ARTHUR ASHE
“Từng bị đuổi khỏi sân quần vợt”
“Từng bị đuổi khỏi sân quần vợt”
Tuổi thơ:
Arthur Ashe sinh năm 1943, ở vùng phân biệt chủng tộc Richmond bang Virginia, nên không ai tin rằng có ngày cậu bé da đen Arthur sẽ trở thành vận động viên tầm cỡ thế giới.
Arthur "ốm tong teo như cây que" và cả ngày chỉ biết đọc sách, nghe nhạc với mẹ Mattie của mình.
Khi ông lên 4 tuổi, cả gia đình chuyển vào ở trong một căn nhà có 5 phòng, ngay giữa khu Brook Field, một khuôn viên rộng trải dài hơn 7 hecta chỉ dành cho người da đen sinh sống.
Sân quần vợt luôn là một thứ gì đó thu hút ông mãnh liệt, và dù vóc dáng nhỏ bé, ông vẫn học cách đánh bóng thật nhanh và thật mạnh.
Ông thừa hưởng niềm đam mê sách từ mẹ. Còn từ cha, người làm nhiều công việc một lúc để nuôi sống gia đình, ông học được tầm quan trọng của kỷ luật bản thân và tính cần cù chịu khó. Cha dạy ông "phải luôn cư xử như một quý ông" và "cách thi đấu quan trọng hơn kết quả thắng thua".
Lớn hơn một chút, ông mon men ra 16 sân quần vợt ở Byrd Park, một khu phức hợp thể thao chỉ dành cho dân da trắng. Ông được đứng xem nhưng không được phép chơi. Ông đứng lấp ló sau hàng rào cho đến khi có người phát hiện và đuổi ông về "khu riêng".
Đó là lúc ông nhận ra da đen nghĩa là: không được phép chơi trong khu của người da trắng, phải ngồi sau đuôi xe buýt dù vẫn còn ghế trống phía trước, phải sống trong "khu riêng" và phải đi học ở "trường khác".
Trong khi ở Brook Field, mọi thứ khác hẳn. Đó là lãnh địa của ông, và không bao lâu sau ông có dịp làm quen với Ronald Charity, một sinh viên dạy môn quần vợt tại Brook Field vào mỗi kỳ nghỉ hè. Charity là vận động viên quần vợt da đen giỏi nhất ở Richmond. Khi Arthur lên 7 tuổi, Charity đề nghị giúp ông luyện tập môn này một cách bài bản, và đó là bài học đầu tiên của Arthur.
Khi Arthur lên 10 tuổi, ông nhận được thêm nhiều sự trợ giúp khác. Charity nhờ Tiến sĩ Robert w. Johnson giúp Arthur, và sau 8 mùa hè liên tiếp, Arthur khăn gói đến trại hè đào tạo môn quần vợt của Tiến sĩ Johnson. Tại đây, ông không những được chỉ bảo, luyện tập mà còn được dạy về tầm quan trọng của thái độ thi đấu và phong thái điềm tĩnh trên sân banh. Ông được dạy rằng "không có gì biện minh cho thái độ thi đấu tồi tệ".
Khi cao hơn một chút, trình độ của ông cũng khá hơn nhiều. Giờ ông có thể chạy từ chỗ này sang chỗ kia trên sàn và vươn vợt ra xa để chặn những cú đánh mà đối thủ tưởng chừng đã nắm chắc phần thắng.
Năm 1955, ông đoạt chức vô địch giải đơn do Liên đoàn Quần vợt Mỹ tổ chức dành cho vận động viên dưới 12 tuổi, nhưng ông vẫn không được phép tham dự giải Richmond do Hiệp hội Middle Atlantic thuộc Hội Quần sân cỏ Hoa Kỳ tổ chức, vì ông là người da đen.
Quả là một đòn cay nghiệt! Nhưng dù bị cấm tham gia một số giải liên đoàn và địa phương chỉ vì màu da, ông vẫn không đánh mất tinh thần thi đấu. Trong những khắc nhục nhã ê chề, ông học được cách bước đi bằng lòng tự trọng thay vì đánh mất tất cả chỉ vì cả giận mất khôn.
