1 người đang xem
871 3
Chính Hữu là nhà thơ chiến sĩ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng có những bài đăc sắc, cảm xúc dồn nén, hình ảnh và ngôn ngữ thơ chọn lọc, hàm súc. Tác phảm được xem là tiêu biểu nhất của ông là bài thơ "Đồng chí". Bài thơ ca ngợi tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó của người lính trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

(Trích thơ)

Bài thơ "Đồng chí" được sáng tác bài năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, đánh bại cuộc tổng tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ được in trong tập "Đầu súng trăng treo". Bài thơ "Đồng chí" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó của người lính trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Mở đầu bài thơ là những cơ sở để hình thành nên tình đồng chí đồng đội. Trước hết, tình đồng chí được bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của người lính.

"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"​

Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi đối xứng với nhau "quê hương anh– làng tôi", "nước mặn đồng chua- đất cày lên sỏi đá". Cách giới thiệu thật bình dị, chân thật về hoàn cảnh xuất thân của hai người lính, họ là những người nông dân nghèo. Hình ảnh "nước mặn đồng chua" là thành ngữ gợi tả miền đất nắng gió ven biển, đất đai nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Hình ảnh "đất cày lên sỏi đá" lại gợi tả trong lòng người đọc về một vùng đồi núi trung du, đất đai cằn cỗi rất khó canh tác. Cái đói, cái nghèo đã ăn sâu vào trong lòng đất. Các anh tuy khác nhau về địa giới, người miền xuôi kẻ miền ngược nhưng đều giống nhau ở cái nghèo, cái khổ. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm nối họ lại với nhau, là cơ sở ban đầu để hình thành tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó.

Không những thế, tình đồng chí còn được nảy nở khi cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và mục đích chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc.

"Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu"​

Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ của nhau nhưng đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lý tưởng và mục đích chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ những gian khổ của cuộc sống chiến trường. Từ "đôi" là một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc, đã gợi nên một sự thân thiết, gắn bó. Nói là chẳng hẹn nhưng thật sự họ đã có hẹn với nhau. Bởi anh với tôi đều có chung lòng yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu để thoát khỏi sự nô lệ của thực dân Pháp. Cùng nhau tự nguyện vào quân đội để rồi "quen nhau". Đó chẳng phải là đã có hẹn hay sao? Một cái hẹn không lời nhưng mang bao ý nghĩa cao cả, từ trong sâu thẳm tâm hồn của những chiến sĩ. Hình ảnh "súng bên súng, đầu sát bên đầu" là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng, sát cánh bên nhau của người lính khi thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi nhịp nhàng trong cấu trúc, từ "súng" biểu tượng cho chiến đấu, từ "đầu" biểu tượng cho lý trí, suy nghĩ của người lính. Phép điệp ngữ "súng", "đầu", "bên" tạo âm điệu khỏe chắc, nhấn mạnh sự gắn kết cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chí hướng, lý tưởng.

Đặc biệt, có tình đồng chí đồng đội càng trở nên bền chặt và nảy nở hơn khi họ cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống chiến trường

"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"​

Với hình ảnh thơ cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm đã cho ta thấy hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt của người lính nhưng vượt lên trên tất cả những khó khăn, thiếu thốn, sự khắc nghiệt của thời tiết, họ đã chia sẻ chăn cho nhau để giữ ấm. Chăn không đủ thì những đêm rét buốt họ cùng nhau đắp chung một chiếc chăn. Chính cái "chung chăn" ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để rồi họ trở thành "đôi tri kỉ". Tri kỉ là thân thiết, gắn bó, thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau mà là "đôi tri kỉ" thì lại càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Chính vì thế, câu thơ nói đến sự khắc nghiệt của thời tiết, của chiến tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được tình đồng chí bởi cái rét đã tạo nên cái tình của những người lính. Chung chăn để từ đó thành tri kỉ. Đó là sự đồng cảm, chúng ta cũng bắt gặp cảnh khó khăn ấy trong thơ Tố Hữu:

"Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng"​

Khép lại bài thơ là một câu thơ có vị trí đặc biệt được tạo bởi hai tiếng "đồng chí". Đồng chí khi nghe ta cảm nhận được sự sâu lắng, chỉ với hai chữ đồng chí kết hợp với dấu chấm than tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần của bài thơ, làm nổi bật rõ một kết luận: Cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì sẽ trở thành đồng đội của nhau.

Tình đồng chí của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh. Nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người lính cách mạng.

Kế tiếp đó là những biểu hiện của tình đồng trí. Trước hết, tình đồng chí của những người lính cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, hoàn cảnh, nỗi niềm sâu kín của nhau.

