Phân tích bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi tâmniên, 19 Tháng tư 2020.

  1. tâmniên

    Bài viết:
    98
    Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cả dân tộc bước vào cuộc chiến mới. Hiện thực lịch sử ấy đã tạo nguồn cảm hứng cho thi ca với hình tượng trung tâm là người lính. Bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu ra đời năm 1948, cũng bắt đầu thực hiện thực đất nước và cảm hứng thời đại ấy. Bài thơ "Đồng chí" đã ca ngợi tình đồng chí cao quý của các anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp, là một tác phẩm hay, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.

    Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Ông làm thơ từ năm 1947, chủ yếu viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều nhưng vô cùng đặc sắc trong đó có bài thơ "Đồng chí". "Đồng chí" được sáng tác vào năm 1948, sau khi tác giả hoặc cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc, bài thơ được trích trong tập "Đầu súng trăng treo".

    "Đồng chí" là một áng thơ hay viết về tình cảm đồng chí, đồng đội của các anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã thể hiện chân thực con người và thời đại một cách cao đẹp: Đó là hình ảnh những người nông dân mặc áo lính thời kì đầu cuộc kháng chiến. Họ là những người lính nông dân ra trận, tham gia đánh Pháp, có chung mục đích lý tưởng cao đẹp. Đây chính là cơ sở hình thành tình đồng chí:

    Quê hương anh nước mặn đồng chua

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

    Tôi với anh đôi người xa lạ

    Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

    Súng bên súng đầu sát bên đầu

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

    Đồng chí!

    Bằng những câu thơ song hành, kết hợp sự sáng tạo cụm từ "đất cày lên sỏi đá", thành ngữ "nước mặn đồng chua" cùng lời thơ thủ thỉ, tâm tình gợi cảnh hai người lính đang kể cho nhau nghe về mảnh đất quê hương mình. Người thì ở miền biển nước mặn đồng chua, người ở vùng trung du đất cày lên sỏi đá đá. Hai miền đất cách xa nhau nhưng giống nhau ở cái nghèo. Hai câu thơ đầu đã diễn tả sâu sắc hoàn thành xuất thân của những người lính: Họ đều là những người nông dân mặc áo lính, đi ra từ những miền quê lam lũ, nghèo khó. Chính sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân đã tạo nên tình đồng cảm giai cấp, là cơ sở đầu tiên cho tình đồng chí.

    Những người lính có chung lý tưởng, mục đích chiến đấu. Trước ngày nhập ngũ, những con người này muốn xa lạ, nhưng tự phương trời, họ về đây đứng trong cùng một hàng ngũ, không phải là do cái nghèo xô đẩy mà do họ có chung một lý tưởng cao cả: Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh "anh- tôi" riêng biệt đã mờ nhòa, hình ảnh "anh-tôi" sóng đôi trong cùng một câu thơ đã thể hiện sự tương đồng, gắn bó của người lính trong nhiệm vụ chiến đấu:

    Súng bên súng, đầu sát bên đầu.

    "Súng" là biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, "đầu" là biểu tượng cho suy nghĩ, lý tưởng. Hai hình ảnh "súng- đầu" là hình ảnh ẩn dụ đẹp, thể hiện sự gắn bó trong nhiệm vụ chiến đấu của những người lính.

    Tình đồng chí còn được hình thành từ sự cảm thông, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui trong cuộc đời lính:

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

    Đêm Việt Bắc lạnh giá, chăn lại hẹp, chính vì thế mà những người chiến sĩ phải chung chăn. Từ xa lạ họ trở thành tri kỉ của nhau. Thiếu thốn gian lao đã gắn kết những người lính khiến họ trở thành những người bạn gắn bó, tâm giao. Những chi tiết thơ chân thực, cảm động, giản dị mà sâu sắc, mộc mạc đã diễn tả chân thành tình cảm đồng chí đồng đội của người lính.

