản lý TNSV, đa dạng sinh học ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp bách. Trong nhiều năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong lĩnh vực quản lý TNSV, bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật như: Luật Bảo vệ Môi trường (2014), Luật Đa dạng sinh học (2008), Luật Thủy sản (2004), các Nghị định, chính sách, chương trình và kế hoạch hành động hướng đến bảo vệ TNSV và đa dạng sinh học. Việc ban hành các văn bản pháp luật này là vô cùng quan trọng, nó tạo ra một khung pháp lý trong công tác bảo tồn TNSV và hạn chế tội phạm môi trường. Đây là công cụ hiệu quả nhất trong công tác quản lý vì nó mang tính bắt buộc mọi tổ chức, cá nhân phải thực hiện. Tuy nhiên, các quy định trên phần lớn đều mang tính nguyên tắc chung, thiếu tính áp dụng thực tiễn nên làm giảm hiệu lực thi hành. Mặt khác, nhiều quy định còn chưa chặt chẽ dẫn đến các hành vi phớt lờ quy định, lách luật.

    Bên cạnh các biện pháp bắt buộc được quy định, nhà nước ta cũng khuyến khích các hoạt động giáo dục và truyền thông môi trường, tăng cường các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, bảo vệ TNSV nhằm hướng đến sự thay đổi nhận thức và hành động của người dân. Các biện pháp này bước đầu đã có những hiệu quả nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế như độ phổ biến chưa cao và phụ thuộc nhiều vào ý thức chủ quan của người dân.

    Ngoài ra, các nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hướng đến bảo tồn TNSV cũng được chú trọng phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng những kết quả mà các công trình này mang lại đã đóng góp một phần không nhỏ vào công tác quản lý tài nguyên của nước ta.

    3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên sinh vật tại Việt Nam

    3.2. 1. Các giải pháp quan trọng cần ưu tiên

    - Hoàn thiện các công cụ pháp luật, chính sách

    Như đã trình bày, hiện nay Việt Nam đã có các công cụ pháp lý trong quản lý TNSV, đây là bộ công cụ quản lý mang tính bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, các công cụ cụ này chưa thực sự đạt được hiệu quả mong muốn. Nghiên cứu này đề xuất việc xây dựng các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn thực thi các văn bản pháp luật một cách cụ thể và rõ ràng cho từng nhóm TNSV cụ thể. Bên cạnh đó, xây dựng bộ chế tài xử phạt đối với các hành vi làm nguy hại hoặc suy giảm TNSV của Việt Nam.

    Quốc gia và địa phương có quy hoạch rõ ràng, cụ thể về việc sử dụng TNSV cũng như quy hoạch bảo vệ và phục hồi nguồn tài nguyên. Quy định trách nhiệm cụ thể khi có sự cố.

    - Cải thiện và làm chặt chẽ các công cụ kinh tế

    Kinh tế là một khía cạnh quan trọng cần được lưu ý trong quản lý TNSV. Các công cụ kinh tế ví dụ như Chi trả dịch vụ môi trường, thuế, phí môi trường cần được quy định rõ ràng và chặt chẽ nhằm đánh đúng vào đối tượng trọng điểm sử dụng TNSV tại Việt Nam cũng như xác định đối tượng chịu trách nhiệm khi có sự cố môi trường xảy ra ảnh hưởng đến TNSV.

    3.2. 2. Các giải pháp khuyến khích

    - Giải pháp về khoa học và công nghệ

    Nhà nước, các trường đại học, các tập đoàn.. nên khuyến khích và tạo điều kiện về kinh tế, trang thiết bị cũng như môi trường nghiên cứu cho các cá nhân hoặc nhóm có nghiên cứu về đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn TNSV. Bên cạnh đó, việc chuyển giao công nghệ trong công tác bảo tồn TNSV cũng cần được chú trọng hướng đến áp dụng công nghệ cao trong quản lý tài nguyên.

    - Khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên sinh vật

    Nhà nước nên ban hành đa dạng các chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư hoặc giúp đỡ các chương trình bảo vệ TNSV, làm đa dạng hóa nguồn sinh vật tại Việt Nam. Nguồn tài chính từ các chính sách khuyến khích kinh tế này sẽ được hỗ trợ cho công tác bảo tồn TNSV trong nước, đặc biệt là tại các Vườn quốc gia, khu bảo tồn.

    - Giải pháp về giáo dục, truyền thông hướng đến bảo vệ tài nguyên sinh vật

    Nhà nước, các tổ chức phi chính phủ được khuyến khích để thực hiện các chương trình, chiến dịch nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, các tổ chức kinh tế về vai trò và tầm quan trọng của rừng, hệ TNSV. Từ đó thay đổi các hành vi làm suy giảm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến nguồn TNSV.
     
  6. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Kết luận

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú, đây là kết quả của các yếu tố địa lý, khí hậu và tác động của con người qua các thời kì. Tài nguyên sinh vật mang đến cho nước ta lợi ích to lớn về kinh tế, tạo nên sự đa dạng sinh học, các giá trị văn hóa lịch sử cũng như cung cấp bộ lưu trữ khổng lồ về nguồn gen cho nhân loại.

