- Xu
- 25,993


NGHĨ CỔ KỲ 10 - LÝ BẠCH
Xin chào các anh chị và các bạn.
Ngày hôm qua Mộng Huyền đã giới thiệu bài thơ thứ chín trong mười hai bài Nghĩ cổ (Phỏng cổ) của thi tiên Lý Bạch. Chúng ta đã chia sẻ nỗi buồn vạn cổ của người cô lữ giữa cõi hồng trần bao la, trống vắng. Mời các bạn tiếp tục đến với những suy tư về kiếp người hữu hạn trong thế giới kỳ diệu của thiên nhiên cộng hưởng với nội tâm lãng mạn của thi hào qua bài thơ nối tiếp :
Nguyên văn
擬古其十
僊人騎彩鳳
昨下閬風岑
海水三清淺
桃源一見尋
遺我綠玉杯
兼之紫瓊琴
杯以傾美酒
琴以閑素心
二物非世有
何論珠與金
琴彈松里風
杯勸天上月
風月長相知
世人何倏忽
Phiên âm
Nghĩ cổ kỳ thập
Tiên nhân kỵ thải phượng
Tạc hạ Lãng phong sầm
Hải thủy tam thanh thiển
Đào nguyên nhất kiến tầm
Di ngã lục ngọc bôi
Kiêm chi tử quỳnh cầm
Bôi dĩ khuynh mỹ tửu
Cầm dĩ nhàn tố tâm
Nhị (1) vật phi thế hữu
Hà luận châu dữ câm (kim) (2)
Cầm đạn tùng lý phong
Bôi khuyến thiên thượng nguyệt
Phong nguyệt trường tương tri
Thế nhân hà thúc hốt
Dịch nghĩa
Phỏng cổ bài thứ mười
Người tiên cưỡi phượng mầu
Hôm qua xuống đỉnh Lãng phong
Nước biển ba lần trong, cạn
Đào nguyên một lần tìm gặp
Tặng ta chén (rượu) bằng ngọc mầu lục
Lại cả cây đàn bằng ngọc "quỳnh" mầu tím
Chén để rót rượu ngon
Đàn để yên lòng trong trắng
Hai vật không có trên đời
Làm sao bàn với ngọc trai và vàng
Đàn để gẩy gió trong cây tùng
Chén để mời trăng trên cao
Gió, trăng hiểu nhau đã lâu
Người đời sao mà thoáng chốc
Hai câu đầu
Tiên nhân kỵ thải phượng
Tạc hạ Lãng phong sầm
gợi nhớ đến hình ảnh chủ thể trữ tình cưỡi phượng hoàng kén vợ trong Ly tao của Khuất Nguyên, mãi vô vọng rong ruổi khắp chân trời góc bể, cũng như bậc thánh hiền mỏi mắt tìm vua sáng :
Ẩm dư mã ư Hàm trì hề
Tổng dư bí hồ phù tang
Chước nhược mộc dĩ phất nhật hề
Liêu tiêu diêu dĩ tương dương.
(Cho ngựa uống ở Hàm trì
Gom dây cương chỗ phù tang
Bẻ nhược mộc mà phất mặt trời
Tạm ung dung mà tung tăng)
Sau đó ông giục phượng bay mải miết, để rồi :
Triêu ngô tương tế ư Bạch thuỷ hề
Ðăng Lãng phong nhi tiết mã
Hốt phản cố dĩ lưu thế hề
Ai cao khâu chi vô nữ
(Sáng sớm ta lội qua giòng Bạch thuỷ
Lên Lãng phong mà ghìm ngựa
Chợt quay đầu mà chảy nước mắt
Buồn thay Cao khâu (cố quốc) không có người gái nào (đẹp người đẹp nết))
Giờ đây, người tiên lại đáp xuống đỉnh Lãng phong. Dương Tề Hiền chú : Thập châu ký (như đã dẫn trong bài trước) nói rằng : dãy Côn luân có ba đỉnh, trong đó có một đỉnh chính hướng Bắc, ngay dưới sao Bắc thần (sao Bắc cực), gọi là đỉnh Lãng phong. Hai câu sau tả rõ hơn về thời gian và địa điểm của cuộc gặp gỡ đầy tính tượng trưng này :
Hải thủy tam thanh thiển
Đào nguyên nhất kiến tầm
Lời chú giải của Dương Tề Hiền nhắc nhở đến hai điển tích. Đào nguyên là nguồn đào trong Đào hoa nguyên ký và cả bài thơ kèm sau đấy của Đào Tiềm đời Tấn tả một xứ sở hạnh phúc yên vui nằm ngoài thế tục. Đáng lưu ý là sự tích nước biển ba lần cạn đi. Tiểu thuyết Thần tiên truyện 神仙傳 có kể rằng Vương Viễn hiệu Phương Bình thấy Thái Kinh có căn cốt, nhưng vì không biết đường tu, bị "khí ít thịt nhiều" mà chưa thể thành tiên, bèn giúp đỡ. Thái Kinh đột nhiên sốt nóng, người gầy như ve, hơn mười năm sau thì Vương Viễn quay lại với bộ dạng trẻ tuổi, tóc đen. Ông thỉnh Ma Cô từ đảo Bồng lai đến để độ Kinh đắc đạo. Lúc đến, Ma Cô bảo Phương Bình : Từ lần gặp trước, đã thấy Đông hải ba lần hoá thành ruộng dâu, trông hướng đảo Bồng lai thấy nước nông hơn ngày xưa.
