Hình ảnh người bà qua bài thơ Bếp lửa và bài Tiếng gà trưa Bài làm Hình ảnh những người bà, người mẹ qua bao năm tháng vẫn luôn là một điều gì đó thiêng liêng trong lòng mỗi đứa con xa quê. Nếu như Bằng Việt mang nỗi nhớ bà vào hình ảnh của Bếp lửa thì Xuân Quỳnh lại nhớ về người bà của mình qua tiếng gà cục tác. Hình ảnh những người bà tần tảo hiện lên trong hai bài thơ: Bếp lửa và Tiếng gà trưa mang những nét đẹp vô ngần của người phụ nữ Việt Nam. Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương, của sáng tạo nghệ thuật, ai cũng muốn viết về tuổi thơ của mình nhưng vì thơ viết về kỷ niệm bao giờ cũng được bao bọc không khí nhớ thương, tiếc nuối những Chuyện đã qua nên thường lan man, khó tìm thấy những chi tiết đặc sắc để lay động tâm hồn bạn đọc. Bằng Việt cũng viết về kỷ niệm ấu thơ thuở hoa còn là nụ nhưng nhà thơ đã chọn cho mình một chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng không phải ai cũng nhận ra: "Bếp lửa". Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh người bà thương yêu – một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động: "Một bếp lửa chơi vơi sương sớm. Một bếp lửa ấp iu nồng đượm. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa." Hình ảnh "bếp lửa" được điệp lại đến hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh "bếp lửa" là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm xúc cho cháu, nó như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Từ láy "chờn vờn" tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay gầy tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo lắng cho đứa cháu ruột rà. Vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ. Và sâu trong hình ảnh ấy chính là bóng dáng của người bà kính yêu, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, cháu thương những năm tháng bà tần tảo, hy sinh. "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa" Đọng lại trong câu thơ là chữ "thương", thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh "biết mấy nắng mưa", làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé! Bao kỉ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ trong cháu. "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay." Cuộc sống khốn khó những năm tháng ấy có lẽ là điều mà cháu không thể nào quên dù lúc chỉ vừa lên bốn. Cái đói, cái nhọc nhằn vất vả được thể hiện qua hình ảnh "khô rạc ngựa gầy", mùi khói trở thành thứ hương vị quen thuộc. Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Sống trong hoàn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ cực. Từ ghép "mòn mỏi" được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc. Khói hun nhèm lên mắt, vị khói khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn, đói khổ của năm tháng xưa khiến khi nghĩ về mà lòng nôn nao vừa xúc động, vừa xót xa. Bà vẫn âm thầm, lặng lẽ góp nhóm lửa với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng mình, muốn đem những thứ tốt nhất để nuôi dưỡng cháu. "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế." Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. "Tám năm" - khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Bà giống như người mẹ hiền, thay vai trò của mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà. Bà chính là tổ ấm, nơi che chở vững chắc, chỗ dựa thoải mái, bình yên cho cháu. Vì thế, bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của cha mẹ. Cho nên, người cháu luôn khắc ghi tình cảm thiêng liêng của bà: "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chữ "thương" đã tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu sắc, tình cảm mà người cháu dành cho bà. Bà phải khổ cực biết bao trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, và cả bao mất mát: "Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!" Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thể đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ. "Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!" Bà dù chịu khổ nhưng không muốn cho con biết. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn công lao to lớn nhất, là động lực cho những chiến sĩ mạnh mẽ đối mặt với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Những dòng thơ cuối tuôn trào như nỗi xúc động tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà cùng bếp lửa hiện lên càng chân thực và sống động. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt, bà cũng là người nhóm lên ngọn lửa của yêu thương để sưởi ấm tuổi thơ cháu trong suốt cuộc đời, kỉ niệm về bà là những kỉ niệm tuyệt nhất, sâu sắc nhất. Và rồi, hình ảnh bà nhập vào ngọn lửa để sáng lên: "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.." Điệp ngữ "một ngọn lửa" ý muốn nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Hình ảnh bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực luôn bền bỉ và bất diệt. Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, chẳng quản ngại hy sinh, vẫn luôn tin yêu vào ngày gia đình sum vầy, ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, Tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai. Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau. Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa: "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.." Cụm từ "biết mấy nắng mưa" được lặp lại như để nhắc nhớ lại những gian khó, vất vả mà bà phải chịu đựng. Từ đó làm sáng lên những phẩm chất, vẻ đẹp cao quý của bà. Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng. Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. Một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên: "Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!" Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau. Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cứ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên: "Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?" Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa - Bằng Việt . Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận. Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ, 9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bà. Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành. Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Những câu thơ giản dị, dễ hiểu đã khắc họa một cách chân thực mà sâu sắc hình ảnh người bà, người mẹ Việt Nam tảo tần, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, niềm tin và nghị lực. Ta không chỉ trông thấy tình cảm thiêng liêng ấy ở bài Bếp lửa mà còn bắt gặp ở áng văn khác của thi nhân Xuân Quỳnh với bài thơ Tiếng gà trưa. Bài thơ Tiếng gà trưa được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, được in lần đầu trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968) của Xuân Quỳnh. Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình đã làm sâu sắc thêm tình quê hương đất nước. Bài thơ được gợi mở bằng tiếng gà trên con đường hành quân Của người chiến sĩ: "Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà ai nhảy ổ: Cục.. cục tác cục ta Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ." Tiếng gà ấy đã gọi dậy cả một tuổi thơ với những kỷ niệm êm đềm của người chiến sĩ giải phóng quân. Bao nhiêu cảm xúc, niềm vui, hoài niệm bùng lên trong phút giây ngắn ngủi được nghỉ ngơi. Tuổi thơ của người chiến sĩ trong thơ Xuân Quỳnh là một tuổi thơ với sự thiếu vắng người mẹ, xa bố và ở cùng với người bà tần tảo, phải bòn từng đồng bạc lo cho đứa cháu nhỏ. Tuổi thơ của người chiến sĩ ấy tuy không được sống trong tình yêu của mẹ nhưng lại được bao dung, bù đắp bởi tình yêu thương hết mực của người bà. Bà đã ôm ấp đứa cháu nhỏ, trao cho tất cả yêu thương, bồi đắp những thiếu hụt về tình cảm gia đình. Vậy nên tất thảy những khó khăn, vất vả đều đè lên đôi vai gầy guộc của bà. Ở bà, người ta thấy hiện lên tất cả những phẩm chất cao đẹp, đáng quý của một người phụ nữ Việt Nam mà trước tiên là tình yêu thương cháu vô bờ bến. Hình ảnh người bà già cả nhưng luôn ở sát bên dạy bảo, chăm lo cho đứa cháu nhỏ. Tiếng mắng yêu thương của người bà vang lên trong tiếng gà ấy: "Tiếng gà trưa Có tiếng bà vẫn mắng - Gà đẻ mà mày nhìn Rồi sau này lang mặt! Cháu về lấy gương soi Lòng dại thơ lo lắng." Dân gian vẫn lưu truyền rằng gà đẻ mà nhìn thì sẽ bị "lang" mặt. Chính vì thế, người bà trong tác phẩm Tiếng gà trưa đã mắng yêu đứa cháu của mình khi nó vô tình nhìn thấy cảnh "gà đẻ". Điều đó đã cho thấy sự quan tâm, chăm sóc sát sao của người bà dành cho đứa cháu của mình. Bà ở bên cạnh cháu mọi lúc, lo lắng cho người cháu, dạy bảo cháu những điều hay. Không chỉ thế, ở bà, người ta còn thấy một sự tần tảo, chịu thương chịu khó vô cùng - một trong những phẩm chất đáng tự hào của người phụ nữ Việt. Gia cảnh nghèo khó, bà đã phải chắt chiu cho cháu từng chút một, dành cho cháu những điều tốt đẹp nhất. Những quả trứng gà mà con gà mái đẻ, bà cũng để dành, chắt chiu từng quả: "Tiếng gà trưa Tay bà khum soi trứng Dành từng quả chắt chiu Cho con gà mái ấp." Những quả trứng gà ấy là cả một tương lai với đàn gà nhỏ khác, tiếp nối để lo thêm cho đứa cháu nhỏ. Mỗi quả trứng là một chú gà, là một tương lai của cháu, vậy nên bà nâng niu, trân trọng vô cùng. Đàn gà là kế sinh nhai, là bộ quần áo mới của đứa cháu nhỏ khi tết đến xuân về, chính vì thế, bà luôn chăm lo, cẩn thận chăm sóc đàn gà: "Cứ hàng năm hàng năm Khi gió mùa đông tới Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới." Tất cả những điều bà làm, bà lo đều hướng về đứa cháu, chưa từng có phút giây nào bà nghĩ tới bản thân mình. Cả đời bà là sự tần tảo, hy sinh vì con vì cháu. Bà là hình ảnh của biết bao người bà khác ở đất nước Việt Nam ta, cả một đời ngậm đắng nuốt cay hy sinh cho con cái, cháu chắt. Tiếng gà trưa vang lên gợi lại cho người chiến sĩ - người cháu tất cả những gì đẹp nhất, êm đềm nhất của tuổi thơ. Hình ảnh người bà in đậm trong tâm trí người chiến sĩ bởi cả tuổi thơ anh đã đi qua cùng bà. Mỗi lúc bà nâng niu từng quả trứng là nâng niu từng ước mơ, khát vọng và hạnh phúc của anh. Cả cuộc đời bà đã dành cho anh hết thảnh những gì tốt đẹp nhất trong những năm tháng bình yên nhất của cuộc đời nơi làng quê nghèo. Cũng chính vì thế, tình cảm bà cháu của anh đã hòa chung với tình yêu đất nước, đó chính là lý do để anh lên đường chiến đấu vì Tổ quốc: "Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ" Tiếng gà nhảy ổ, tiếng bà chỉ dạy bảo ban, những quả trứng hồng của một tuổi thơ êm đềm tươi đẹp đã trở thành nguồn động lực to lớn để người chiến sĩ ra đi để chiến đấu. Với thể thơ 5 chữ tạo nên cách diễn đạt tình cảm tự nhiên. Hình ảnh thơ bình dị, gần gũi mà chân thực. Nghệ thuật điệp từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Xuân Quỳnh sử dụng đã tạo nên cho bài văn những kỉ niệm đẹp về tuổi thơ, tình cảm gia đình, tình bà cháu đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương, đất nước. Như vậy, cả hai bài thơ đã thể hiện tình cảm thắm thiết, tình bà cháu vô cùng thiêng liêng, cao cả. Hình ảnh người bà hiện lên trong kí ức của những người cháu, đó là người tần tảo sớm khuya, là người luôn lo lắng cho con cháu, là người với tình yêu thương cháu vô bờ bến. Tình cảm ấy đều bắt nguồn từ những sự vật bình thường, giản dị mà cũng rất đỗi quen thuộc trong đời sống, ấy là cái "bếp lửa" hay chỉ đơn thuần là một "tiếng gà" thân quen. Cũng từ tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình, tình yêu những sự vật giản dị đó mà các tác giả đã khẳng định tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng trong trái tim mỗi con người. Tác giả cũng đã gửi gắm những triết lí vô cùng sâu sắc: Những gì gắn bó thân thiết với tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình của cuộc đời. Và tình cảm thiêng liêng, biết ơn chân thành của người cháu đối với bà là một biểu hiện cụ thể của tình cảm gia đình, rộng ra đó là tình cảm với quê hương, với cội nguồn. Nhưng hai bài thơ này cũng có điểm khác biệt. Đó là "Bếp lửa" được Bằng Việt bộc lộ trực tiếp qua dòng cảm xúc, đó là nỗi lòng của người cháu xa quê. Còn trong "Tiếng gà trưa" có sự hóa thân kì diệu của nữ sĩ vào tâm hồn người lính trẻ để bộc lộ những suy ngẫm, tình cảm chân thành, đằm thắm, sâu sắc của người lính về tình bà cháu, tình yêu Tổ quốc thiêng liêng. Có thể nói, tuổi thơ đã chắp cánh cho mỗi con người lớn khôn, chính vì thế những kỉ niệm sâu sắc về hai người bà của hai tác giả vẫn luôn sống mãi trong trái tim của những đứa cháu thân thương. Dù cuộc đời có bao sóng gió thì bà cũng đã từng là người cùng cháu vượt qua những sóng gió ấy, giúp cho cháu trưởng thành, lớn khôn. Vì thế, bà luôn là người mà cháu tôn kính và thương nhớ. Tác giả: DNNY