Welcome! You have been invited by Dương2301 to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
1187 99
PHÂN TÍCH 18 CÂU THƠ ĐẦU ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN

Các giới hạn phân tích mà đề có thể cho

Đề bài 1: Anh/chị hãy phân tích 12/18 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Đề bài 2: Anh/chị hãy phân tích 16 câu thơ cuối đoạn trích Trao duyên, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

TÌM HIỂU CHUNG:

1. Vị trí đoạn trích: Từ câu 723-756 trong "Truyện Kiều".

2. Bố cục: 2 phần

- 18 câu đầu: Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

- 16 câu cuối: Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên.

MỤC LỤC CÁC PHẦN:

1. Hướng dẫn phương pháp làm bài phân tích

1.1. Phân tích đề

1.2. Các luận điểm chính cần triển khai

1.3. Dàn ý

2. Bài mẫu đề 1 (5 bài)

3. Bài mẫu đề 3 (5 bài)

1. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN

Tùy vào yêu cầu đề bài mà ta tiến hành xác định các bước phân tích đề.

VD: Phân tích 18 câu thơ đầu đoạn trích Trao Duyên

1.1. Phân tích đề

- Yêu cầu đề bài: Phân tích các chi tiết, hình ảnh, nội dung, nghệ thuật của 12 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên

- Đối tượng làm bài: 12 câu thơ đầu bài Trao duyên

- Phương pháp làm bài: Phân tích

1.2. Các luận điểm chính cần triển khai

Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Kiều

Luận điểm 2: Những lí lẽ của Kiều

Luận điểm 3: Kiều trao kỉ vật cho Vân

1.3. Dàn ý chung cho cả hai đề bài trên (tùy theo giới hạn của đề mà các em ứng đối)

Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, trích dẫn thơ.

- Giới thiệu chung về vị trí, nội dung của trích đoạn "Trao duyên".

Thân bài

A) Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng (18 câu đầu)


Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều (2 câu đầu)

- Lời nói:

+ "Cậy" : Đồng nghĩa với "nhờ", ngoài ra còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi mang được những sự tin tưởng về sự giúp đỡ đó. -> Âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói.

+ "Chịu" : Đồng nghĩa với "nhận lời" nhưng mang một ý nghĩa nặng hơn đó là bắt buộc phải chấp nhận, nài ép, không thể không nhận.

=> Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc.

- Hành động, cử chỉ: "Lạy", "thưa"

+ Thái độ kính cẩn, trang trọng của người bề dưới đối với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.

+ Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra.

=> Thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều.

Luận điểm 2: Những lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu sau)

- Nhắc lại mối tình đẹp để gợi tình cảm

+ "đứt gánh tương tư"

+ "Mối tơ thừa"

+ "Quạt ước, chén thề"

=> Thúy Kiều giãi bày tình cảnh tình duyên dang dở của mình cho em được hiểu.

- Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:

+ Gia đình Kiều gặp biến cố lớn "sóng gió bất kì"

- > Kiều rơi vào tình cảnh ngang trái, khó xử dẫn đến mối tình dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.

+ Kiều bắt buộc phải chọn giữa tình và hiếu cho nên nàng đã chọn hi sinh chữ tình.

+ Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước

+ "Xót tình máu mủ thay lời nước non" -> Nhắc đến cả tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống để thuyết phục em.

+ "Thịt nát xương mòn", "Ngậm cười chín suối" -> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.

- > Lời cầu xin đầy lí lẽ và giàu sức thuyết phục khiến cho Vân không thể chối từ.

=> Thông qua tất cả những lý lẽ thấu tình đạt lí mà Kiều đưa ra cho thấy Kiều là một người con gái thông minh và sắc sảo, đầy cảm xúc, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.

Luận điểm 3 : Kiều trao kỉ vật (6 câu tiếp)

- Chiếc vành, bức tờ mây→ Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.

- Từ "giữ - của chung - của tin"

+ "Của chung" là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa

+ "Của tin" là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: Mảnh hương, tiếng đàn

→ Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.

Tiểu kết:

- Tâm trạng xót xa, đau khổ của Kiều khi không trọn chữ tình với Kim Trọng.

- Ngôn ngữ của Kiều trong đoạn này chủ yếu là ngôn ngữ của lý trí.

* Đặc sắc nghệ thuật 12 câu đầu Trao duyên

- Sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình, lập luận chặt chẽ.

- Sử dụng các thành ngữ dân gian và hình ảnh ẩn dụ.

- Sử dụng các điển tích, điển cố.

- Có sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ.

- Ngôn ngữ tinh tế, chính xác, giàu sức thuyết phục.

- Giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.

b) Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên (16 câu cuối)

Luận điểm 1: Lời dặn dò của Kiều (8 câu đầu)

- Luôn dự cảm về cái chết: "Hiu hiu gió", "hồn", "nát thân bồ liễu", "dạ đài", "người thác oan".

- > Sự đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng.

- Tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng.

Luận điểm 2: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ kim Trọng (8 câu cuối)

- Rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê: Nói với Thúy Vân, với chính mình, với Kim Trọng.

- Những hình ảnh: "Trâm gãy gương tan", "tơ duyên ngắn ngủi", "phận bạc như vôi", "nước chảy hoa trôi lỡ làng" -> Dự cảm về số phận đầy đau khổ, bạc bẽo, dở dang, lênh đênh trôi nổi của Kiều về sau.

- Kiều tự nhận là "người phụ bạc", hành động "lạy" -> Quên đi nỗi đau đớn của bản thân mà hi sinh vì người khác.

=> Lòng bao dung và vị tha cao quý.

Tiểu kết:

- Mối tình chân thành, sâu sắc Kiều dành cho Kim Trọng.

- Kiều vừa có hiếu, vừa trọng tình trọng nghĩa.

- Ngôn ngữ của Kiều lúc này là ngôn ngữ của tình cảm- Nguyễn Du xây dựng nhân vật Kiều không khuôn mẫu, cứng nhắc, mà rất đời, rất người.

* Đặc sắc nghệ thuật:

-
Sử dụng các điển tích, điển cố.

- Miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật.

- Ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động.

III. Kết bài

Khẳng định giá trị của 12 (18) câu thơ đầu/ 16 câu thơ sau đối với đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.

2. BÀI MẪU ĐỀ 1+2

Mẫu 1: (chuẩn)

[HIDETHANKS=1]Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới. Ông có nhiều sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, tác phẩm "Đoạn Trường Tân Thanh" hay còn gọi là Truyện Kiều của ông được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với tổng cộng 3254 câu thơ lục bát, nội dung kể về cuộc đời lắm truân chuyên của nàng Thúy Kiều với 15 năm lưu lạc chốn phong trần. Tác phẩm đã nhấn vào nỗi đau bạc mệnh và gửi gắm những xúc cảm về nhân sinh của nhà thơ trước "những điều trông thấy". Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều sau khi phải bán mình để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Trong đó 18 câu thơ đầu, diễn tả nỗi dằn vặt khổ sở của Kiều khi phải dứt tình trao duyên cho em gái.

".. Cậy em em có chịu lời,

..

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa."

Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, từ câu 723-756. Sau biến cố của gia đình, cha và em Thúy Kiều bị bắt và bị hành hạ tra tấn dã man, đòi buộc gia đình Kiều phải đưa ra một khoản tiền lớn thì mới cho thả người. Thế nhưng vốn dĩ của cải của gia tộc đã bị vơ vét bằng hết, nhà chỉ còn lại mấy mẹ con Thúy Kiều, không còn cách nào khác Thúy Kiều đành phải bán mình làm vợ lẽ cho một kẻ là Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Việc này khiến Kiều vô cùng đau khổ, không chỉ vậy bán mình làm lẽ cũng đồng nghĩa với việc Kiều phản bội lại lời thề nguyền với Kim Trọng. Vì muốn vẹn toàn đôi đường, Kiều đành nén đau nhờ cậy Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng trong đau khổ và day dứt vô cùng.

Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:

"Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"

Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ "cậy" vốn giống chữ "nhờ" là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ "cậy" lại khác chữ "nhờ" ở sắc thái biểu cảm, "cậy" thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ. Chữ "chịu" giống chữ "nhận" nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ "nhận" ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời. Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: Lạy, thưa. Hành động "lạy" vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều – chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình. Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trong là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều. Hành động "thưa" cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên. Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em. Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kĩ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lí và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.

Tiếp đó, Kiều giao phó, ủy thác trách nhiệm cho em về duyên tình dang dở của mình:

"Giữa đường đứtt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"

"Gánh tương tư" là tình yêu sâu sắc của Kiều với Kim Trọng. "Giữa đường đứt gánh" là thành ngữ chỉ sự tan vỡ đột ngột của tình yêu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là "tơ thừa", "thừa" nghĩa là bị đứt, vỡ - tơ duyên bị đứt đoạn. Cách nói này cho thấy với Kiều, Thúy Vân lấy Kim Trọng là một thiệt thòi cho Vân. Từ "mặc" sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân. Câu thơ thể hiện nỗi băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên và nỗi day dứt của Kiều là day dứt cho Thúy Vân phải "chắp mối tơ thừa" của mình. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:

"Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."

Điệp từ "khi" nhấn mạnh tình cảm sâu nặng, bền chặt giữa Kiều với chàng Kim. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" diễn tả những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào, đẹp đẽ, trong sáng của Kiều cùng Kim Trọng, hai người đã tự do đính ước trao kỉ vật và uống chén rượu thề nguyền, hẹn ước nhưng giờ đây tất cả đã trở thành quá khứ. "Sóng gió bất kì" là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Chữ "hiếu" chính là gia đình còn chữ "tình" chính là tình yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ "hiếu" và "tình", Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, để đặt Vân vào tình thế cũng phải có hành động vì chị. Câu thơ "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai" là một câu hỏi tu từ chứa đầy nỗi đau xót của Kiều. Hiếu và tình là hai giá trị tinh thần không thể chọn lựa và đặt lên bàn cân nhưng xã hội phong kiến bất công tàn bạo lại bắt con người ta phải lựa chọn. Nàng Kiều đã phải cay đắng chọn chữ "hiếu" trong khi thực tế trái tim con người lại tồn tại: "Đức tin, hi vọng và tình yêu vĩ đại hơn cả". Qua đó người đọc càng thấm thía, thương cảm và xót tha cho Kiều khi nàng đã phải đau đớn hi sinh tình yêu đầu đẹp đẽ để "bán mình chuộc cha".

Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: Trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả chết ra để thuyết phục:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

"Ngày xuân" là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi đời cụ thể là tuổi trẻ. "Tình máu mủ" là tình cảm huyết thống, ruột rà. Đúng vậy Vân vẫn còn trẻ, có cả một cuộc đời phía trước để vun đắp cho hạnh phúc, hơn nữa chị và em là tình cảm ruột thịt "một giọt máu đào hơn ao nước lã" nên xin em hãy vì chị, vì tình chị em mà "thay lời nước non". Thành ngữ "thịt nát xương mòn" diễn tả nỗi đau đớn, bất hạnh thậm chí là cái chết đớn đau. Em đồng ý nhận lời trao duyên, thì chị "ngậm cười chín suối" vẫn mãn nguyện và biết ơn em, "thơm lây" bởi việc nghĩa em làm cho chị. Qua đó cho thấy đối với Kiều việc Vân thay mình kết nghĩa cùng Kim Trọng là sự hi sinh, sự ban ơn cho Kiều là một nghĩa cử cao đẹp. Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể trối từ lời đề nghị của chị. Đoạn thơ đã được Nguyễn Du viết ra một cách khúc chiết, mỗi dòng chứa một thông tin sự việc và chúng gối lên nhau một cách liên tục, lô gic. Ngôn ngữ của Kiều là ngôn ngữ của lí trí, rất khéo léo, thấu tình đạt lí không có một khe hở khiến Vân không thể từ chối mà còn lặng đi trong niềm xót thương chị vô bờ bến.

Sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu:

"Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa."

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu "chiếc vành", 'bức tờ mây' rồi đến 'phím đàn', 'mảnh hương nguyền' cho Thúy Vân. "Chiếc vành" là tặng vật đầu tiên của chàng Kim tặng cho Thúy Kiều khi nàng nhận lời, "Tờ mây" là tờ giấy có trang trí hình mây hoặc là thư từ qua lại giữa Kiều và Kim Trọng, đó là những kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, vô giá, là của riêng Kiều và Kim Trọng gợi lên một tình yêu sâu nặng, thủy chung, nồng nàn và gợi nhớ về một quá khứ hạnh phúc, đẹp đẽ. Cho nên khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng Kiều mới bùng lên mạnh mẽ. Kiều đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi để cố níu tình yêu lại với mình. Trao kỉ vật là trao duyên. Duyên tình yêu của chị giờ là duyên và tình yêu của em "Duyên này thì giữ vật này của chung". Bao đớn đau chất chứa trong hai từ "của chung", hai từ này thể hiện sự níu kéo, giằng xé khủng khiếp trong nội tâm của Kiều. Lí trí quyết định trao duyên, trao kỉ vật nhưng tình yêu tha thiết, mãnh liệt, sâu sắc đối với Kim Trọng lại khiến nàng luyến tiếc và cố gắng níu giữ lại tình yêu ấy. Hai từ "của chung" cũng đã mở ra một bi kịch trong nội tâm của nàng: Duyên đã trao mà tình không đoạn. Hai từ "ngày xưa" cũng đã thể hiện được tâm trạng vừa xót xa vừa tiếc nuối của Kiều bởi lẽ tình yêu đẹp đẽ chỉ vừa mới đây thôi nhưng khi trao cho Thúy Vân thì tất cả đã trở thành quá khứ xa xôi. Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin để em nhớ đến Kiều, những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị. Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ "dù em nên vợ nên chồng" trao duyên cho em rồi, cũng đã trao lại những kỉ vật cho em với những lời lẽ hết sức tin tưởng, khẩn khoản, ấy thế mà Kiều vẫn đặt ra giả thuyết như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Qua cụm từ "xót người mệnh bạc" ta thấy Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng đối với Kiều giờ đã thành quá khứ xa xôi, trớ trêu thay của tin vẫn còn đó mà người lại mất: "Mất người còn chút của tin", lời nói của Kiều đề cập đến cái chết mà vẫn mang âm điệu trầm trầm như là chuyện tất yếu, khiến cho người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Nhịp thơ 4/4 đứt đoạn như một tiếng nấc uất ức nghẹn ngào thể hiện nỗi đau giằng xé, sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm trong lòng Kiều.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình. Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát.