Như thế, giữa cõi trần ai vô vọng, Lý Bạch thể hiện lòng ngưỡng vọng, ước ao đối với cốt cách cao khoát của bậc thánh nhân, cũng như đời sống thần tiên, thoát tục. Còn liên luỵ chốn hồng trần, ông vui lòng với món quà thần tiên là chén ngọc và đàn quỳnh mà không vàng châu tục khí nào sánh được. Chữ tố 素 nghĩa gốc là tơ trắng, tơ để làm giây đàn, và mầu trinh bạch của tơ cũng tỏ tấm lòng trong sạch. Tiêu Sĩ Uân lại dẫn lời Đào Tiềm khuyên rằng : Nếu chơi đàn không hay, nên thường gìn giữ tố tâm.
Quà tiên quý báu như thế thì ở chốn hồng trần, thi nhân dùng tiếp đãi, cộng hưởng với trăng trên cao xa và gió nơi cội tùng trên mặt đất.
Cầm đạn tùng lý phong
Bôi khuyến thiên thượng nguyệt
Thế nhưng, cũng như Khuất Nguyên xưa kia, sau biết bao công cuộc truy cầu người ngoan đành chợt quay đầu rơi lệ, sau khi say sưa với những viễn tượng cao xa trong tháng năm vời vợi, vào phút cuối, Lý Bạch cũng lại đột nhiên nhận ra một nghịch lý nghiệt ngã, sự bất lực hoảng hốt của kiếp người sao mà ngắn ngủi, vụt thoáng còn mau hơn gió trăng kia :
Phong nguyệt trường tương tri
Thế nhân hà thúc hốt !
Người không có. Còn gió trăng có thật hiểu lòng người ?
Chú thích
(1) : Các bản sách Phân loại bổ chú Lý Thái Bạch thi cho đến thời Vạn lịch nhà Minh đều chép hoặc in là "Nhất vật phi thế hữu" (Một vật chẳng có trên đời), đến bộ Lý Thái Bạch tập chú trong Khâm định tứ khố toàn thư đời Thanh thì chính thức sửa "nhất" thành "nhị" (Hai vật). Nếu ta chú ý hai chữ "kiêm chi" sẽ thấy "một" có lẽ có ý riêng của nó.
(2) : Theo phiên thiết Hán ngữ thì 金 phải đọc là "câm" nhưng ở ta quen đọc là "kim". Đọc là "câm" thì hợp vận. Trường hợp này cũng gặp ở bài Xuân vọng của Đỗ Phủ.
Ảnh : Phân loại bổ chú Lý Thái Bạch thi 分類補註李太白詩, sách do Tiêu Sĩ Uân 蕭士贇 đời Nguyên soạn kế tục Dương Tề Hiền 楊齊賢 đời Tống, bản năm Vạn lịch Nhâm dần (1602), có sự tham gia của hai học giả đời Minh là Hứa Tự Xương 許自昌 và Tiết Trọng Ung 薛仲邕. Nguồn: Dự án điện tử hóa sách triết học Trung quốc.
Ảnh : Lý Thái Bạch tập chú 李太白集注 đề năm Càn long thứ 46 (1781). Nguồn: Dự án điện tử hóa sách triết học Trung quốc.
