Đề bài: Phân tích hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc? Bài làm Nếu như ví nền văn học dân tộc ta như một bầu trời đầy sao, thật cao và thật rộng thì Nguyễn Đình Chiểu chính là một trong những vì tinh tú sáng nhất, sáng mãi nơi đó. Nếu như người miền Bắc gối đầu "Truyện Kiều" của Nguyễn Du thì người dân Nam Bộ lại thuộc lòng những tác phẩm của cụ đồ Chiểu. Thơ văn của người thầy giáo mù tựa như những bản sô-nát điệu nghệ, tinh tế mà không kém phần khốc liệt của hiện thực đương thời, chúng giống như những bài ca đạo đức nhân nghĩa, êm đềm như lời ầu ơ của người mẹ ru con say giấc ngủ, như những bông hoa, những con chim càng nhìn càng thấy đẹp, càng hót càng hay làm rực rỡ thêm cho cuộc sống. Tất cả những điều đó đều được hội tụ và cô đọng lại ở một trong những tác phẩm đỉnh cao của Nguyễn Đình Chiểu: "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", đặc biệt là qua hình tượng những người người nông dân nghĩa sĩ. Từ bao đời nay, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ luôn là nguồn cảm hứng nhân đạo, là thi đề quen thuộc để "chọn mặt gửi vàng" của biết bao thi sĩ, văn nhân. Chúng ta đã được thấy anh nông dân bị xã hội tha hóa đến "mất cả nhân hình lẫn nhân tính" – Chí Phèo của Nam Cao, cũng được thấy con đường tối tăm không lối thoát của Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hình ảnh người nông dân luôn hiện lên với sự vất vả cam chịu cùng cực. Thế nhưng, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam ta xuất hiện một tượng đài sừng sững, hùng tráng về người nông dân mà ở đó, họ là kết tinh của sức mạnh, tinh thần quật cường và ý chí bảo vệ dân tộc- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong khi đất nước lâm phải đại dịch xâm lăng, để nêu cao sĩ khí cho nhân dân, tuần phủ Gia Đình là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn này để tế những người nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc oai hùng đẫm máu đêm ngày 16-12-1861. Phải nói thêm, tác giả sử dụng loại văn tế- một thể loại văn cổ của Trung Quốc với bốn phần rõ ràng: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Bài tế đã được hoàn thành bằng những chất liệu đặc biệt: Máu thịt và xương của những người nông dân nghĩa sĩ, nước mắt cùng niềm cảm thương của muôn đời con dân đất Việt và không thể thiếu đó chính là tấm lòng đồng cảm và tài hoa nghệ thuật của văn nhân Nguyễn Đình Chiểu. Tất cả những điều đó được gắn kết chặt chẽ với nhau, được ấp ủ bởi hồn thiêng sông núi tạo nên một thành trì ngôn ngữ mà cố nhiên thời gian không thể công phá nổi. Trong bối cảnh bão táp của cuộc chiến không cân sức ngày đầu chống Pháp, khi toàn dân đang quyết một lòng "cá chết lưới rách", sự hi sinh cao cả vì đại nghĩa của người người nông dân nghĩa sĩ lại càng thêm giá trị: "Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ." Ngay từ giây phút đầu tiên, cụ đồ Chiểu đã cất lên tiếng lòng thảm thiết, đau thương. Thán từ "hỡi ơi" không chỉ để mở đầu cho đúng với bố cục mặc định của mọi bài văn tế mà còn là tiếng nói đầu tiên đầy ngợi ca, thương cảm mà cũng không kém phần căm phẫn. Tứ thơ được mở ra trong khung cảnh vũ trụ rộng lớn của "trời" và "đất" lại thêm bi thống não nề. Các động từ mạnh "rền" và "tỏ" chính là ngòi bút yêu thích, lối viết thường gặp trong các tác phẩm của người con Gia Định, là minh chứng cho sự khuếch tán