- Xu
- 755,854,377
2274
8
Đồng chí
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
2-1948
Chính Hữu
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính Cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Bài thơ đã được nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc thành bài hát Tình đồng chí.
Nguồn:
1. Chính Hữu, Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972
2. Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, 2009
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu
Bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về tình người trong kháng chiến. Không miêu tả những trận chiến dữ dội hay những chiến công vang dội, bài thơ chọn góc nhìn bình dị và chân thật: tình cảm thiêng liêng giữa những người lính từ khắp phương trời quy tụ, trở thành anh em gắn bó bằng cả trái tim.
Ngay từ những câu thơ đầu, nhà thơ đã tạo ra một sự gần gũi thấm đượm nghĩa tình. Những người lính xuất thân từ những vùng quê nghèo, "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá", những con người tưởng như xa lạ, vốn không hẹn trước, vậy mà gặp nhau trong cuộc chiến và kết thành đồng chí. Tình đồng chí vì thế vừa giản dị vừa thiêng liêng, bởi nó được xây dựng từ sự đồng cảm sâu xa giữa những số phận giống nhau.
Sự gắn bó ấy trở nên bền chặt hơn qua những gian khổ của đời lính. Họ chung nhau cái rét, chung nhau manh chăn, cùng trải qua bệnh tật, thiếu thốn. Nhưng điều đặc biệt nhất là dù nghèo, dù khổ, họ vẫn nắm lấy nhau bằng nụ cười, bằng sự cảm thông và bằng tấm lòng chân thành. Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ không phải là những lời hứa lớn lao, mà là sự sẻ chia trong từng khoảnh khắc: thiếu áo chung nhau, lạnh rét chung nhau, đứng giữa trận mạc vẫn thấy ấm vì có nhau kề bên.
Hình ảnh "tay nắm lấy bàn tay" là điểm sáng của bài thơ. Đó là cái nắm tay vượt lên mọi thiếu thốn vật chất, là hơi ấm tinh thần giữa đêm lạnh, là lời khẳng định rằng họ sẽ không đơn độc, dù phía trước là hiểm nguy. Chính cái nắm tay ấy đã nâng đỡ cả một thế hệ chiến sĩ vượt qua bao nhiêu gian nan.
Và cuối cùng, bức tranh "đầu súng trăng treo" là hình ảnh đẹp nhất, giàu chất thơ nhất của cả bài. Nó kết hợp giữa hiện thực chiến tranh khắc nghiệt và vẻ đẹp thanh bình của thiên nhiên, tạo nên một biểu tượng bất tử cho người lính. Ánh trăng treo đầu súng không chỉ làm mềm đi khung cảnh chiến đấu căng thẳng mà còn thể hiện ý chí, niềm tin và sự lãng mạn của những người lính trẻ.
Đồng Chí vì thế không chỉ ca ngợi tình bạn chiến hào mà còn khắc sâu vẻ đẹp nhân văn của người lính cách mạng. Đó là tình cảm trong sáng, bền chặt, lớn lên từ sự cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng vượt qua nguy hiểm, và cùng hướng đến một lý tưởng chung. Bài thơ khiến người đọc cảm nhận rõ: giữa bom đạn, tình người vẫn nở hoa, và chính những điều giản dị ấy mới làm nên sức mạnh của một thời máu lửa.
Chỉnh sửa cuối:

