Đọc hiểu văn bản: Đứa con người vợ lẽ - Kim Lân - Tư nằm dán mình trên giường

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 27 Tháng mười hai 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    Đọc văn bản sau:


    Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn buồn chạy trong các ống xương. Anh xoay mình lại cho đỡ mỏi. Mắt se sẽ nhắm lại, và lắng nghe những cảm giác chạy trong người. Ruột anh xót như cào. Bụng hóp lại. Mặt phờ phạc. Anh thấy cáu kỉnh vẩn vơ, những muốn càu nhàu mấy tiếng. Tư đói quá, đói lả người đi. Đã hai hôm nay rồi, anh chưa có hột cơm nào vào trong bụng. [..]

    Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên, Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn – buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa. Vả lại dẫu rằng nghèo, nhưng mẹ anh rất khái, không muốn chịu tiếng nhờ ai. Bà đi khâu thuê vá mướn kiếm gạo về nuôi con. Nhiều khi không có việc làm, mẹ con đành chịu đói. Những hôm ấy, bà thường trốn tránh, bà rất sợ phải nhìn cảnh mẹ con đói khát. Muốn cho mẹ cất gánh nặng, đã nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, nhưng họ đều từ chối vì dạo này hàng ế. Họ hứa đến tháng tám này sẽ gọi anh làm. Bất đắc dĩ anh phải đóng vai ăn bám.

    Tư nghĩ liên miên: Anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống. Mắt nhắm lại, muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ dày. [..]

    Trên nhà, ông Cả vùng thức dậy. Ông vươn vai, bẻ khục, vặn mình kêu răng rắc. Ông vừa ngáp vừa gọi:

    - Tư ơi?

    - Dạ.

    - Thoáng cái là lỉnh. Thoáng cái là lỉnh thôi.

    Tư gượng gạo đứng lên, lệt xệt bước lên trên nhà. Ông Cả vứt một hào ra bàn, dịu giọng:

    - Đi mua một hào phở?

    - Vâng.

    - Đem bát mà đi.

    - Vâng.

    Tư thất thểu lê bước. Tay bưng có bát phở mà mỏi rã rời. Khói bốc lên nghi ngút. Anh thèm quá. Trông những bánh tráng trắng phau mềm dẻo, ẩn hiện trong nước dùng váng sao, những miếng thịt bò mỏng tang xếp gọn ghẽ, những hành, mùi, hồ tiêu rắc lên trên, thơm ngào ngạt phả mãi vào mũi anh. Con tỳ, con vị như thức dậy, bụng sôi sùng sục, vần lên chuyển xuống. Nước bọt cứ ứa mãi ra, anh ao ước được một bát.

    Tư đặt bát phở lên bàn cho anh, rồi lặng lẽ ra ngoài thềm. Ông Cả vừa ăn vừa cắm cáu gắt:

    - Gớm! Phở! Ăn rẳng như đấm vào họng!

    Tư se sẽ nuốt nước bọt. Thật là mỉa mai. Ăn xong, buông đũa buông bát, ông Cả vội vã cắp cặp ra đi. Ông còn cay mấy hội bạch cược hôm qua.

    Ông Cả đi rồi. Tư cũng chẳng buồn ra đóng cửa. Anh định đem bát ra chậu ngâm, nhưng lại thôi, là vì anh thấy còn đến lưng bát nước dùng ăn thừa. Lúc khác ai còn giữ lại làm gì? Nhưng lúc này.. Tư đưa bát phở lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh:

    - Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: Anh ở đây ăn cơm nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.

    Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh "bát phở" ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và thấy tiêng tiếc. Tư thấy mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống.

    Chiều tàn đã lâu. Cảnh vật thẫm lại. Gió khua lá lao xao. Những lùm cây đen thẫm lắc lư trên nền trời sẫm đục. Thân, một tay ôm gói bọc giấy báo, một tay đẩy mạnh cánh cửa. Một tiếng rít rền trong yên lặng. Anh xăm xăm bước, nhớn nhác nhìn vào mấy gian nhà tối om. Miệng lẩm bẩm:

    - Quái sao nhà cửa để tối thế này!