Đoạn trích với 18 câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển trong từng câu chữ cùng các thành ngữ, hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã khắc họa một nỗi đau mà khó ai có thể thấu hiểu cua Thúy Kiều. Qua đó cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo của nhà thơ khi lên tiếng tố cáo chế độ xã hội vì đồng tiền nên đã đẩy người phụ nữ rơi vào những bi kịch, đồng thời thể hiện khát khao có được hạnh phúc của cong người. 18 câu thơ cùng đoạn trích "Trao duyên" từ đó đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị đặc sắc của "Truyện Kiều". Để rồi bao năm tháng trôi đi, "Truyện Kiều" vẫn sống mãi trong lòng người đọc, trở thành niềm tự hào văn học của cả dân tộc Việt Nam.[/HIDETHANKS]

Mẫu 2:

[HIDETHANKS=1]Nguyễn Du tên chữ là Tố Như là đại thi hào của dân tộc Việt Nam và là danh nhân văn hóa thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du thành công cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm. Làm nên tên tuổi của Nguyễn Du phải kể đến tác phẩm "Truyện Kiều" - một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Truyện Kiều kể về nàng Kiều – một người con gái tài sắc nhưng cuộc đời của nàng lại là một chuỗi những bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. "Trao duyên" nằm từ câu 723-756 là nỗi đau lớn và cũng chính là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời lưu lạc 15 năm của nàng. Đoạn trích sau là những lời Kiều nói với Vân nhằm thuyết phục Vân thay mình gá nghĩa cho Kim Trọng.

".. Cậy em em có chịu lời,

..

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa."

Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình Thúy Kiều bị thằng bán tơ vu oan giá họa. Bọn sai nha nhân cơ hội đó gây nên vụ án oan sai để ăn đút lót. Tài sản gia đình bị vơ vét hết, Thúy Kiều đành phải chấp nhận hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền đút lót cho bọn sai nha để cứu cha và em khỏi những đòn tra khảo dã man. Việc bán mình thu xếp đã xong xuôi 'Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao', đêm trước khi đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã ngồi trắng đêm nghĩ đến phận mình và tình yêu "Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa/ Dầu chong trắng đĩa, lệ tràng thấm khăn", rồi nàng nhờ em gái mình là Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng.

Trao duyên là một chuyện khó nói, cho dù là nói với em gái mình cũng vậy. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm. Nó trở thành thiêng liêng, khó có thể đổi thay. Nay nhờ Vân thay mình kết nghĩa cùng Kim Trọng. Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời. Kiều lâm vào tình thế khó xử: Hở môi ra cũng thẹn thùng/ để trong lòng thì phụ tấm lòng với ai. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn mãi không biết phải nói thế nào để Vân không thể chối từ nên Kiều mở lời trao duyên rất đặc biệt:

"Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa".​

Thúy Kiều là bậc bề trên thế nhưng khi mở lời muốn gửi gắm chuyện tình cảm cho cô em gái nàng lại dùng những từ ngữ có sức biểu đạt đầy trân trọng. "Cậy" thể hiện độ tin tưởng, trông mong nhất nhất rằng chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp được mình; từ "chịu" xuất hiện cuối câu vừa mang ý nghĩa nghi vấn lại vừa thể hiện sự ràng buộc, bắt buộc. Cả câu thơ ngắt nghỉ nhấn nhá với những câu từ trang nghiêm đã thu hút sự chú ý của Thúy Vân về câu chuyện của chị. Khi em đã thấu hiểu nỗi lòng chị, Thúy Kiều lại tha thiết:

"Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"

Thúy Kiều bảo rằng Thúy Vân hãy ngồi lên cho mình "lạy" rồi "thưa". Ở đây dường như ta thấy có sự mâu thuẫn. Thúy Kiều là chị Thúy Vân, xét về vai vế Thúy Kiều ở đằng trên cớ sao lại phải hành lễ và kính cẩn với Thúy Vân. Điều đặc biệt trong ngụ ý của tác giả có lẽ phải chăng ở chính chỗ này. Đặt trong ngữ cảnh ấy hành động của nàng Kiều không hề phi lí mà hoàn toàn phù hợp. Bởi nàng chẳng còn sự lựa chọn nào khác là nhờ chính em gái ruột của mình, chịu ơn huệ lớn từ em đồng thời hành động ấy cũng lột tả sự khó xử, đầy éo le của cả chị và em Thúy Kiều. Thúy Kiều thì khó mở lời còn Thúy Vân lại chẳng thể khước từ trước lời nhờ cậy thiết tha của chị. Và Thúy Vân từ đây có lẽ rằng đã ngờ ngợ hiểu ra câu chuyện hệ trọng mà chị mình sắp đề cập đến.