âm thanh ra bốn phương tám hướng, để cho ai ai cũng biết, cũng hiểu. "Súng" đối với "lòng", "giặc" với "dân", "trời" với "đất", Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo bộc lộ tình thế căng thẳng của thời đại: Trong khi quân giặc ngoại xâm có những trang bị vũ khí tiên tiến và mạnh mẽ thì nhân dân ta lại chỉ có một tấm chân tình. Tuy nhiên, giặc lại chỉ ở dưới đất, còn lòng dân ta trời xanh đã thấu. Đây là một dụng ý cũng như cái khéo léo, tinh tế của Nguyễn Đình Chiểu, ngay từ đầu ông đã nhận định: Dù khác biệt về quân trang thiết bị, khoảng cách giữa ta và địch là không thể đo được. Khoảng cách ấy giống như đất đến trời, dù đi thế nào cũng mãi cao xa vời vợi. Đó cũng là một lời khẳng định, một niềm tin chiến thắng rằng ngay từ khi bắt đầu, quân và dân ta đã là "trời", là kẻ đứng trên, kẻ nắm giữ phần thắng cuối cùng. Một cuộc đụng độ giữa giặc ngoại xâm tàn bạo và ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân ta là điều không thể tránh khỏi mà tại đó, ý nghĩa sống- chết được thể hiện hết sức rõ ràng: "Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao, một trận nghĩa đánh tây, tuy là mất tiếng vang như mõ." Câu thơ đã bộc lộ rõ sự tương phản về mặt thời gian, công sức cũng như giá trị sự việc và con người. Mười năm là một khoảng thời gian rất dài, dài dằng dặng với biết bao lo toan cơm áo, vui buồn. Sống ở trên đời, con người được mấy cái mười năm đã lại trở về cát bụi. Ấy vậy mà những người nông dân hầu như dành cả đời họ để "bán mặt cho đất bán lưng cho trời", vất vả cày cấy với mảnh ruộng thước ao. Họ thức khuya dậy sớm, làm lụng hăng say mà chẳng ai nhớ nổi tên họ của những người nông dân chất phác ấy. Vậy mà chỉ sau một trận đánh oanh liệt ngắn ngủi, những con người ấy lại được người người biết đến và khắc ghi, thấu hiểu và tôn sùng. So với làm ruộng làm đồng, đi đánh một trận còn phải chịu đựng vất vả, gian khó hơn rất nhiều lần. Nếu như người phụ nữ một lần sinh con như gãy 13 cái xương sườn thì những đàn ông sau một trận chiến đến cả mạng sống cũng không còn. Mười năm làm ruộng chỉ mang đến những đồng bạc lẻ nuôi sống gia đình, những bữa cơm được coi là khá đủ đầy thì một trận nghĩa lại mang đến cho họ tiếng thơm muôn đời. Họ chính là những người quân tử, những dũng sĩ không "bằng cấp" với quan niệm và nhân sinh quan cao cả: Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ chính là cầu nối, là biểu hiện của chất keo lấp đầy khoảng trống giữa hèn nhát và dũng cảm, sẵn dàng vươn lên bởi quan niệm ngàn đời của bậc nam tử: "Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông." (Nguyễn Công Trứ) Bằng những ngôn từ bình dị mà hùng tráng, hai câu văn đã dễ dàng tạo nên một bệ đỡ hoành tráng để người văn nhân đi sâu và khắc họa bức tượng đài người người nông dân nghĩa sĩ. Người ta thường nói: "Một giọt máu đào hơn ao nước lã." Qua đó, ta có thể thấy huyết thống thâm tình là đáng giá nhường nào. Với nòi giống Lạc Hồng ta cũng vậy, những con người ấy dù là người giàu hay kẻ nghèo, đàn ông hay đàn bà đều là những "giọt máu đào" mãi mãi đỏ tươi, vẹn nguyên và chung thủy, hơn hẳn những con người bạc bẽo xâm lăng kia. Đặc điểm ấy còn được thể hiện rõ hơn trong hình tượng người người nông dân nghĩa sĩ Cần Guộc. Càng nhìn về phía ban sơ, xuất thân của những con người ấy lại tô thêm cho lịch sử một trang đỏ thắm, càng nhìn càng đẹp hơn, sáng