    Thân im bặt vì biết mình nhỡ lời. Anh thong thả bước lên nhà. Đặt gói lên bàn, Tư vẫn nằm rũ trên tràng kỷ không biết bạn đến. Thân lay bạn:

    - Tư! Tư!

    Tư thều thào:

    - Thân đấy à?

    - Ừ, Tư ngủ à?

    Giọng Tư nhỏ đầy mệt nhọc:

    - Không.. Thân vào tôi cũng biết, nhưng mệt.. quá..

    Thân ái ngại nhìn bạn trong bóng tối. Đoạn anh nói rất nhẹ nhàng:

    - Tôi đem cho Tư ít hạt mít đây. Tư ăn đi.

    Tư cảm động quá. Nước mắt chảy ròng ròng, anh nghẹn ngào:

    - Thân tốt với tôi quá.

    - Ồ! Anh.

    Đôi bạn ngồi âm thầm trong bóng tối. Tiếng Tư nhai hạt mít trong im lặng. Tư chợt nghĩ đến mẹ, anh ngóc đầu bảo bạn:

    - Thân cất đi cho tôi một nửa nhé.

    Anh định tâm để dành cho mẹ, Thân ôn tồn:

    - Ừ, còn nhiều anh ạ.

    Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ. Anh thở dài não ruột.

    - Gì thế anh?

    - Không.

    Hai người im lặng.

    (Đứa con người vợ lẽ, Kim Lân, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 475 - 479)​

    *Kim Lân: Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (sau thuộc phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 2007 tại Hà Nội. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941, tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảyTrung Bắc chủ nhật . Năm 1942, Kim Lân trình làng truyện Đứa con người vợ lẽ trên tuần báo Trung Bắc Chủ nhật và từ đó hàng loạt tác phẩm Đứa con người cô đầu, Người kép già, Nên vợ nên chồng, Con mã mái.. xuất hiện đều đặn trên báo Tiểu thuyết thứ BảyTrung Bắc Chủ nhật, tạo được sự chú ý của độc giả. Kim Lân là nhà văn tài hoa của làng quê. Ông viết không nhiều, nhưng những tác phẩm đều để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Văn nghiệp Kim Lân không thể tính đếm, đong đo bằng lượng, mà phải cảm nhận bằng chất, bằng tinh hoa văn hóa Kinh Bắc được chưng cất, chắt lọc nên những tác phẩm có giá trị bền bỉ, độc đáo, đặc sắc trên hai phương diện văn học và nghệ thuật. Kim Lân là người chỉn chu, ý tứ, tinh tế, trau chuốt kỹ lưỡng. Ông rất kỹ tính trong nghề văn, không cho phép sự cẩu thả với nghề. Một chữ viết ra ông đều trân trọng, nâng niu.

    [​IMG]

    Câu 1: Xác định đề tài của truyện ngắn "Đứa con người vợ lẽ".

    - Đề tài của truyện ngắn "Đứa con người vợ lẽ" là viết về thân phận tủi nhục, khó khăn của người vợ lẽ và người con riêng.

    Câu 2: Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, thầy Tư lấy mẹ Tư vì điều gì?

    - Trong truyện, thầy Tư lấy mẹ Tư vì để cáng đáng việc đồng mà mẹ Tư vốn là người nhà quê nên làm rất giỏi.

    Câu 3: Chi tiết "Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình" cho ta hiểu gì về nỗi lòng của nhân vật Tư?

    - Chi tiết "Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình" cho ta hiểu gì về nỗi lòng đau xót của một con người thừa. Tư là con của vợ lẽ, sinh ra muộn nhất và không có bất kỳ địa vị, vai trò gì trong gia đình và bị những người anh em cùng cha khác mẹ của mình xa lánh. Tư hiểu rõ điều đó, hiểu rõ thân phận của mình và mẹ.

