Đọc hiểu: Tờ Hoa - Nguyễn Tuân - Trắc nghiệm và tự luận

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Mẩu Tũn, 7 Tháng mười một 2023.

  1. Mẩu Tũn

    Bài viết:
    316

    Đọc hiểu trắc nghiệm và tự luận Tờ Hoa

    Đọc đoạn văn sau:


    Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.

    Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ lệnh hạ cánh xuống. Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ xông tới đốt. Rồi ong cũng lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to, vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó là một bài học về tính kiên nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến (bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa trong vùng. Và trong nửa lít mật ong đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.

    Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân, lắng ong mật mà thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo ngữ ồn ào. Bước phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng chẳng để lại gì. Từ ngày lịch sử tiến hóa loài người, chưa ai nói đến mật bướm.

    Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình (và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi sáng của của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.

    Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên cổ người "con hát" một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với máy bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thân thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên Tổ quốc ta bao la cát bãi.

    Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng của một đóa hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người. Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: Rễ trong kia chỉ liên lạc được với hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.

    (Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2), NXB Văn học, 1998, trang 5-7).

    Thực hiện các yêu cầu sau:

    Câu 1: Văn bản Tờ hoa thuộc thể loại gì?

    Câu 2: Văn bản tờ hoa sử dụng phương thức biểu đạt nào?

    Câu 3: Nêu cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Tờ hoa

    Câu 4: Nhan đề Tờ hoa gợi cho em những suy ngẫm gì?

    Câu 5: Bài học có ý nghĩa nhất với anh chị rút ra từ đoạn trích Tờ hoa?

    Đáp án tham khảo:

    Câu 1:

    - Thể loại: Tùy Bút

    Câu 2:

    - Phương thức biểu đạt

    Tự sự và nghị luận

    Câu 3:

    - Cảm hứng chủ đạo: Yêu thương, say mê trước vẻ đẹp đất nước, con người mới sau Cách mạng tháng Tám. Trân trọng quá trình lao động sáng tạo, hình thành vẻ đẹp trong tự nhiên và đời sống. Những yêu thương, say mê đó hóa thành tâm hồn với những dòng xúc cảm, rung động giàu liên tưởng.

    Câu 4:

    Ý nghĩa của nhan đề Tờ hoa:

    + Nghĩa tường minh: Nói về những trang văn có ý nghĩa, có giá trị đẹp, giống như hoa trong cuộc sống – vốn biểu tượng cho sự tinh túy của tự nhiên, đất trời.

    + Nghĩa biểu tượng: Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Tuân, gắn liền vẻ đẹp nghệ thuật với cuộc sống: Để viết được những trang văn đầy sắc hương, có ích cho đời "như hoa" thì người nghệ sĩ phải luôn lao tâm, khổ tứ, nhiều khi phải âm thầm, xót xa, khổ đau, phải được sống, được tận mắt chứng kiến cuộc đời rộng lớn cũng như có một gia tài văn hóa sâu rộng, phong phú.

    Câu 5:

    Bài học lý giải vẻ đẹp diệu kỳ của cuộc sống: Nhìn kết quả/vẻ đẹp cuộc sống, con người từ ngọn nguồn hình thành, quá trình tạo ra nó; khám phá vẻ đẹp ở chiều sâu văn hóa – lịch sử, gắn với giá trị truyền thống dân tộc..

    – Tác động của văn học tới cá nhân: HS tự liên hệ những thay đổi của bản thân sau khi hiểu những suy ngẫm, chiêm nghiệm của tác giả từ đời sống tự nhiên, con người.

    Xem tiếp bên dưới đọc hiểu trắc nghiệm tờ hoa..
     
  2. Đăng ký Binance
  3. Mẩu Tũn

    Bài viết:
    316
    Đọc hiểu trắc nghiệm Tờ Hoa

    Đọc đoạn trích sau:

    Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.

    Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ lệnh hạ cánh xuống. Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ xông tới đốt. Rồi ong cũng lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to, vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó là một bài học về tính kiên nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến (bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa trong vùng. Và trong nửa lít mật ong đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.

    Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân, lắng ong mật mà thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo ngữ ồn ào. Bước phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng chẳng để lại gì. Từ ngày lịch sử tiến hóa loài người, chưa ai nói đến mật bướm.

    Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình (và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi sáng của của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.

    Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên cổ người "con hát" một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với máy bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thân thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên Tổ quốc ta bao la cát bãi.

    Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng của một đóa hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người. Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: Rễ trong kia chỉ liên lạc được với hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.

    (Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2), NXB Văn học

    Trả lời các câu hỏi sau

    Câu 1: Yếu tố tự sự và vai trò của chúng trong văn bản Tờ hoa là:

    A. Cốt truyện, sự việc, nhân vật.

    B. Các sự việc mà tác giả đã trải qua.

    C. Câu chuyện/ các sự việc đời sống có liên quan đến mạch cảm xúc, liên tưởng vàsuy ngẫm của tác giả

    D. Câu chuyện/ các sự việc đời sống khơi gợi mạch cảm xúc, tình cảm của tác giả.

    Câu 2. Xác định thể loại của đoạn trích trên?

    A. Tiểu thuyết

    B. Kịch

    C. Tuỳ bút

    D. Truyện ngắn.

    Câu 3: Dòng nào nêu đúng nhất

    đặc điểm về lời văn, giọng điệu của đoạn trích?

    A. Lời văn, giọng điệu ngắn gọn, hàm súc.

    B. Lời văn, giọng điệu giàu tính hình tượng, đa nghĩa

    C. Lời văn, giọng điệu bình dị, nôm na như lời ăn tiếng nói của nhân dân

    D. Lời văn, giọng điệu uyển chuyển, linh hoạt, đầy sáng tạo, bất ngờ của nhân vật trữ tình.

    Câu 4. Theo tác giả, đời sống con ong để lại cho người đọc nó một bài học về điều gì?

    A. Bài học về sự chăm chỉ, cần cù.

    B. Bài học về kiên nhẫn, cần lao, tích lũy, chế tạo và sáng tạo.

    C. Bài học về sự kiên trì, sáng tạo.

    D. Bài học về sự nhẫn nại, quyết tâm.

    Câu 5. Dòng nào không nêu lên đặc điểm cái "Tôi" tác giả trong đoạn trích?

    A. Mong muốn, khao khát khám phá những vùng đất mới của Tổ quốc.

    B. Ý thức với nghề, mong muốn thức tỉnh tâm linh con người về cái Đẹp.

    C. Tự tin, tự hào với vẻ đẹp con người, dân tộc thời kì mới.

    D. Say mê, khao khát khám phá cái đẹp

    Câu 6. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: "Sự tích lũy ở mình cũng ngày ngày có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống."

    A. Con người cần phải làm nhiều công việc trong cuộc sống.

    B. Con người cần phải tiết kiệm trong cuộc sống.

    C. Con người cần phải chăm chỉ ngày ngày để cuộc sống của mình tốt đẹp hơn.

    D. Con người cần phải tích lũy những điều tốt đẹp từ những hành động nhỏ nhất rồi sẽ góp phần vào sự tốt đẹp cho toàn xã hội.

    Xem thêm: Đọc hiểu Phở- Nguyễn Tuân
     
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng năm 2024
Trả lời qua Facebook
Đang tải...