hơn: "Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó." Để có được nền độc lập như ngày hôm nay, những "con cò" suốt một đời lam lũ làm ăn, "cui cút" với bao lo toan nghèo khó ấy lại không ngần ngại bước chân vào rừng rậm, vào đường hoang để mở đường cho những ngày tháng chiến đấu đẫm máu hào hùng của dân tộc. Vốn những người nông dân hiền như cục bột ấy chỉ quen với những công việc nhà nông, chỉ đi loanh quanh trong khu vực làng xã với những con người quen thuộc, hoạt động quen thuộc như "cày", "bừa", "cuốc", "cấy" nay cũng phải gác liềm, gác thuổng xắn tay học tập, rèn luyện binh đao, trận mạc. Tuy là những công việc "mắt chưa từng ngó" nhưng những người nông dân không hề tỏ ra chán ghét chúng, trái lại, họ coi đó là nhiệm vụ, là trách nhiệm và hoàn thành nó với một tâm thế thoải mái nhất như chỉ đang cày xong một thửa ruộng, gặt được một bó lúa. Họ giống như những người nông dân ở làng Chợ Dầu được Kim Lân miêu tả, đấu tranh trong sự vui vẻ hăng say, vừa "đào hầm, đắp ụ" vừa "hát hỏng bông phèn". Các về đối trong câu văn biền ngẫu cùng nghệ thuật liệt kê đã nhấn mạnh sự xa lạ của người nông dân với những vật dụng thao trường, qua đó càng làm nổi bật thêm tầm vóc của những người anh hùng áo vải. Đây cũng là một cái nhìn chân tình, chân thật của người thầy giáo mù với cuộc đời và nguồn gốc của những người người nông dân nghĩa sĩ. Con giun xéo mãi cũng quằn, tức nước phải vỡ bờ, đó chính là quy luật bất biến của tự nhiên huống chi là những con người ngày ngày bị áp bức bóc lột. Nhìn thấy những con thuyền Pháp, những tên lính Pháp ngày ngày rong ruổi giày xéo trên mảnh đất quê hương, trong tim gan những con người yêu nước mà trước hết là những người nông dân ngày càng dấy lên một ngọn lửa căm phẫn. Nó càng lan càng rộng cuối cùng dẫn đến một sự chuyển biến mạnh mẽ như nước lũ không gì ngăn cản được: "Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ." Đối với những người nông dân, vua quan như cha mẹ của họ vậy. Họ chính là những đứa con thơ ngây cần có cha mẹ vỗ về, chiếu cố. Ấy vậy mà trong khi họ bị bắt nạt đến tuyệt vọng, những người cha, người mẹ ấy lại chẳng thấy tăm hơi, bóng dáng đâu. Họ trông mong, ngóng đợi vào thái độ và hành động của triều đình nhưng vua đâu? Quan đâu? Tất cả những gì họ nhận được chỉ là thất vọng não nề. Tình trạng lúc này của họ thật thê thảm, họ tựa như những chú chim nhỏ không tìm thấy đường về, như đàn gà con chiếp chiếp gọi mẹ mà chẳng có tiếng thưa. Tình cảnh của họ được Nguyễn Đình Chiểu miêu tả chỉ với bốn chữ: "Trời hạn trông mưa.". Bốn chữ tựa như viên đá ném xuống lòng sông, khiến cho những gợn nước không ngừng chuyển động, khiến cho lòng người cũng theo đó mà xao động mãnh liệt. Họ là những người nông dân, họ sợ nhất là khi trời hạn, trời lũ, hoa màu bị héo úa, mùa màng mất sạch. Lối so sánh như vậy khiến người đọc tưởng chừng như những người nông dân đang bị dồn ép đến bước đường cùng với sự lo lắng hãi hùng tột độ, chỉ cần một cơn mưa- một lời ban bố của triều đình cũng đủ sức làm sống lại những con người ấy nhưng trớ trêu thay triều đình lại chẳng có lấy một lời tuyên cáo. Dần dần, nỗi lo sợ ấy đã chuyển thành mối căm hận, căm những tên lính Pháp đã chà đạp, dày xéo lên con người và mảnh đất quê hương họ, hận những tên vua quan bù nhìn mặc dân sống chết. Họ căm ghét những hành động quấy phá, nhiễu nhưỡng của