Khi Thúy Vân đã thấu hiểu phần nào, Thúy kiều bắt đầu bày tỏ:

"Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"

Hóa ra Kiều mong Vân có thể thay mình gá nghĩa cùng chàng Kim, cùng Kim Trọng viết tiếp câu chuyện tình dở dang của mình. Chuyện ấy sao Kiều phải làm như hệ trọng đến vậy? Có lẽ bởi Kiều xuất thân từ một gia đình gia giáo trong xã hội xưa và đó cũng là chuyện cả đời người nên nàng không thể đơn sai, qua loa được. Đó là "gánh tương tư, là nghĩa vụ, là bổn phận, là trách nhiệm trong tình yêu của Thúy Kiều đối với Kim Trọng. Từ" mặc "được Kiều dùng như thể vừa để em tùy lòng quyết định, vừa là sự phó mặc, buông xuôi của Kiều. Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào sự đã rồi, vào sự lựa chọn không thể từ chối. Biết rằng trao đi phần duyên tình này cho Vân là làm khó em, là làm đau mình và trong lòng Thúy Vân chắc hẳn cũng sẽ dấy lên nhiều đắn đo, suy nghĩ nhưng Kiều không thể làm khác.

Kiều bắt đầu kể về câu chuyện tình đẹp nhưng dang dở giữa mình và Kim Trọng:

" Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. "

Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. Hình ảnh" quạt ước "," chén thề ", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ." Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai ", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy.

Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:

" Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương tan

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. "

Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết" Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây ". Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi" thịt nát xương tan ", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng.

Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:

" Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. "

Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu" Duyên này thì giữ, vật này của chung "có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm" của chung ", của cả hai chị em. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác." Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên ", một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.

Phân tích 18 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên ta thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng ngòi bút khéo léo, tinh tế Nguyễn Du đã sai khiến đội quân ngôn ngữ của mình một cách điêu luyện, hòa hợp, để có thể bóc trần, lột tả chân thực cung bậc cảm xúc phức tạp đang ẩn giấu, giằng xé trong nỗi lòng mỗi nhân vật. Thúy Kiều trao duyên nhưng chẳng trao tình; tình cảm với Kim Trọng vẫn được nàng lưu giữ, trân trọng. Từ đây, Nguyễn Du đã đem đến cho độc giả cái nhìn đúng đắn đầy nhân văn cao đẹp về tình yêu: Yêu là để người mình yêu hạnh phúc, yêu là trọn vẹn và thủy chung sắt son một lòng. Tình yêu chân thành là bất tử và trường tồn.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với cách sử dụng từ ngữ chuẩn xác, tinh tế cùng với tài năng miêu tả tâm lí của Nguyễn Du khi để nàng Kiều nói bằng ngôn ngữ của lí trí, chỉ với 14 câu Nguyễn Du đã diễn tả sâu sắc nỗi đau bi kịch của nàng Kiều trong tình yêu và những phẩm chất cao đẹp của Kiều: Không chỉ tài sắc, hiếu thảo, thủy chung trong tình yêu mà còn trọng tình trọng nghĩa, bao dung vị tha. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.[/HIDETHANKS]

Mẫu 3:

[HIDETHANKS=1]Nhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến" Truyện Kiều "- kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên" Truyện Kiều "nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích" Trao duyên "được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đặc biệt 18 câu thơ đầu của đoạn trích đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc:

".. Cậy em em có chịu lời

* * *hương nguyền ngày xưa. "

Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim.

Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân:

" Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho cho chị lạy rồi sẽ thưa. "

Kiều sử dụng từ" cậy "chứ không phải" nhờ' vì từ "cậy" thể hiện được sự tin tưởng, gửi gắm, trông mong. Kiều sử dụng từ "chịu" chứ không phải "nhận" vì từ "chịu" thể hiện được tính chất công việc nhờ vả là rât hệ trọng, nặng nề. Hành động "lạy, thưa" của Kiều (chị) với Vân (em) khó thể có trong cuộc sống thường ngày vì trật tự xã hội phong kiến không cho phép. Nhưng trong hoàn cảnh này Kiều đã "lạy, thưa" với Vân. Kiều làm vậy để thể hiện sự biết ơn. Kiều luôn cho rằng nếu Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim đó là một sư hi sinh, chịu đựng. Đồng thời Kiều cũng khôn khéo hiểu rằng khi mình đã "lạy, thưa" đầy kính cẩn như vậy có nghĩa là đã dồn Vân vào thế buộc phải chấp thuận.

Khi Thúy Vân đã thấu hiểu phần nào, Thúy kiều bắt đầu bày tỏ:

"Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."

Hóa ra Kiều mong Vân có thể thay mình gá nghĩa cùng chàng Kim, cùng Kim Trọng viết tiếp câu chuyện tình dở dang của mình. Chuyện ấy sao Kiều phải làm như hệ trọng đến vậy? Có lẽ bởi Kiều xuất thân từ một gia đình gia giáo trong xã hội xưa và đó cũng là chuyện cả đời người nên nàng không thể đơn sai, qua loa được. Đó là "gánh tương tư, là nghĩa vụ, là bổn phận, là trách nhiệm trong tình yêu của Thúy Kiều đối với Kim Trọng. Từ" mặc "được Kiều dùng như thể vừa để em tùy lòng quyết định, vừa là sự phó mặc, buông xuôi của Kiều. Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào sự đã rồi, vào sự lựa chọn không thể từ chối. Biết rằng trao đi phần duyên tình này cho Vân là làm khó em, là làm đau mình và trong lòng Thúy Vân chắc hẳn cũng sẽ dấy lên nhiều đắn đo, suy nghĩ nhưng Kiều không thể làm khác. Thúy Kiều đã rất khéo léo trong việc lựa lời thuyết phục Vân:

" Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? "

Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ" khi "được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng." Quạt ước "," chén thề "gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:

" Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi "

Lời thề" Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương "đến nay đã không thể thực hiện bởi" sóng gió bất kì ". Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ" hiếu "và chữ" tình ", nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ" hiếu "còn chữ" tình "nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả" tình "cả" hiếu "và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ" hiếu "của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là" người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa "(Chu Mạnh Trinh).

Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:

" Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây "

So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả" tình máu mủ ", tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã" chắp mối tơ thừa "giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ" thịt nát xương mòn "," ngậm cười chín suối ". Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được" thơm lây "với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào.

Dù không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó:

" Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa ".

Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim - Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành" của chung ". Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy. Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ - một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ" duyên "cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm cá nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một chút" duyên "nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng" nên vợ nên chồng ", chung sống hạnh phúc còn mình là" người mệnh bạc ", số phận bạc bẽo, không may mắn.

Với đoạn trích trên, Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả tâm lí của nàng Kiều, ông đã rất khéo léo khi để Kiều đè nén cảm xúc của mình và nói bằng ngôn ngữ của lí trí bởi lẽ trao duyên là việc hệ trọng Kiều phải dùng lí trí để phân tích thiệt hơn cho Vân hiểu mà nhận lời giúp nàng. Bên cạnh đó, đoạn trích cũng cho thấy cái" sâu sắc nước đời "của Nguyễn Du thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ để diễn tả tâm trạng của Kiều: Thay vì từ nhờ và chịu lời Nguyễn Du lại chọn từ cậy và chịu lời. Ngoài ra, ở đoạn trích trên Tố Như cũng đã kết hợp việc sử dụng ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ khoa học qua cách sử dụng đồng thời cả thành ngữ dân gian và cách nói ước lệ tượng trưng, điển cố điển tích.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với cách sử dụng từ ngữ chuẩn xác, tinh tế cùng với tài năng miêu tả tâm lí của Nguyễn Du khi để nàng Kiều nói bằng ngôn ngữ của lí trí, chỉ với 14 câu Nguyễn Du đã diễn tả sâu sắc nỗi đau bi kịch của nàng Kiều trong tình yêu và những phẩm chất cao đẹp của Kiều: Không chỉ tài sắc, hiếu thảo, thủy chung trong tình yêu mà còn trọng tình trọng nghĩa, bao dung vị tha. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.[/HIDETHANKS]

Mẫu 4:

[HIDETHANKS=1]Tác giả Nguyễn Du được xem là đại thi hào của dân tộc với nhiều tác phẩm đồ sộ. Trong đó," Truyện Kiều "được đánh giá là tác phẩm nổi bật nhất của ông, đồng thời chiếm vai trò rất quan trọng trong dòng chảy văn học Việt Nam. Phân tích 18 câu đầu bài Trao duyên, ta sẽ thấy được cái nhìn nhân sinh và lòng yêu thương con người của tác giả.

".. Cậy em em có chịu lời

* * *hương nguyền ngày xưa. "

Nguyễn Du, với tài năng và trái tim yêu thương sâu sắc đã luôn thổi vào các tác phẩm của mình những tình cảm đặc biệt. Ông đã biến một tiểu thuyết rất đỗi bình thường trở thành áng thơ để đời, với nhiều tầng ý nghĩa lớn. Nếu như" Kim Vân Kiều truyện "chỉ đơn giản là một câu chuyện" tình khổ "thì" Truyện Kiều "của Nguyễn Du lại mang những nỗi niềm rất khác. Đó là một khúc ca chứa chan tình thương con người, khắc họa bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Đoạn trích" Trao duyên "nằm ở câu thơ 723 đến câu 756, trong phần Gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là phần mở đầu cho chuỗi đau khổ dài dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm sắp tới.

Thứ nhất là Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình. Nỗi bất hạnh ấy chỉ có Thúy Vân mới thay thế được Kiều cũng chỉ có Thúy Vân mới giúp Kiều an tâm về chuyện chàng Kim được:

" Cậy em em có chịu lời.

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa "

Tác giả dùng từ thật hay khi nói đến việc trao duyên của nàng Kiều cho Thúy Vân. Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ" cậy "," ngồi lên "," lạy "," thưa ". Đó chính là thái độ của người dưới dành cho người trên nhưng ở đây thì lại là chị dành cho em. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.

Trước sự cậy nhờ ấy để thêm phần thuyết phục Vân đồng ý thì Kiều đã tâm sự với em về những nỗi tơ vương sầu muộn đang bủa giăng trong lòng nàng. Và chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp đỡ Kiều chứ không có ai khác cả:

" Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. "

Nàng ngậm ngùi mà rằng nàng đã chót thề nguyền cùng người con trai tên Kim Trọng ấy mà giờ đây tình yêu vừa mới chớm đến lại đứt gánh tương tư giữa đường. Còn tại sao đứt gánh thì có lẽ Vân cũng hiểu. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Có thể nói để cất lên những tiếng cậy nhờ kia thì quả thật Kiều cũng đau đớn lắm. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được" Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai ".

Tiếp đến Kiều thể hiện hoàn cảnh của bản thân mình và cuộc sống của Vân để làm cho lời cậy nhờ kia nặng hơn khiến cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:

" Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây! "

Khi cậy nhờ em xong thi Kiều lại quay về cảm giác một mình và cái sự một mình ấy đã khiến cho nàng nghĩ đến những truyện trước đây, tâm trạng của nàng bắt đầu được bộc lộ rõ ràng hơn.

Thứ nhất là Kiều mong muốn trong tuyệt vọng quay về với người yêu của mình:

" Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa "

Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. Họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Thôi thì nàng quyết định giữ cái duyên còn vật kia thì thành của chung. Mai này khi Vân và Kim Trọng có nên duyên vợ chồng thì cũng mong hãy nhớ đến kiều. Rồi là phím đàn với mảnh hương thề nguyền ngày nào cũng là những kỉ vật tình yêu của Kiều và kim Trọng. Thế nhưng Nguyễn Du không để những kỉ vật ấy cùng một câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.

Thúy Kiều đã hi sinh đi hạnh phúc cá nhân để làm tròn đạo hiếu, gánh gồng an yên gia đình, Thúy Kiều đã làm tròn cái đạo làm con và cả cái nghĩa với người thương. Với 18 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên ta thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng ngòi bút khéo léo, tinh tế Nguyễn Du đã sai khiến đội quân ngôn ngữ của mình một cách điêu luyện, hòa hợp, để có thể bóc trần, lột tả chân thực cung bậc cảm xúc phức tạp đang ẩn dấu, giằng xé trong nỗi lòng mỗi nhân vật. Thúy Kiều trao duyên nhưng chẳng trao tình; tình cảm với Kim Trọng vẫn được nàng lưu giữ, trân trọng.

Phân tích 18 câu đầu bài Trao duyên với cách sử dụng ngôn từ, thành ngữ, hình ảnh tinh tế cùng giọng điệu tha thiết, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa lên những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng đã lên án một xã hội đương thời thối nát, một xã hội mà đồng tiền với sức mạnh của nó đã dồn nén con người tới tận cùng nỗi đau mà chẳng thể làm sao để thoát ra. Từ đó cho thấy cái nhìn yêu thương, bao dung của tác giả với con người và những số phận bất hạnh.[/HIDETHANKS]

Mẫu 5:

[HIDETHANKS=1]Trao duyên là đoạn trích được trích trong tác phẩm truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du gồm 18 câu thơ từ câu 723 đến câu 756.18 câu thơ kể về gia thế, cuộc đời và nguyên nhân khiến Kiều trở thành một người phụ nữ bất hạnh. Đây là tiếng nước nở của nàng Kiều khi nhờ cậy Thúy Vân nối tiếp tình duyên còn dang dở với Kim Trọng. Một cảnh" trao duyên "thấm đẫm nước mắt, đầy đau đớn bẽ bàng chứ không mang nhiều sắc thái vui tươi, hạnh phúc như chính nghĩa đen của từ này. Phân tích Trao duyên 18 câu đầu cho ta cảm nhận sâu sắc hơn về số phận bi đát của Kiều.

".. Cậy em em có chịu lời

* * *hương nguyền ngày xưa. "

Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, từ câu 723-756. Sau biến cố của gia đình, cha và em Thúy Kiều bị bắt và bị hành hạ tra tấn dã man, đòi buộc gia đình Kiều phải đưa ra một khoản tiền lớn thì mới cho thả người. Thế nhưng vốn dĩ của cải của gia tộc đã bị vơ vét bằng hết, nhà chỉ còn lại mấy mẹ con Thúy Kiều, không còn cách nào khác Thúy Kiều đành phải bán mình làm vợ lẽ cho một kẻ là Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Việc này khiến Kiều vô cùng đau khổ, không chỉ vậy bán mình làm lẽ cũng đồng nghĩa với việc Kiều phản bội lại lời thề nguyền với Kim Trọng. Vì muốn vẹn toàn đôi đường, Kiều đành nén đau nhờ cậy Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng trong đau khổ và day dứt vô cùng.

Duyên là sợi dây kết nối đồng điệu giữa hai người, một sự ràng buộc tình cảm chắc chắn, rõ ràng, khó có thể chuyển giao. Vì thế, Thúy Kiều đã vô cùng thận trọng, xen lẫn ngần ngại khi nhờ cậy Thúy Vân tiếp tục giúp mình tấm chân tình với Kim Trọng:

" Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. "

Thúy Kiều đã dùng từ" cậy "mà không phải từ" nhờ ". Từ" cậy "bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi, tin tưởng về sự giúp đỡ ấy. Chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của mình. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Và mong mỏi như vậy, chỉ mong sao em có thể" chịu lời ". Tác giả lại một lần nữa sử dụng từ đồng nghĩa, với sắc thái biểu cảm mạnh mẽ hơn." Nhận lời "còn có thể từ chối, nhưng" chịu lời "là bắt buộc phải chấp nhận, không thể từ chối. Từ" chịu lời "mang đậm sắc thái nài nỉ, nài ép của người nhờ cậy.

