

Đề 1: Phân tích đoạn văn sau: "Trong những dòng sông đẹp của thế giới.. dưới chân núi Kim Phụng" Trích bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" - Hoàng Phủ Ngọc Tường
Việt Nam đất nước của những dòng sông trăm màu, trăm dáng luôn gợi nguồn cảm hứng dạt dào cho thi nhân, nghệ sĩ. Với Quang Dũng đó là dòng sông Mã oai hùng gắn với biết bao kỷ niệm của một thời Tây Tiến. Hay dòng sông Hồng lặng lẽ giữa vùng đồng bằng mênh mông chấp cánh cho nỗi sầu trăm ngả trong thơ của Huy Cận. Cũng có thể là dòng Sông Đà luôn làm mình làm mẩy trong trang văn của Nguyễn Tuân. Đến với mảnh đất Huế thanh bình, mộng mơ ta không thể quên ghé thăm con sông Hương kỳ vĩ, diễm lệ. Dòng sông đã đi vào bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong tác phẩm, nhà văn như muốn dùng hết thảy sức mạnh ngôn từ để tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông Hương đó là kết tinh của một tình yêu nồng đượm, mãnh liệt dành cho mảnh đất cố đô xứ Huế. Tình yêu ấy của tác xã đã được chưng cất qua những trang văn neo đậu, vấn vương trong tâm hồn độc giả về hình tượng con sông Hương để rồi giúp độc giả cảm nhận sâu sắc cái nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoạn trích mở đầu thể hiện vẻ đẹp độc đáo của sông Hương vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng, trữ tình khi ở khúc thượng nguồn giữa lòng Trường Sơn. "Trong những dòng sông đẹp của thế giới.. dưới chân núi Kim Phụng".
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế nhưng quê gốc ở Quảng Trị. Ông được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là một trong mấy người viết ký hay nhất của văn học đương đại. Phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều tất cả được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về lịch sử, địa lý, văn hóa, triết học.. lối hành văn hướng lội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Tác phẩm là một trong những bài ký xuất sắc nhất được in trong tập sách cùng tên. Bút kí được viết ngày 4/1/1981 tại Huế sau chiến thắng là 1975 vẫn còn dư âm khí thế chống giặc ngoại xâm và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng.
Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn với hai nhánh tả trạch và hữu trạch gặp nhau tại ngã ba Bằng Lẵng. Từ đây, con sông trở nên hiền hòa chảy qua ngoại ô Huế, thành phố Huế, làng mạc rồi đi ra cửa biển Thuận An. Sông Hương dài chỉ hơn 100km đoạn từ ngã ba Bằng Lẵng đổ ra cửa biển Thuận An dài hơn 33 km. Từ dòng sông vô tri trên bản đồ địa lý đã được thổi hồn trở thành con sông có diện mạo, cá tính, tâm hồn trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với lối hành văn hướng nội, mê đắm, nhà văn đã nhìn sông Hương như một người con gái mang trong mình vẻ đẹp của tâm hồn, sức sống, tính cách rất riêng. Ờ khúc thượng nguồn, con sông cũng được cảm nhận trong vẻ đẹp của tính nữ.
Sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ dữ dội. Mở đầu đoạn trích bằng một nhận xét đậm tính chủ quan về sông Hương "trong những dòng sông đẹp của thế giới hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất". Nhà văn đã mặc nhiên đặt sông Hương ngang hàng với những dòng sông đẹp trên thế giới, thậm chí còn kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp độc đáo của dòng sông quê hương "Trong những dòng sông đẹp trên các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất". Cái nhìn mang sắc thái chủ quan, cảm tính, đầy thiên vị, tất cả đều là cảm xúc yêu tha thiết dòng sông, niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp quê hương, đất nước. Dòng sông ấy trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm nó đã là "một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Nghệ thuật so sánh sông Hương như bản trường ca của rừng già khiến dòng sông hiện ra với chiều dài hùng vĩ, dòng chảy mãnh liệt bởi trường ca là những áng văn chương có dung lượng lớn, còn rừng già là hình ảnh những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. Những hình ảnh này đem đến sắc thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn khi trôi chảy trong lòng Trường Sơn, sông Hương đã nhận vào nó tất cả những sắc thái đa dạng, phong phú nơi đây. Câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp đã gọi dậy cái dư vang của trường ca, cái âm vang của rừng giá. Phép liệt kê kết hợp với động từ mạnh. Phép lặp cấu trúc tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông. Dòng sông cuộn trào cùng thác ghềnh, sóng gió những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại khơi gợi những say mê, bí ẩn. Không dừng lại ở những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hóa khiến dòng sông được nhìn như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại, tự do và trong sáng. Sông Hương mang tính cách tự do, phóng khoáng của cô gái Bôhêmiêng ưa thích tự do, những cô gái xinh đẹp, bí ẩn, yêu thích ca hát và nhảy múa và chính sông Hương ở khúc thượng nguồn càng trở lên say đắm, quyến rũ.
