PHÂN TÍCH CHI TIẾT: Chuyện Người Con Gái Nam Xương - Nguyễn Dữ

Thảo luận trong 'Cần Sửa Bài' bắt đầu bởi Tokasaji, 5 Tháng bảy 2022.

  1. Tokasaji

    Bài viết:
    0
    CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG – NGUYỄN DỮ

    I. Tìm hiểu chung:

    1. Tác giả:

    – Nguyễn Dữ là người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

    – Ông sống ở thế kỉ 16 là học trò giỏi Tuyết Giang Phu Tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    – Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, trịnh tranh dành quyền lực gây ra các cuộc nội chiến kéo dài "dông bão nổ trăm miền", xã hội là cái "vực thẳm đời nhân loại" chỉ thấy "bóng tối đùn ra trận gió đen", nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.

    2. Tác phẩm:

    a. " Truyền kì mạn lục " :

    – Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.

    – Viết bằng chữ Hán, được xem là "Thiên cổ kì bút" (áng văn hay ngàn đời).

    – Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.

    Nguồn gốc: Tác phẩm viết bằng chữ hán rút trong tập "Truyền kỳ mạn lục" – ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền trong dân gian "

    Có nguồn gốc từ truyện cổ tích VN" Vợ chàng Trương "

    – Nhân vật:

    + Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.

    + Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi, sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao.

    b. Nguồn gốc xuất xứ:

    –" Chuyện người con gái Nam Xương "là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là" Vợ chàng Trương ".

    – So với truyện cổ tích" Vợ chàng Trương "," Chuyện người con gái Nam Xương "phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.

    3. Bố cục :3 phần:

    – Phần 1: Từ đầu đến.." lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình ": Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.

    – Phần 2: Tiếp đến.." nhưng việc trót đã qua rồi! ": Nỗi oan của Vũ Nương.

    – Phần 3: Còn lại: Vũ Nương được giải oan.

    4. Tóm tắt văn bản:

    " Chuyện người con gái Nam Xương "viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn có người đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chàng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan nàng đã hiện về mờ mờ ảo ảo nói lời cảm ơn Trương Sinh rồi biến mất.

    II. Đọc – hiểu văn bản:

    1. Nhân vật Vũ Nương :

    Trước khi lấy Trương Sinh:

    Vũ Nương là người đẹp người đẹp nết" tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp "nàng đã hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ VN theo quan điểm nha giáo. Càng đi sâu vào tác phẩm Nguyễn Dữ lại càng ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cao quý của nàng

    Trong cuộc sống vợ chồng

    - Trước khi chồng đi lính: Biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép không để vợ chồng phải đến thất hòa- mâu thuẫn

    - Khi tiễn chồng đi lính (Lời dặn dò của Vũ Nương trước khi chồng đi lính)

    + Lời nói của VN: Không mong vinh hoa phú quý, chỉ mong chồng bình yên trở về

    + Cảm thông với nỗi gian lao vất vả mà chồng phải chịu đựng

    + Thể hiện nỗi nhớ nhung, lòng thủy chung son sắc" nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa.. "

    - Ngày tháng xa chồng:

    + nàng tỏ ra là người đảm đang tháo vát: Một mình gánh vác lo toan mọi công việc trong gia đình, chia sẻ mọi tình yêu thương

    + Với chồng là tình yêu sự thủy chung son sắc

    + Với mẹ chồng: Mẹ chồng ốm nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Mẹ chồng mất nàng lo ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ mình

    Lời trăng trối của mẹ chồng trước khi mất đã chứng minh tấm lòng hiếu thảo nhân hậu của con dâu

    + Với con: Thể hiện tình yêu sâu sắc của người mẹ hiền thường chỉ bóng mình trên vách và nói với nó là cha Đản.

    - Khi bị nghi oan :3 lời than vang lên thật tội nghiệp

    + Lời than 1: Cố gắng phân trần nỗi lòng mình, mong chồng hiểu, xin đừng nghi ngờ, mong muốn được hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ

    + Lời than 2: Thể hiện sự tuyệt vọng, sự tan vỡ của hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được

    +Lời than 3: Như là lời thề ai oán lời nói với trời mây song nước vũ trụ bao la

    Nàng là người xinh đẹp nết na đảm đang hiếu thảo nhưng phải chịu nỗi oan khuất

    a. Vẻ đẹp phẩm chất:

    – Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương" Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp "tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.

    – Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.

    *Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:

    – Trong cuộc sống vợ chồng (khi mới lấy chồng), biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn" giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa ". Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

    – Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu (khi tiễn chồng đi lính) không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha:" Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đượchai chữ bình yên, thế là đủ rồi ". Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng:" Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. ". Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình:" Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng ". Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

    – Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức" Giữ trọn tấm lòng thủychung, son sắt "," tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưahề bén gót ". Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng" Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được ". Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

    ".. Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằngtrời

    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

    Nỗi nhớ chàng đau đáu nàoxong.. "

    => Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.

    – Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng" Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.. cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.. "Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.

    – Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không gợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.

    * Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.

    – Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.

    – Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớthương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu" Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ ".

    – Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: Để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.

    => Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.

    b. Số phận oan nghiệt, bất hạnh:

    * Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do.

    – Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương" vốn con kẻ khó "còn Trương Sinh lại là" nhà giàu "đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.

    * Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:

    – Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân củachế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, củacuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.

    – Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.

    * Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.

    – Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.

    – Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương Sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.

    – Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.

    – Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.

    * Cái kết thúc tưởng là có hậu hóa ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong thân phậnVũ Nương.

    – Lược thuật lại kết thúc tác phẩm.

    – Phân tích:

    + Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nơi cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.

    + Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà" Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa".

    => Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.

    => Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.

    *Các chi tiết kì ảo :

    – Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

    – Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.

    – Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.

    => Tác dụng:

    – Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phongphú.

    – Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ Tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

    – Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: Người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

    – Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

    *Ý nghĩa của cái bóng :

    – Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.

    – Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.

    => Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:

    – Bé Đản ngây thơ

    – Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.

    – Vũ Nương yêu thương chồng con.

    Kết luận: Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của người phụ nữ vốn đã hết sức mong manh.
     
    Huệ Lê Thị thích bài này.
    Last edited by a moderator: 7 Tháng mười một 2024
Trả lời qua Facebook
Đang tải...