quân thù và sự hèn nhát của triều đình như căm ghét những cây cỏ dại. Họ là người nông dân, mọi thứ đều gắn với ruộng nương, vậy nên nếu trước đây họ run sợ quân Pháp như rắn rết, kính vua quan như cha mẹ thì hiện tại, chúng chỉ là những cây cỏ dại cần tiêu diệt. Nỗi căm phẫn đạt đến đỉnh điểm và người nông dân chỉ muốn xô tới "ăn gan", "cắt cổ" và dù có "trăm thây phơi ngoài cỏ nội, nghìn xác gói trong da ngựa cũng vẫn vui lòng" (Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn). Nguyễn Đình Chiểu miêu tả tâm trạng chung của những người người nông dân nghĩa sĩ bằng những hình ảnh cường điệu, hết sức mạnh mẽ và chân thật. Chính điều đó đã tạo nên một hiệu quả nghệ thuật đến bất ngờ và bản thân Nguyễn Đình Chiểu cũng tự mình nêu cao tinh thần "có cuốc dùng cuốc, có gậy dùng gậy ấy", ông không thể trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng đã dùng văn chương của mình mà quyết chiến trên mặt trận văn hóa, tư tưởng: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà." Sở dĩ, họ có được tinh thần như thế hoàn toàn là vì họ đã trả lời được những câu hỏi lớn: "Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha chúng nó. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tành, xiêu mưa ngã gió." Đất nước ta trải qua bốn nghìn năm lịch sử, bao thế hệ hùng vương có công dựng nước và giữ nước, ngay cả khi vua quan đã gần như từ bỏ đất nước để bảo vệ bản thân thì Nguyễn Đình Chiểu vẫn không hề phủ nhận: Đất nước vốn là của ơn vua, nhờ vua mà dân ta mới có mái tranh vách lá, mới có lũy tre xanh, có đồng ruộng lớn.. Con người Việt Nam ta tự cung tự cấp, hoàn toàn không cần dựa dẫm, nương tựa vào bất kì ai, chẳng có dây mơ rễ má gì với "ông cha chúng nó", với những tên thực dân miệng hô "bảo hộ" mà chưa từng thương xót dân ta. Những người nông dân nghĩa sĩ đã nhìn rõ ai là người đã khiến cho núi sông phải đổ máu, khiến cho dân chúng lầm than, đất nước lâm nạn. Nếu như phát xít đáng giết một thì vua quan triều đình đáng chém mười. Bởi chính họ đã "cõng rắn cắn gà nhà" không ngừng hèn nhát, gián tiếp tiếp tay cho bọn cướp nước, hại dân. Chính sự nhận thức đó, tinh thần đó và nghịch cảnh đó đã khiến cho sức mạnh tiềm tàng trong những người nông dân nghĩa sĩ được tỏa sáng, làm nên những điều kỳ diệu cho đất nước. Trong cuốn "Tiếng chim hót trong bụi mận gai", lời tựa có viết "Có một truyền thuyết về con chim chỉ hót một lần trong đời, nhưng hót hay nhất thế gian. Có lần nó rời tổ bay đi tìm bụi mận gai và tìm cho bằng được mới thôi. Giữa đám cành gai góc, nó cất tiếng hát bài ca của mình và lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Vượt lên trên nỗi đau khổ khôn tả, nó vừa hót vừa lịm dần đi, và tiếng ca hân hoan ấy đáng cho cả sơn ca và họa mi phải ghen tị. Bài ca duy nhất có một không hai, bài ca phải đổi bằng tính mạng mới có được. Nhưng cả thế gian lặng đi lắng nghe, và chính thượng đế trên Thiên đình cũng mỉm cười. Bởi vì tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại.. Ít ra là truyền thuyết nói như vậy." Truyền thuyết là hoàn toàn đúng và hững người dân Nam Bộ cũng như những con chim ấy, giản dị và bộc trực, nếu không cất tiếng hót, sẻ chẳng ai biết đến họ, nếu không thể trông đợi tin quan, họ sẽ tự mình đứng lên, không ngần ngại mà xung phong làm quân chiêu mộ, dù có bao nhiêu gai nhọn đâm xuyên người, họ vẫn quyết tâm hát