Sông Hương mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình "và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng" con sông như nép mình vào vẻ đẹp rực rỡ ấy nó bỗng trở nên dịu dàng, say đắm. Cách miêu tả như vậy ở làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của dòng sông. Tất cả những vẻ đẹp này sông Hương như muốn giấu kín mình, bởi thế khi ra khỏi rừng già đã đóng kín cửa là ném chìa khóa vào chân núi Kim Phụng nhưng với tình yêu, nhà văn đã kỳ công khám phá và tinh tế trong cảm nhận để đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về dòng sông này. Dòng sông mang sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa, xứ sở, con sông đã trở nên dịu dàng khi không còn chảy qua những ghềnh thác, những con dốc, những vực sâu. Chất trí tuệ sông hương được hiểu là công sức bồi đắp phù sa, bồi đắp cho cả một nền văn hóa của những miền đất mà nó đi qua. Điều đấy cũng dễ hiểu bởi mọi lần văn minh đều được bắt nguồn từ những dòng sông chính những dòng sông đã tạo nên lối sống, điệu hồn, tình cảm cho con người. Sông Hương và xứ Huế cũng không ngoại trừ điều đó. Cách gọi sông Hương như người mẹ dịu dàng rất chính xác bởi sự lặng lẽ, âm thầm cống hiến và người mẹ sẽ chẳng bao giờ nói về công lao nuôi con của mình, sông Hương cũng vậy cứ lặng lẽ bồi đắp phù sa, bồi đắp văn hóa một người mẹ luôn nhẫn nhịn nuôi con suốt đời im lặng, không còn là dòng sông vô tri vô giác, với tình yêu sâu sắc mãnh liệt, với tài hoa của một người nghệ sĩ nhà văn đã miêu tả sông Hương ở khúc thượng nguồn mang vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, đầy cá tính cho thấy cách cảm nhận lãng mạn và suy nghĩ có bề sâu trí tuệ của nhà văn.
Giọng văn nhẹ nhàng, ngọt ngào, mê đắm thể hiện sự say mê của nhà văn với vẻ đẹp của dòng sông quê hương. Cách miêu tả tinh tế, tài hoa với những hình ảnh so sánh, liên tưởng thú vị, đối lập. Hình ảnh sáng tạo, cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông. Cách dùng từ tài hoa, độc đáo, giàu chất thơ. Văn phong hướng nội, tinh tế, tài hoa, những cảm nhận mang tính chủ quan, cảm nhận bằng trái tim, tâm hồn bay bổng của người nghệ sĩ. Vận dụng khéo léo các biện pháp nghệ thuật kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng. Những câu văn dài, biến đổi, uốn lượn không ngừng, giàu chất thơ. Nhịp điệu ngọt ngào tựa như lời ca của xứ huế khoan thai. Hình ảnh giàu giá trị biểu cảm.
Trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà" Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng ông lái đò vừa là một người lao động bình dị vừa là một người nghệ sĩ tài hoa. Sở dĩ, ông lái đò tài hoa, mưu trí đến vậy là do đã gắn bó với Sông Đà hơn 10 năm, xuôi ngược trên dòng sông khoảng trăm lần. Ông đã nắm rõ hết binh pháp của thần sông linh hoạt ứng phó. Sự thuần phục dòng sông của ông lái đò hay chính nhà văn đến từ kinh nghiệm trải nghiệm sâu sắc nhiều lần xuôi ngược trên sông. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả thấu hiểu hết những nét tính cách của sông Hương trên các chặng đường di chuyển cùng với sự am hiểu dòng sông trên các lĩnh vực. Đó là kết tinh từ sự kỳ công trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận xuất phát từ tình yêu Hương Giang, yêu mảnh đất xứ Huế tha thiết, nồng đượm của nhà văn.
Bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên nhạc, nên họa của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, thấy được bề dày lịch sử, văn hóa và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một nền văn hóa phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bó tha thiết với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để miêu tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương-một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.