Xin chào các anh chị và các bạn.
Ngày hôm qua Mộng Huyền đã giới thiệu bài thơ thứ chín trong mười hai bài Nghĩ cổ (Phỏng cổ) của thi tiên Lý Bạch. Chúng ta đã chia sẻ nỗi buồn vạn cổ của người cô lữ giữa cõi hồng trần bao la, trống vắng. Mời các bạn tiếp tục đến với những suy tư về kiếp người hữu hạn trong thế giới kỳ diệu của thiên nhiên cộng hưởng với nội tâm lãng mạn của thi hào qua bài thơ nối tiếp :
Nguyên văn
擬古其十
僊人騎彩鳳
昨下閬風岑
海水三清淺
桃源一見尋
遺我綠玉杯
兼之紫瓊琴
杯以傾美酒
琴以閑素心
二物非世有
何論珠與金
琴彈松里風
杯勸天上月
風月長相知
世人何倏忽
Phiên âm
Nghĩ cổ kỳ thập
Tiên nhân kỵ thải phượng
Tạc hạ Lãng phong sầm
Hải thủy tam thanh thiển
Đào nguyên nhất kiến tầm
Di ngã lục ngọc bôi
Kiêm chi tử quỳnh cầm
Bôi dĩ khuynh mỹ tửu
Cầm dĩ nhàn tố tâm
Nhị (1) vật phi thế hữu
Hà luận châu dữ câm (kim) (2)
Cầm đạn tùng lý phong
Bôi khuyến thiên thượng nguyệt
Phong nguyệt trường tương tri
Thế nhân hà thúc hốt
Dịch nghĩa
Phỏng cổ bài thứ mười
Người tiên cưỡi phượng mầu
Hôm qua xuống đỉnh Lãng phong
Nước biển ba lần trong, cạn
Đào nguyên một lần tìm gặp
Tặng ta chén (rượu) bằng ngọc mầu lục
Lại cả cây đàn bằng ngọc "quỳnh" mầu tím
Chén để rót rượu ngon
Đàn để yên lòng trong trắng
Hai vật không có trên đời
Làm sao bàn với ngọc trai và vàng
Đàn để gẩy gió trong cây tùng
Chén để mời trăng trên cao
Gió, trăng hiểu nhau đã lâu
Người đời sao mà thoáng chốc
Hai câu đầu
Tiên nhân kỵ thải phượng
Tạc hạ Lãng phong sầm
gợi nhớ đến hình ảnh chủ thể trữ tình cưỡi phượng hoàng kén vợ trong Ly tao của Khuất Nguyên, mãi vô vọng rong ruổi khắp chân trời góc bể, cũng như bậc thánh hiền mỏi mắt tìm vua sáng :
Ẩm dư mã ư Hàm trì hề
Tổng dư bí hồ phù tang
Chước nhược mộc dĩ phất nhật hề
Liêu tiêu diêu dĩ tương dương.
(Cho ngựa uống ở Hàm trì
Gom dây cương chỗ phù tang
Bẻ nhược mộc mà phất mặt trời
Tạm ung dung mà tung tăng)
Sau đó ông giục phượng bay mải miết, để rồi :
Triêu ngô tương tế ư Bạch thuỷ hề
Ðăng Lãng phong nhi tiết mã
Hốt phản cố dĩ lưu thế hề
Ai cao khâu chi vô nữ
(Sáng sớm ta lội qua giòng Bạch thuỷ
Lên Lãng phong mà ghìm ngựa
Chợt quay đầu mà chảy nước mắt
Buồn thay Cao khâu (cố quốc) không có người gái nào (đẹp người đẹp nết))
Giờ đây, người tiên lại đáp xuống đỉnh Lãng phong. Dương Tề Hiền chú : Thập châu ký (như đã dẫn trong bài trước) nói rằng : dãy Côn luân có ba đỉnh, trong đó có một đỉnh chính hướng Bắc, ngay dưới sao Bắc thần (sao Bắc cực), gọi là đỉnh Lãng phong. Hai câu sau tả rõ hơn về thời gian và địa điểm của cuộc gặp gỡ đầy tính tượng trưng này :
Hải thủy tam thanh thiển
Đào nguyên nhất kiến tầm
Lời chú giải của Dương Tề Hiền nhắc nhở đến hai điển tích. Đào nguyên là nguồn đào trong Đào hoa nguyên ký và cả bài thơ kèm sau đấy của Đào Tiềm đời Tấn tả một xứ sở hạnh phúc yên vui nằm ngoài thế tục. Đáng lưu ý là sự tích nước biển ba lần cạn đi. Tiểu thuyết Thần tiên truyện 神仙傳 có kể rằng Vương Viễn hiệu Phương Bình thấy Thái Kinh có căn cốt, nhưng vì không biết đường tu, bị "khí ít thịt nhiều" mà chưa thể thành tiên, bèn giúp đỡ. Thái Kinh đột nhiên sốt nóng, người gầy như ve, hơn mười năm sau thì Vương Viễn quay lại với bộ dạng trẻ tuổi, tóc đen. Ông thỉnh Ma Cô từ đảo Bồng lai đến để độ Kinh đắc đạo. Lúc đến, Ma Cô bảo Phương Bình : Từ lần gặp trước, đã thấy Đông hải ba lần hoá thành ruộng dâu, trông hướng đảo Bồng lai thấy nước nông hơn ngày xưa.
