

[ BÀI NÀY DO MÌNH TỰ VIẾT, KHÔNG PHẢI SƯU TẦM]
Puskin từng viết: "Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây có sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút". Và nhà thơ Hữu Thỉnh đã không ngần ngại thổ lộ hết những tâm tư của lòng mình bằng những tiếng thơ khắc khoải. Với "Sang thu" ông đã thể hiện tất cả những cảm xúc, tâm sự và hoài niệm của chính mình. Chỉ với hai khổ thơ đầu ông đã cho người đọc cảm nhận được rõ nét nhất bức tranh giao mùa đầy rung Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Hữu Thỉnh thể hiện sự tài tình khi sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Chữ "bỗng" bật ra trong sự bất ngờ đầy thú vị. Thu đã về với đất trời, với lòng người mà không hề báo trước. Với hai câu thơ với hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu trưng, Hữu Thỉnh đã đưa đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc mùi vị của thiên nhiên. Đó là mùi thơm của hương ổi, cái lạnh nhè nhẹ chạm vào da thịt của gió se. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, không phải lá ngô đồng, không phải hương cốm mới, không phải hoa cau rụng, mùa thu bất chợt xuất hiện với hương ổi chín thơm lựng trong gió hanh se. Với Hữu Thỉnh, mùa thu đến với ông qua mùi thơm của hương ổi, thứ hương thơm dân dã, bình dị của đồng quê. Nó không rõ ràng như hương ngô đồng, hay nồng nàn như mùi cốm mới mà nó là thứ hương thoảng qua. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, gợi những gì làng quê nhất. Gió se là làn gió nhè nhẹ lướt quá, mang theo một hơi lạnh. Huy động khứu giác để cảm nhận mùi thơm của hương ổi, xúc giác để cảm nhận cái lạnh của gió se, mùa thu như lan tỏa khắp không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm. Cùng với hương thơm của ổi chín là hơi lạnh của gió se tràn về xua tan đi cái nóng oi bức của mùa hè, mang lại cảm giác dễ chịu. "Phả" vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột, nó diễn tả cái tốc độ của gió, vừa diễn tả sự bất chợt trong cảm nhận. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Phải là người rất để ý quan sát thiên nhiên, đất trời thì Hữu Thỉnh mới viết đợi những câu thơ vừa "tinh" vừa có hồn đến thế. Dường như trong cách nhìn của tác giả, mọi vật không đơn thuần là cảnh vật mà như một con người có cảm xúc, tâm hồn. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là hương ổi, là gió se mà còn là hình ảnh những màn sương sớm:
"Sương chùng chình qua ngõ"
Sương được miêu tả như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà giờ đây nhà thơ còn huy động cả thị giác để toàn tâm, toàn ý cảm nhận mùa thu về. Từ láy chùng chình gợi dáng vẻ chậm chạp, tư lự. Làng sương ấy được nhân hóa như thiếu nữ đôi mươi. Làng sương ấy hiện lên như sắc màu cổ tích khiến cho cảnh vật làng quê trở nên tuyệt đẹp. Tất cả tạo nên một bức tranh thu nơi thôn quê yên ả, thanh bình. Nhà thơ đã đón nhận thu về bằng cả tấm lòng và tâm hồn mình. Những tín hiệu gây ấn tượng mới lạ bởi sự mong manh, mơ hồ, không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt để thốt lên rằng:
Hình như thu đã về
Hai chữ "hình như" gợi ra một cảm giác đầy mơ hồ, mong manh giống như một sự tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Mùa thu giờ đây như xâm chiếm cả không gian, thời gian. Bằng cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một nhà thơ, chỉ với một khổ thơ với hai mươi tiếng đã để lại cho người đọc biết bao rung động về khoảnh khắc giao mùa của đất trời thật ngỡ ngàng, gợi cảm nhưng cũng thật ấm áp.
Phải đến đoạn thơ thứ hai bức tranh mùa thu mới rõ nét hơn, hữu hình hơn
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu".
Dòng sông lúc sang thu không còn chảy xiết, cuộn từng xoáy như ngày hạ chí mà bỗng trở nên "dềnh dàng", thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như "người khách bộ hành phiêu lãng khoan thai và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Dường như dòng sông còn vương vấn mùa hạ chưa muốn dứt nên cố tình chảy chậm lại để lưu giữ những gì còn sót lại của mùa hạ đã qua. Trái ngược với sự chậm rãi của dòng sông là sự gấp gáp, vội vã của cánh chim. Thu sang cũng là lúc những đàn chim chuẩn bị về phương Nam tránh rét để chống chọi với thời tiết khắc nghiệt của mùa đông, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:" Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu. "
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một màu thu. Tác giả đã dùng phép nhân hóa đám mây tạo cho nó một dáng vẻ, một hành động giống như một con người, có chút gì đó lười biếng, có chút gì đó vấn vương lắm cái mùa hạ nên mới chỉ" vắt nửa mình sang thu ". Còn nửa kia thì đang nhớ thương mùa hạ. Đồng thời câu thơ còn lần nữa nhấn mạnh vào chủ đề của bài thơ là" Sang thu "tức là chưa bước hẳn vào mùa thu thực thụ, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
Động của đất trời.
Sự chuyển biến nhẹ nhàng được tác giả cảm nhận bởi tất cả các giác quan, bởi những điều khó nhận biết nhưng đối với Hữu Thỉnh ông đã có những cảm nhận rất tinh tế, sâu sắc. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ.. Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật thanh, nhẹ và tài hoa.
Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ" Sang thu", một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam. Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.
Puskin từng viết: "Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây có sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút". Và nhà thơ Hữu Thỉnh đã không ngần ngại thổ lộ hết những tâm tư của lòng mình bằng những tiếng thơ khắc khoải. Với "Sang thu" ông đã thể hiện tất cả những cảm xúc, tâm sự và hoài niệm của chính mình. Chỉ với hai khổ thơ đầu ông đã cho người đọc cảm nhận được rõ nét nhất bức tranh giao mùa đầy rung Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Hữu Thỉnh thể hiện sự tài tình khi sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Chữ "bỗng" bật ra trong sự bất ngờ đầy thú vị. Thu đã về với đất trời, với lòng người mà không hề báo trước. Với hai câu thơ với hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu trưng, Hữu Thỉnh đã đưa đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc mùi vị của thiên nhiên. Đó là mùi thơm của hương ổi, cái lạnh nhè nhẹ chạm vào da thịt của gió se. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, không phải lá ngô đồng, không phải hương cốm mới, không phải hoa cau rụng, mùa thu bất chợt xuất hiện với hương ổi chín thơm lựng trong gió hanh se. Với Hữu Thỉnh, mùa thu đến với ông qua mùi thơm của hương ổi, thứ hương thơm dân dã, bình dị của đồng quê. Nó không rõ ràng như hương ngô đồng, hay nồng nàn như mùi cốm mới mà nó là thứ hương thoảng qua. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, gợi những gì làng quê nhất. Gió se là làn gió nhè nhẹ lướt quá, mang theo một hơi lạnh. Huy động khứu giác để cảm nhận mùi thơm của hương ổi, xúc giác để cảm nhận cái lạnh của gió se, mùa thu như lan tỏa khắp không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm. Cùng với hương thơm của ổi chín là hơi lạnh của gió se tràn về xua tan đi cái nóng oi bức của mùa hè, mang lại cảm giác dễ chịu. "Phả" vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột, nó diễn tả cái tốc độ của gió, vừa diễn tả sự bất chợt trong cảm nhận. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Phải là người rất để ý quan sát thiên nhiên, đất trời thì Hữu Thỉnh mới viết đợi những câu thơ vừa "tinh" vừa có hồn đến thế. Dường như trong cách nhìn của tác giả, mọi vật không đơn thuần là cảnh vật mà như một con người có cảm xúc, tâm hồn. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là hương ổi, là gió se mà còn là hình ảnh những màn sương sớm:
"Sương chùng chình qua ngõ"
Sương được miêu tả như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà giờ đây nhà thơ còn huy động cả thị giác để toàn tâm, toàn ý cảm nhận mùa thu về. Từ láy chùng chình gợi dáng vẻ chậm chạp, tư lự. Làng sương ấy được nhân hóa như thiếu nữ đôi mươi. Làng sương ấy hiện lên như sắc màu cổ tích khiến cho cảnh vật làng quê trở nên tuyệt đẹp. Tất cả tạo nên một bức tranh thu nơi thôn quê yên ả, thanh bình. Nhà thơ đã đón nhận thu về bằng cả tấm lòng và tâm hồn mình. Những tín hiệu gây ấn tượng mới lạ bởi sự mong manh, mơ hồ, không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt để thốt lên rằng:
Hình như thu đã về
Hai chữ "hình như" gợi ra một cảm giác đầy mơ hồ, mong manh giống như một sự tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Mùa thu giờ đây như xâm chiếm cả không gian, thời gian. Bằng cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một nhà thơ, chỉ với một khổ thơ với hai mươi tiếng đã để lại cho người đọc biết bao rung động về khoảnh khắc giao mùa của đất trời thật ngỡ ngàng, gợi cảm nhưng cũng thật ấm áp.
Phải đến đoạn thơ thứ hai bức tranh mùa thu mới rõ nét hơn, hữu hình hơn
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu".
Dòng sông lúc sang thu không còn chảy xiết, cuộn từng xoáy như ngày hạ chí mà bỗng trở nên "dềnh dàng", thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như "người khách bộ hành phiêu lãng khoan thai và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Dường như dòng sông còn vương vấn mùa hạ chưa muốn dứt nên cố tình chảy chậm lại để lưu giữ những gì còn sót lại của mùa hạ đã qua. Trái ngược với sự chậm rãi của dòng sông là sự gấp gáp, vội vã của cánh chim. Thu sang cũng là lúc những đàn chim chuẩn bị về phương Nam tránh rét để chống chọi với thời tiết khắc nghiệt của mùa đông, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:" Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu. "
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một màu thu. Tác giả đã dùng phép nhân hóa đám mây tạo cho nó một dáng vẻ, một hành động giống như một con người, có chút gì đó lười biếng, có chút gì đó vấn vương lắm cái mùa hạ nên mới chỉ" vắt nửa mình sang thu ". Còn nửa kia thì đang nhớ thương mùa hạ. Đồng thời câu thơ còn lần nữa nhấn mạnh vào chủ đề của bài thơ là" Sang thu "tức là chưa bước hẳn vào mùa thu thực thụ, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
Động của đất trời.
Sự chuyển biến nhẹ nhàng được tác giả cảm nhận bởi tất cả các giác quan, bởi những điều khó nhận biết nhưng đối với Hữu Thỉnh ông đã có những cảm nhận rất tinh tế, sâu sắc. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ.. Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật thanh, nhẹ và tài hoa.
Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ" Sang thu", một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam. Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.