vang lên khúc ca độc lập: "Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ." Tinh thần và ý chí của một quốc gia có độc lập có chủ quyền đã có từ bao đời nay và giờ xuất hiện trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Guộc" lại hùng vĩ đến bất ngờ. Tác giả đã kế thừa và phát huy một cách có chọn lọc lí tường mà Lý Thường Kiệt gửi gắm trong bài Nam Quốc Sơn Hà. Ông khẳng định đất nước ta là một khối thống nhất, được "hai vầng nhật nguyệt chói lòa" công nhận, vậy nên không thể dung tha cho những kẻ xâm lăng tàn bạo, "chém rắn đuổi hươu", "treo dê bán chó". Sự hiện diện của thiên nhiên vĩnh hằng còn mang một giá trị tượng trưng sâu sắc, khẳng định chính nghĩa là ở chúng ta, qua đó làm nổi bật lên quyết tâm như vũ bão của những người nông dân nói chung và toàn bộ nhân dân nói chung trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Việc đưa sự quyết tâm và ý chí nhân dân vào trong ý thức dân tộc là điều Lý Thường Kiệt chưa làm được, bởi thế nên ý văn Nguyễn Đình Chiểu lại càng mang một ý nghĩa lớn lao hơn bao giờ hết. Và cũng chỉ có những người nghệ sĩ của nhân dân, vì nhân dân mới viết ra được những dòng văn, điệu thơ hay đến thế! Vì độc lập, thống nhất của dân tộc, những người nông dân thấp cổ bé họng ấy đã chẳng ngần ngại mà "mến nghĩa" làm quân chiêu mộ, đâu cần "ai đòi ai bắt". Những cụm từ với sắc thái biểu cảm mạnh đã khẳng định ý chí cũng như sức mạnh đoàn kết của những người nông dân. Trong thời khắc nguy hiểm của đất nước, sức mạnh ẩn tàng trong họ như ngọn lửa bùng cháy mãnh liệt, để cho họ có đủ sức "đoạn kình", "bộ hổ". Sức mạnh ấy còn to lớn hơn khi họ đã xác định một tâm thế của người tử sĩ: "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" như những người lính Quang Dũng đã miêu tả: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ Áo bào đi chẳng tiếc đời xanh" (Tây Tiến) Chẳng biết là mồ của ai, mồ từ bao giờ, chỉ biết rằng những con người ấy từ muôn đường vạn nẻo, chân lấm tay bùn cùng chung một tấm lòng, một nhận thức, một lòng căm thù mà anh dũng hy sinh: "Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh, chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. Chẳng phải án cướp án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số." Hình ảnh những người anh hùng áo vải đã đẹp nay lại càng đẹp hơn khi được văn nhân khắc họa bằng bút pháp tả thực. Nguyễn Đình Chiểu chỉ kể ra đúng với sự thật nhưng lại tạo nên một dư âm đánh sâu vào trong tiềm thức con người. Họ không phải do mắc tội mới xung lính để lập công mà là do "cam tâm" tự nguyện. Những con người cần lao, cần mẫn ấy đâu có được tiếp xúc với kiếm cung, không phải con nhà lính, không được đến trường, thậm chí còn không biết chữ, thế nhưng tình thế cấp bách đâu cho họ cơ hội và thời gian cọ rửa. Họ phải ra trận mà chưa rèn luyện, chưa có cả lý thuyết lẫn thực hành. Tất cả những gì họ có là một tấm lòng son sắt kiên trung. Những con người ấy- họ như mang theo cả hương đồng hương lúa, mang theo vị mặn mồ hôi, mang hương cày hương cấy cùng tình yêu quê hương, yêu hòa bình mà lao vào trận mạc. Những người "dân ấp, dân lân" ấy dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu như những bông hoa, dù không nhiều sắc, nhiều màu nhưng mùi hương vẫn luôn ngây ngất, làm vui lòng người, họ hiện lên trong vẻ mộc mạc, giản dị, đơn sơ mà không kém chất anh hùng. Nam