    Đồng chí! - một dòng thơ thật đặc biệt. Dòng thơ chỉ có một từ, hai tiếng và một dấu chấm than như một nốt nhấn ngân vang, kết tinh mọi cảm xúc dồn nén. Câu thơ như một lời khẳng định: Những người ra đi từ những miền quê nghèo khó, cùng nhau đứng chung trong một hàng ngũ, cùng sát cánh, sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời người lính là những người đồng chí. Đồng chí! - một câu thơ ngắn gọn nhưng không khô khan mà tràn đầy cảm xúc, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ 6 câu trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thực ngôn từ của Chính Hữu thật hàm súc.

    Bài thơ "Đồng chí" đã thể hiện sâu sắc những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Trước hết đó là sự cảm thông tâm tư, thấu hiểu nỗi lòng của nhau:

    Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

    Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

    Tình đồng chí là cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng của nhau. Họ là những người lính ra đi vì nghĩa lớn, bỏ lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao nhiêu trăn trờ. Từ "mặc kệ" thể hiện thái độ mạnh mẽ, dứt khoát của người ra đi khi lý tưởng đã rõ ràng, mục đích đã xác định. Thế nhưng dù đã dứt khoát ra đi, những người lính vẫn nặng lòng với quê hương. Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hóa "giếng nước gốc đa nhớ người ra lính" đã thể hiện rõ hơn tấm lòng người lính đối với quê hương. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính hay chính người ra lính khôn nhớ quê hương. Như vậy, tình đồng chí được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương, đất nước.

    Từ cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng của nhau, những người lính gắn bó thân thiết hơn. Họ cùng nhau sát cánh, sẻ chia mọi khó khăn, gian khổ:

    Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

    Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có vài mảnh vá

    Miệng cười buốt giá

    Chân không giày.

    Chỉ bằng những câu thơ ngắn nhà thơ Chính Hữu đã tái hiện lại cuộc sống đầy gian lao, vất vả nhưng không thiếu niềm vui của những người chiến sĩ. Là người lính, các anh đã từng trải qua từng cơn sốt rét rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh: Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày.. Tất cả những khó khăn, gian khổ được tái hiện từ các câu thơ sóng đôi với nhau trong từng câu hoặc trong từng cặp câu, các chi tiết và hình ảnh chân thực, cảm động, không chút tô vẽ. Qua những câu thơ trên, ta thấy được sự gian lao cũng như sự sẻ chia, sát cánh bất chấp khó khăn, gian khổ và sự đồng cảm sâu sắc giữa những người lính. Qua đó ta chạnh lòng khi thấu hiểu những khó khăn, gian khổ mà thế hệ cha ông đã từng trải đồng thời, trào dâng một niềm kính phục ý chí, bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc.

    Trong gian lao những người lính vẫn luôn lạc quan, tin tưởng, vẫn cười: "Miệng cười buốt giá". Chi tiết này đã làm ấm lên, sáng lên tình đồng đội, đồng chí và tinh thần của người chiến sĩ. Họ cười để động viên nhau, vừa để vượt qua buốt giá vừa để lòng tự tin, vững vàng hơn. Với cách nói tương phản, nhà thơ đã cho bạn đọc thấy được sự khắc nghiệt của thời tiết mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc và qua đó, cho ta cảm nhận được sự chia sẻ, tình yêu thương đến mức tột cùng của những người lính.

    Cuộc sống gian lao, thiếu thốn nhưng những người lính vẫn gắn bó, sát cánh bên nhau. Chính sự đoàn kết này đã tạo nên sức mạnh phi thường của người lính, sức mạnh ấy được gợi lên từ câu thơ cuối đoạn:

    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

    Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành lại vừa tha thiết. Cách biểu lộ tình cảm không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá, gian lao, những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua tất cả, đẩy lùi gian khó. Cái nắm tay chân thành mà thiêng liêng ấy còn là ngọn lửa truyền niềm tin, hi vọng vào cuộc cách mạng phía trước và cuộc chiến đấu giành lại độc lập dân tộc. Những bàn tay ấy nắm lại tạo thành sức mạnh to lớn, phi thường, không gì có thể thắng nổi. Dường như hơi ấm của bàn tay, của tấm lòng, của tình đồng chí đã giúp người lính chiến thắng cái rét của thời tiết mùa đông, và cái giá lạnh của chân không giày. Hơi ấm từ đôi bàn tay đã lan tỏa đến từng câu. Nhà thơ đã phát hiện rất tinh sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh ấy dựa trên cơ sở cảm thông, thấu hiểu đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này.

    Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh rất đẹp. Tình đồng chí của người lính được thể hiện qua giây phút họ đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới:

    Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo.

    Khung cảnh trong đoạn thơ là một đêm rừng hoang sương muối, tối tăm, hoang sơ, tiềm ẩn bai nguy hiểm. Trên nền hiện thực gian lao, hiêm nguy nơi chiến trường ấy nổi bật lên hình ảnh những người lính đứng bên nhau chờ giặc tới. Từ "chờ" thể hiện rõ tư thế, tinh thần chủ động của những người lính dũng cảm, không sợ hiểm nguy, bình tĩnh đứng chờ giặc trong đêm trường ác liệt. Quả là một hình ảnh thật đẹp, thật cao cả, vĩ đại. Như vậy, khi những người lính đứng cạnh bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa sưởi ấm để họ có thêm sức mạnh, vượt qua cái gian khổ, khắc nghiệt và cả cái giá rét trong núi rừng Việt Bắc.

    Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh: "Đầu súng trăng treo". Đây là một hình ảnh đẹp, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa biểu tượng. Hình ảnh này được nhận ra từ chính những đêm hành quân phục kích giặc của người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như đang treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ. Bốn chữ "Đầu súng trăng treo" chia làm 2 vế, nhịp thơ đột ngột thay đổi gây sự chú ý cho người đọc. Từ "treo" tạo nên một mối quan hệ bất ngờ, độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau: "Mặt đất" và "bầu trời". Điều này gợi cho người đọc những liên tưởng thú vị, bất ngờ. Súng là biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. Trăng là biểu tượng cho sự yên bình, lãng mạn. Hai hình ảnh tương phản, sóng đôi tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ, vừa thực tại vừa mơ mộng. Hình ảnh này còn mang được đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một dòng thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứng lãng mạn. Vì vậy câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ, tập "Đầu súng trăng treo".

    Không chỉ thành công ở phương diện nội dung, "Đồng chí" còn ấn tượng về phương diện nghệ thuật. Nghệ thuật thể hiện con người và thời đại của bài thơ rất đặc sắc. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, thấm đượm chất dân gian. Tác giả đã linh hoạt trong việc sử dụng các thành ngữ thể hiện được tình cảm chân thành, mộc mạc của người lính, thể thơ tự do, nhịp thơ không cố định mà theo dòng mạch cảm xúc tự nhiên. Chính Hữu đã sử dụng bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn một cách hài hòa, tạo nên những hình ảnh thơ đẹp, giàu ý nghĩa biểu tượng.. Tất cả đã thể hiện được tài năng, tâm huyết của nhà thơ Chính Hữu cũng như góp phần đem lại thành công cho tác phẩm "Đồng chí".

    Đồng Chí của Chính Hữu là bài thơ thành công khi phản ánh một cách cao đẹp tình đồng chí của người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình đồng đội, đồng chí với lý tưởng cao đẹp, với lòng yêu nước sâu sắc, mãnh liệt. Bài thơ đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, sống mãi với bạn đọc, với thời gian, ngân vang trong lòng mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay một thông điệp sâu sắc: Phải có lòng yêu nước, tự hào dân tộc, sẵn sàng cống hiến hy sinh cho Tổ quốc thân yêu.
     
  2. Nguyễn Ngọc Nguyên Mộc Đằng

    Bài viết:
    1,213
    Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất và oai hùng nhất của người lính, là linh hồn của dân tộc Việt Nam máu đỏ da vàng, cám ơn bạn vì một bài viết mang đậm ý nghĩa, giờ thật hiếm ai nghĩ đến điều này, đời đời biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống, cho chúng ta có một ngày hôm nay, còn ngồi đây bạn và tôi và tất cả mọi người, ghi những dòng chữ này, một lần nữa, cám ơn bạn thật nhiều!
     
    Annie Dinhtâmniên thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...