TÂY TIẾN "Ơi, kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường." Có những năm tháng đã đi vào lịch sử, có những kỉ niệm đã đi vào tâm khảm bao người để rồi khắc cốt ghi tâm thành những miền kí ức không thể nào quên của biết bao thế hệ. Đó là những ngày tháng chiến đấu gian khổ trong công cuộc giành lại hòa bình dân tộc; đó là cuộ kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp lắm gian khổ hi sinh. Và có lẽ, những cuộc chiến đấu ấy luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong nhiều thi phẩm nổi tiếng. Bởi lẽ, văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn độc giả những hình ảnh người anh hùng của đất nước, của dân tộc Việt Nam ta. Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ XX mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiên thực của mình. Tất cả những điều đó được kết tinh lại và thể hiện qua thi phẩm Tây tiến - bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ, nở rộ ra từ hôn thơ phóng khoáng, tâm huyết; một tiếng thơ tinh tế, lãng mạn. Đó chính là người nghệ sĩ tài hoa, nhà thơ của "sứ Đoài mây trắng" Quang Dũng. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ "Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội Thu chớm lạnh song nước lặng lờ trôi." Những vần thơ "Nhớ sông Đà" của thi sĩ Quang Lâm vẫn hay như thế! Những vần thơ vè dòng sông dữ dội, hung bạo nhưng lại đẹp đến đỗi trữ tình. Dòng song ấy làm sao mà có thể không làm xao xuyến tâm can của những người yêu cái đẹp, đặc biệt là những người vẫn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ để tìm kiếm những điều mới lạ được chứ? Và là một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật, "bặc thầy ngôn ngữ" Nguyễn Tuân đã bắt gặp dòng Đà giang trong chuyến đi thực tế đến miền đất hứa Tây Bắc năm 1958. Tại đây, tâm hồn văn chương của những cái phi thường, cái đẹp kì vĩ trỗi dậy, thế là tập tùy bút Sông Đà ra đời, mà bông hoa đẹp nhất trong tập tùy bút này có lẽ là tác phẩm "Người lái đò sông Đà" - thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong hành trình xê dịch của chính bản thân mình. SÓNG "Em cần anh như biển xanh cần sóng Có mặt biển nào yên lặng được đâu anh Em yêu anh bởi vì anh là nắng Có hạt dương nào thiếu nắng lại long lanh." Nhà thơ người Nga vĩ đại Puskin yêu bằng cả con tim nồng nàn nên thơ tình của ông vẫn luôn cuồng say, đằm thắm như thế. Ta bắt gặp đâu đó trong từng câu chữ của ông là một chàng trai si tình, yêu cuồng nhiệt. Tình yêu vốn là thế đấy, một khi đã đắm chìm lại mang nhiều tương tư, nhung nhớ. Đó vẫn luôn là một đề tài đầy ma lực với biết bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn cung điệu làm rung động bao trái tim để từ đó ngân lên một lời thơ nhân loại. Và mỗi một nhà thơ lại có một cảm nhận khác nhau về tình yêu. Cùng lăn bánh xe thời gian trở về quá khứ thời văn học Việt Nam hiện đại, trên thi đàn văn học Việt Nam, ta bắt gặp một nữ thi sĩ luôn hết mình về tình yêu, một "người đàn bà yêu cho đến hết và đến chết", thơ của chị luôn tràn ngập trong men say của tính yêu mãnh liệt và sống mãi cho đến ngày hôm nay. Không ai khác, đó chính là nữ thi sĩ Xuân Quỳnh với bài thơ tiêu biểu "Sóng" - tiếng nói yêu thương của người phụ nữ khoa khát hạnh phúc bình dị đời thường. ĐÁT NƯỚC Trong những năm tháng kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta, hình tượng Đất nước lớn lao, đẹp đẽ luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong nhiều sáng tác thơ ca. Mỗi nhà văn, nhà thơ khi viết về Đất nước đều mang chung một niềm tự hào khó tả về con người và Đất nước Việt Nam. Chế Lan Viên khi nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt đã khẳng định "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?"; Lê Xuân Anh đã tạc vào thơ ca một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân"; hay Tố hữu với những hình ảnh Đất nước sáng ngời "Ôi! Việt Nam từ trong biến máu". Đát nước ấy cũng rung lên thật mạnh mẽ khi "Tuổi trẻ không