    Câu 4: Nhận xét sự kết nối giữa lời người kể chuyện, lời nhân vật trong đoạn sau: "Tư đưa bát phở lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết"?

    Trong đoạn trích trên, lời giữa người kể chuyện và lời của nhân vật Tư đan xen với nhau, sự đan xen ấy của tác giả tạo nên sự sinh động hấp dẫn, thể hiện được suy nghĩ, tâm trạng của Tư khi đưa bát phở lên ngửi dù Tư không trực tiếp nói ra.

    Câu 5: "Đứa con người vợ lẽ" được kể theo ngôi thứ mấy? Việc sử dụng ngôi kể này của tác giả có tác dụng gì?

    - "Đứa con của người vợ lẽ" được kể theo ngôi thứ ba.

    - Việc sử dụng ngôi kể này có tác dụng:

    + Tạo nên sự khách quan, trung thực. Ngôi thứ ba cho phép người kể chuyện đứng ngoài tác phẩm, kể lại câu chuyện một cách khách quan, trung thực. Điều này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, chân thực về cuộc sống, con người. Trong đoạn trích, việc sử dụng ngôi thứ ba giúp nhà văn kể lại sự tủi nhục của thân phận con trai người vợ lẽ của Tư cùng với biết bao suy nghĩ bên trong con người anh mà không hề đơn điệu như ngôi thứ nhất.

    + Thể hiện được nhiều góc nhìn khác nhau. Ngôi thứ ba cho phép người kể chuyện kể lại câu chuyện từ nhiều góc nhìn khác nhau, bao gồm góc nhìn của nhân vật, góc nhìn của người kể chuyện, góc nhìn của người đọc. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về câu chuyện, về nhân vật, về cuộc sống.

    Câu 6: Ở phần cuối truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, Tư định tâm để dành hạt mít cho mẹ, sau đó Tư nghĩ đến điều gì?

    - Ở phần cuối truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, Tư định tâm để dành hạt mít cho mẹ, sau đó "Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ."

    Câu 7: Nhận xét ngắn gọn về đặc điểm nhân vật Tư trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ.


    - Đặc điểm nhân vật Tư trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ:

    + Số phận thua thiệt, bất hạnh: Con vợ ba, anh em họ mạc thờ ơ lạnh nhạt..

    + Cư xử đúng mực: Hiểu rõ phận ăn bám nên kính phục người anh cùng cha khác mẹ, lầm lũi thực hiện những điều anh ta sai bảo.

    + Thương mẹ: Muốn mẹ bớt gánh nặng, nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, để dành một nửa túi hạt mít cho mẹ.

    + Có lòng tự trọng: Đang trong cơn đói nhưng nghiến răng ném mạnh bát phở ra sân.

    Câu 8: Từ nhân vật Tư trong văn bản, anh/chị suy nghĩ gì về tác động của hoàn cảnh sống đối với con người?

    - Hoàn cảnh sống là môi trường, điều kiện sống của con người. Hoàn cảnh sống bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, như: Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường gia đình..

    - Hoàn cảnh sống có tác động rất lớn đến con người, cả về mặt tích cực và tiêu cực.

    - Hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến nhân cách của mỗi người. Hoàn cảnh sống tốt, những mối quan hệ, giao tiếp lành mạnh thì nhân cách sẽ được định hình theo một chiều hướng tích cực và ngược lại.

    - Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của hoàn cảnh sống đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân.

    Câu 9: Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật (xây dựng tình huống truyện, trần thuật, xây dựng nhân vật) của Kim Lân trong truyện ngắn "Đứa con người vợ lẽ".

    * Nêu các điểm nổi bật về nội dung, ý nghĩa tác phẩm

    - Tác phẩm cho thấy cuộc sống nghèo đói, bi đát của con người khi bị rơi vào cảnh là con thừa, con người vợ lẽ: Phải làm trâu làm ngựa cho nhà chồng và vợ cả, sau khi chồng và vợ cả mất, mẹ Tư và Tư rơi vào hoàn cảnh thất nghiệp, không có việc làm, bị con cái bà vợ cả ghẻ lạnh và Tư đi làm, hai hô trưa có hột cơm nào vào trong bụng.