Cao từng nhận định: "Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than." Điều đó là hoàn toàn đúng. Bởi Nguyễn Đình Chiểu khổ, nên ông mới cảm nhận được cái khổ của những người xung quanh. Bởi những người nông dân cũng khổ nên bài ca xương máu của họ mới được vang mãi cho đến mãi ngàn sau. Đi đánh giặc đã khổ mà thiếu thốn lại càng khổ hơn. Họ chỉ được trang bị những quân, tư trang thô sơ nhất: "Ngoài cật còn có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lượt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ." Vật dụng của những người người nông dân nghĩa sĩ chỉ vỏn vẹn có manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi và lưỡi dao phay. Đó là những vật dụng nghèo nàn, ít sát thương trong cuộc sống lao động hằng ngày, nay chúng lại trở thành vũ khí để những người nông dân đánh giặc. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng họ lại rất đầy đủ, giàu có về tinh thần, khí thế và sức mạnh. Nguyễn Đình Chiểu miêu tả một loạt hành động mạnh mẽ, quyết đoán của họ: "Đạp rào lượt tới", "xô cửa xông vào", "đâm ngang", "chém ngược" lại vừa đối từ, đối ý càng nâng ý văn lên tầm vóc vũ trụ. Chỉ với những vật dụng thô sơ, đơn giản nhất nhưng họ lại có thể tạo ra những kết quả, những chiến thắng to lớn không ngờ: "Đốt nhà đạo", "chém đầu quan hai nọ". Những người nông dân lúc này như những người anh hùng, người dũng sĩ với sức mạnh vô biên trong thần thoại Hy lạp- với những đức tính cao đẹp và một món vũ khí trong tay, họ tả xung hữu đột, không quản đầu có rơi, máu có chảy, họ vẫn không ngừng tiến bước, lấy xác mình làm bệ đỡ để đồng đội tiến lên hướng về ngọn cờ chiến thắng. Những người nông dân ngay giờ phút này đã sánh ngang với vũ trụ, mang trong mình tầm vóc lớn lao và chính những lý tưởng ấy đã được con cháu đời sau kế thừa và phát huy, để chúng ta có nhiều thật nhiều người chiến sĩ, bộ đội cụ Hồ anh dũng như Phan Đình Giót (lấp lỗ châu mai), Bế Văn Đàn (lấy vai làm giá súng), Tô Vĩnh Diện (dùng thân chặn pháo).. Nhịp điệu đoạn văn nhanh, mạnh, dứt khoát đã tái hiện cuộc tấn công ào ào như thác đổ vào đồn Cần Guộc đầy khẩn trương và quyết liệt. Bằng những nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, cụ đồ Chiểu đã tạc lên một bức tranh kiên cường, bất khuất của người người nông dân nghĩa sĩ Nam Bộ mà đẹp hơn, sáng hơn cả chính là lòng yêu nước và ý chí, quyết tâm bảo vệ dân tộc của họ. Đối với những người nông dân nghĩa sĩ, người thầy giáo mù đã dành cho họ những tiếng khóc, lời thơ bi tráng, thiết tha và thương cảm nhất mà trước hết là bày tỏ niềm thương xót cho những người người nông dân nghĩa sĩ và sự hy sinh của họ: "Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo trước mộ. Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ. Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yêu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ." Nhìn "cỏ cây mấy dặm sầu giăng", "già trẻ hai hàng lụy nhỏ" mà Nguyễn Đình Chiểu đau đớn đến xé lòng. Nỗi đau của ông, của nhân dân, của sông núi như hòa làm một. Đến thiên nhiên đều phải kính cẩn nghiêng mình, rơi những hàng lệ khiết thương thay cho những con người đức độ ấy. Nỗi sầu như thực sự tràn ngập khắp không gian hay do nhà nhân đạo ấy đang buồn lên nhìn thấy cảnh gì cũng buồn (Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ- Nguyễn Du) ? Người nghệ sĩ của nhân dân