"Ruộng nương anh gử bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"​

[HIDETHANKS=1]Người lính ra đi chiến đấu để lại sau lưng mình những gì yêu quý nhất của quê hương: Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa.. Trước khi đi lính họ là những người nông dân chân lấm tay bùn quen với công việc cày cuốc ruộng nương nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, họ sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ. Hình ảnh "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", là hình ảnh gợi cảm diễn tả cái nghèo về vật chất, thiếu thốn cả người trụ cột trong gia đình. "Ruộng nương, gian nhà" là những tài sản quý giá gần gũi với người nông dân vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, họ vẫn mặc kệ. Từ "mặc kệ" giống như một lời nói thông thường nhưng lại thể hiện thái độ ra đi dứt khoát của người lính. Họ đã từ bỏ trách nhiệm của cá nhân để sống với bổn phận của một công dân khi đất nước có chiến tranh họ sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn lên đường cầm súng đánh giặc giống như thái độ của người lính trong bài "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi:

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"​

Tuy quyết tâm ra đi, nhưng trong sâu thẳm gia đình, quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ yêu thương. "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính" hình ảnh hoán dụ cùng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: Quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và chờ đợi các anh; các anh - những người lính luôn nhớ về quê hương với bao tình cảm sâu lắng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông các anh còn chia sẻ những thiếu thốn, gian lao và niềm vui của cuộc đời người lính:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng chán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày"​

Với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng: Anh – tôi, áo anh – quần tôi; tạo sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng đồng cam cộng khổ bên nhau. Họ cùng nhau vượt qua những gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống chiến trường. Hình ảnh "áo rách, quần vá" là những hình ảnh hết sức chân thực về những gian khổ thiếu thốn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp - một hình ảnh tưởng như không có chút gì là thơ lại xuất hiện trong thơ của Chính Hữu khiến người đọc cảm động rơi lệ. Đặc biệt, họ còn bị cơn sốt rét rừng hành hạ. Hình ảnh "ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi" là biểu hiện của bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm. Khi mà chiến tranh thiếu thốn không đủ thuốc men để chạy chữa. Đó là hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh, hình ảnh đó ta cũng bắt gặp trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng:

"Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùng"​

Khi quyết tâm ra đi, vượt qua khó khăn, thiếu thốn, người lính vẫn luôn lạc quan chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh "miệng cười buốt giá" thể hiện thái độ coi thường, lạc quan bừng lên trong cái giá lạnh xua tan cái khắc nghiệt của chiến trường.

"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"​

Đó là hành động chất chứa bao yêu thương trìu mến. Từ "thương" là cái "thần" của câu thơ diễn tả nỗi rưng rưng xúc động. Các anh nắm tay nhau để truyền hơi ấm cho nhau, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Hình ảnh "bàn tay" gợi nhắc đến bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật:

"Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi"​

Đó là cái bắt tay thắm tình đồng chí đồng đội, cái nắm tay của sự đoàn kết gắn bó keo sơn.

Cuối cùng là biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí

"Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo!"​

Hình ảnh "đêm nay rừng hoang sương muối" là khoảng khắc thời gian cụ thể đối với khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng, khắc nghiệt của thời tiết nhưng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, hoang vắng ấy người lính không hề cảm thấy cô đơn. Đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết mà trong lòng họ vẫn luôn cảm thấy ấm áp. Đối mặt nguy hiểm mà vẫn không hề lo sợ. Tất cả nhờ có một điểm tựa - tình đồng chí, đồng đội. Hình ảnh "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" họ đứng bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh để vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết để cho thấy tinh thần đoàn kết luôn sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh. "Chờ" là một tư thế chủ động đợi giặc đến với một phong thái tự tin, bình tĩnh, chủ động.

Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là một điểm sáng của bức tranh về tình đồng chí, đồng đội hết sức chân thực nhưng cũng rất lãng mạn:

"Đầu súng trăng treo!"​

Bốn chữ với hai hình ảnh là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn. Hiện thực chính là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích chờ giặc, càng về khuya vầng trăng và bầu trời càng xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Hình ảnh biểu tượng gợi lên những liên tưởng phong phú, súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình; súng là gần, mặt trăng là xa; súng là thực tại, trăng là mơ mộng; súng là chiến sĩ và trăng là thi sĩ.. Sự hài hòa giữa vầng trăng và súng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng để bảo vệ vầng trăng hòa bình, độc lập tự do cho tổ quốc. Phải là một người lính trải qua những năm tháng kháng chiến mới có những trải nghiệm như vậy. Chính vì vậy, Chính Hữu đã lấy câu thơ cuối cùng của bài thơ để đặt nhan đề cho cả một tập thơ.

Với thể thơ tự do giúp diễn tả hiện thực và cảm xúc một cách linh hoạt. Ngôn ngữ thơ giản dị, giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, cô đọng và hàm súc. Hình ảnh chân thực, cụ thể. Ngoài ra tác giả còn sử dụng sáng tạo bút pháp hiện thực và lãng mạn kết hợp với nhiều biện pháp tu từ. Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, bình dị của những người lính cụ Hồ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Có thể khẳng định Chính Hữu đã xây dựng được một bức tượng đài về người lính trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

"Đồng chí" là một bài thơ có giá trị nghệ thuật và nhân đạo cao. Nhà thơ Chính Hữu đã khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ, hình ảnh, ngôn ngữ để tạo nên một bức tranh sống động, xúc động về tình đồng chí, đồng đội trong chiến tranh. Bài thơ là sự ca ngợi về tinh thần yêu nước, quả cảm, hy sinh của những người lính; về sức mạnh của tình đoàn kết, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn; về niềm tin vào chiến thắng và hạnh phúc của dân tộc. Bài thơ cũng là sự gửi gắm những lời tri ân, lời cầu nguyện cho những người lính đã ra đi vì nước. Đó là một bài thơ có ý nghĩa sâu sắc, có tác động lớn đến tâm hồn của người đọc.[/HIDETHANKS]
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back