Trưởng thành:
Sau khi tốt nghiệp cấp ba, Arthur được học bổng dành cho vận động viên quần vợt do Đại học California tại Los Angeles (UCLA) cấp, và ông là sinh viên da đen đầu tiên nhận được học bổng này. Tại UCLA, mỗi năm ông dành 250 giờ luyện tập, và chẳng bao lâu sau, tài năng trong môn quần vợt của ông được công nhận trên toàn nước Mỹ
Năm 1963, ông trở thành vận động viên nam người Mỹ gốc Phi đầu tiên chơi trên sân của giải Wimbledon và cũng là người Mỹ gốc Phi đầu tiên đứng trong hàng ngũ đội tuyển tham dự giải Davis Cup Mỹ.
Năm 1964, ông được trao giải Johnston, một trong những giải thưởng danh giá thường niên của bộ môn quần vợt, dành tặng các vận động viên Mỹ có đóng góp cho sự phát triển của môn thể thao này, đồng thời thể hiện tinh thần thể thao và để lại dấu ấn cá nhân.
Năm 1965, ông trở thành hạt giống số 3 của Mỹ và số 6 của thế giới trong làng quần vợt không chuyên.
Năm 1968, ông đoạt cả hai ngôi vị vô địch đơn nam toàn nước Mỹ và giải Mỹ mở rộng, vươn lên vị trí vận động viên quần vợt không chuyên số một của Mỹ.
Năm 1974, mọi người nghĩ ông dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động xã hội nên không còn tập trung thi đấu như xưa, vì ông không đoạt bất kỳ giải đơn nào kể từ năm 1970 khi ông giành vô địch giải úc mở rộng. Nhưng đến năm 1975, một lần nữa ông quay lại sân đấu, và đó là mùa giải lẫy lừng nhất cuộc đời ông - vô địch giải Wimbledon và trở thành cây vợt hạt giống số một thế giới.
Ông từ giã sự nghiệp thi đấu năm 1980 sau cuộc phẫu thuật tim, và được chọn làm đội trưởng đội tuyển thi đấu giải David Cup Mỹ vào năm 1981.
Tên ông được vinh danh trong danh sách những nhân vật xuất chúng của bộ môn quần vợt (Tennis Hall of Fame) vào năm 1985, và đến năm 1992, ông được trao danh hiệu "Tinh thần thể thao tiêu biểu của năm".
Trong năm 1991, ông thông báo cho công chúng biết mình mang căn bệnh AIDS, hậu quả của lần truyền máu khi phẫu thuật tim. Chính thông báo này của ông đã giúp nước Mỹ bắt đầu nhìn các bệnh nhân AIDS bằng đôi mắt cảm thương hơn và bớt sợ hãi hơn.
Ông còn được xem là ngọn cờ đầu mở ra con đường thi đấu cho các vận động viên nam quần vợt người Mỹ gốc Phi, cũng giống như Althea Gibson dẫn đầu phụ nữ Mỹ gốc Phi khoảng 10 năm về trước.
Thành quả ông gặt hái được trong làng quần vợt càng íáng chú ý hơn, bởi trước đó người ta quan niệm quần vợt là môn thể thao quý tộc dành cho đàn ông da trắnq giàu có chứ không phải dân da đen nghèo khổ.
Đối với Arthur, quần vợt không đơn giản đến cùng tiếng tăm và giải thưởng. Chỗ đứng trong giới vận động viên đẳng cấp quốc tế cho phép ông cất tiếng nói đấu tranh chống lại bất công, cả trong môn quần vợt lẫn trong đời sống xã hội nói chung, ông luôn tận dụng cơ hội đề cập đến những thay đổi nhân đạo mỗi khi có thể. Chính vì thế, di sản mà ông để lại hết sức độc đáo và quan trọng.
Ông được sinh ra trong bệnh viện của người da đen lớn lên trong cộng đồng người da đen, và đi học trường của học sinh da đen, thế nhưng ông lại thống trị và chiến thắng vẻ vang trong môn thể thao tưởng chừng chỉ dành riêng cho dân da trắng, bởi ông không để cho rào cản màu da bó buộc ước mơ của mình.