    - Tác phẩm cũng đề cao phẩm chất của con người, dù trong hoàn cảnh nghèo đói vẫn có ý thức giữ gìn nhân cách: Dù bản thân có đói hoa mắt, đói lả thì Tư cũng nhất quyết không ăn bát phở, nước phở thừa của ông Cả, khi được Thân cho hạt mít, anh ăn một nửa và phần lại cho mẹ.

    - Tác phẩm phản ánh chân thực lề thói phong kiến, hủ tục đa thê trong xã hội cũ.

    * Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện

    - Tình huống truyện là sự kiện, là hoàn cảnh, tình thế đặc biệt của câu chuyện. Đó là tình huống chứa đựng những mâu thuẫn, những điều "bất thường" éo le, nghịch lý trong cuộc sống thường ngày của nhân vật.

    - Truyện đã xây dựng tình huống: Tư là con một người vợ lẽ, thất nghiệp phải ăn bám nhà anh trai cùng cha khác mẹ, sống lay lắt trong những ngày đói thê thảm và tự thương cho thân phận của mình.

    - Tình huống truyện góp phần thể hiện phẩm chất của nhân vật Tư: Cư xử đúng mực: Hiểu rõ phận ăn bám nên kính phục người anh cùng cha khác mẹ, lầm lũi thực hiện những điều anh ta sai bảo. Thương mẹ: Muốn mẹ bớt gánh nặng, nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, để dành một nửa túi hạt mít cho mẹ. Có lòng tự trọng: Đang trong cơn đói nhưng nghiến răng ném mạnh bát phở ra sân.

    - Tình huống truyện làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Phận vợ lẽ, con thêm trong xã hội cũ.

    * Phân tích nghệ thuật trần thuật

    - Truyện được kể ở ngôi thứ ba nhưng có sự chuyển đổi điểm nhìn linh hoạt: Từ điểm nhìn của người kể chuyện sang điểm nhìn nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong.

    + Diễn tả sự thay đổi tâm lý của nhân vật: Oán trách, nhẫn nhục chịu đựng, phản kháng, chán chường.

    + Giúp giọng văn trở nên linh hoạt, đa dạng: Giọng trần thuật khách quan, lạnh lùng, giọng phẫn uất, mỉa mai..

    - Tổ chức mạch truyện: Không theo trình tự thời gian.

    + Mở đầu tác phẩm Tư đang vật vã với cơn đói, mạch truyện hồi cố những chi tiết về quá khứ của nhân vật Tư.

    + Cảm xúc của Tư khi bị cái đói hành hạ, mùi thơm ngào ngạt của bát phở khiến Tư nhớ về Thân – người bạn chí thiết của anh.

    + Cách tổ chức mạch truyện theo tâm lí nhân vật giúp đi sâu khám phá, thể hiện đời sống nội tâm của nhân vật.

    * Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật

    Truyện xây dựng nhân vật chủ yếu từ việc khắc họa đời sống nội tâm nhân vật: Cái đói đã khiến Tư suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh cùng đường, phải đứng trước cám dỗ tầm thường nhưng Tư vẫn có ý thức giữ gìn nhân phẩm.

    * Đánh giá, mở rộng

    - Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn đầu tay tiêu biểu cho đặc điểm truyện ngắn của Kim Lân: Cách kể chuyện tự nhiên, sử dụng ngôn ngữ tinh tế để miêu tả trạng thái tâm lí nhân vật. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

    - Truyện mang dáng dấp từ cuộc đời thực của tác giả.

    - Kim Lân đã khai thác và phản ánh chân thực thân phận con thừa trong xã hội cũ. Kết thúc tác phẩm gợi nhiều trăn trở, day dứt cho người đọc.
     
    AdminLieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...