CHUYỆN LÀNG VĂN Tác giả: Di Li NXB: Văn học Mục lục Bấm để xem 1. Người đặt bút danh cho tôi 2. Nhà văn Kim Lân - Văn thế nào người thế ấy 3. Hỏi chuyện "ông dế mèn" 4. Nhà thơ Trần Hòa Bình - Người đi hết một chặng đường 5. Tình yêu trong ngôi nhà của búp bê 6. Nỗi buồn thơ kiêu hãnh 7. Lang bạt xứ người 8. Ngôi nhà mới của nhà văn Phạm Ngọc Tiến 9. Con nợ của nhân gian 10 Nhà thơ Trần Đăng Khoa làm bố như thế nào 11 Dị hương - Hoạt - Phiêu - Thõa 12. Nhà văn đại gia 13. Lê Anh Hoài kẻ ham chơi có lý trí 14. Phim truyền hình - Trăm người trăm ý 15. Dịch giả Nguyễn Lệ Chi - Đa tài, đa nghệ 16. Người kể những câu chuyện trong bóng đêm 17. Người Giáp Dần lên tiếng 18. Nhà văn Phong Điệp: Tôi chọn kiểu số đông thứ nhất 19. Nhà văn Xuân Thủy với "Sát thủ Online" 20. Phiên bản = Bạo lực + S. E. X? 21. Trong nụ cười lặng lẽ Còn nữa.. Người đã đặt bút danh cho tôi Cuối năm 2001, lần đầu tiên tôi đến báo Người Hà Nội . Người đã mời tôi đến bảo "Vào đây, để anh giới thiệu em với tổng biên tập". Tôi lẽo đẽo theo sau, vào căn phòng quây vách nhôm phía cuối ngôi nhà lớn. Có khá đông người trong đó, có lẽ vì người ta đang làm báo Tết nên khung cảnh rất nhộn nhịp. Tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi nhỏ bé đang ngồi sau chiếc bàn lớn, khói thuốc mù mịt bao quanh khuôn mặt không cười nhưng tươi tắn. - Đây là anh Bế Kiến Quốc, tổng biên tập. Tôi dõng dạc đầy kính nể: - Cháu chào chú. Người kia nhăn mặt quay sang tôi nói nhỏ: - Em gọi anh ấy bằng anh thôi. Người kia giới thiệu tên và nghề nghiệp của tôi, rồi nói rằng tôi rất muốn cộng tác với báo Người Hà Nội . Tổng biên tập không bình luận gì, chỉ đưa cho tôi chiếc các-vi-dít, mà giờ tôi vẫn còn giữ lại. Sau đó hỏi rằng tôi có thể viết được thể loại gì, và có sẵn sàng viết ngay cho báo Tết được không. Tôi sốt sắng nhận lời, việc của tôi hôm nay đến đây cũng chỉ có như vậy. Ông bảo rằng đang cần hai bài, một bài phỏng vấn người tuổi Ngọ cho số báo Tết Nhâm Ngọ, và một bài viết về nhà văn Kim Lân. Lúc này ông mới cười, nụ cười phấn khích như vừa chợt nghĩ ra một ý tưởng thú vị. - Hay là em phỏng vấn nhà thơ Hữu Thỉnh nhé. Ông Hữu Thỉnh tuổi Ngọ đấy. Tôi hỏi hạn nộp bài và nói rằng trong ngần ấy thời gian, tôi chỉ có thể làm được một bài. Cuối cùng, cả hai thỏa thuận rằng tôi sẽ viết bài chân dung nhà văn Kim Lân cho số Tết. Hạn nộp là năm ngày sau. Ông cung cấp cho tôi số điện thoại của nhà văn Kim Lân rồi tiếp tục công việc bận rộn của mình với các cộng tác viên khác đang vào ra tấp nập. Tôi chỉ gặp nhà thơ Bế Kiến Quốc chừng đâu bốn, năm lần. Cũng không thể nói chính xác là bốn hay năm lần, nhưng lần nào cũng thấy ông với một điếu thuốc. Bế Kiến Quốc hút thuốc liên tục trong giờ làm việc, tôi không thể không nhận ra ngay điều ấy. Đúng năm ngày sau, tôi trịnh trọng mang bài lên nộp cho tổng biên tập. Lúc ấy, tôi nhìn thấy sự gì đó hơi chững lại. Bế Kiến Quốc ngập ngừng thông báo rằng cũng đã có một phóng viên của báo đi viết bài này. Tôi ngơ ngác. - Nhưng mà hôm đó anh đặt em viết bài này kia mà. - Thì.. tôi cứ tưởng là em không viết nữa. Rồi ông bảo cứ để bài đấy xem sao. Tôi ra về, trong lòng đầy buồn bực. Sao lại thế được? Đây rõ ràng là một bài báo đã được đặt hàng, và tôi đã mất nhiều công sức để viết nó. Tôi nhận ra rằng tổng biên tập đã không tin tưởng tôi, một cộng tác viên mới toe. Lúc ấy ông đang trong tâm trạng vui vẻ nên đặt bài, sau nghĩ lại, không chắc tôi có nộp đúng hẹn không, không chắc tôi có viết ra nổi chân dung một con người mà dường như báo chí đã khai thác hết mọi khía cạnh đề tài, mới cử thêm người khác đi viết cho chắc chắn. Báo thường thì không sao, đây lại là báo Tết, mọi nguồn bài vở cần hết sức chuẩn xác và chất lượng. Mà đấy lại là một bài quan trọng, không nhà báo chuyên nghiệp thì cũng phải cộng tác viên "cây đa cây đề" đảm nhận. Nhưng hai ngày sau, ông gọi điện thông báo bài viết của tôi đã được sử dụng, nhân tiện ông cũng đã kiếm được một tấm ảnh minh họa rất độc đáo của nhà văn Kim Lân. Tôi cười qua điện thoại. Đó là cảm giác sung sướng khi lần đầu tiên có một bài được in trên báo Tết. Ông cũng nói thêm rằng bài của tôi rất tốt, rằng "Chính tôi chơi thân với ông Kim Lân như thế mà cũng có nhiều chi tiết trong bài tôi chưa được biết". Chẳng hiểu ông khen thật hay nói để động viên nhưng tôi thực sự hạnh phúc. Mãi sau này, tôi cũng vẫn luôn vô cùng cẩn trọng trong lời nhận xét đối với những người trẻ tuổi hơn mới bước vào nghề. Tôi hiểu được cảm giác thiếu tự tin và hồi hộp, lo lắng của những người bắt đầu cầm bút viết. Tôi đã luôn thiếu tự tin như thế, trong suốt một thời gian dài, và cho đến giờ phút này, tôi luôn biết ơn những người đã thắp lên ngọn lửa đam mê sáng tác trong lòng tôi ngay từ những buổi ban đầu, thay vì phũ phàng dập tắt nó vì một vài sự vô tình. Mặc dù chỉ tiếp xúc với nhà thơ có vài lần, trong một thời gian rất ngắn, nhưng tôi cảm nhận được thái độ nghiêm túc, tâm huyết và tận tụy của ông trong công việc cũng như sự chân thành, giản dị trong đối nhân xử thế. Tại thời điểm đó, báo Người Hà Nội đang là một ấn phẩm văn nghệ sang trọng và đáng mơ ước của nhiều cộng tác viên. Báo Tết ra, bài viết của tôi chiếm trang rưỡi. Trước ấy, khi tôi gửi truyện ngắn "Chiếc vòng bạc" cho ông, nhà thơ có nói ý rằng tôi nên tìm lấy một bút danh, sẽ tốt hơn cái tên thật mà tôi đang dùng. Tôi bảo cũng đã nhiều người nhận xét thế nhưng tôi chưa tìm ra một cái tên nào khả dĩ và hỏi liệu ông có thể nghĩ giúp tôi một bút danh được không. Bế Kiến Quốc hẹn sẽ suy nghĩ và trả lời sau. Lần gặp sau đó, ông bảo: - Tôi đã nghĩ cho em một cái tên rồi đấy.. Di