NORMAN VINCENT PEALE
“Kẻ mang mặc cảm tự ti nặng nề nhất bang Ohio”
“Kẻ mang mặc cảm tự ti nặng nề nhất bang Ohio”
Tuổi thơ:
Norman Vincent Peale sinh ra ở một vùng nông thôn thuộc bang Ohio năm 1898, là con của một mục sư đồng thời là nhà vật lý học.
Từ khi còn là một cậu bé, Norman đã rụt rè một cách kỳ lạ. Hễ thấy khách đến chơi nhà, ông ngay lập tức trốn lên căn gác xép để không phải đứng trước mặt khách đọc thơ cho họ nghe.
So với những đứa trẻ cùng tuổi, trông ông khá là ốm yếu, trái ngược hẳn với thân hình cường tráng, vạm vỡ của em trai ông. Điều này khiến ông phần nào nhận thức được về vẻ bề ngoài của mình.
Ông rất ngưỡng mộ bố, nhưng làm con của một mục sư không hề dễ dàng chút nào. Thỉnh thoảng ông bị bạn bè chọc ghẹo vì có bố là mục sư đi thuyết giảng, và cũng vì lý do đó, mà thầy cô giáo luôn kỳ vọng ông là một học sinh gương mẫu.
Đến tuổi dậy thì, ông bắt đầu bị nỗi mặc cảm nặng nề xâm lấn. Ông tự nhủ mình sẽ chẳng làm nên trò trống gì.
Khi ông nhận ra mọi người có vẻ đồng tình với cách tự đánh giá này của ông, ông càng cảm thấy tồi tệ. Ông phát chán việc lúc nào cũng rụt rè e ngại, nghi ngờ bản thân và nhát như thỏ đế, nhưng ông không biết phải làm sao để giải thoát mình khỏi mặc cảm tự ti đang khiến cuộc đời ông khổ sở đến thế.
Suốt những năm phổ thông trung học, vì muốn kiếm thêm tiền trang trải cuộc sống, ông lái xe đến một khu vực khác của thị trấn, nơi người ta không biết ông là ai, để bán nồi niêu xoong chảo. Nhưng chỉ sau lần chào bán đầu tiên, ông bối rối đến mức chui luôn vào xe hơi và lái về nhà.
Cha mẹ ông đều là những người mạnh mẽ và hướng ngoại; họ quyết định thay cho ông nhiều đến mức ông khó mà đưa ra những quyết định, dù nhỏ, cho bản thân mình.
Học kỳ đầu tiên tại trường đại học, ông không có nổi một con điểm A hay B. Đến học kỳ thứ hai, môn tiếng Hy Lạp của ông điểm thấp lè tè, và ông ăn một con F trong môn Thể dục. Điểm A duy nhất ông kiếm được là nhờ môn Hùng biện.
Ông tự ý bỏ học khi còn là sinh viên năm nhất, quay về nhà để nhập ngũ, nhưng cha mẹ ông không đồng ý, bắt ông trở lại trường học ngay lập tức.
Hết năm nhất, mẹ ông bảo ông phải cải thiện điểm số nếu mai này muốn trở thành người có ích cho xã hội.
Ông tiếp tục bị sự e dè ngượng ngập làm cho khổ sở mỗi lần đứng trả bài trước lớp, và thường trở nên lúng túng như gà mắc tóc, líu lưỡi và đỏ mặt tía tai.
Ông tự miêu tả mình là "kẻ mang mặc cảm tự ti nặng nề nhất bang Ohio". Đến một ngày nọ, một sự việc xảy ra đã thay đổi cuộc đời ông mãi mãi.
Sau giờ học, giảng viên môn Kinh tế gọi ông lại để nói chuyện nghiêm túc rằng cảm giác e dè của ông chủ yếu bắt nguồn từ việc ông tự xem mình là trung tâm vũ trụ và đã đến lúc ông phải khắc phục bệnh tự ti ấy để trưởng thành.
Giảng viên đó còn bảo ông rằng, là con của một mục sư, ông nên biết tìm sự giúp đỡ ở đâu.
Trưởng thành:
Norman quyết định nghe theo lời khuyên của thầy và cầu xin Chúa trời giúp đỡ mình. Dù tính nhút nhát bẽn lẽn đó của ông không bao giờ biến mất hoàn toàn, nhưng ông đã tiến bộ hơn rất nhiều.
Ông không biết chắc mình có muốn trở thành mục sư như cha hay không, thế nên sau khi tốt nghiệp đại học, ông quyết định xin vào làm cho một tờ báo.
Ông làm cho tòa soạn này được tầm một năm thì quay lại trường học. Dù hoàn toàn không có ý trở thành mục sư, ông vẫn thấy mình quan tâm đến môn thần học. Đến năm 1924, ông lấy bằng cử nhân Thần học của Đại học Boston.
Ông bắt đầu trở nên nổi tiếng không chỉ với vai trò một nhà hùng biện tài ba mà còn là một mục sư có thể đơn giản hóa những gì về Chúa để tất cả mọi người cùng nắm bắt.
Ông quyết định thử viết sách nhưng sớm nản chí và cuối cùng vứt hết bản thảo của mình vào sọt rác. Tuy nhiên, vợ ông lại lén nhặt bản thảo đó ra và gửi đến một nhà xuất bản. Tác phẩm về sau được mang tên A Guide to Confident Living (Cẩm Nang sống) và trở thành đầu sách bán chạy nhất. Nó được tái bản đến 25 lần chỉ trong vòng 4 năm.
Thời điểm đó, ông trở thành một diễn giả được săn lùng và giành được nhiều bằng cấp danh giá của các trường đại học, cao đẳng.
Năm 1952, tác phẩm The Power of Positive (Sức Mạnh Tư Duy Tích Cực) của ông được xuất bản. Từ đó đến nay, số lượng ấn phẩm phát hành của quyển sách này chỉ xếp sau Kinh Thánh. Nó giữ ngôi vị sách bán chạy nhất thế giới trong nhiều năm liền và được dịch sang 23 thứ tiếng.
Vào những năm 1960, bộ phim One Man Way dựa trên tiểu sử cuộc đời ông được trình chiếu trên hàng loạt các kênh truyền hình khắp nước Mỹ.
Ông là mục sư tại Nhà thờ Marble Collegiate, thành phố New York. Vào mỗi sáng Chủ nhật, buổi trò chuyện của ông thu hút 3.000 người tham dự. ông còn là đồng chủ bút tờ nguyệt san Guideposts với vợ mình, tạp chí truyền cảm hứng được hàng triệu người đón nhận.
Ông là chủ tịch và cũng là người đồng sáng lập Tổ chức Tôn giáo và Tâm thần học Hoa Kỳ, nơi áp dụng những phương pháp kết hợp giữa tôn giáo với tâm thần học để giúp mọi người giải quyết vấn đề. Ông thành lập Trường Tin lành dành cho các mục sư nhằm mang đến cho họ cơ hội học hỏi và củng cố niềm tin vào tôn giáo.
Ngày 26 tháng 3 năm 1984, ông được Chính phủ Hoa Kỳ trao tặng Huân chương Tự do tại Nhà Trắng với lời khen ngợi "không có mấy công dân Mỹ đóng góp nhiều đến vậy Cho hạnh phúc của cộng đồng như ông".
Năm 1984, ông an tâm nghỉ hưu sau một chặng đường dài: từ một cậu bé mang mặc cảm tự ti nặng nề trở thành một trong những nhà thuyết giáo có ảnh hưởng sâu rộng, được yêu quý và nổi tiếng nhất trên đất Mỹ.
Norman Vincent Peale sinh ra ở một vùng nông thôn thuộc bang Ohio năm 1898, là con của một mục sư đồng thời là nhà vật lý học.
Từ khi còn là một cậu bé, Norman đã rụt rè một cách kỳ lạ. Hễ thấy khách đến chơi nhà, ông ngay lập tức trốn lên căn gác xép để không phải đứng trước mặt khách đọc thơ cho họ nghe.
So với những đứa trẻ cùng tuổi, trông ông khá là ốm yếu, trái ngược hẳn với thân hình cường tráng, vạm vỡ của em trai ông. Điều này khiến ông phần nào nhận thức được về vẻ bề ngoài của mình.
Ông rất ngưỡng mộ bố, nhưng làm con của một mục sư không hề dễ dàng chút nào. Thỉnh thoảng ông bị bạn bè chọc ghẹo vì có bố là mục sư đi thuyết giảng, và cũng vì lý do đó, mà thầy cô giáo luôn kỳ vọng ông là một học sinh gương mẫu.
Đến tuổi dậy thì, ông bắt đầu bị nỗi mặc cảm nặng nề xâm lấn. Ông tự nhủ mình sẽ chẳng làm nên trò trống gì.
Khi ông nhận ra mọi người có vẻ đồng tình với cách tự đánh giá này của ông, ông càng cảm thấy tồi tệ. Ông phát chán việc lúc nào cũng rụt rè e ngại, nghi ngờ bản thân và nhát như thỏ đế, nhưng ông không biết phải làm sao để giải thoát mình khỏi mặc cảm tự ti đang khiến cuộc đời ông khổ sở đến thế.
Suốt những năm phổ thông trung học, vì muốn kiếm thêm tiền trang trải cuộc sống, ông lái xe đến một khu vực khác của thị trấn, nơi người ta không biết ông là ai, để bán nồi niêu xoong chảo. Nhưng chỉ sau lần chào bán đầu tiên, ông bối rối đến mức chui luôn vào xe hơi và lái về nhà.
Cha mẹ ông đều là những người mạnh mẽ và hướng ngoại; họ quyết định thay cho ông nhiều đến mức ông khó mà đưa ra những quyết định, dù nhỏ, cho bản thân mình.
Học kỳ đầu tiên tại trường đại học, ông không có nổi một con điểm A hay B. Đến học kỳ thứ hai, môn tiếng Hy Lạp của ông điểm thấp lè tè, và ông ăn một con F trong môn Thể dục. Điểm A duy nhất ông kiếm được là nhờ môn Hùng biện.
Ông tự ý bỏ học khi còn là sinh viên năm nhất, quay về nhà để nhập ngũ, nhưng cha mẹ ông không đồng ý, bắt ông trở lại trường học ngay lập tức.
Hết năm nhất, mẹ ông bảo ông phải cải thiện điểm số nếu mai này muốn trở thành người có ích cho xã hội.
Ông tiếp tục bị sự e dè ngượng ngập làm cho khổ sở mỗi lần đứng trả bài trước lớp, và thường trở nên lúng túng như gà mắc tóc, líu lưỡi và đỏ mặt tía tai.
Ông tự miêu tả mình là "kẻ mang mặc cảm tự ti nặng nề nhất bang Ohio". Đến một ngày nọ, một sự việc xảy ra đã thay đổi cuộc đời ông mãi mãi.
Sau giờ học, giảng viên môn Kinh tế gọi ông lại để nói chuyện nghiêm túc rằng cảm giác e dè của ông chủ yếu bắt nguồn từ việc ông tự xem mình là trung tâm vũ trụ và đã đến lúc ông phải khắc phục bệnh tự ti ấy để trưởng thành.
Giảng viên đó còn bảo ông rằng, là con của một mục sư, ông nên biết tìm sự giúp đỡ ở đâu.
Trưởng thành:
Norman quyết định nghe theo lời khuyên của thầy và cầu xin Chúa trời giúp đỡ mình. Dù tính nhút nhát bẽn lẽn đó của ông không bao giờ biến mất hoàn toàn, nhưng ông đã tiến bộ hơn rất nhiều.
Ông không biết chắc mình có muốn trở thành mục sư như cha hay không, thế nên sau khi tốt nghiệp đại học, ông quyết định xin vào làm cho một tờ báo.
Ông làm cho tòa soạn này được tầm một năm thì quay lại trường học. Dù hoàn toàn không có ý trở thành mục sư, ông vẫn thấy mình quan tâm đến môn thần học. Đến năm 1924, ông lấy bằng cử nhân Thần học của Đại học Boston.
Ông bắt đầu trở nên nổi tiếng không chỉ với vai trò một nhà hùng biện tài ba mà còn là một mục sư có thể đơn giản hóa những gì về Chúa để tất cả mọi người cùng nắm bắt.
Ông quyết định thử viết sách nhưng sớm nản chí và cuối cùng vứt hết bản thảo của mình vào sọt rác. Tuy nhiên, vợ ông lại lén nhặt bản thảo đó ra và gửi đến một nhà xuất bản. Tác phẩm về sau được mang tên A Guide to Confident Living (Cẩm Nang sống) và trở thành đầu sách bán chạy nhất. Nó được tái bản đến 25 lần chỉ trong vòng 4 năm.
Thời điểm đó, ông trở thành một diễn giả được săn lùng và giành được nhiều bằng cấp danh giá của các trường đại học, cao đẳng.
Năm 1952, tác phẩm The Power of Positive (Sức Mạnh Tư Duy Tích Cực) của ông được xuất bản. Từ đó đến nay, số lượng ấn phẩm phát hành của quyển sách này chỉ xếp sau Kinh Thánh. Nó giữ ngôi vị sách bán chạy nhất thế giới trong nhiều năm liền và được dịch sang 23 thứ tiếng.
Vào những năm 1960, bộ phim One Man Way dựa trên tiểu sử cuộc đời ông được trình chiếu trên hàng loạt các kênh truyền hình khắp nước Mỹ.
Ông là mục sư tại Nhà thờ Marble Collegiate, thành phố New York. Vào mỗi sáng Chủ nhật, buổi trò chuyện của ông thu hút 3.000 người tham dự. ông còn là đồng chủ bút tờ nguyệt san Guideposts với vợ mình, tạp chí truyền cảm hứng được hàng triệu người đón nhận.
Ông là chủ tịch và cũng là người đồng sáng lập Tổ chức Tôn giáo và Tâm thần học Hoa Kỳ, nơi áp dụng những phương pháp kết hợp giữa tôn giáo với tâm thần học để giúp mọi người giải quyết vấn đề. Ông thành lập Trường Tin lành dành cho các mục sư nhằm mang đến cho họ cơ hội học hỏi và củng cố niềm tin vào tôn giáo.
Ngày 26 tháng 3 năm 1984, ông được Chính phủ Hoa Kỳ trao tặng Huân chương Tự do tại Nhà Trắng với lời khen ngợi "không có mấy công dân Mỹ đóng góp nhiều đến vậy Cho hạnh phúc của cộng đồng như ông".
Năm 1984, ông an tâm nghỉ hưu sau một chặng đường dài: từ một cậu bé mang mặc cảm tự ti nặng nề trở thành một trong những nhà thuyết giáo có ảnh hưởng sâu rộng, được yêu quý và nổi tiếng nhất trên đất Mỹ.
"Hãy tin vào Thượng đế và vui sống mỗi ngày."
Norman Vincent Peale (1898-1993)
Norman Vincent Peale (1898-1993)