Bên cạnh lời nói, Kiều còn có hành động" lạy, thưa "với em của mình. Đây đáng lẽ là hành động của người bề dưới với người bề trên, nhưng ở đây Kiều là chị lại lạy, thưa với em mình. Hành động ấy tưởng chừng là bất thường nhưng lại hoàn toàn bình thường trong hoàn cảnh này. Bởi lẽ hành động của Thúy Kiều là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường, hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn hợp lý. Tác giả đã các hành động bất thường đặt trong mối quan hệ với các từ ngữ đặc biệt, từ đó nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều. Đó là việc Kiều phải tha thiết cầu xin Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Kiều biết rằng việc mình đang nhờ Vân ảnh hưởng lớn đến cuộc đời em sau này, bởi giữa Thúy Vân và Kim Trọng không hề có tình yêu. Tâm trạng của Kiều lúc này vô cùng đau khổ, tuyệt vọng. Bởi lẽ người ta có thể trao cho nhau kỉ niệm hay đồ vật chứ không ai lại trao đi tình yêu của mình.

Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hy sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, ngây thơ. Thế nên Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hy sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu gia đình, cứu cha, cứu em.

Tiếp theo đó, Liều đã đưa ra những lí lẽ trao duyên của mình:

" Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em "

Thành ngữ" đứt gánh tương tư "ám chỉ tình cảnh tình duyên dang dở của Kiều. Nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát giữa một bên là chữ hiếu một bên là chữ tình. Vì thế nên trao duyên là lựa chọn duy nhất của nàng lúc này. Ở đây, Kiều dùng từ" mặc "để chỉ sự phó mặc, ủy thác, ủy nhiệm. Kiều đã giao toàn bộ trọng trách cho Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Dù đau đớn, xót xa, Kiều vẫn phải đưa ra quyết định ấy một cách dứt khoát. Đó lời thuyết phục khôn khéo của Kiều, làm dấy lên tình thương và trách nhiệm của người em đối với chị của Thúy Vân, khiến nàng không thể từ chối.

Tiếp theo đó, Kiểu kể về lời ước hẹn của mình với chàng Kim:

" Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? "

" Quạt ước, chén thề "là những hình ảnh tượng trưng cho những kỉ niệm đẹp, ấm êm, hạnh phúc của Kim và Kiều. Họ đã trao nhau những lời thề nguyền, đính ước gắn bó, thủy chung một đời. Thế nhưng vì gặp" sóng gió bất kì ", Kiều bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, phải chọn giữa tình và hiếu. Giữa tình cảm các nhân và sự an yên cho gia đình, nàng đã chọn hi sinh chữ tình dù rất đau đớn. Mối tình Kim – Kiều là mối tình đẹp nhưng lại mong manh, dễ vỡ. Những câu thơ chua xót ấy vừa giúp bộc lộ tâm trạng đau đớn, xót xa của Kiều lại vừa khiến Vân xúc động mà nhận lời ủy thác của chị.

Trong lời tâm tình, Kiều còn nhắc đến tuổi trẻ và tình máu mủ, cũng như sự hữu hạn của cuộc đời con người:

" Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. "

" Ngày xuân "là ẩn dụ cho tuổi trẻ, cho tương lai rộng dài đang chờ phía trước của Vân." Tình máu mủ "là tình cảm ruột thịt, sâu sắc của những người cùng huyết thống. Kiều đã rất khéo léo thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt. Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Thành ngữ" Thịt nát xương mòn "và" Ngậm cười chín suối "đã giúp Kiều nói về cái chết đầy mãn nguyện của mình. Dù không thực hiện được lời thề, nhưng nàng sẽ vẫn" thơm lây "bởi sự hi sinh của em, bởi bản thân đã không thất hứa. Kiều đã viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời giúp mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Lí lẽ của Kiều vừa thấu tình vừa đạt lí khiến Vân không thể không nhận lời. Điều này đã cho thấy Kiều là một người con gái thông minh, sắc sảo và đong đầy tình cảm.

Cuối cùng, Kiều đã trao cho em kỉ vật tình yêu của mình:

" Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung "

Kỉ vật đó là chiếc vành, bức tờ mây đơn sơ mà thiêng liêng, gợi lại quá khứ hạnh phúc. Các từ" giữ – của chung – của tin "thể hiện sự giằng xé trong nội tâm Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng. Nàng phải xót xa, đau đớn lắm, nhưng vẫn xin giữ lại chút ích kỉ cho bản thân, làm nơi nương tựa cho tâm hồn trong những tháng ngày lưu lạc sắp tới.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình. Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em," Trao duyên "mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát.

Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.[/HIDETHANKS]

Phân Tích 16 Câu Thơ Cuối Bài Trao Duyên
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Back