ấy vẫn một lòng cảm thương cho cái chết vĩ đại của những người nông dân, thương cảm cho những người mẹ già tựa cửa ngóng trông con, thương cho những người vợ ẵm con chờ chồng, thương cho những gia đình mất đi trụ cột và thương cho đất nước mất đi những người con tần tảo. Hình ảnh ngọn đèn đã xuất hiện nhiều lần trong thơ văn mà chưa lần nào đau đớn, não nùng đến thế! Ngọn đèn đã chứng kiến tất cả niềm vui, nỗi đau của các gia đình Việt, là niềm thương nỗi nhớ gửi gắm cho người ra đi và nó cũng mang theo tâm trạng u buồn khi chứng kiến đau thương của người ở lại. Ngọn đèn "leo lét" lúc mờ lúc tỏ khiến cho khung cảnh càng thêm tang tóc đau thương. Hoàng hôn buôn xuống, là khi gia đình được quây quần đoàn tụ bên mâm cơm, ấy vậy mà giờ đây chỉ còn nỗi đau đớn "dật dờ" vờn quanh, tràn khắp không gian thôn xóm. Tiếng khóc thương ấy không chỉ dành riêng cho ai mà là tiếng xót thương mang tầm vóc sử thi và thời đại- tiếng khóc cho một trang sử vàng bi thương mà hùng tráng của dân tộc, tiếng khóc cho những kiếp lầm than khốn khổ của con người. Thương biết bao nhiêu những người người nông dân nghĩa sĩ ấy thì ta lại càng biết ơn và mến mộ bấy nhiêu trước tinh thần, ý chí của họ, càng căm thù bè lũ cướp nước và bán nước. Ở trong từng câu chữ, ta được cảm nhận rõ hơn niềm cảm phục và tự hào về những người người nông dân nghĩa sĩ: "Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. * * * Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miều để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ." Nguyễn Đình Chiểu lại một lần nữa khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc với nhân dân, kính phục và ngợi ca sự hy sinh cao cả của họ và khẳng định lẽ sống của những bậc đại trượng phu thời xưa: "Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu." (Tỏ lòng- Phạm Ngũ Lão) Đó cũng chính là khát vọng, là lý tưởng từ muôn đời của các bậc nghĩa sĩ và bằng phương thức cao cả, dũng cảm nhất, những người người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã chạm tới những điều đó. Để rồi chỉ cần khói lửa tan đi, họ nhận được còn nhiều hơn những gì để lại: Ngàn năm được người đời kính ngưỡng, rạng danh tiên tổ. Họ dùng chính thân xác và linh hồn mình để trả nợ nước, thù nhà, dùng "tấm lòng son" của mình để tế hồn thiêng sông núi và nhận lại chính là tiếng khen muôn ngàn của người dân, được lập miếu phụng thờ, nghìn năm hương khói, để ở chốn âm ti họ vẫn bằng lòng không hối tiếc. Với nhân dân, họ là những "trang dẹp loạn" chân chính, đã đứng lên khi những người "dân đen" mắc nạn và hình tượng những con người ấy trong lòng dân chúng sớm đã bỏ xa bức tượng đổ nát của vua quan triều đình, ai ai cũng "khen", cũng "mộ". Bi tráng mà không bi thương, họ là những người anh hùng chiến bại. Tuy chết đi nhưng trong lòng người dân, trong quốc hồn quốc túy, trong "bóng trăng rằm" vẹn nguyên và hiền dịu, họ vẫn mãi là người thắng trận, là những người anh hùng vĩ đại. Nói về quan niệm sống của cha ông ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, giáo sư trần Văn Giàu đac viết: "Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: Đánh Tây là Vinh, theo Tây là nhục." Chính vì thế những người người nông dân nghĩa sĩ đã dùng thân xác thậm chí linh hồn mình để bảo vệ niềm "vinh dự" ấy. Kiên định và dũng mãnh, những người nông dân Nam Bộ hiện ra với những phẩm chất tinh