    Tuy vậy, nguồn tài nguyên sinh vật của Việt Nam đang đứng trước nhiều nguy cơ to lớn liên quan đến sự khai thác và sử dụng quá mức của người dân, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu. Nhiều loài động vật, thực vật và vi sinh vật tại Việt Nam đang đối mặt với suy thoái cả về số lượng và chất lượng thậm chí là bị đe dọa tuyệt chủng do ảnh hưởng tiêu cực của con người và tự nhiên đặc biệt là các loài sinh vật quý hiếm. Nó gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với công tác quản lý tài nguyên sinh vật ở nước ta.

    Hiện nay chúng ta đã có khung pháp lý cũng như các công cụ về chính sách, kinh tế, kỹ thuật trong quản lý tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên, các biện pháp này còn nhiều hạn chế dẫn đến các lỗ hổng và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải có những thay đổi trong tư duy và phương pháp thực hiện. Nghiên cứu này đã đề xuất các biện pháp cụ thể hướng đến sự hoàn thiện về luật pháp, ưu tiên các giải pháp mang tính chất bắt buộc một cách hệ thống; cũng như đưa ra các biện pháp phụ trợ nhằm khuyến khích tinh thần tự giác của người dân trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên sinh vật. \

    Thông qua nghiên cứu này, tác giả hướng đến sự toàn diện trong công tác quản lý tài nguyên sinh vật, sử dụng tài nguyên hợp lý, hướng đến phát triển bền vững và giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
     
  7. Tiểu nô nô

    Bài viết:
    213
    Tài liệu tham khảo

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tài liệu tiếng Việt

    [1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo quốc gia về Đa dạng sinh học .

    [2] Bằng, Trần Văn, 2020. Đa dạng sinh học ở Việt nam: Thực trạng và thách thức bảo tồn. Viện Sinh thái học miền nam, Viện hàn lâm KH&CN Việt nam.

    [3] Chấn, Lê Trần, 2002. Những vấn đề về đa dạng sinh học ở vùng núi Việt Nam: Hiện trạng và diễn biến trong 10 năm qua, tr. 410-440

    [4] Long, Nguyễn Văn; Tuấn, Võ Sĩ, 2014. Hệ sinh thái rạn san hô ở vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hòa - Tình trạng và giải pháp quản lý .

    [5] Nga, Nguyễn Thị Thanh, 2014. Nghiên cứu đánh giá hệ sinh thái rừng đầu nguồn tỉnh Nghệ An và định hướng bảo tồn hợp lý, mã số 60440301.

    [6] Thắng, Hoàng Văn; Giang, Võ Thanh, Học, Trương Quang; Sơn, Võ Thanh; Giang, Lê Hương; Tú, Vũ Ngọc; Cúc, Nguyễn Thị Kim; Huệ, Lê Thị Vân; Hà, Nguyễn Mạnh và Tuyến, Nghiêm Thị Phương, 2015. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội thảo khoa học quốc gia "Tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng xanh" . Hà Nội, 22/11/2013. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

    [7] Thắng, Hoàng Văn; Dũng, Nguyễn Xuân, 2012. "Bước Đầu Nghiên Cứu Đề Xuất Khung Đánh GÍa Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Đa Dạng Sinh Học ." (2012).

    [8] Thế, Phạm Mạnh, 2011. Nghiên cứu đa dạng khu hệ động vật có xương sống trên cạn tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội .

    Tài liệu tiếng Anh

    [9] Dinh N. T, J. Gómez-Zurita (2017), "Diversity and trophic ecology of the Monoleptites group (Chrysomelidae: Galerucinae, Luperini) in the Núi Chúa National Park (S Vietnam) with description of new species of Monolepta Chevrolat and Paleosepharia Laboissière", Journal of Asia-Pacific Entomology, 20 (1), pp. 65-87.

    [10] Forest Science Institute of Vietnam (2009), Vietnam forestry outlook study .

    [11] Hoi N. C, Thanh D. N, Yet N. H, 2000. The Scientific Baselines of Marine Protected Area System Planning in Viet Nam. Published by IUCN Vietnam, Ha Noi.

    [12] Loc, P. K, Yen, M. D, & Averyanov, L. (2018). Biodiversity in Vietnam. In Global biodiversity (pp. 473-502). Apple Academic Press.

    [13] Middleton J, H. Atkins, Hong Truong Luu, K. Nishi, and M. Moller (2014), "Billolivia, a new genus of Gesneriaceae from Vietnam with five new species", Phytotaxa, 161 (4), pp. 241-269.

    [14] Ministry of Natural Resources and Environment (2014), Vietnam National Biodiversity Strategy to 2020, Vision to 2030 .

    [15] Mayer P, 2006. Biodiversity - the appreciation of different thought styles and values helps to clarify the term. Restoration Ecology, 14 (2006), pp. 105-111

    [16] Sterling J, M. M. Hurley, Duc Minh Le (2006), Vietnam: A Natural History, Yale University Press, New Haven and London.

    [17] World Bank (2005), Vietnam Environment Monitor 2005: Biodiversity .
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...