yên", 'những tà áo trắng "xuống đường trong tác phẩm" Mặt đường khát vọng "của Nguyễn Khoa Điềm. Giữa một dàn giao hưởng với những tiếng ca hùng tráng, thiết tha về Đất nước, thơ Nguyễn Khoa Điềm hiện lên mang một nét rất rieeng biệt. Ông ngợi ca về Đất nước không phải bằng những lời hoa mỹ, cầu kỳ; Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đơn sơ, mộc mạc, đơn sơ, gắn với mỗi con người như là máu thịt, như là hơi thở. Đất nước ấy tắm đẵm trong hương liệu văn hóa dân gian và cả trong tư tưởng của thời đại lúc bấy giờ. VỢ NHẶT " Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. "(Đặng Thai Mai). Đã có biết bao nhiêu con người bước vào trang văn để nói lên một điều gì đó rất đỗi chân thực của thời đại mà anh ta sống. Có kẻ vật vưỡng, lang thang, cũng có người oai hùng, lẫm liệt; có người giàu sang, làm cường hào, thống lí, cũng có kẻ nghèo khổ, ngờ nghệch với cái đói bi thảm. Nhưng cốt yếu đó cũng là hình tượng nhân vật điển hình trong mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật. Văn chương như tấm gương phản chiếu đời sống hiện thực qua lăng kính vạn hoa của người nghệ sĩ. Mà" mỗi trang văn đều soi bóng một thời đại mà nó ra đời "(Tô Hoài) nên anh ta sống thế nào anh ta viết thế ấy. Và nhà văn" quý hồ tinh, bất quý hồ đa "Kim Lân, với cái nhìn hiện thực về chốn trần thế, với nỗi trăn trở về những kiếp đời lầm than, với cái nhìn suy tư về những mảnh đời thống khổ ở nông thôn Việt Nam nên ông chắp bút viết nên truyện ngắn" Vợ nhặt ". Tác phẩm như tấm chân dung phảng phất hình tượng người nông dân trong cái đói thê thảm năm 1945, dù là đói khát nhưng vẫn ánh lên tình người ấm áp. Tình người như ngọn lửa đêm thâu xua tan màn đen mờ mịt của cái xóm ngụ cư nghèo khổ. VỢ CHỒNG A PHỦ Sinh thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói rằng:" Nhà văn tồn tại ở đời trước hết để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chấn tường ". Phải chăng," nhà văn của người dân miền núi "Tô Hoài đến với đời để hoàn thiện chân mệnh thiên sứ ấy? Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong khói sương, những con người lòng vẫn cháy bỏng một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Những con người ấy đã đi vào trang văn của Tô Hoài với bao xúc cảm dữ dội và cũng rất đỗi chân thực. Có thể nói, truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ "là tác phẩm tiêu biểu nhất về hình tượng con người vùng dậy ừ trong khổ đau, vùng dậy tìm nguồn sáng mới giữa một màn đêm u ám bao lấy cuộc đời. Đó là vẻ đẹp tâm hồn, là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, dám đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Anddecxen - chàng thi sĩ với những vần thơ ngân nga từ hẻm núi sương giăng, kì ảo Odenzo từng nói rằng:" Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. "Câu chuyện từ cuộc sống là muôn hình vạn trạng, câu chuyện từ cuộc sống có niềm vui và cũng có nổi buồn. Nhưng hơn hết, nó chất chưa trong mình những ý niệm nhân sinh sâu sắc mà người cầm bút muốn gửi đến độc giả. Và, trên dòng sông văn chương chữ nghĩa trĩu nặng phù sa, có một nhà văn được mệnh danh là người mở đường tài năng và tinh anh của nền văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới, một nhà văn gây dựng tên tuổi với những trang văn về đời, về người, về những câu chuyện từ cuộc sống viết ra. Những câu chuyện ấy viết nên từ một tài năng nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Những trang văn ấy xoay quanh về con người trong cuộc sống mưu sinh thời hậu chiến, đồng cảm với hành trình tìm kiếm đầy nhọc nhằn của họ; từ đó, ông phát hiện và trân trọng những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người. Nguyễn Minh Châu viết nên truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa"như một bước tiến dài đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của xã hội Việt nam sau chiến tranh. Đó là những giá trị sâu sắc mà ông thôi vào tác phẩm để nói nên tiếng nói nhân văn của mình.