Bài làm
Việt Nam đất nước của những dòng sông trăm màu, trăm dáng luôn gợi nguồn cảm hứng dạt dào cho thi nhân, nghệ sĩ. Với Quang Dũng đó là dòng sông Mã oai hùng gắn với biết bao kỷ niệm của một thời Tây Tiến. Hay dòng sông Hồng lặng lẽ giữa vùng đồng bằng mênh mông chấp cánh cho nỗi sầu trăm ngả trong thơ của Huy Cận. Cũng có thể là dòng Sông Đà luôn làm mình làm mẩy trong trang văn của Nguyễn Tuân. Đến với mảnh đất Huế thanh bình, mộng mơ ta không thể quên ghé thăm con sông Hương kỳ vĩ, diễm lệ. Dòng sông đã đi vào bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong tác phẩm, nhà văn như muốn dùng hết thảy sức mạnh ngôn từ để tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông Hương đó là kết tinh của một tình yêu nồng đượm, mãnh liệt dành cho mảnh đất cố đô xứ Huế. Tình yêu ấy của tác xã đã được chưng cất qua những trang văn neo đậu, vấn vương trong tâm hồn độc giả về hình tượng con sông Hương để rồi giúp độc giả cảm nhận sâu sắc cái nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoạn trích mở đầu thể hiện vẻ đẹp độc đáo của sông Hương vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng, trữ tình khi ở khúc thượng nguồn giữa lòng Trường Sơn. "Trong những dòng sông đẹp của thế giới.. dưới chân núi Kim Phụng".
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế nhưng quê gốc ở Quảng Trị. Ông được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là một trong mấy người viết ký hay nhất của văn học đương đại. Phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều tất cả được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về lịch sử, địa lý, văn hóa, triết học.. lối hành văn hướng lội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Tác phẩm là một trong những bài ký xuất sắc nhất được in trong tập sách cùng tên. Bút kí được viết ngày 4/1/1981 tại Huế sau chiến thắng là 1975 vẫn còn dư âm khí thế chống giặc ngoại xâm và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng.
Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn với hai nhánh tả trạch và hữu trạch gặp nhau tại ngã ba Bằng Lẵng. Từ đây, con sông trở nên hiền hòa chảy qua ngoại ô Huế, thành phố Huế, làng mạc rồi đi ra cửa biển Thuận An. Sông Hương dài chỉ hơn 100km đoạn từ ngã ba Bằng Lẵng đổ ra cửa biển Thuận An dài hơn 33 km. Từ dòng sông vô tri trên bản đồ địa lý đã được thổi hồn trở thành con sông có diện mạo, cá tính, tâm hồn trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với lối hành văn hướng nội, mê đắm, nhà văn đã nhìn sông Hương như một người con gái mang trong mình vẻ đẹp của tâm hồn, sức sống, tính cách rất riêng. Ờ khúc thượng nguồn, con sông cũng được cảm nhận trong vẻ đẹp của tính nữ.
Sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ dữ dội. Mở đầu đoạn trích bằng một nhận xét đậm tính chủ quan về sông Hương "trong những dòng sông đẹp của thế giới hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất". Nhà văn đã mặc nhiên đặt sông Hương ngang hàng với những dòng sông đẹp trên thế giới, thậm chí còn kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp độc đáo của dòng sông quê hương "Trong những dòng sông đẹp trên các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất". Cái nhìn mang sắc thái chủ quan, cảm tính, đầy thiên vị, tất cả đều là cảm xúc yêu tha thiết dòng sông, niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp quê hương, đất nước. Dòng sông ấy trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm nó đã là "một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Nghệ thuật so sánh sông Hương như bản trường ca của rừng già khiến dòng sông hiện ra với chiều dài hùng vĩ, dòng chảy mãnh liệt bởi trường ca là những áng văn chương có dung lượng lớn, còn rừng già là hình ảnh những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. Những hình ảnh này đem đến sắc thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn khi trôi chảy trong lòng Trường Sơn, sông Hương đã nhận vào nó tất cả những sắc thái đa dạng, phong phú nơi đây. Câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp đã gọi dậy cái dư vang của trường ca, cái âm vang của rừng giá. Phép liệt kê kết hợp với động từ mạnh. Phép lặp cấu trúc tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông. Dòng sông cuộn trào cùng thác ghềnh, sóng gió những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại khơi gợi những say mê, bí ẩn. Không dừng lại ở những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hóa khiến dòng sông được nhìn như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại, tự do và trong sáng. Sông Hương mang tính cách tự do, phóng khoáng của cô gái Bôhêmiêng ưa thích tự do, những cô gái xinh đẹp, bí ẩn, yêu thích ca hát và nhảy múa và chính sông Hương ở khúc thượng nguồn càng trở lên say đắm, quyến rũ.