Li có được không? Tôi giãy nảy. Tên gì mà kỳ quái chết. Đọc lên nghe chẳng giống ai. Nhưng cũng chỉ dám nói rằng tôi không thích cái tên Li. Bế Kiến Quốc chưng hửng, không nói gì thêm. Tôi ái ngại. Lúc ấy tôi có một suy nghĩ rất trẻ con, ấy là mình đã làm cho tổng biên tập không vui. Nếu ông không vui, nhỡ đâu lại đâm ghét, chẳng in truyện "Chiếc vòng bạc" cho tôi nữa. Cuối cùng tôi đành bảo: - Thôi em dùng tên ấy cũng được, đọc đi đọc lại nghe cũng.. thấy hay. Tôi bụng bảo dạ, bút danh gì cũng không có sao, miễn cái truyện của tôi được in trên tờ báo văn ấy là được, (Trước đó, tôi mới chỉ viết một cái truyện cho tuổi teen in trên Hoa học trò ), in xong rồi thay bút danh cũng chẳng sao. Cuối mùa xuân năm ấy, tôi có gọi điện cho nhà thơ về công việc. Ông bảo bài vở cứ đến gửi tòa soạn, ông sẽ xem sau, vì giờ còn đang phải nằm viện. Ông bảo ông ốm xoàng xoàng, nhưng cần phải nằm viện để kiểm tra, giọng rất vui vẻ. Tôi cũng tin thế và vẫn tin rằng ông sớm quay trở lại tòa soạn. Con người Bế Kiến Quốc có lẽ vẫn lạc quan cho đến giờ phút cuối cùng. Và thường thì người ta không bao giờ tin những người lạc quan một ngày nào đó sẽ vĩnh viễn tắt nụ cười. Tuy nhiên lúc ấy tôi nghĩ rằng nằm viện dài ngày thế ắt phải buồn lắm, nhất là vào mỗi buổi sáng, khi một ngày mới bắt đầu và người bệnh tự hỏi mình liệu hôm nay mọi chuyện có khá hơn không. Vậy là mỗi buổi sáng sớm, trước khi lên lớp, tôi thường gửi một tin nhắn đến cho nhà thơ với lời chúc mong ông chóng lành bệnh. Ông nói rằng rất vui khi nhận được một lời chào vào mỗi buổi sáng và trách tôi sao chẳng thấy dùng bút danh mới. Đó là những thông điệp cuối cùng tôi nhận được từ ông. Mùa hè năm Nhâm Ngọ, tôi nghe tin dữ, kết quả của căn bệnh ung thư phổi. Tôi thường không mấy khi hối tiếc điều gì, nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi ước gì mình đã được chào ông một lần trong một buổi sáng khác, trước khi phải nói lời chào cuối cùng. Và có thể nào nhà thơ đã hình dung được nỗi luyến tiếc của tất cả những người yêu quý ông để mà viết "Có thương tiếc cũng đừng thương tiếc quá". Cũng thật tình cờ, đây lại là những câu thơ đầu tiên mà tôi đọc được, vì lúc sinh thời chưa lần nào nghe Bế Kiến Quốc nhắc đến thơ cả. Tôi phải đi một ngày khi đã tận Yêu đã xong, ân oán cũng xong rồi Tôi tịch diệt giữa cõi trần bụi bặm Ánh hào quang lìa hẳn cảnh luân hồi Có thương tiếc cũng đừng thương tiếc quá Buồn đủ buồn như mọi cuộc chia ly Tôi để lại không mang theo gì cả Thật nhẹ nhàng như gió lúc ra đi.
Nhà văn Kim Lân - Văn thế nào người thế ấy Bấm để xem Nhà văn Kim Lân. Ảnh Nguyễn Đình Toán Tôi đến thăm ông vào một ngày cuối năm. Ngắt khỏi dòng người bộn bề xuôi ngược trên đường, tôi rẽ vào con ngõ nhỏ, nơi những người hàng xóm dù xa gần đều biết đến một cái tên rất đỗi quen thuộc, nhà văn Kim Lân. Khác với tưởng tượng của tôi, căn hộ của nhà văn Kim Lân khá chật, phòng khách rất bé nhưng sau đó ông khoe rằng "Ấy, cái nhà này là của Chính phủ cho không tôi đấy. Tôi được cấp chứ có phải mất tiền mua đâu". Nhà văn Kim Lân bảo năm nay vừa tròn 81 tuổi nhưng có lẽ ông tính thêm cả tuổi mụ vào vì trên thực tế ông sinh năm 1921. Khi mới vào, tôi ngồi luôn xuống chiếc ghế bên tay phải nhưng ông lại mời tôi ngồi sang ghế đối diện, tôi hiểu rằng đấy là vị trí dành riêng cho ông và chắc phải có lý do song cũng chưa biết vì lẽ gì. Ngay từ lúc đặt vấn đề, tôi có nói khéo là biết tiếng nhà văn nói chuyện vui lắm và bài viết của tôi lại phục vụ cho báo Tết nên.. Ông tinh ý hiểu ngay song cũng thật thà từ chối "Bình thường thì tôi nói chuyện cũng tếu táo lắm đấy, nhưng người ta nói rằng phải lúc khoẻ mới vui. Tôi đang ốm đau thế này thì vui sao được, huống hồ còn nói chuyện vui nữa.. nên tôi nghĩ rằng yêu cầu của chị có lẽ hôm nay không thực hiện được đâu". Ấy vậy nhưng cũng như khi ông khẳng định rằng mình đang mệt, không nói được nhiều song càng về sau những câu chuyện với cách nói tỉnh bơ của tác giả "Vợ nhặt" vẫn khiến người đối diện phải bật cười. Mới hay những điều người ta kể về ông là đúng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào bao giờ ông cũng rất Kim Lân. Như có người để giãi bày tâm sự, ông bày tỏ nỗi trăn trở của mình qua nhiều lần tham dự Hội nghị các nhà văn trẻ. Cứ mỗi mùa xuân đến, ông lại hay nghĩ tới những gì còn đang ở phía trước và nhìn lại những chuyện trong quá khứ. Đã một thời, chính ông cũng là một cây bút trẻ, cũng đem lòng nhiệt tình thắp lửa vào trang viết. Ông cho rằng ở vào thời điểm nào, đã là nhà văn, là người cầm bút, ai mà chẳng mong muốn mình được trở nên nổi tiếng, những tác phẩm của mình để lại dấu ấn riêng biệt cho người xem. Song ông cũng thấy điều đó bây giờ sao khó quá. Mặc dù có rất nhiều nhà văn trẻ đầy triển vọng song rất ít phong cách, nếu có thì cũng quá mờ nhạt và một điều hiển nhiên nữa là khó có thể phân biệt văn phong của người này với người kia. Tôi đề nghị ông thử nhìn nhận nguyên nhân khách quan vì sao vậy? Ông lại nhớ về cái thời ngày xưa ấy, những năm tháng cùng cộng tác và sát cánh bên các đồng nghiệp thân thiết như Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan.. Ông cho rằng mình có cái may mắn được sống cùng thời với họ, lại có nhiều thời gian cùng làm việc để học hỏi họ nhiều thứ, từ văn chương, đến kinh nghiệm sống và những lĩnh vực khác nữa. Ông vẫn khiêm tốn là vậy, mặc cho những người am hiểu đánh giá, khen ngợi ông, nhà văn Kim Lân một mực khẳng định nhờ có họ mà ông hiểu ra nhiều điều lắm. "Họ ngồi chồm chỗm trên trang sách ấy. Mà đúng là văn thế nào người thế ấy. Chị cứ thử tưởng tượng khi đọc văn các ông ấy thế nào thì khi gặp đúng tính cách người ta như vậy thật. Ông Nguyễn Tuân thì cầu kỳ, khó tính, yêu cái đẹp, thích ăn ngon. Còn ăn nói hóm hỉnh, láu cá láu tôm, xỏ xiên mới đúng là Nguyễn Công Hoan. Anh Nguyên Hồng thì hay thương người, suốt ngày nước mắt ngắn nước mắt dài. Thú thực tôi phục lắm". Và nói theo cách của ông thì họ và văn của họ "rất người ta". Rồi ông lại quay trở về với cái băn khoăn, day dứt "Bây giờ tại làm sao lại không thế được? Nguyễn Công Hoan là người mang đến cho văn học Việt Nam một thể loại riêng, thể loại văn chương hài hước, hóm hỉnh. Tại sao bây giờ thể loại châm biếm ấy không còn nữa?". Theo quan điểm của nhà văn Kim Lân, người viết phải biết yêu ghét rõ ràng, phải có tấm lòng thương yêu nhân vật, phải coi ngòi bút là vũ khí và có cái riêng của mình, có thế văn chương mới sắc sảo được. Ông có kể một kỷ niệm khi cùng nhà văn Nam Cao và một số người khác nữa đi thực tế sáng tác ở cây số 7, Tuyên Quang. Hồi ấy nhà văn Nam Cao rất hăng hái sáng tác. Sau khi hoàn thành xong một tác phẩm, nhà văn phấn khởi đọc cho mọi người. "Lúc đó tôi, anh Nguyên Hồng và anh Nguyễn Huy Tưởng ngồi nghe. Anh Nam Cao đọc hết chương một, thấy mọi người im lặng như tờ, đọc hết chương hai vẫn lặng im như tờ, đến hết chương ba thì đột nhiên, anh Nguyên Hồng phá lên cười và.. anh Nam Cao.. từ từ xé bản thảo. Văn chương lạ lắm, nó lại không chê được nữa mới chết chứ. Và từ đó anh Nam Cao xin được về quê nhà để viết, viết một cách đầy trách nhiệm". Rồi ông chốt lại một câu "Bây giờ cũng có những cây bút tiêu biểu, nhưng mà ít lắm." Ông ngừng lại, nhấp rất nhanh một ngụm nước trà chừng đã nguội lạnh vì những câu chuyện, rồi đột nhiên nói "Nào, chị có cần biết thêm gì nữa xin cứ việc hỏi?". Nhưng chưa kịp chờ tôi trả lời ông đã tiếp tục kể về cái thời còn tràn đầy sức sống, tràn đầy nghị lực và mơ ước sáng tác. Vừa nói ông vừa làm điệu bộ bằng đôi bàn tay thoáng trông còn rất nhanh nhẹn, nhưng nếu nhìn kỹ đã thấy hơi run rẩy vì tuổi tác. Đôi lúc kế đến đoạn thú vị mà chính chủ nhân cũng chẳng còn nhớ nổi mốc thời gian, ông lại bật cười hồn nhiên, cái cười trẻ trung làm sáng bừng cả gương mặt in dấu những nếp nhăn qua năm tháng. Đôi mắt ông mơ màng nhớ về những kỷ niệm bên các bạn văn đương thời, mà chính ông và họ đã cùng viết nên những trang lịch sử cho văn học nước nhà. "Tôi, anh Văn Cao và cụ Ngô Tất Tố vào Đảng cùng một ngày đấy. Tôi nhớ rõ lắm. Ngày mùng một tháng năm, năm bốn tám".. Nhà văn Kim Lân quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nông. Cụ thân sinh ra ông đã lấy mẹ ông, một cô thợ cấy, về làm vợ ba, lý do vì người vợ đầu của cụ chẳng may mất sớm, người vợ thứ hai lại không có con. Thân phận ấy đã khiến ông cầm bút và cho ra đời tác phẩm đầu tay "Đứa con người vợ lẽ" và được đăng ngay trên tờ "Trung Bắc chủ nhật". Ông kể lại, hồi ấy thật thà ký luôn bút danh bằng tên thật là Nguyễn Văn Tài, nhưng sau lại băn khoăn tự chất vấn "Tên anh là Văn Tài nhỡ ra văn anh dở thì dơ lắm?". Thế là ông lấy luôn bút danh Kim Lân theo nhân vật Đổng Kim Lân trong tích tuồng cổ Sơn Hậu mà ông rất mê, mặc cho nhiều người chọc rằng bút danh ấy giống tên con gái. Nhà văn Kim Lân chưa từng qua một trường lớp viết văn nào và theo như ông giải thích thì "Làm gì mà được học, tiền đâu ra mà học?". Tuy nhiên, khi còn niên thiếu ông đã mê truyện Tàu lắm. Ông nhớ hồi còn ở làng, có cụ lý Thêm nhà rất nhiều sách Tàu, ông hay sang đó đọc truyện Tam Quốc, Địch Thanh cho cụ nghe và nhân tiện cả mình nghe nữa. Rồi nhóm Tự Lực Văn Đoàn thời bấy giờ cũng ảnh hưởng nhiều đến nghiệp văn của ông sau này. Một lý do nữa khiến ông quyết theo con đường văn chương là vì hồi còn ở làng, thanh niên mà nhất là anh em ngụ cư quý ông lắm, song các cụ trong làng lại ghét và rất coi thường. Ông nghĩ rằng vì thân phận mình nghèo khó nên các cụ mới khinh thế, vậy thì ông phải phấn đấu để chứng tỏ mình không phải là anh bất tài. Thế nhưng ông vẫn nói thêm rằng niềm đam mê thủơ ban đầu lại là hội họa, song theo đuổi mỹ thuật lắm cái khó, trước hết phải có tiền để lên Hà Nội học vài năm, mà gia đình ông lại nghèo. Nhưng dù sao cũng có cái may mắn là ông có bảy người con thì năm người theo ngành hội họa hết cả, họ đều thành đạt và hoàn thành cái ước nguyện của ông hồi còn trẻ. Người con trai mà ông vô cùng tự hào và hay nhắc đến trong câu chuyện có cái tên rất quen thuộc đối với công chúng, chính là họa sĩ Thành Chương. Năm nay, nhà văn Kim Lân có một chuyện rất buồn, ấy là người vợ từng song hành cùng ông hơn nửa thế kỷ đã bỏ ông mà đi. Bà mất chưa được trăm ngày và ông những muốn treo hai chữ rất tâm đắc để tặng riêng cho bà: Hai chữ "tao khang" (tấm cám) trích từ hai câu thơ Đường "Bần tiện chi giao mặc khả phong. Tao khang chi thê bất khả hạ đường". Nghĩa là khi còn nghèo hèn chơi với nhau thì không thể quên nhau, người vợ một thời cùng ăn tấm cám với nhau không thể đuổi xuống nhà ngang được. Hai chữ đó thể hiện lòng biết ơn của ông đối với bà, và ông vẫn nói "Phải có hai người như vậy mới thành một cuộc đời". Ông còn mở tủ cho tôi xem cả những di vật bà để lại, rất nhiều túi to túi nhỏ khác nhau mà lúc sinh thời bà thường treo lúc lỉu trên tường. Đấy là thế giới của riêng bà mà cả đời ông không bao giờ đụng vào. Đến khi bà mất, mở ra ông mới thấy ở đó cả tâm hồn bà, và cho tới lúc ấy ông mới thực sự hiểu tấm lòng của người vợ hằng sớm hôm kề cận bên ông. Trong túi, ngoài những tem phiếu thời bao cấp, các bài thuốc quý, huân chương mà ông vứt lung tung, còn có cả một bản kê khai rất đặc biệt, kê khai những nghề mà gia đình ông đã từng làm như buôn mận, khoai môn, buôn cám, buôn nón, đan len, gói bánh chưng bán.. Những nghề ấy đã đánh dấu từng chặng thời gian trong cuộc đời ông. Ví như nghề buôn mận làm ông nhớ lại hồi ông bà mới quen nhau, biết ông thích ăn mận, bà hay mang đến cho ông. Rồi cái thời buôn cám thì ông và bà cũng phải người kéo người đẩy cái xe, giống hệt cảnh anh Tràng trong "Vợ nhặt". Hay thời buôn nón là quãng thời gian gia đình ông sống cùng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Nguyên Hồng.. Ông nói rằng dự định sẽ viết một câu chuyện dựa vào "bản kê khai nghề nghiệp" ấy nhưng mục đích không phải để in, mà chỉ để trả nghĩa cho bà. Tính ông rất nóng, hồi bà còn sống, ông hay gắt bà, bà tốt nhịn thường không nói gì, được thể ông càng gắt. "Giờ không có ai để gắt cũng thấy thiếu. Lạ thế chứ.", ông cười buồn. Rồi ông nhận xét cứ như thể bà đang còn sống và ngồi bên cạnh vậy "Tôi thấy bà này lạ thật đấy. Trước nay cứ im im như vậy, nhưng mãi cho tới khi mở các túi của bà ấy ra tôi mới thấy hóa ra người ta cũng tinh tế ra phết. Thế mà mình cứ tưởng bà ấy không biết gì". Ông hồn nhiên kể tiếp "Tính bà ấy thì tiết kiệm lắm. Đến nỗi có lần tôi đi ngang qua nhà hàng xóm thấy nhà người ta ăn cơm ngon thế, mà nhà nào cũng vậy. Sau tôi có hỏi thì người ta bảo rằng vì gạo nhà tôi vào loại kém nhất. Tôi mới về bảo bà nhà tôi rằng: Bà phải mua gạo ngon như nhà người ta, chứ gạo bà cho tôi ăn hằng ngày khô, tôi nuốt không nổi. Bà ấy nghe lời tôi mua gạo ngon về, nhưng lại trộn gạo nọ với gạo kia. Nhưng sau khi bà ấy mất, tôi mới hiểu nếu không làm thế thì với đồng lương hưu của tôi chắc chắn sẽ không xoay xở nổi". Tôi có hỏi vui sao ông không hay viết những chuyện tình cảm, thì nhà văn Kim Lân lại thật thà thanh minh rằng mặt mũi từ trước đến nay vẫn vậy, thậm chí ngày xưa còn xấu xí hơn nhiều, chuyện tình cảm làm gì có đâu mà viết. "Có mỗi bà nhà tôi trước hay cho mận chứ làm gì còn ai. Mà mận Bắc Kạn ngon ghê lắm cơ.", ông nói rất tự nhiên và cười thoải mái như đang nghĩ đến hương vị của những quả mận chua mà bà mang đến tặng ông ngày trước. Trước khi ra về, tôi ngắm thật kỹ ngôi nhà mà nhà văn Kim Lân đã rất phấn khởi khi nhận được nó, mặc dù ông có phàn nàn vì chỗ ở chật chội và mười mấy hộ chung hau một cái nhà xí. Không khí và cách bài trí nội thất trong nhà khiến ta cho rằng chủ nhân dường như đang muốn níu giữ một hoài niệm xưa cũ, giữa dòng đời hiện đại đầy sôi động đang cuồn cuộn chảy. Trên tường treo rất nhiều tranh do các con ông vẽ, cùng vô số ảnh lưu niệm gia đình. Trong đó có một bức tranh rất to đối diện chỗ tôi ngồi, chụp ông và một vị quan chức cấp cao. Giờ tôi mới hiểu lý do vì sao mà mới đầu ông lại mời tôi ngồi phía bên ấy. Thứ nhất là vì ấm và phích nước nằm ngay tay phải nên gia chủ phải ngồi ở đó để tiện pha trà. Lý do thứ hai thì ông cũng thật thà rằng "Tôi phải treo bức ảnh ở đấy để các bác tổ trưởng tổ dân phố có vào nhìn cho oai. Như là tôi để ông hộ pháp ấy mà. Nhưng mà nay ông ấy (chỉ người trong tranh) không còn làm nữa thì tôi cũng vẫn cứ để. Giờ mình treo là để cảm ơn người ta chứ". Nguồn: Người Hà Nội (Xuân Nhâm Ngọ) PHỎNG VẤN NHANH (Xuân Nhâm Ngọ) Thưa nhà văn Kim lân, nhiều người cho rằng "thời thế tạo anh hùng", từ trước Cách mạng Tháng Tám rồi sang đến giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, các nhà văn có nhiều đề tài nên dễ dàng thành công hơn thế hệ trẻ ngày nay. Ông nghĩ thế nào về ý kiến đó? Nhà văn Kim Lân: Tôi cho rằng thời nào mà chẳng có chuyện để viết. Trong xã hội có rất nhiều chuyện mà khi đó nhà văn phải là người dám viết thật những điều mình nghĩ thì nhân vật của anh nó mới sống động, văn chương mới sắc sảo được. Người viết thời nào cũng phải biết yêu ghét rõ ràng, có trách nhiệm nói cái riêng, cái của mình và coi ngòi bút là một thứ vũ khí. Có nghĩa ông cho rằng những cây bút thế hệ bây giờ không còn những tên tuổi tiêu biểu nữa? Nhà văn Kim Lân: Có nhưng mà ít lắm. Trần Đăng Khoa cũng là một ví dụ, rất giỏi và rất có phong cách. Những nhân vật của ông rất điển hình, chỉ qua vài nét phát họa mà chân dung một ông lão nông dân, mụ chủ nhà hay một chị gái quê.. hiện lên rõ mồn một. Nhà văn Kim Lân: Đúng, tôi thường viết về những chuyện hàng ngày mắt thấy tai nghe, tuy nhiên phải thay đổi cho nó phù hợp với văn chương. Hồi còn ở làng tôi rất thân với anh em ngụ cư nên hiểu được tính cách và cuộc sống của họ, hay như hồi tôi và nhà tôi mới lấy nhau thì cũng có một bà mẹ giống hệt bà mẹ trong "Vợ nhặt". Có thời gia đình tôi đi buôn cám thì chúng tôi cũng phải người kéo, người đẩy cái xe giống như cảnh vợ chồng anh Tràng, chỉ có cách nói chuyện là khác nhau. Nhưng chuyện tình cảm thì không? Nhà văn Kim Lân: Thì chuyện "Vợ nhặt" chả tình cảm đấy là gì (cười). Nhưng mình ở trong hoàn cảnh nào thì viết về hoàn cảnh ấy Ông đã rất thành công trong lĩnh vực văn chương và lĩnh vực điện ảnh cũng gặt hái được nhiều kết quả. Gần chục vai diễn từ Pụ Pạng (Vợ chồng A Phủ) cho đến Lão Hạc, đều khiến người xem kinh ngạc. Như vậy ông coi mình là nhà văn – diễn viên hay diễn viên – nhà văn? Nhà văn Kim Lân: Trước đây tôi đã từng ở trong Ban Kịch Hà Nội cùng với Hoàng Cầm và Hoàng Tích Linh đấy chứ. Nhưng không phải vai nào tôi cũng diễn được. Chỉ những vai tôi thực sự thấy hợp, còn vai diễn mà khác với đời sống của mình thì diễn không đạt được. Diễn xong cứ sượng hết cả mặt không dám nhìn lên vô tuyến mà xem mình nữa. Thấy nó vô duyên lắm. Được biết rằng vai diễn mà ông ưng nhất qua nhiều lần đóng phim là vai lão Hạc. Và cảnh mà người xem không thể nào quên mặc dù rất ngắn là khi lão Hạc đi trên con đê với dáng vẻ liêu xiêu tuyệt vọng, chỉ nội cảnh đó thôi cũng thấy cả một tâm trạng, một kiếp người. Bình thường có khi nào ông đi như vậy không? Nhà văn Kim Lân: Không, đấy là do tôi diễn. Ông có biệt tài phân tích tâm lý nhân vật và điều đó có góp phần làm cho các vai diễn của ông thành công hơn? Nhà văn Kim Lân: Có, ví dụ như khi tôi vào vai lão Hạc, có hai cảnh tôi đề xuất ý kiến với anh đạo diễn cho được làm theo ý mình. Thứ nhất là như chị nói, lúc lão Hạc cầm gói bả đi liêu xiêu trên con đê. Con đê dốc và bóng lão Hạc cũng đổ xuống. Cảnh đó tôi thấy nhiều người thích. Thứ hai là cảnh lão Hạc nói chuyện với Bá Kiến. Đạo diễn bảo tôi phải run rẩy sợ hãi nhưng tôi không đồng ý, nói rằng việc gì phải thế. Tâm lý lão Hạc lúc đó là chẳng còn gì để mất nên cứ việc ngẩng cao đầu. Và một câu hỏi cuối cùng nữa thưa nhà văn Kim Lân, có ngày Tết năm nào mà gia đình ông cho là đáng nhớ nhất? Nhà văn Kim Lân: À có, ấy là cái dạo gia đình tôi ở trên đồi Non Tứa. Hồi đó thiếu nước nên anh Chương nhà tôi (họa sĩ Thành Chương) trước khi đi bộ đội đã đào một cái giếng và vẽ giúp hợp tác xã chăn nuôi lợn một tranh cổ động rồi được họ tặng cho một con lợn. Tết năm đó lạnh lắm, rét hơn bây giờ nhiều. Đêm ấy gia đình tôi chuẩn bị gói bánh chưng thì đột nhiên có tiếng gọi "anh Chương" ở dưới chân đồi. Con gái tôi chạy xuống xem ai và reo lên "A, Văn Dương Thành", giờ cô ấy là họa sĩ, thì ra là khách đến tiễn thằng Chương nhà tôi đi bộ đội. Cô bạn anh Chương vào nhà và thả ra hai con thỏ trắng. Thỏ đẹp ghê lắm cơ. Chúng chạy quanh nhà. Đấy là cái Tết mà tôi không thể nào quên được, một ngày Tết kháng chiến ở nơi xa xôi mà lại có cô gái đến thăm mang theo hai con thỏ trắng. Không khí khi ấy rất vui. Chúc ông một năm mới thật mạnh khỏe. Xin cảm ơn ông. Nguồn: Phụ nữ Thủ đô (2001) Lời tác giả: Tôi còn nhớ hồi luyện thi đại học, thầy giáo có ra đề văn phân tích tác phẩm "Vợ nhặt". Làm xong nộp thầy, khi trả bài thấy được 3, 5/5 (tương đương điểm 7). Thầy có phê "Câu văn trong sáng, giàu cảm xúc". Không ngờ 7 năm sau được đối diện với tác giả "Vợ nhặt". Cho đến giờ tôi vẫn không thể quên được cảm giác hồi hộp khi quay số điện thoại "Xin lỗi, đây có phải nhà riêng của nhà văn Kim Lân?". Năm đó nhà văn Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2001). Ông là người hồn hậu đến hồn nhiên. Có thể nói rất hăng say về chuyện bếp núc sáng tác của mình mặc dù trong phút chốc quên biến đi mất tên nhân vật chính "Đấy, cái hồi tôi viết Con chó xấu xí mà có anh nhân vật chính là.. là..". – "Nhược Dự ạ.", tôi nhắc. – "À ờ, Nhược Dự".
Hỏi chuyện "ông dế mèn" Bấm để xem Trong làng văn, nhà văn Tô Hoài nổi tiếng là người viết khỏe. Chẳng thế mà đồng nghiệp của ông, nhà văn Kim Lân đã phải thốt lên "Ông Tô Hoài ở trong bệnh viện, đến khi ra viện đã xong một tác phẩm". Nhà văn Tô Hoài viết nhiều thể loại, ngoại bát thập vẫn thấy tên ông xuất hiện đều đặn trên báo qua những bài tản văn. Nhưng trong cuộc phỏng vấn này, câu chuyện chủ yếu xoay quanh lĩnh vực truyện thiếu nhi, là một điểm sáng trong các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài. Bên cạnh đó, nhà văn cũng bộc lộ một số quan điểm về cách làm việc của những nhà báo, nhà văn, nhà thơ trẻ hiện nay. Thưa nhà văn Tô Hoài, là người đi tiên phong trong lĩnh vực truyện thiếu nhi, hiện nay ông vẫn viết cho các cháu chứ? Tôi đã hoàn thành xong tập truyện cho các cháu với nhan đề "100 truyện ngày xưa". Thực ra đấy là những câu chuyện kể đã quen thuộc đối với các cháu như Thánh Gióng, Tấm Cám.. và tôi đã sáng tác lại dựa trên những cốt truyện cũ. Những truyện hay thời Hán Nôm, Quốc Ngữ đã được cụ Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Ngọc sưu tầm và biên soạn, song chỉ là kể lại thôi. Hiểu nôm na là những câu chuyện đó được ông sáng tác lại theo kiểu Andersen? Đúng rồi, và NXB Kim Đồng đã cho in dần dần 20 truyện một, đến nay đã in hết cả. Chúng tôi đã dự tính in lại thành một quyển dày 100 trang. NXB Giáo dục cũng đang in truyện của tôi, cứ một tháng lại một cuốn tranh truyện mang tên chung là "Câu chuyện hôm nay" với đề tài loài vật. Chữ thì của tôi, còn tranh của các họa sĩ khác, truyện rất nhiều tranh và mỗi cuốn dày 40 trang. Thể loại truyện thiếu nhi và chuyện loài vật là sở trường của ông, dường như đối với ông, đó là một đề tài không bao giờ cạn? Chủ yếu là vì các cháu bây giờ ít biết về các loài vật nên tôi hay hướng các cháu vào chủ đề đó, ví dụ như "Ta không phải quan tiểu hổ", "Mẹ gà con vịt".. Thưa nhà văn Tô Hoài, chắc ông cũng biết một dạo báo chí xôn xao về bộ truyện do NXB Kim Đồng phát hành - "Những truyện kỳ bí" của nhà văn Mỹ R. L. Stine, người được mệnh danh là Stephen King của văn học thiếu nhi. Hiện nay serie này đã được tái bản, hơn nữa còn được dịch thêm một số truyện. Cũng như khá nhiều cuốn truyện tranh nước ngoài khác bị dư luận phê phán. Là một người có chuyên môn, ông đánh giá như thế nào về vấn đề này? Phải nói rằng truyện của nhà văn R. L. Stine viết rất giỏi, rất khoa học chứ không phải truyện ma. Bộ truyện tranh Đô rê môn cũng hơn truyện thiếu nhi của ta một điều là họ luôn đi sát hai mặt: Vừa cho trẻ trí tưởng tượng phong phú, lại vừa đáp ứng nhu cầu của các cháu là thích những truyện năng động trong thời đại khoa học kỹ thuật. Hiện nay số lượng phát hành truyện thiếu nhi của các tác giả Việt Nam tuy đã cải thiện song còn khá khiêm tốn, chủ yếu là tái bản những đầu sách đã có tiếng vang. Thưa nhà văn Tô Hoài, liệu có phải người viết ngại đi vào lĩnh vực này vì sáng tác cho người lớn dễ nổi tiếng hơn? Nhà văn Tô Hoài. Ảnh Nguyễn Đình Toán Thực ra hiện nay cũng có những nhà văn viết truyện thiếu nhi rất giỏi như Nguyễn Nhật Ánh chẳng hạn, nhưng theo tôi chủ yếu là do cách tổ chức. Nên có những cuộc thảo luận, trao đổi về hướng đi cụ thể như phải Việt Nam hóa những câu chuyện cho phù hợp tính thời đại vì nhận thức của mỗi thế hệ một khác. Các cháu bây giờ thích nhanh, hoạt để thích ứng hiện đại mà cháu nào cũng có nhu cầu đọc sách như ăn cơm, bên cạnh đó có một số cháu bộc lộ khuynh hướng văn học. Hơn nữa cần khuyến khích người viết bằng cách nâng nhuận bút lên, chứ bây giờ nhuận bút thấp quá. Không riêng gì truyện thiếu nhi mà gần đây NXB Công an Nhân dân có in một cuốn truyện của tôi dày 300 trang, tôi được trả triệu hai, sau người ta thấy tôi viết công phu quá có nâng thêm mấy chục phần trăm thì được khoảng triệu tư. Mà một bài báo có lẽ cũng được gần bằng thế, vì vậy nếu được nâng mức nhuận bút lên thì tôi nghĩ rằng chẳng ai ngại đâu. Ngoài ra việc quản lý phát hành truyện thiếu nhi không phải do Hội Nhà văn đứng ra mà chức năng chủ yếu bên Bộ Giáo dục, có lẽ bên ấy họ còn phải lo nhiều chuyện khác hơn. Được biết ông vẫn đều đặn viết báo, theo ông văn và báo có hỗ trợ cho nhau? Có người cho rằng viết báo sẽ làm hỏng văn của mình đi, hay viết văn không hợp với cách làm báo nhưng theo tôi thì ngược lại. Nghề báo đi vào thực tế, phải điều tra, nghiên cứu mà nghề viết văn cũng phải tưởng tượng dựa trên gợi ý của thực tế, nên vừa viết văn, vừa viết báo sẽ hỗ trợ cho nhau rất nhiều. Chỉ có điều giờ nhiều người không phân biệt được đâu là một bài báo, đâu là một truyện ngắn và đâu là tiểu thuyết, đâu là phóng sự. Hiện nay có nhiều dư luận về chất lượng và đầu ra của sinh viên báo chí, ý kiến của ông, một người làm báo, nghĩ sao về vấn đề này? Đấy là tại vì người ta đào tạo nhiều quá mà nghề này không chấp nhận việc sản xuất hàng loạt. Đành rằng viết văn, viết báo cần phải có năng khiếu nhưng chủ yếu là do rèn luyện và học hỏi. Ví dụ anh Trần Đăng Khoa trước là một thần đồng và "làm thơ từ thuở chưa biết làm thơ" nhưng nếu không có sự lăn lộn và đi sâu vào thực tế thì chắc chắn không thể có được chỗ đứng như ngày hôm nay. Cũng như học sinh của trường viết văn Nguyễn Du cũng vậy. Theo tôi viết văn không phải là một nghề, mà là sự tổng hợp của nhiều nghề khác. Người viết phải có hiểu biết đầy đủ về mọi mặt. Nhưng cho đến giờ thì điều đó được coi như sự đã rồi, thưa nhà văn Tô Hoài, ông có lời khuyên nào đối với thế hệ sinh viên chuẩn bị bước vào nghề? Đành vớ được nghề nào thì làm nghề ấy thôi vậy, coi như sự rủi may, còn nếu muốn tiếp tục theo nghề chắc chắn phải có sự rèn luyện một cách cụ thể chứ không phải rèn luyện mơ màng, đặc biệt phải viết cho thật chính xác. Trong số các bạn văn đương thời của ông, giờ còn có nhà văn Kim Lân. Độc giả tò mò muốn biết, ông và tác giả "Vợ nhặt" có hay bàn luận chuyện văn chương chữ nghĩa? Uống bia thì nhiều hơn chứ chả có văn chương chữ nghĩa gì cả. (cười) Từ trước đến giờ bà có ủng hộ ông trong việc viết lách? Có lần tôi hỏi vợ tôi rằng sao cứ không chịu đọc của tôi thì bà ấy trả lời "Tôi có cả ông rồi còn đọc của ông làm gì nữa", nhưng bà ấy vẫn rất ủng hộ. Và dự định sắp tới của ông? Tôi đã bắt đầu viết tập truyện về các phong tục và mỗi phong tục Việt Nam lại được lồng với một truyện ngắn. Truyện "Lấy chồng làng khác" của tôi cũng mới được đăng trên tờ Lao Động. Rất cảm ơn nhà văn Tô Hoài. Nguồn: Phụ nữ Thủ đô (2002) Lời tác giả Thực ra tôi kiếm cớ phỏng vấn nhà văn Tô Hoài để có dịp được gặp gỡ một nhân vật mà mình rất ngưỡng mộ. Khác với văn phong hài hước trong nhiều tác phẩm, nhà văn Tô Hoài có vẻ ngoài điềm tĩnh, nghiêm trang chứ không thân thiện, hồn nhiên như cố nhà văn Kim Lân. Khi tôi thực hiện bài phỏng vấn này, nhà văn đã 82 tuổi. Tuy nhiên tôi kinh ngạc vì cách nói chuyện của ông không như tôi vẫn hình dung về những người cùng độ tuổi ấy, những người mà tôi cho rằng đã bắt đầu xa rời thế sự, xa rời thực tế. Hỏi đến chuyện gì ông đều đáp lại một cách chi tiết, chứng tỏ một sự sâu sát với đời sống đương đại. Con mắt quan sát của một cây bút gạo cội chưa bao giờ biết mệt mỏi. Vì vậy, câu cuối cùng, thay vì chúc ông khỏe mạnh, tôi lại buột miệng hỏi về những dự định sắp tới, giống như quán tính lặp lại câu hỏi muôn thuở đối với những cây bút trẻ.
Nhà thơ Trần Hòa Bình - Người đi hết một chặng đường Bấm để xem Sáng chủ nhật, như thường lệ, tôi lên mạng để check mail và tin nhắn. Tôi nhìn thấy những dòng đầu tiên của entry blog Huy Bom (nhà báo Huy Minh- báo Thể thao & Văn hóa) hiện lên trong homepage. Chỉ thoáng thấy chữ Trần Hòa Bình và Xuất huyết não, tôi đã giật mình. Vẫn biết kết quả của một vụ xuất huyết não là thế nào, song lúc đó tôi không hề mảy may nghĩ đến tin dữ, tôi chỉ cho rằng Trần Hòa Bình phải đi cấp cứu. Tôi click vào blog của Huy Bom để xem chi tiết, chắc thể nào chủ blog cũng ghi rõ anh đang nằm bệnh viện nào thì tôi sẽ đến thăm, tôi còn đang tính như thế. Mạng chạy khá chậm, song vẫn hiện lên entry mới của Huy Bom, tôi đọc lướt và thực sự kinh ngạc. Vô cùng kinh ngạc. Tôi đọc lại lần nữa, đọc câu cuối cùng của chủ blog, người từng là học trò cũ của thầy Trần Hòa Bình, ".. Và phải viết một bản tin cuối về thầy nữa. Vừa viết vừa khóc." Cùng lúc đó, từ chiếc điện thoại mới bật của tôi, hàng loạt tin nhắn hiện ra. Đó là những tin nhắn không như những tin nhắn bình thường của những ngày bình thường khác. Trần Hòa Bình mất xa nhà. Theo đúng thói quen của anh, cứ thứ bảy là xách chiếc ba lô bạc màu to lù xù, đội mũ lưỡi trai, áo pull, quần jean cũng bạc màu, xỏ chân vào đôi giày thể thao và lên đường. Trần Hòa Bình độc thân, con gái đã lớn, anh thường nói rằng cứ cuối tuần là phải tránh xa khỏi Hà Nội. Ngày thường công việc nhiều, khách ra khách vào tấp nập (Anh từng là Phó tổng biên tập tạp chí Gia đình, sau chuyển sang tạp chí Trí Tuệ), nên lúc nào khuôn mặt anh cũng vui phơi phới, nhưng ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ Tết, thời khắc mà người đời trông đợi nhất để mong được nghỉ ngơi, quần tụ cùng gia đình thì anh lại lấy đó làm điều sợ hãi. Anh nói rằng anh sợ phải đối diện với nỗi cô đơn. Vì thế ngày nghỉ anh thường lang thang đến các thành phố khác. Ở đâu Trần Hòa Bình cũng có bạn, những người bạn sẵn sàng đón rước anh linh đình. Trần Hòa Bình xuất hiện trên vài chục tờ báo, luôn luôn với những bức chân dung mang vẻ phong trần (anh thích thế) và luôn luôn kêu ca rằng tôi cô đơn lắm, rằng "anh nào chưa nếm trải nỗi cô đơn tận cùng thì sẽ thấy đời rất nhạt". Và các báo thường có một lời bình luận giống nhau về một Tầm Thư độc thân (Trần Hòa Bình giữ chuyên mục Tầm Thư trên báo Tiền phong ) : Một con người cô đơn. Tuy nhiên, khi gặp anh, người ta dường như không tin vào điều đó. Trần Hòa Bình lúc nào cũng vui vẻ (ngoài mặt). Khuôn mặt anh không bao giờ thiếu vắng nụ cười, với bất kể ai. Và tôi đồ rằng ngay cả một giây trước khi bước vào cõi vĩnh hằng, người ta cũng không thể nhìn thấy Trần Hòa Bình với một "khuôn mặt buồn", hay một "khuôn mặt cô đơn". Tôi hiếm gặp một người như Trần Hòa Bình. Vì khi gặp bất kỳ ai biết anh, tôi đều thấy họ bày tỏ một lòng quý mến. Khó người nào có thể ghét anh cho được. Có lần tôi đến tòa soạn của anh và cùng lúc có vài người vào nói chuyện. Ngay khi người đó ra khỏi phòng, tôi buột miệng "Có một điều này em định hỏi anh từ lâu nhưng nhân tiện đây mới nhớ ra. Làm thế nào mà anh có thể kiên nhẫn tiếp chuyện được với những người tẻ nhạt như thế? Kiên nhẫn lắng nghe? Kiên nhẫn cười?". Trần Hòa Bình cười "Ừ, cũng có nhiều người hỏi anh thế đấy", song không nói gì thêm. Tôi biết Trần Hòa Bình rất bận, anh làm giảng viên bên Phân viện báo chí Tuyên truyền, rồi phụ trách một tờ báo, rồi cộng tác việc này việc nọ với nhiều đơn vị khác. Nhưng ngay cả nếu không có những công việc này thì anh cũng đã vô cùng bận rộn với rất nhiều mối quan hệ: Bạn bè, rồi đồng nghiệp, những người rất thú vị khi thù tiếp. Tuy nhiên, không phải chỉ một lần tôi chứng kiến Trần Hòa Bình kiên nhẫn lắng nghe những người mà tôi biết anh cũng chẳng thấy thú vị gì khi phải tiếp đón, nghe họ trình bày đủ thứ chuyện vớ vẩn trên đời. Anh trả lời những câu hỏi của họ, hoặc bình luận những điều họ vừa kể, để rồi người đó hoàn toàn thỏa mãn sau khi được nói chuyện với anh. Anh không có nhiệm vụ phải lắng nghe người khác nói, song vẫn cứ lắng nghe. Liệu có phải đó là thói quen của một người làm công việc Tầm Thư hay vì có khả năng lắng nghe mà anh mới trở thành Tầm Thư. Trần Hòa Bình tính cả nể, rất khó từ chối lời thỉnh cầu của người khác và vì thế, những người Được anh giúp đỡ việc này việc nọ không phải là ít. Hễ cứ giúp được ai là giúp nhiệt tình, để rồi sau đó không bao giờ nhắc lại việc đó nữa. Trong tất cả những lần ngồi nói chuyện với Trần Hòa Bình, tôi chưa thấy anh nhận xét xấu về ai bao giờ. Dường như đối với anh, người đời đều là tốt đẹp cả. Mà có lẽ cũng đúng thế thật, đứng trước anh, người ta khó mà có thể cư xử không đẹp. Tôi biết Trần Hòa Bình từ năm 2000, song mãi một năm sau đó mới biết anh là nhà thơ, và cũng phải một năm sau mới biết anh là tác giả của bài thơ "Thêm một". Vốn tế nhị, biết tôi không thích thơ, Trần Hòa Bình chưa nhắc đến chủ đề thơ trước mặt tôi bao giờ. Cũng không bao giờ tặng sách thơ, không bao giờ đọc thơ, không bao giờ khoe về một bài thơ mới. Mãi đến hồi năm ngoái, tôi nói rằng tôi vừa nhìn thấy một bài thơ của anh nằm trong tuyển tập thơ tình nhiều thế kỷ ở kho sách lưu, trong đó in cả thơ của Nguyễn Trãi và Lý Thường Kiệt. Anh nói cái "phát hiện" của tôi rõ là "chán phèo". Tôi mới thú thật là đã được đọc tập thơ hoàn chỉnh nào của anh đâu, tình cờ vớ được bài nào thì đọc thôi. Anh mới rút từ trong tủ sách ra một tập thơ và phỏng vấn in cách đó một hai năm rồi thì phải, rồi loay hoay đề tặng. Tuy nhiên, tôi cũng từng chứng kiến ngay cả khi đứng trong những đám đông "không ghét thơ", thì anh cũng chẳng nhắc đến chuyện thi ca bao giờ, thi ca của mình lại càng không. Song những bài thơ của anh tuyệt đẹp. Lời thơ luôn dịu dàng như giọng nói thì thầm đầy tha thiết "Mùa thu bay ngang trời/ Khe khẽ trắng/ Như dải ruy băng thời thiếu nữ/ Ta từng mơ trên mái tóc em.. Gọi em trong gió/ Buồn hơn sông dài/ Sớm nay một mình ra ngõ/ Chạm những gương mặt người xa lạ hơn em." Trần Hòa Bình sợ thời gian. Càng ngày, nỗi sợ đó càng được nhân lên và Trần Hòa Bình tìm cách tránh né nó bằng những cuộc vui nâng chén với những người bạn tri kỷ rải rác khắp mọi miền đất nước. Nhưng nỗi sợ của anh đã thành sự thực. Nó đã rón rén đến một cách bất ngờ khiến không ai kịp trở tay. Nhưng tôi chắc rằng, vào thời khắc cuối cùng trên cõi trần gian đầy cô độc này, linh hồn anh không cô đơn. Xung quanh anh có đầy đủ những người bạn yêu mến anh cũng như anh hằng yêu mến họ. Tôi vẫn luôn hứa rằng sẽ viết một bài về anh, một bài khác hàng trăm chân dung khác về Trần Hòa Bình. Anh cũng nói rằng anh luôn chờ đợi bài báo đó. Nhưng vì cơn lốc thời gian, cũng lại là thời gian, đã cuốn tôi vào trăm nghìn công việc lớn nhỏ mà tôi luôn thất hẹn với anh. Khi tôi viết bài này, Trần Hòa Bình đã không còn đọc được nữa rồi. Nhưng, Anh đã làm được một điều mà bất kỳ người nào đang dạo bước trên quãng đường đời đều mong muốn: Người đời vẫn luôn nhớ về anh ngay cả khi anh đã về với tro bụi. Và, Anh đã