Như thế, giữa cõi trần ai vô vọng, Lý Bạch thể hiện lòng ngưỡng vọng, ước ao đối với cốt cách cao khoát của bậc thánh nhân, cũng như đời sống thần tiên, thoát tục. Còn liên luỵ chốn hồng trần, ông vui lòng với món quà thần tiên là chén ngọc và đàn quỳnh mà không vàng châu tục khí nào sánh được. Chữ tố 素 nghĩa gốc là tơ trắng, tơ để làm giây đàn, và mầu trinh bạch của tơ cũng tỏ tấm lòng trong sạch. Tiêu Sĩ Uân lại dẫn lời Đào Tiềm khuyên rằng : Nếu chơi đàn không hay, nên thường gìn giữ tố tâm.
Quà tiên quý báu như thế thì ở chốn hồng trần, thi nhân dùng tiếp đãi, cộng hưởng với trăng trên cao xa và gió nơi cội tùng trên mặt đất.
Cầm đạn tùng lý phong
Bôi khuyến thiên thượng nguyệt
Thế nhưng, cũng như Khuất Nguyên xưa kia, sau biết bao công cuộc truy cầu người ngoan đành chợt quay đầu rơi lệ, sau khi say sưa với những viễn tượng cao xa trong tháng năm vời vợi, vào phút cuối, Lý Bạch cũng lại đột nhiên nhận ra một nghịch lý nghiệt ngã, sự bất lực hoảng hốt của kiếp người sao mà ngắn ngủi, vụt thoáng còn mau hơn gió trăng kia :
Phong nguyệt trường tương tri
Thế nhân hà thúc hốt !
Người không có. Còn gió trăng có thật hiểu lòng người ?
Chú thích
(1) : Các bản sách Phân loại bổ chú Lý Thái Bạch thi cho đến thời Vạn lịch nhà Minh đều chép hoặc in là "Nhất vật phi thế hữu" (Một vật chẳng có trên đời), đến bộ Lý Thái Bạch tập chú trong Khâm định tứ khố toàn thư đời Thanh thì chính thức sửa "nhất" thành "nhị" (Hai vật). Nếu ta chú ý hai chữ "kiêm chi" sẽ thấy "một" có lẽ có ý riêng của nó.
(2) : Theo phiên thiết Hán ngữ thì 金 phải đọc là "câm" nhưng ở ta quen đọc là "kim". Đọc là "câm" thì hợp vận. Trường hợp này cũng gặp ở bài Xuân vọng của Đỗ Phủ.

Ảnh : Phân loại bổ chú Lý Thái Bạch thi 分類補註李太白詩, sách do Tiêu Sĩ Uân 蕭士贇 đời Nguyên soạn kế tục Dương Tề Hiền 楊齊賢 đời Tống, bản năm Vạn lịch Nhâm dần (1602), có sự tham gia của hai học giả đời Minh là Hứa Tự Xương 許自昌 và Tiết Trọng Ung 薛仲邕. Nguồn: Dự án điện tử hóa sách triết học Trung quốc.

Ảnh : Lý Thái Bạch tập chú 李太白集注 đề năm Càn long thứ 46 (1781). Nguồn: Dự án điện tử hóa sách triết học Trung quốc.