Sông Hương mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình "và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng" con sông như nép mình vào vẻ đẹp rực rỡ ấy nó bỗng trở nên dịu dàng, say đắm. Cách miêu tả như vậy ở làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của dòng sông. Tất cả những vẻ đẹp này sông Hương như muốn giấu kín mình, bởi thế khi ra khỏi rừng già đã đóng kín cửa là ném chìa khóa vào chân núi Kim Phụng nhưng với tình yêu, nhà văn đã kỳ công khám phá và tinh tế trong cảm nhận để đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về dòng sông này. Dòng sông mang sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa, xứ sở, con sông đã trở nên dịu dàng khi không còn chảy qua những ghềnh thác, những con dốc, những vực sâu. Chất trí tuệ sông hương được hiểu là công sức bồi đắp phù sa, bồi đắp cho cả một nền văn hóa của những miền đất mà nó đi qua. Điều đấy cũng dễ hiểu bởi mọi lần văn minh đều được bắt nguồn từ những dòng sông chính những dòng sông đã tạo nên lối sống, điệu hồn, tình cảm cho con người. Sông Hương và xứ Huế cũng không ngoại trừ điều đó. Cách gọi sông Hương như người mẹ dịu dàng rất chính xác bởi sự lặng lẽ, âm thầm cống hiến và người mẹ sẽ chẳng bao giờ nói về công lao nuôi con của mình, sông Hương cũng vậy cứ lặng lẽ bồi đắp phù sa, bồi đắp văn hóa một người mẹ luôn nhẫn nhịn nuôi con suốt đời im lặng, không còn là dòng sông vô tri vô giác, với tình yêu sâu sắc mãnh liệt, với tài hoa của một người nghệ sĩ nhà văn đã miêu tả sông Hương ở khúc thượng nguồn mang vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, đầy cá tính cho thấy cách cảm nhận lãng mạn và suy nghĩ có bề sâu trí tuệ của nhà văn.
Giọng văn nhẹ nhàng, ngọt ngào, mê đắm thể hiện sự say mê của nhà văn với vẻ đẹp của dòng sông quê hương. Cách miêu tả tinh tế, tài hoa với những hình ảnh so sánh, liên tưởng thú vị, đối lập. Hình ảnh sáng tạo, cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông. Cách dùng từ tài hoa, độc đáo, giàu chất thơ. Văn phong hướng nội, tinh tế, tài hoa, những cảm nhận mang tính chủ quan, cảm nhận bằng trái tim, tâm hồn bay bổng của người nghệ sĩ. Vận dụng khéo léo các biện pháp nghệ thuật kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng. Những câu văn dài, biến đổi, uốn lượn không ngừng, giàu chất thơ. Nhịp điệu ngọt ngào tựa như lời ca của xứ huế khoan thai. Hình ảnh giàu giá trị biểu cảm.
Trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà" Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng ông lái đò vừa là một người lao động bình dị vừa là một người nghệ sĩ tài hoa. Sở dĩ, ông lái đò tài hoa, mưu trí đến vậy là do đã gắn bó với Sông Đà hơn 10 năm, xuôi ngược trên dòng sông khoảng trăm lần. Ông đã nắm rõ hết binh pháp của thần sông linh hoạt ứng phó. Sự thuần phục dòng sông của ông lái đò hay chính nhà văn đến từ kinh nghiệm trải nghiệm sâu sắc nhiều lần xuôi ngược trên sông. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả thấu hiểu hết những nét tính cách của sông Hương trên các chặng đường di chuyển cùng với sự am hiểu dòng sông trên các lĩnh vực. Đó là kết tinh từ sự kỳ công trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận xuất phát từ tình yêu Hương Giang, yêu mảnh đất xứ Huế tha thiết, nồng đượm của nhà văn.
Bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên nhạc, nên họa của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, thấy được bề dày lịch sử, văn hóa và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một nền văn hóa phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bó tha thiết với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để miêu tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương-một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.
Chỉnh sửa cuối: