Bài viết: 33 

Trong nụ cười lặng lẽ
Nguyễn Quang Hưng cho đến giờ vẫn trịnh trọng gọi tôi là "cô" xưng "em", chỉ là vì tôi có dạy một khóa học tiếng Anh giao tiếp cho lớp nghệ sĩ được tổ chức bên khoa Lý luận-Sáng tác-Phê bình, trường ĐH Văn hóa Hà Nội, mà nhà thơ Nguyễn Quang Hưng là.. lớp trưởng. Lớp học này do một lần nhà văn Lê Anh Hoài than phiền rằng tiếng Anh kém quá, rất bất tiện trong giao tiếp, cản trở cơ hội và sự nghiệp, mới nhanh chóng hô hào được các anh chị em nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình, nhạc sĩ, họa sĩ, nhiếp ảnh gia.. tham dự, cũng tới vài chục người. Lê Anh Hoài chủ trì, đưa ý tưởng, đi học được buổi rưỡi. Sau 9 tháng, lớp rơi rụng dần, cuối cùng còn lại mỗi ba người, trong đó có nhà phê bình Văn Giá, trưởng khoa, chịu trách nhiệm cơ sở vật chất hậu cần và lớp trưởng Nguyễn Quang Hưng.
Lớp toàn văn nghệ sĩ nên các học viên lắm tài, hàng tuần kết thúc buổi học lại tổ chức đàn ca sáo nhị. Các học viên đều già bằng cô giáo, nhưng đàn hát pha trò nhốn nháo vẫn rất học trò. Những lúc ấy, Nguyễn Quang Hưng ngồi lặng lẽ, chỉ tham gia màn văn nghệ bằng chất giọng ấm áp. Nhìn khuôn mặt già dặn, phong cách điềm đạm, nói năng chừng mực, tôi áng chừng Hưng hơn tôi dăm bảy tuổi. Sau biết nhà thơ lớp trưởng sinh năm 1980, tôi cũng tá hỏa. Tôi bình luận câu ấy với nhà văn Cấn Vân Khánh, cô bảo "Trông Hưng trẻ không ấy mà!". Bảo biết bao nhiêu tuổi mà trẻ. Khánh kêu "Sinh năm 75 chứ mấy!". Thuật lại chuyện vô duyên ấy với Nguyễn Quang Hưng, Hưng cũng chỉ cười mủm mỉm, nụ cười mủm mỉm tưởng đâu chừng không ngoại cảnh gì tác động nổi mà tôi đồ rằng nếu có ngày nhận được giải Nobel thì Hưng cũng chỉ mủm mỉm như thế.
Sự già dặn, trầm tĩnh và sâu sắc so với tuổi của Nguyễn Quang Hưng không phải chỉ áng qua nét mặt, hành vi, mà "ngấm" cả vào sở thích. Thời nay không còn mấy người trẻ thích quan họ và để ý những nét văn hóa hoài cổ, ấy thế mà nhà thơ Nguyễn Quang Hưng mê những giai điệu miền Kinh Bắc như phải bùa, mà lại mê từ thuở đôi mươi. Hưng hát hay, hát cả nhạc Trịnh, cả tiền chiến và quan họ. Công chúng ai yêu cầu thể loại gì sẽ hát nấy. Có bận giao lưu với sinh viên tại trường đại học, khán giả yêu cầu Nguyễn Quang Hưng hát. Chẳng cần nhạc phách phụ họa, Hưng hát bài "Lúng liếng", quan họ Bắc Ninh. Hát mộc, loa kém, míc rè, ấy mà cả sân trường cùng lúng liếng với chất giọng rền và nẩy của nhà thơ. Sinh ra ở Hà Đông, nơi một bước ra phố, nửa bước vào làng, chứ đâu phải lớn lên cùng bãi lúa nương dâu đôi bờ sông Đuống của thi nhân Hoàng Cầm mà không gian Kinh Bắc tưởng tượng vẫn lung linh qua những "tóc mưa mây khói mái làng". "Lúng liếng tháng Giêng, Mười Ba hóa khói/Ngõ làng quay quắt mưa rơi" để rồi day dứt "Quan họ ơi mưa sa lưng đồi..". Không gian miền quê Bắc Bộ với mái đình, ngõ nhỏ đâu đâu cũng thấy. Hưng nói rằng quê ngoại anh – làng Tả Thanh Oai ở Thanh Trì – Hà Nội, nơi anh hay về và những làng quê Kinh Bắc anh đã đến cũng không khác nhau nhiều ở sự lưu giữ bền lâu những trầm tích văn hóa. Mà có lẽ chăng câu dân ca quan họ ngấm vào nhà thơ trẻ tự lẽ nào để hồn thơ bay đi "rải cát Tiên Dung đôi bờ Thương Đuống" để mãi "mơ đêm mua chợ vải làng Nành".
"Mùa Vu lan" là tập thơ mới nhất của Nguyễn Quang Hưng, vẩn vơ, đắm say, ngơ ngẩn, da diết cùng lễ hội, chợ phiên, quán nước, môi trầu; mơ hồ cõi dương gian quyện hòa kinh kệ. Vậy mà ở đâu cũng thấy chữ tình. "Tình" lãng đãng sương khói trong chốn mê, "Tình" mỏi mòn "treo câu mạn thuyền", "Tình" hiu hắt "nửa giường, nửa chăn, nửa chiếu", và cả "Tình" nghẹn qua vị khế chua của những người chị. Trước khi ra mắt "Mùa Vu lan", Hưng "dọa" sắp phát hành một tập thơ toàn.. chị. Tưởng đùa thế, mà "Mùa Vu lan" có hẳn một phần mở đầu mang tên: Chị tưởng tượng, là những bài thơ tình dành cho "Chị". Người làm thơ biết có tưởng tượng hay không mà da diết thế, từ lúc "Chị lớn.. Tóc xanh đẫm nắng/ Phố chợ bặt vắng/ Nhìn đâu cũng đỏ Giao thừa", cho đến lúc "Chị đi.. thì thụt đường mưa/ Đuôi mắt nghiêng mùa núi đổ/ Lá xoáy thủng trời", để cuối cùng "Chị về.. Đường xưa lạ quen/ Bập bõm lối đầy tiếng trẻ". Chị về mà đâu đã thấy vui. Lối đầy tiếng trẻ mà nghe sao buồn lặng..
Tôi vừa tuyển chọn một tập 99 bài thơ tình theo đơn đặt hàng, thấy khó khăn quá khi tìm những bài tình của người viết trẻ. Giờ người ta viết tình ít đi rồi, phần nhiều chỉ để ý đến cách tân và thi pháp. Tình gì thì tình vẫn cứ phải cách tân và hậu hiện đại. Thơ Nguyễn Quang Hưng cứ giản dị như thế, thể như nghĩ gì nói nấy, đau đáu, da diết và rưng rưng, tự bản thân xúc cảm đã là thi pháp. So với tập đầu tay "Vườn ánh sáng" in năm 2008, "Mùa Vu lan" giản dị hơn, có lẽ bởi tuyển tập in sau nhưng lại bao gồm những bài thơ viết trước "Vườn ánh sáng" dăm bảy năm. Tôi vẫn cứ cho rằng, khi mới viết, người ta hay làm dáng, hay phô diễn kỹ thuật, hay cố tình triết lý, hay gồng mình lên để dàn xếp cảm xúc. Rồi đến một chừng mực nào đó, người viết sẽ tự khắc đi vào quỹ đạo của sự chân thực và giản dị, bởi suy cho cùng, đỉnh cao nghệ thuật cũng chính là sự chân thành của cảm xúc và sự giản dị của bút pháp, sự giản dị chắt lọc từ những tinh túy nhất của trải nghiệm sống và viết. Nhưng có lẽ đối với "Mùa Vu lan", quan điểm của tôi đã bị lật ngược. Những bài thơ viết từ rất sớm trong "Mùa Vu lan" giản dị và quyến rũ như một làn điệu dân ca xứ Bắc, càng nghe nhiều mới thấy thấm, thấy óng ả. Hình tượng "chị" xuất hiện khá nhiều trong thơ Nguyễn Quang Hưng, và mặc dù tác giả phủ nhận rằng chẳng có "tình chị" thật nào ở đây cả, chỉ là tưởng tượng để lấy cớ làm thơ mà thôi, cái cớ từ cảm xúc hư ảo dành cho những người bạn nữ lớn tuổi hơn. Nhưng tôi đồ rằng, nếu không già dặn trong tư duy, những "hư ảo" đó không thể sâu sắc đến thế. Hưng cũng công nhận rằng từ lúc mới độ đôi mươi, bạn bè của anh phần nhiều là những ông chú, ông bác gấp đôi, ba lần tuổi. Tư duy "vượt cấp" khiến ngay từ khi rất trẻ, người ta cũng có thể đối thoại được với những người có quỹ thời gian trải nghiệm gấp đôi mình.
Nguyễn Quang Hưng chỉ làm những điều mình thích, có lẽ đó là nguyên tắc tối thượng, chứ không gắn nó với danh và lợi. Yêu những điều hoài cổ, đam mê những giá trị di sản văn hóa phi vật thể, Nguyễn Quang Hưng ôm luôn cả lĩnh vực sân khấu. Kịch bản cho vở chèo đầu tay "Giấc mộng vàng" đã lên sóng VTV1 năm 2007. Tiếp đó, kịch bản sân khấu hóa "Hơi thở của nước" do anh là đồng tác giả đã được trình diễn và truyền hình trực tiếp trong Festival Huế 2010. Tiếp xúc với Nguyễn Quang Hưng, quan sát sự đằm tính của anh, cứ ngỡ rằng không biết điều gì có thể khiến con người này nổi giận. Rồi tôi cũng định viết chân dung Nguyễn Quang Hưng như thế, một người chỉ mủm mỉm, tốt bụng, chừng mực đến khó tin mà theo lời nhận xét hài hước của một nhà thơ nữ đồng nghiệp, thậm chí nếu giờ có một cô gái xinh đẹp nào đó đến tận nơi ngỏ lời thì "Sau một vài giây xốn xang, choáng váng lúc ban đầu, Nguyễn Quang Hưng sẽ kịp định thần lại, tay vuốt mái tóc húi cua, lùi lại mà bảo – Thôi em ạ, rồi chúng ta cũng chẳng đi đến đâu!". Nhưng sự quan sát của tôi cũng đôi khi nhầm lẫn. Những tưởng con người của thi ca trầm lắng, quen chịu đựng, người từ bé xa lạ với trò chơi đánh trận giả bạo lực của tụi trai nít hàng xóm mà chỉ thích chơi nhà cửa, búp bê, sẽ mặc cho sự đời biến chuyển thế nào cũng đành. Song Nguyễn Quang Hưng là người quyết liệt, đứng trước sự khó chịu và xúc phạm, thay vì phản ứng ầm ĩ, anh chỉ im lặng quay mặt đi, và mối quan hệ đã cắt đứt thì rất khó lòng quay lại. Chứng kiến sự này, tôi hơi lạ. Có những gã ngang tàng ngay từ vẻ bề ngoài, hành tung bất cần thế nào cũng không đáng kinh ngạc, nhưng thi nhân dịu dàng, da diết là thế. Viết nhiều thơ tình, nhưng ngay cả đối với chữ tình, cách ứng xử của một gã trai mê điệu dân ca cũng khác. Thời đại học, có đận Nguyễn Quang Hưng viết vài chục bài thơ tình chỉ để tặng cho một bóng hồng, rồi hàng chục vần thơ tặng cho hàng chục bóng hồng khác, có nhiều bài viết tặng mà lại.. không gửi. Hỏi sao lại thế. Hưng bảo chẳng biết lúc ấy làm sao mà cứ mang tâm trạng kiêu hãnh, bất cần của một gã trai mới lớn khi mà "Chỉ có ta gặm nhấm nỗi đau khổ này một mình mà không cần em phải biết".
"Mùa Vu lan" ra mắt vào thời điểm không phải Vu lan, cũng chẳng bài nào trong tập mang tên "Mùa Vu lan". Nhưng có lẽ cái không gian ma mị, mơ hồ sương khói, ngập tràn day dứt, da diết, rưng rưng và tiếc nuối của một mùa Vu lan cách trở đã bao trùm cả tập thơ ngay cả ở những bài miêu tả lễ hội. Hồi tháng 9 năm 2011, tôi và Nguyễn Quang Hưng đều có mặt tại Hội nghị Những người viết văn trẻ tôt chức ở Tuyên Quang. Ngày cuối cùng, chúng tôi cùng 20 đại biểu khác lên một chiếc thuyền du ngoạn trên hồ Núi Cốc. Thật không may mắn, mới ra giữa hồ được mươi phút, đất trời bỗng nổi gió mịt mùng, mặt hồ dậy sóng, nước mưa xối xả tạt rát da thịt những hành khách đang lênh đênh trên con thuyền gỗ chòng chành, chao đảo. Người cuống quýt mặc áo phao, người liên tưởng đến những vụ lật thuyền lịch sử từng diễn ra trong lòng hồ sâu hút, người tranh thủ chụp nốt những tấm ảnh để lưu lại khoảnh khắc hiếm có, người pha trò cố át đi sự bực mình trong một chuyến đi lẽ ra đã rất vui vẻ. Cả thuyền nhộn nhịp, nhốn nháo, ồn ào, náo loạn. Nguyễn Quang Hưng vẫn ngồi yên vị chỗ cũ, lặng lẽ, không nhớ rõ có cười mủm mỉm hay không, cứ như thể chuyện trước mắt đang chỉ là một lễ hội mơ hồ trong giấc mộng. Sau khi thuyền dạt vào mé một hòn đảo nhỏ lúp xúp những bụi cây dại để tránh gió chờ trời êm bể lặng cập bến an toàn thì Nguyễn Quang Hưng mới nói hài hước "Tưởng phải được dạt vào một hòn đảo hoang nào đó chứ". Nhưng ngay sau chiều hôm đó, khi về đến nhà, anh đã viết ngay bài "Một tiếng gọi", vẫn với âm hưởng ma mị, lãng đãng khói sương, day dứt, da diết, rưng rưng và tiếc nuối trên từng giai điệu thơ của một người thi sĩ luôn ám ảnh bởi những nỗi niềm hoài niệm.
Và ngủ lại dưới nước
Mặt hồ khép như chưa từng
10 năm người người trên bờ đi mải miết
Ngồi trên lá gió gió chờ đợi 20 năm không thấy mình lên Chợt thấy quá lâu rồi!
..
Hoa cúc vẫn thay dưới rèm
Nước như mắt con lớn lên trong suốt Mùa mùa cha theo mưa quanh nhà Gọi tên con rả rích
Đứng trên vòm cây nhìn con khóc
Có lần tôi bày tỏ cái sự lo lắng trước nỗi biết đâu sẽ có ngày chẳng còn ai đọc thơ, làm thơ nữa, rồi thi ca sẽ dần dần biến mất. Giờ ngay cả ở những xứ sở của Byron, của Goethe, của Pushkin, công chúng cũng đâu còn muốn mua thơ nữa. Đáp lại nỗi "lo xa" này, tôi nhận được sự lạc quan tràn đầy của chàng thi sĩ, khi anh khẳng định rằng thơ ca có vị trí riêng của nó và sẽ trường tồn. Ngày thơ Việt Nam lần thứ 9 tại Văn Miếu, tập thơ "Vườn ánh sáng" được trưng bày tại quầy thơ. Thấy kể lại có người muốn mua sách mà tác giả lại chạy đuổi theo để.. trả lại tiền. Nguyễn Quang Hưng giải thích rằng "Lần vừa rồi tôi lại không muốn bán nữa mà muốn tặng cho những ai thích. Một số cô chú cầm xem, trò chuyện mấy câu và ngỏ ý muốn mua, có người tôi hỏi sao muốn mua thì họ bảo họ thích. Nhưng tôi đều tặng. Khi đang chuẩn bị ghi tặng anh Nguyễn Xuân Diện thì" phát hiện "nhà thơ Vân Long xem một cuốn rồi chắc không nhìn thấy ai đứng đó bán, ông cầm cuốn ấy, đặt tiền xuống và đi. Tôi phải chạy theo gửi lại ông bằng được. Tôi nghĩ bán hay tặng đều giản dị thôi, năm nay có thể bán, năm sau tặng rồi năm sau nữa lại bán cũng là điều bình thường." Chuyện hi hữu này chỉ bắt gặp ở người yêu những điều muôn năm cũ.
Nguồn: Văn nghệ (2012)
Lớp toàn văn nghệ sĩ nên các học viên lắm tài, hàng tuần kết thúc buổi học lại tổ chức đàn ca sáo nhị. Các học viên đều già bằng cô giáo, nhưng đàn hát pha trò nhốn nháo vẫn rất học trò. Những lúc ấy, Nguyễn Quang Hưng ngồi lặng lẽ, chỉ tham gia màn văn nghệ bằng chất giọng ấm áp. Nhìn khuôn mặt già dặn, phong cách điềm đạm, nói năng chừng mực, tôi áng chừng Hưng hơn tôi dăm bảy tuổi. Sau biết nhà thơ lớp trưởng sinh năm 1980, tôi cũng tá hỏa. Tôi bình luận câu ấy với nhà văn Cấn Vân Khánh, cô bảo "Trông Hưng trẻ không ấy mà!". Bảo biết bao nhiêu tuổi mà trẻ. Khánh kêu "Sinh năm 75 chứ mấy!". Thuật lại chuyện vô duyên ấy với Nguyễn Quang Hưng, Hưng cũng chỉ cười mủm mỉm, nụ cười mủm mỉm tưởng đâu chừng không ngoại cảnh gì tác động nổi mà tôi đồ rằng nếu có ngày nhận được giải Nobel thì Hưng cũng chỉ mủm mỉm như thế.
Sự già dặn, trầm tĩnh và sâu sắc so với tuổi của Nguyễn Quang Hưng không phải chỉ áng qua nét mặt, hành vi, mà "ngấm" cả vào sở thích. Thời nay không còn mấy người trẻ thích quan họ và để ý những nét văn hóa hoài cổ, ấy thế mà nhà thơ Nguyễn Quang Hưng mê những giai điệu miền Kinh Bắc như phải bùa, mà lại mê từ thuở đôi mươi. Hưng hát hay, hát cả nhạc Trịnh, cả tiền chiến và quan họ. Công chúng ai yêu cầu thể loại gì sẽ hát nấy. Có bận giao lưu với sinh viên tại trường đại học, khán giả yêu cầu Nguyễn Quang Hưng hát. Chẳng cần nhạc phách phụ họa, Hưng hát bài "Lúng liếng", quan họ Bắc Ninh. Hát mộc, loa kém, míc rè, ấy mà cả sân trường cùng lúng liếng với chất giọng rền và nẩy của nhà thơ. Sinh ra ở Hà Đông, nơi một bước ra phố, nửa bước vào làng, chứ đâu phải lớn lên cùng bãi lúa nương dâu đôi bờ sông Đuống của thi nhân Hoàng Cầm mà không gian Kinh Bắc tưởng tượng vẫn lung linh qua những "tóc mưa mây khói mái làng". "Lúng liếng tháng Giêng, Mười Ba hóa khói/Ngõ làng quay quắt mưa rơi" để rồi day dứt "Quan họ ơi mưa sa lưng đồi..". Không gian miền quê Bắc Bộ với mái đình, ngõ nhỏ đâu đâu cũng thấy. Hưng nói rằng quê ngoại anh – làng Tả Thanh Oai ở Thanh Trì – Hà Nội, nơi anh hay về và những làng quê Kinh Bắc anh đã đến cũng không khác nhau nhiều ở sự lưu giữ bền lâu những trầm tích văn hóa. Mà có lẽ chăng câu dân ca quan họ ngấm vào nhà thơ trẻ tự lẽ nào để hồn thơ bay đi "rải cát Tiên Dung đôi bờ Thương Đuống" để mãi "mơ đêm mua chợ vải làng Nành".
"Mùa Vu lan" là tập thơ mới nhất của Nguyễn Quang Hưng, vẩn vơ, đắm say, ngơ ngẩn, da diết cùng lễ hội, chợ phiên, quán nước, môi trầu; mơ hồ cõi dương gian quyện hòa kinh kệ. Vậy mà ở đâu cũng thấy chữ tình. "Tình" lãng đãng sương khói trong chốn mê, "Tình" mỏi mòn "treo câu mạn thuyền", "Tình" hiu hắt "nửa giường, nửa chăn, nửa chiếu", và cả "Tình" nghẹn qua vị khế chua của những người chị. Trước khi ra mắt "Mùa Vu lan", Hưng "dọa" sắp phát hành một tập thơ toàn.. chị. Tưởng đùa thế, mà "Mùa Vu lan" có hẳn một phần mở đầu mang tên: Chị tưởng tượng, là những bài thơ tình dành cho "Chị". Người làm thơ biết có tưởng tượng hay không mà da diết thế, từ lúc "Chị lớn.. Tóc xanh đẫm nắng/ Phố chợ bặt vắng/ Nhìn đâu cũng đỏ Giao thừa", cho đến lúc "Chị đi.. thì thụt đường mưa/ Đuôi mắt nghiêng mùa núi đổ/ Lá xoáy thủng trời", để cuối cùng "Chị về.. Đường xưa lạ quen/ Bập bõm lối đầy tiếng trẻ". Chị về mà đâu đã thấy vui. Lối đầy tiếng trẻ mà nghe sao buồn lặng..
Tôi vừa tuyển chọn một tập 99 bài thơ tình theo đơn đặt hàng, thấy khó khăn quá khi tìm những bài tình của người viết trẻ. Giờ người ta viết tình ít đi rồi, phần nhiều chỉ để ý đến cách tân và thi pháp. Tình gì thì tình vẫn cứ phải cách tân và hậu hiện đại. Thơ Nguyễn Quang Hưng cứ giản dị như thế, thể như nghĩ gì nói nấy, đau đáu, da diết và rưng rưng, tự bản thân xúc cảm đã là thi pháp. So với tập đầu tay "Vườn ánh sáng" in năm 2008, "Mùa Vu lan" giản dị hơn, có lẽ bởi tuyển tập in sau nhưng lại bao gồm những bài thơ viết trước "Vườn ánh sáng" dăm bảy năm. Tôi vẫn cứ cho rằng, khi mới viết, người ta hay làm dáng, hay phô diễn kỹ thuật, hay cố tình triết lý, hay gồng mình lên để dàn xếp cảm xúc. Rồi đến một chừng mực nào đó, người viết sẽ tự khắc đi vào quỹ đạo của sự chân thực và giản dị, bởi suy cho cùng, đỉnh cao nghệ thuật cũng chính là sự chân thành của cảm xúc và sự giản dị của bút pháp, sự giản dị chắt lọc từ những tinh túy nhất của trải nghiệm sống và viết. Nhưng có lẽ đối với "Mùa Vu lan", quan điểm của tôi đã bị lật ngược. Những bài thơ viết từ rất sớm trong "Mùa Vu lan" giản dị và quyến rũ như một làn điệu dân ca xứ Bắc, càng nghe nhiều mới thấy thấm, thấy óng ả. Hình tượng "chị" xuất hiện khá nhiều trong thơ Nguyễn Quang Hưng, và mặc dù tác giả phủ nhận rằng chẳng có "tình chị" thật nào ở đây cả, chỉ là tưởng tượng để lấy cớ làm thơ mà thôi, cái cớ từ cảm xúc hư ảo dành cho những người bạn nữ lớn tuổi hơn. Nhưng tôi đồ rằng, nếu không già dặn trong tư duy, những "hư ảo" đó không thể sâu sắc đến thế. Hưng cũng công nhận rằng từ lúc mới độ đôi mươi, bạn bè của anh phần nhiều là những ông chú, ông bác gấp đôi, ba lần tuổi. Tư duy "vượt cấp" khiến ngay từ khi rất trẻ, người ta cũng có thể đối thoại được với những người có quỹ thời gian trải nghiệm gấp đôi mình.
Nguyễn Quang Hưng chỉ làm những điều mình thích, có lẽ đó là nguyên tắc tối thượng, chứ không gắn nó với danh và lợi. Yêu những điều hoài cổ, đam mê những giá trị di sản văn hóa phi vật thể, Nguyễn Quang Hưng ôm luôn cả lĩnh vực sân khấu. Kịch bản cho vở chèo đầu tay "Giấc mộng vàng" đã lên sóng VTV1 năm 2007. Tiếp đó, kịch bản sân khấu hóa "Hơi thở của nước" do anh là đồng tác giả đã được trình diễn và truyền hình trực tiếp trong Festival Huế 2010. Tiếp xúc với Nguyễn Quang Hưng, quan sát sự đằm tính của anh, cứ ngỡ rằng không biết điều gì có thể khiến con người này nổi giận. Rồi tôi cũng định viết chân dung Nguyễn Quang Hưng như thế, một người chỉ mủm mỉm, tốt bụng, chừng mực đến khó tin mà theo lời nhận xét hài hước của một nhà thơ nữ đồng nghiệp, thậm chí nếu giờ có một cô gái xinh đẹp nào đó đến tận nơi ngỏ lời thì "Sau một vài giây xốn xang, choáng váng lúc ban đầu, Nguyễn Quang Hưng sẽ kịp định thần lại, tay vuốt mái tóc húi cua, lùi lại mà bảo – Thôi em ạ, rồi chúng ta cũng chẳng đi đến đâu!". Nhưng sự quan sát của tôi cũng đôi khi nhầm lẫn. Những tưởng con người của thi ca trầm lắng, quen chịu đựng, người từ bé xa lạ với trò chơi đánh trận giả bạo lực của tụi trai nít hàng xóm mà chỉ thích chơi nhà cửa, búp bê, sẽ mặc cho sự đời biến chuyển thế nào cũng đành. Song Nguyễn Quang Hưng là người quyết liệt, đứng trước sự khó chịu và xúc phạm, thay vì phản ứng ầm ĩ, anh chỉ im lặng quay mặt đi, và mối quan hệ đã cắt đứt thì rất khó lòng quay lại. Chứng kiến sự này, tôi hơi lạ. Có những gã ngang tàng ngay từ vẻ bề ngoài, hành tung bất cần thế nào cũng không đáng kinh ngạc, nhưng thi nhân dịu dàng, da diết là thế. Viết nhiều thơ tình, nhưng ngay cả đối với chữ tình, cách ứng xử của một gã trai mê điệu dân ca cũng khác. Thời đại học, có đận Nguyễn Quang Hưng viết vài chục bài thơ tình chỉ để tặng cho một bóng hồng, rồi hàng chục vần thơ tặng cho hàng chục bóng hồng khác, có nhiều bài viết tặng mà lại.. không gửi. Hỏi sao lại thế. Hưng bảo chẳng biết lúc ấy làm sao mà cứ mang tâm trạng kiêu hãnh, bất cần của một gã trai mới lớn khi mà "Chỉ có ta gặm nhấm nỗi đau khổ này một mình mà không cần em phải biết".
"Mùa Vu lan" ra mắt vào thời điểm không phải Vu lan, cũng chẳng bài nào trong tập mang tên "Mùa Vu lan". Nhưng có lẽ cái không gian ma mị, mơ hồ sương khói, ngập tràn day dứt, da diết, rưng rưng và tiếc nuối của một mùa Vu lan cách trở đã bao trùm cả tập thơ ngay cả ở những bài miêu tả lễ hội. Hồi tháng 9 năm 2011, tôi và Nguyễn Quang Hưng đều có mặt tại Hội nghị Những người viết văn trẻ tôt chức ở Tuyên Quang. Ngày cuối cùng, chúng tôi cùng 20 đại biểu khác lên một chiếc thuyền du ngoạn trên hồ Núi Cốc. Thật không may mắn, mới ra giữa hồ được mươi phút, đất trời bỗng nổi gió mịt mùng, mặt hồ dậy sóng, nước mưa xối xả tạt rát da thịt những hành khách đang lênh đênh trên con thuyền gỗ chòng chành, chao đảo. Người cuống quýt mặc áo phao, người liên tưởng đến những vụ lật thuyền lịch sử từng diễn ra trong lòng hồ sâu hút, người tranh thủ chụp nốt những tấm ảnh để lưu lại khoảnh khắc hiếm có, người pha trò cố át đi sự bực mình trong một chuyến đi lẽ ra đã rất vui vẻ. Cả thuyền nhộn nhịp, nhốn nháo, ồn ào, náo loạn. Nguyễn Quang Hưng vẫn ngồi yên vị chỗ cũ, lặng lẽ, không nhớ rõ có cười mủm mỉm hay không, cứ như thể chuyện trước mắt đang chỉ là một lễ hội mơ hồ trong giấc mộng. Sau khi thuyền dạt vào mé một hòn đảo nhỏ lúp xúp những bụi cây dại để tránh gió chờ trời êm bể lặng cập bến an toàn thì Nguyễn Quang Hưng mới nói hài hước "Tưởng phải được dạt vào một hòn đảo hoang nào đó chứ". Nhưng ngay sau chiều hôm đó, khi về đến nhà, anh đã viết ngay bài "Một tiếng gọi", vẫn với âm hưởng ma mị, lãng đãng khói sương, day dứt, da diết, rưng rưng và tiếc nuối trên từng giai điệu thơ của một người thi sĩ luôn ám ảnh bởi những nỗi niềm hoài niệm.
Và ngủ lại dưới nước
Mặt hồ khép như chưa từng
10 năm người người trên bờ đi mải miết
Ngồi trên lá gió gió chờ đợi 20 năm không thấy mình lên Chợt thấy quá lâu rồi!
..
Hoa cúc vẫn thay dưới rèm
Nước như mắt con lớn lên trong suốt Mùa mùa cha theo mưa quanh nhà Gọi tên con rả rích
Đứng trên vòm cây nhìn con khóc
Có lần tôi bày tỏ cái sự lo lắng trước nỗi biết đâu sẽ có ngày chẳng còn ai đọc thơ, làm thơ nữa, rồi thi ca sẽ dần dần biến mất. Giờ ngay cả ở những xứ sở của Byron, của Goethe, của Pushkin, công chúng cũng đâu còn muốn mua thơ nữa. Đáp lại nỗi "lo xa" này, tôi nhận được sự lạc quan tràn đầy của chàng thi sĩ, khi anh khẳng định rằng thơ ca có vị trí riêng của nó và sẽ trường tồn. Ngày thơ Việt Nam lần thứ 9 tại Văn Miếu, tập thơ "Vườn ánh sáng" được trưng bày tại quầy thơ. Thấy kể lại có người muốn mua sách mà tác giả lại chạy đuổi theo để.. trả lại tiền. Nguyễn Quang Hưng giải thích rằng "Lần vừa rồi tôi lại không muốn bán nữa mà muốn tặng cho những ai thích. Một số cô chú cầm xem, trò chuyện mấy câu và ngỏ ý muốn mua, có người tôi hỏi sao muốn mua thì họ bảo họ thích. Nhưng tôi đều tặng. Khi đang chuẩn bị ghi tặng anh Nguyễn Xuân Diện thì" phát hiện "nhà thơ Vân Long xem một cuốn rồi chắc không nhìn thấy ai đứng đó bán, ông cầm cuốn ấy, đặt tiền xuống và đi. Tôi phải chạy theo gửi lại ông bằng được. Tôi nghĩ bán hay tặng đều giản dị thôi, năm nay có thể bán, năm sau tặng rồi năm sau nữa lại bán cũng là điều bình thường." Chuyện hi hữu này chỉ bắt gặp ở người yêu những điều muôn năm cũ.
Nguồn: Văn nghệ (2012)
Chỉnh sửa cuối: