Phân tích sâu chuyển biến nhận thức của Phùng

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Người sắp chữ, 16 Tháng sáu 2022.

  1. Người sắp chữ

    Bài viết:
    7
    Phân tích quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

    Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:

    – Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.

    Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

    – Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối..

    – Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

    – Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

    – Vậy sao không lên bờ mà ở–Đẩu hỏi.

    – Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

    – Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.

    – Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..

    – Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

    – Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông..

    – Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, –bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông.. dù hắn man rợ, tàn bạo?

    – Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?

    Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

    – Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

    (Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 75 – 76)

    BÀI LÀM THAM KHẢO

    MỞ BÀI

    "Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức" - Thạch Lam.

    Quan niệm đó phải chăng chính là cái đích hướng tới của những nhà văn chân chính. Với đôi mắt luôn chủ động tìm kiếm "hạt ngọc ẩn giấu sâu trong tâm hồn con người", Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn như thế. Là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, với phong cách tự sự-triết lý, ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của cuộc đời và xem xét nó trong tân cùng "cốt tủy", để rút ra những quan niệm thấm đẫm triết lý nhân sinh về nghệ thuật và cuộc đời. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những thiên truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu thể hiện rõ nét phong cách của ông. Phùng là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Đây là kiểu nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh, bừng ngộ về nhận thức. Đoạn trích dưới đây kể về câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện và quá trình suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật Phùng. Từ đó thể hiện những nhận thức sâu sắc, đa chiều của người nghệ sĩ về nghệ thuật, cuộc sống, con người:

    "Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng

    ..

    ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ."

    THÂN BÀI

    Nếu trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, thì sau 1975, nhất là sau những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng sử thi được thay thế bằng cảm hứng thế sự, đời tư. "Chiếc thuyền ngoài xa" được viết năm 1983 là sáng tác tiêu biểu ở giai đoạn sau. Bằng một tình huống truyện đặc sắc, đó là tình huống nhận thức trước một hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống, nhà văn đã cho người đọc những cảm nhận thật sâu sắc về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Truyện bắt đầu với hành trình tìm kiếm một bức ảnh của người nghệ sĩ có trái tim biết rung cảm trước cái đẹp. Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, nghệ sĩ Phùng đã đi đến một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ, nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa giờ đang là chánh án tòa án huyện. Đã mấy ngày trôi qua, Phùng chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định chụp cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Đó là một cảnh "đắt" trời cho - cảnh mà suốt một đời cầm máy Phùng chưa bao giờ được nhìn thấy, hiện ra trước mắt anh là "một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ". "Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích ." Nhưng khi chiếc thuyền đi vào bờ, Phùng đã nhìn thấy ở đó có những số phận con người đọng lại như một nỗi ám ảnh. Đây là một "tình huống nhận thức" có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật.

    Ban đầu, ở tòa án huyện, khi người đàn bà hàng chài từ chối sự giúp đỡ, cũng như mới nghe một phần câu chuyện, Phùng đã bộc lộ cái nhìn đơn giản, phiến diện, chưa thực sự thấu hiểu hết về cuộc sống, con người. Nhưng sau đó, tiếp tục lắng nghe câu chuyện, lời kể, lí lẽ của chị, Phùng đã bừng ngộ về nhận thức, có cái nhìn đa chiều và những chiêm nghiệm sâu sắc, tiệm cận đến chân lí về nghệ thuật, cuộc đời, con người.