Arthur Ashe sinh năm 1943, ở vùng phân biệt chủng tộc Richmond bang Virginia, nên không ai tin rằng có ngày cậu bé da đen Arthur sẽ trở thành vận động viên tầm cỡ thế giới.
Arthur "ốm tong teo như cây que" và cả ngày chỉ biết đọc sách, nghe nhạc với mẹ Mattie của mình.
Khi ông lên 4 tuổi, cả gia đình chuyển vào ở trong một căn nhà có 5 phòng, ngay giữa khu Brook Field, một khuôn viên rộng trải dài hơn 7 hecta chỉ dành cho người da đen sinh sống.
Sân quần vợt luôn là một thứ gì đó thu hút ông mãnh liệt, và dù vóc dáng nhỏ bé, ông vẫn học cách đánh bóng thật nhanh và thật mạnh.
Ông thừa hưởng niềm đam mê sách từ mẹ. Còn từ cha, người làm nhiều công việc một lúc để nuôi sống gia đình, ông học được tầm quan trọng của kỷ luật bản thân và tính cần cù chịu khó. Cha dạy ông "phải luôn cư xử như một quý ông" và "cách thi đấu quan trọng hơn kết quả thắng thua".
Lớn hơn một chút, ông mon men ra 16 sân quần vợt ở Byrd Park, một khu phức hợp thể thao chỉ dành cho dân da trắng. Ông được đứng xem nhưng không được phép chơi. Ông đứng lấp ló sau hàng rào cho đến khi có người phát hiện và đuổi ông về "khu riêng".
Đó là lúc ông nhận ra da đen nghĩa là: không được phép chơi trong khu của người da trắng, phải ngồi sau đuôi xe buýt dù vẫn còn ghế trống phía trước, phải sống trong "khu riêng" và phải đi học ở "trường khác".
Trong khi ở Brook Field, mọi thứ khác hẳn. Đó là lãnh địa của ông, và không bao lâu sau ông có dịp làm quen với Ronald Charity, một sinh viên dạy môn quần vợt tại Brook Field vào mỗi kỳ nghỉ hè. Charity là vận động viên quần vợt da đen giỏi nhất ở Richmond. Khi Arthur lên 7 tuổi, Charity đề nghị giúp ông luyện tập môn này một cách bài bản, và đó là bài học đầu tiên của Arthur.
Khi Arthur lên 10 tuổi, ông nhận được thêm nhiều sự trợ giúp khác. Charity nhờ Tiến sĩ Robert w. Johnson giúp Arthur, và sau 8 mùa hè liên tiếp, Arthur khăn gói đến trại hè đào tạo môn quần vợt của Tiến sĩ Johnson. Tại đây, ông không những được chỉ bảo, luyện tập mà còn được dạy về tầm quan trọng của thái độ thi đấu và phong thái điềm tĩnh trên sân banh. Ông được dạy rằng "không có gì biện minh cho thái độ thi đấu tồi tệ".
Khi cao hơn một chút, trình độ của ông cũng khá hơn nhiều. Giờ ông có thể chạy từ chỗ này sang chỗ kia trên sàn và vươn vợt ra xa để chặn những cú đánh mà đối thủ tưởng chừng đã nắm chắc phần thắng.
Năm 1955, ông đoạt chức vô địch giải đơn do Liên đoàn Quần vợt Mỹ tổ chức dành cho vận động viên dưới 12 tuổi, nhưng ông vẫn không được phép tham dự giải Richmond do Hiệp hội Middle Atlantic thuộc Hội Quần sân cỏ Hoa Kỳ tổ chức, vì ông là người da đen.
Quả là một đòn cay nghiệt! Nhưng dù bị cấm tham gia một số giải liên đoàn và địa phương chỉ vì màu da, ông vẫn không đánh mất tinh thần thi đấu. Trong những khắc nhục nhã ê chề, ông học được cách bước đi bằng lòng tự trọng thay vì đánh mất tất cả chỉ vì cả giận mất khôn.
Trưởng thành:
Sau khi tốt nghiệp cấp ba, Arthur được học bổng dành cho vận động viên quần vợt do Đại học California tại Los Angeles (UCLA) cấp, và ông là sinh viên da đen đầu tiên nhận được học bổng này. Tại UCLA, mỗi năm ông dành 250 giờ luyện tập, và chẳng bao lâu sau, tài năng trong môn quần vợt của ông được công nhận trên toàn nước Mỹ
Năm 1963, ông trở thành vận động viên nam người Mỹ gốc Phi đầu tiên chơi trên sân của giải Wimbledon và cũng là người Mỹ gốc Phi đầu tiên đứng trong hàng ngũ đội tuyển tham dự giải Davis Cup Mỹ.
Năm 1964, ông được trao giải Johnston, một trong những giải thưởng danh giá thường niên của bộ môn quần vợt, dành tặng các vận động viên Mỹ có đóng góp cho sự phát triển của môn thể thao này, đồng thời thể hiện tinh thần thể thao và để lại dấu ấn cá nhân.
Năm 1965, ông trở thành hạt giống số 3 của Mỹ và số 6 của thế giới trong làng quần vợt không chuyên.
Năm 1968, ông đoạt cả hai ngôi vị vô địch đơn nam toàn nước Mỹ và giải Mỹ mở rộng, vươn lên vị trí vận động viên quần vợt không chuyên số một của Mỹ.
Năm 1974, mọi người nghĩ ông dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động xã hội nên không còn tập trung thi đấu như xưa, vì ông không đoạt bất kỳ giải đơn nào kể từ năm 1970 khi ông giành vô địch giải úc mở rộng. Nhưng đến năm 1975, một lần nữa ông quay lại sân đấu, và đó là mùa giải lẫy lừng nhất cuộc đời ông - vô địch giải Wimbledon và trở thành cây vợt hạt giống số một thế giới.
Ông từ giã sự nghiệp thi đấu năm 1980 sau cuộc phẫu thuật tim, và được chọn làm đội trưởng đội tuyển thi đấu giải David Cup Mỹ vào năm 1981.
Tên ông được vinh danh trong danh sách những nhân vật xuất chúng của bộ môn quần vợt (Tennis Hall of Fame) vào năm 1985, và đến năm 1992, ông được trao danh hiệu "Tinh thần thể thao tiêu biểu của năm".
Trong năm 1991, ông thông báo cho công chúng biết mình mang căn bệnh AIDS, hậu quả của lần truyền máu khi phẫu thuật tim. Chính thông báo này của ông đã giúp nước Mỹ bắt đầu nhìn các bệnh nhân AIDS bằng đôi mắt cảm thương hơn và bớt sợ hãi hơn.
Ông còn được xem là ngọn cờ đầu mở ra con đường thi đấu cho các vận động viên nam quần vợt người Mỹ gốc Phi, cũng giống như Althea Gibson dẫn đầu phụ nữ Mỹ gốc Phi khoảng 10 năm về trước.
Thành quả ông gặt hái được trong làng quần vợt càng íáng chú ý hơn, bởi trước đó người ta quan niệm quần vợt là môn thể thao quý tộc dành cho đàn ông da trắnq giàu có chứ không phải dân da đen nghèo khổ.
Đối với Arthur, quần vợt không đơn giản đến cùng tiếng tăm và giải thưởng. Chỗ đứng trong giới vận động viên đẳng cấp quốc tế cho phép ông cất tiếng nói đấu tranh chống lại bất công, cả trong môn quần vợt lẫn trong đời sống xã hội nói chung, ông luôn tận dụng cơ hội đề cập đến những thay đổi nhân đạo mỗi khi có thể. Chính vì thế, di sản mà ông để lại hết sức độc đáo và quan trọng.
Ông được sinh ra trong bệnh viện của người da đen lớn lên trong cộng đồng người da đen, và đi học trường của học sinh da đen, thế nhưng ông lại thống trị và chiến thắng vẻ vang trong môn thể thao tưởng chừng chỉ dành riêng cho dân da trắng, bởi ông không để cho rào cản màu da bó buộc ước mơ của mình.
"Tôi không chấp nhận bất kỳ khiếm khuyết nào trong tính cách cá nhân, và không để thanh danh của mình bị nhơ nhuốc."
Arthur Ashe (1943-1993)
Arthur Ashe (1943-1993)