Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Yang Lee, 1 Tháng một 2022.

  1. Yang Lee

    Bài viết:
    6
    PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH CỦA CON SÔNG ĐÀ

    Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại: Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi bật, tài hoa và độc đáo. Ông sáng tác rất nhiều thể loại, nhưng thành công nhất là ở thể loại tùy bút và "Người lái đò sông Đà" là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông. Với chất tài hoa nghệ sĩ của mình, ông đã khắc họa thành công hình tượng con sông Tây Bắc mang vẻ đẹp vừa hung bạo nhưng đậm chất trữ tình.

    Với thiên tuỳ bút nổi tiếng "Người lái đò Sông Đà" – rút từ tập "tùy bút sông Đà" xuất bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông. Ngòi bút lãng mạn của ông cũng đã hướng tới vẻ đẹp trữ tình của con sông sau khi tập trung hết bút lực của mình miêu tả sự hung bạo của con sông ấy.

    Nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà văn đã sử dụng rất nhiều những kiến thức về quân sự hay cổ thuật, nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát và ngòi bút lãng mạn của mình để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như "cái dây thừng ngoằn ngèo" uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm: "Tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài "như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh như" một áng tóc trữ tình "tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của sông Đà, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ" ẩn hiện "càng làm cho con sông trở nên bí hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào chốn bồng lai vừa thực vừa mộng. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là" cố nhân "xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân hóa đó làm cho con sông gần gũi hơn. Tản Đà cũng đã từng viết:

    " Dải sông Đà bọt nước lênh đênh

    Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình "

    Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân" nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà "hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà", ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi diệu kì: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa". Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là con sông đen như "thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu". Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích "chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô". Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về". Câu văn sử dụng phép so sánh "lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa" chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.

    Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở đôi bờ sông: "Cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến thể mà thôi", "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà", đẹp thơ mộng "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhàng: "Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch" Yên hoa tâm nguyệt há Dương Châu "(Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).

    Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: Đó là" nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa ", là" cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp ", là" một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm ". Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu:" Thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương "cũng như dòng sông" đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi ". Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một" tiếng còi sương "hoặc" thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên "hòa nhập cùng dòng sông" lững lờ như nhớ thương ". Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh" tiếng cá quẫy.. đuổi đàn hươu vụt biến "và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà" bọt nước lênh bênh.. bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết "càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

    Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội họa, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con sông đầy lãng mạn:

    " Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều

    Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu

    Trời giăng hắc ám luồng mây kéo

    Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo

    Theo nước vởn vơ tăm cá lội

    Gọi bầy inh ỏi giọng chim kêu

    Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?

    Tìm bến cùng ta gấp mái chèo! "

    Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét:".. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình..". Qua đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, ông quả là một người suốt đời đi tìm cái đẹp.
     
    LieuDuong, chiqudoll, Phonghau2 người khác thích bài này.
  2. Sarah glad

    Bài viết:
    3
    Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà

    Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm của ông chứa đầy những hình ảnh sống động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút "Người lái đò sông Đà". Trong tác phẩm này, con sông Đà được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.

    Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách cảm nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông như một cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc hình dung được toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như toàn bộ vùng Tây Bắc.

    Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với tình yêu của tác giả, chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ tình làm xao xuyến lòng người: "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Câu văn dài chỉ một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như một người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng.

    Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên đằm thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô điểm thêm màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật giữa sắc trắng tinh khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được ẩn hiện trong lớp sương khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ có một dấu phẩy nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, trải dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong nền văn học Việt Nam.

    Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm xanh trưa vàng chiều tím" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm. Mùa xuân "Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng như đơn giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngõ thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến.

    Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu," lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về ". Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu. Sắc đỏ của dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn, bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được." Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo "vì thế mà Nguyễn Tuân đã có một phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng tình yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.

    Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được miêu tả mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là" cố nhân ". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng, đằm thắm, trở thành một người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa dòng sông nhà văn nhớ nó như một người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.

    Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo" Nắng tháng ba Đường thi ", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về với vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Đường" Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu ". Ấn tượng để lại trong lòng người đọc là hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được bộc lộ trực tiếp bằng hình ảnh so sánh độc đáo" vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng ". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so sánh có sự đối lập nhau." Nắng giòn tan "là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Đặc biệt" nối lại chiêm bao đứt quãng "là việc gần như không thể có trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà bằng hình ảnh so sánh" nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân ". Hai từ láy liên tiếp gợi cảm giác ấm áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Hình ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông hạ nguồn.

    Từ điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ cảnh vật ven sông. Một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử của ông cha ta để lại" cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến như thế ". Hai hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau" Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa "gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và tĩnh lặng đến tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như" nương ngô nhú lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh ". Chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh vật nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ tình bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh" đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến "đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ nơi đây. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.

    Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận tinh tế, giác quan nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một biểu tượng thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao tìm thấy cái đẹp. Bài tùy bút" Người lái đò sông Đà"là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt say mê với nó của Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú đã làm cho sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật.
     
    LieuDuongchiqudoll thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...