    Trong những khoảnh khắc khi chị mới đến tòa án huyện, hiện lên trước mắt Phùng là một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, lạc hậu, thiếu hiểu biết. Với bộ điệu, dáng vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, người đàn bà không chỉ cầu xin không phải bỏ chồng mà chị còn kể lại hoàn cảnh sống của mình: "Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..". Thoạt đầu mới nghe, Phùng đã thốt lên không thể nào hiểu được. Đó là sự cam chịu đến mức vô lí, mù quáng của người đàn bà hàng chài mà anh không thể giải thích và chấp nhận được. Điệp khúc không thể nào hiểu được lặp lại hai lần cho thấy sự ngạc nhiên cao độ, sự bất bình của Phùng trước những điều vô lí trong hành động của người phụ nữ bất hạnh. Thế nhứng khi lặng nghe người đàn bà hàng chài tâm sự về cuộc đời mình bằng hành động bất chợt lộ vẻ sắc sảo của chị. Câu chuyện cuộc đời của người đàn bà hàng chài được kể ra trong bầu không khí của sự cảm thông, chia sẻ. Phùng lắng nghe, suy ngẫm về những tâm tư, lí lẽ, lời giải thích của người đàn bà hàng chài: các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông; đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa; đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được; ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. Để từ đó, anh đã có sự chuyển biến, bừng ngộ trong nhận thức: Phùng hiểu ra nguyên nhân vì sao chị không chịu bỏ chồng, vì sao chị cam chịu, nhẫn nhục khi bị bạo hành. Sự thừa nhận đầy chua chát của Đẩu "Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông.. dù hắn man rợ, tàn bạo?" cũng chính là sự thức tỉnh, bừng ngộ của Phùng. Giờ đây, anh đã hiểu ra rằng chị cần một người đàn ông chèo chống khi phong ba bão tố, để làm ăn nuôi nấng đàn con; anh nhận thức được những nghịch lí, bất công trong cuộc đời mà người đàn bà hàng chài phải chấp nhận. Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp, hạt ngọc lấp lánh ẩn sâu trong tâm hồn người đàn bà hàng chài. Đằng sau một người phụ nữ nghèo khổ, thô kệch, cam chịu, nhẫn nhục là vẻ đẹp cao quý của người mẹ giàu đức hi sinh, có tình thương con vô bờ bến; vẻ đẹp của một người vợ vị tha, bao dung, độ lượng; vẻ đẹp của người phụ nữ sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, có bản lĩnh sống khoẻ khoắn kiên cường và biết chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc bình dị đời thường. Người đàn bà hàng chài quả là "minh triết" của nhân gian.

    Trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài nếu lắng nghe thật kĩ hẳn người đọc sẽ phát hiện ra dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, khi đánh giá người đàn ông hàng chài, Phùng chỉ mới đánh giá anh ta thông qua hai lần bạo lực với vợ ở bãi xe tăng hỏng nhưng khi nghe người đàn bà tâm sự, Phùng đã có cái nhìn toàn diện hơn về gã đàn ông mà theo nhân đinh ban đầu của anh, đó là người chồng vũ phu, tàn bạo. Phùng đã lí giải tính cách, hành động độc ác của lão ta với cái nhìn phiến diện, bộc lộ quan điểm, cái nhìn đơn giản, thậm chí chưa đúng đắn về con người và hiện thực cuộc sống vốn dĩ đầy phức tạp. Sau đó, khi nghe lời bênh vực của người đàn bà hàng chài đối với chồng, Phùng có cái nhìn đa chiều, đúng đắn hơn. Anh hiểu ra rằng: Nguyên nhân tạo nên tính cách vũ phu, căn nguyên dẫn đến hành động bạo hành vợ là do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, nghèo đói triền miên, thuyền chật con đông, vất vả cực nhọc với cuộc sống mưu sinh. Vì vậy, người đàn ông hàng chài không chỉ là thủ phạm tàn ác đáng bị lên án mà còn là một nạn nhân của hoàn cảnh sống đầy bộn bề, ngổn ngang thời hậu chiến.