thần vốn có của mình: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ." Với những người nông dân Nam bộ, những anh hùng tôn sùng đạo lý: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn." Thì những hành động của họ vẫn còn rất nhỏ bé. Chính vì vậy họ không chỉ đánh giặc lúc sống, mà ngay cả khi đã chết đi, họ không về cõi Phật, cõi Tiên mà lựa chọn ở lại sát cánh bên binh lính, muôn đời muôn kiếp để hoàn thành nghiệp lớn. Dù đứng trước ranh giới sống- chết, họ vẫn một lòng kiên trung với đất nước. Vua quan đã làm cho họ quá thất vọng, nhưng từ sâu thẳm trong những "phường con đỏ" ấy vẫn một mực hứng về phía vua, phía nước. Sẽ chẳng lạ gì nếu được nhận một lời động viên, một lời hứa hẹn từ vua quan thì họ sẽ lại ngay lập tức bán mạng mình cho triều đình mà không đòi công lao, khổ lao. Thật không biết nên gọi họ là ngu ngốc hay trung thành? Vua đâu? Quan đâu thì chưa biết, chỉ biết rằng người dân Việt Nam ta sẽ muôn đời khóc thương cho những vị anh hùng ấy. Nghệ thuật dùng từ của Nguyễn Đình Chiểu rất độc đáo, từ "chẳng", đồng nghĩa với "không" và khác hoàn toàn với "chưa". Ông đã khẳng định, nước mắt của sự tưởng nhớ, cảm phục và tiếc thương cho những người anh hùng là không bao giờ hết, nhìn nước non sông núi đang bị giày xéo bởi quân thù thì nỗi niềm ấy lại càng lan tỏa mãnh liệt. Họ xứng đáng được con cháu muôn đời noi gương và học tập. Ở họ, toát lên một nét đẹp lung linh giữa đời thường của những con người "rũ bùn đứng dậy sáng lòa", họ là những bông sen suốt đời thanh khiết, là câu chuyện cổ tích giữa hiện thực khốc liệt đem đến ánh sáng và hy vọng trong những ngày giông bão. Kết thúc bài tế, Nguyễn Đình Chiểu nghẹn ngào cất bút: "Hỡi ôi thương thay! Có linh xin hưởng." Câu thơ như một tiếng nỉ non tâm tình, mong cho những người người nông dân nghĩa sĩ được hưởng những gì xứng đáng nhất: Hương khói cùng lòng thành kính muôn đời từ nhân dân. Cho đến tận ngày nay, nhân dân ta vẫn dành một ngày để tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ muôn đời- ngày 27 tháng 7- ngày Thương binh liệt sĩ hằng năm. Việc đó đã hoàn thành lời hứa hẹn mà Nguyễn Đình Chiểu thay mặt nhân dân gửi đến những người người nông dân nghĩa sĩ: Nhận được sự cảm phục cũng như tưởng nhớ của người dân Việt Nam cũng nhưng tất cả những ai biết đến họ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn mở ra với biết bao tươi đẹp và hào hùng. Với lối văn biền ngẫu cùng một loạt nghệ thuật quen thuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một bức tranh phong phú về nội dung, hài hòa về màu sắc, một tượng đài, một thành trì ngôn ngữ chưa từng thấy trong nền văn học Việt Nam về người nông dân nghĩa sĩ. Chính những điều đó đã tạo nên một Nguyễn Đình Chiểu với một tầm vóc lớn lao, một cây viết lớn như Sê-khốp đã nói: "Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy" và nhà nhân đạo Nguyễn Đình Chiểu ấy đã cho ta thấy những giá trị còn lớn lao hơn thế. Từ văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta thấy qua lớp lớp thế hệ không ngừng không nghỉ dựng xây và bảo vệ giang sơn gấm vóc. Đây cũng là điều mà Nguyễn Khoa Điềm nhắn nhủ qua bài thơ Đất nước: "Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm nên đất nước." Cảm ơn các bạn đã dành thời gian đón đọc bài viết, đừng ngần ngại comment cảm nhận của mình để cùng nhau hoàn thiện bài viết hơn nhé!