    Thông qua câu chuyện của những người dân lao động vùng biển, nghệ sĩ Phùng nhận ra mình chưa thấu hiểu hết cuộc sống mưu sinh vất vả của người dân hàng chài trên biển cả đầy sóng gió. Anh nhận thức rất đơn giản về hiện thực cuộc sống. Ở đây, tác giả đã để cho nhân vật Đẩu hỏi người đàn bà hàng chài: "Vậy sao không lên bờ mà ở" . Sự nhận thức của Đẩu cũng chính là nhận thức của Phùng. Họ cứ nghĩ rằng lên bờ ở cố định một chỗ sẽ thoát khỏi sóng gió biển khơi, thoát khỏi cảnh nghèo khổ, túng quẫn, bấp bênh. Phùng và Đẩu tin rằng li hôn là giải pháp tốt nhất giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi khổ đau; tình thương, thiện chí, pháp luật sẽ bảo vệ được chị, sẽ đem lại sự công bằng cho xã hội. Nhưng sau đó khi nghe chị trải lòng "Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!" Phùng đã nhận ra những khó khăn trong quá trình tìm con đường, cách thức để giúp người dân hàng chài thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Phùng cũng hiểu ra li hôn không phải là giải pháp tốt nhất lúc này; tình thương, thiện chí, pháp luật chưa thể giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi bi kịch gia đình. Lời khẩn cầu của chị "Các chú đừng bắt tôi bỏ nó" một lần nữa đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn hiện thực đời sống đầy trái ngang. Cuộc sống vốn dĩ phức tạp, chứa đầy nghịch lí mà con người phải chấp nhận để tồn tại; đằng sau cái tưởng chừng vô lí là cái có lí. Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng cũng nhận ra rằng cuộc sống của chị hay của người dân lao động không chỉ có toàn khổ đau, bất hạnh, éo le, mà cũng có lúc được vui vẻ, hòa thuận. Dẫu có đau khổ, nhọc nhằn nhưng chị vẫn tìm tấy niềm vui, hạnh phúc bình dị để trân trọng, nâng niu. Như vậy, cuộc sống thật phong phú, phức tạp và được tạo nên từ nhiều mảnh ghép, mảng màu khác nhau.

    Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng đã nhận thức được cái nhìn ban đầu của mình và của Đẩu về cuộc đời, con người, nghệ thuật còn đơn giản, phiến diện, thậm chí chưa đúng đắn. Lúc này anh hiểu ra rằng: Họ là những người sành về nghệ thuật, am hiểu về pháp luật, về lí thuyết sách vở song lại ngây thơ, non nớt, thiếu hiểu biết trước sự phức tạp của cuộc sống mưu sinh, trước thực tế đời sống thời hậu chiến, trước con người lao động. Từ đó, Phùng đã bừng ngộ để tiệm cận đến chân lí, để thấu hiểu nhiều hơn, có những chiêm nghiệm sâu sắc hơn, nhận thức rõ về trách nhiệm của bản thân – trách nhiệm của người nghệ sĩ và đồng thời anh đã bừng ngộ nhận thức về nghệ thuật và đời sống. Ban đầu, khi con thuyền ở ngoài xa, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ còn cách xa với đời sống thì Phùng mới chỉ thấy được cái hình thức bên ngoài với vẻ đẹp nên thơ, sự tuyệt mĩ của nó. Đó là thứ nghệ thuật thuần tuý, duy mĩ, chưa gắn với đời, chưa vì con người. Nhưng lúc ấy, anh tưởng mình đã khám phá được chân lí của sự toàn thiện. Điều đó cho thấy quan niệm đơn giản, phiến diện của Phùng về nghệ thuật. Điều đó lí giải vì sao anh đã vội vã cho rằng "cái đẹp chính là đạo đức". Sau đó, khi con thuyền vào gần bờ, đặc biệt con thuyền qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ đã đến gần với cuộc đời thì lúc đó nghệ thuật mới khám phá được chiều sâu, những góc khuất mảng tối của đời sống con người, nhận thức được bản chất của các hiện tượng và tiệm cận đến những chân lí. Phùng nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh của nghệ thuật và trách nhiệm, lương tâm của người nghệ sĩ: Hãy vì con người, vì cuộc đời..

    Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh . Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sự sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng; không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hóa. Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không chỉ cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công, sẵn sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống.. Đó chính là nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và khẳng định tầm vóc của một tác giả. Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ.

    KẾT BÀI

    Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, đó là vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, và đằng sau hình ảnh đẹp đẽ đó là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội với những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thành công bởi tình huống truyện nhận thức sâu sắc, kết cấu độc đáo, tác giả đã xây dựng nhân vật Phùng với quá trình chuyển biến, thức tỉnh về nhận thức; sáng tạo tình huống truyện nghịch lí có ý nghĩa nhận thức; các chi tiết tiêu biểu, hình ảnh giàu tính biểu tượng; ngôn ngữ đời thường, dung dị, song giọng điệu trần thuật đầy tính triết lí để gửi gắm thông điệp nghệ thuật và cuộc sống đầy triết lí nhân sinh. Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.
     
    Adminchiqudoll thích bài này.
    Last edited by a moderator: 2 Tháng năm 2023
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...