đi hết một chặng dài cô độc nhưng ở tận nơi cuối đường, bạn bè vẫn luôn mỉm cười với anh. (Viết trong ngày mất của Trần Hòa Bình) Nguồn: Công an Nhân dân (2008) Lời tác giả Trần Hòa Bình là người cầu thị, những người tài năng thường biết lắng nghe và cầu thị, tôi cảm giác như vậy. Có bận tôi hào hứng kể về lời miêu tả rất cao tay của một nhà báo người Mỹ nói về sự phát triển của Dubai mà tôi đọc được trên tạp chí nước ngoài (khi ấy tôi mới ra trường). Anh bảo tôi về chép lại nguyên gốc cho anh cái đoạn trích ấy. Tôi ngạc nhiên hỏi để làm gì. Anh bảo để anh làm ví dụ cho sinh viên học. Một lần tôi xin được 10 cuốn sách của một tác giả để làm giải thưởng cho mục đố vui của Tạp chí Gia đình. Sau báo ra tôi đề nghị anh ký tặng vào đó cho tác giả. Anh loay hoay một lúc rồi. Ngẩng lên hỏi "Thế bây giờ anh ký tặng ông ấy là nhà văn, nhà thơ, nhà báo hay nhà gì? Khổ quá, lại lắm chức danh thế này". (Vì tập sách mà tôi xin được có đầy đủ các hạng mục trên). Tôi nhăn mặt rằng bây giờ nhiều người thích "danh". Trần Hòa Bình gạt phắt "Ai mà chẳng háo danh. Mình cũng thế chứ sao". Nhà thơ vẫn hay nói thẳng thế, nhưng cho đến tận ngày cuối cùng, tác giả của "Thêm một" vẫn chưa có một tập thơ riêng nào. Thơ của anh vẫn chỉ "đành" được truyền tay nhau qua những cuốn sổ thơ chép tay của bao thế hệ người hâm mộ.
Tình yêu trong ngôi nhà của búp bê Bấm để xem Trong quãng thời gian ngắn ngủi lưu lại Đà Lạt, tôi có kế hoạch đến thăm nhà thơ Bùi Minh Quốc. Tôi đi bằng xe máy thuê của khách sạn, qua hàng chục con phố quanh co tĩnh lặng đến ngã tư gần khu nhà thờ Domain de Marie, xuôi một đoạn dốc ngắn rồi lại lên dốc với những ngôi biệt thự yên tĩnh. Trước khi đi, biết tôi khó tìm đường, ông chỉ dẫn rất kỹ và dặn đi dặn lại rằng cứ nhìn thấy tiệm Búp bê Hiền Thục là đến nơi. Mới đầu nghĩ rằng nhà ông gần tiệm búp bê, sau thấy nhà thơ xuất hiện từ sau tấm biển hiệu búp bê mới ngạc nhiên "Không lẽ ông đã chuyển sang nghề búp bê". Khuôn viên của nhà thơ Bùi Minh Quốc rộng rãi giống hệt những căn biệt thự xung quanh, dù cách thiết kế khiêm tốn hơn. Tôi lên những bậc thang bằng gỗ, hết chiếu nghỉ hành lang đã nhìn thấy một tủ kính búp bê, bước vào nhà thấy đầy ắp những con búp bê len. Búp bê trên tường, trên bàn, trên giá trưng bày. Thật kỳ lạ. Thành phố Đà Lạt đã vô cùng êm đềm, sang trọng và thơ mộng, vậy mà đến con phố yên tĩnh này, vào căn nhà yên tĩnh này lại thấy toàn búp bê, khác nào lạc vào một thế giới cổ tích. Mới hay, chủ nhân của những con búp bê vận trang phục của 54 dân tộc Việt Nam là người vẫn ngày ngày cận kề bên nhà thơ: Nghệ nhân Hiền Thục. Thật không may mắn bà mới gặp một tai nạn xe máy nên đang phải dưỡng sức trên giường bệnh. Nhà thơ Bùi Minh Quốc buồn bã "Đôi bàn tay vàng mà giờ không cử động được nữa". Một lát, ông xin lỗi tôi rồi đứng lên bê thuốc vào phòng cho bà uống. Người vợ hiền thục của nhà thơ có khuôn mặt đúng như nghệ danh của bà: Quý phái, tri thức và dịu dàng, một vẻ đẹp mơ hồ hệt như thành phố Đà Lạt. Bà Nguyễn Thị Thục người gốc Hà Nội nhưng sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt. Bà từng có 18 năm làm phóng viên, biên tập viên của Đài phát thanh – Truyền hình tỉnh Lâm Đồng. Năm 1993, bà nghỉ mất sức và như nhiều phụ nữ khác ở Đà Lạt, nơi được coi là xứ sở của len, bà quay về với công việc đan móc và bắt đầu truyền thụ lại nghề thủ công này. Bà từng dạy nữ công cho học sinh phổ thông tại trường Hermann Gemeiner Đà Lạt, cho trẻ em mồ côi tại Làng SOS Lâm Đồng, cho trẻ em khiếm thính tại Trung tâm người khuyết tật Đồng Nai. Trong một lần tình cờ nhận được món quà là một con búp bê mặc trang phục dân tộc (của nước ngoài), bà nảy ra ý định thực hiện những con búp bê Made in Vietnam. Bà nhớ lại những hình ảnh trang phục dân tộc trong các chuyến công tác trước đây và một ý tưởng được thành hình. Thiên hướng nghệ thuật và bàn tay tài hoa của nghệ nhân Hiền Thục đã cho ra đời những con búp bê đầu tiên có trang phục và hoa văn tinh xảo y hệt những bản gốc của chị em Ê Đê, Ba Na, Cơ Ho, Gia Rai, Mơ Nông. Những sản phẩm này đã từng giành được 3 giải nhất, nhì, ba trong Cuộc thi sáng tạo sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch của tỉnh Lâm Đồng. Nhà thiết kế Sĩ Hoàng được tỉnh mời tham gia ban giám khảo, anh đặc biệt chú ý tới những con búp bê len. Anh khuyến khích tác giả của chúng mở một gallery trưng bày và đồng thời tìm cho bà nhiều tài liệu hướng dẫn cách làm búp bê. Nhưng cũng phải mất một hành trình dài tới 15 năm, những con búp bê mới được hoàn thiện một cách chuyên nghiệp và điêu luyện. Công việc khó khăn không chỉ từ việc cố định những mũi đan, móc trên các hoa văn li ti mà còn ở quá trình nghiên cứu và đi tìm tư liệu hình ảnh, để rồi chỉ với chất liệu len bình thường và cốt gỗ, người sáng tạo đã thổi hồn vào những con búp bê khiến họa tiết lung linh một vẻ đẹp mang đậm nét lịch sử và văn hóa dân tộc Việt. Những chất liệu không phải hàng cao cấp, đắt tiền, nhưng việc chế tạo ra sản phẩm vô cùng phức tạp và tỉ mỉ với đầy đủ vòng, khuy áo, dây chuyền. Mỗi con búp bê có mặt trên giá thường phải mất thời gian 1 tuần nằm lại trong xưởng. Vì thế giá thành của sản phẩm rất cao, thường lên tới vài trăm ngàn và có con tới vài triệu. Có thể nhiều người sẽ phân vân về giá cả, nhưng đối với khách ngoại quốc thì họ không lạ, vì ở phương Tây, đồ lưu niệm thuộc loại hàng handmade (thủ công mỹ nghệ chế tác bằng tay) thường có giá thành cực đắt. Cuối năm 2008, sau 3 năm chuẩn bị, tác giả của những con búp bê xinh xắn và tinh xảo đã có cuộc triển lãm đầu tiên tại gallery Ý Ngọc – Sĩ Hoàng, trưng bày gần 500 mẫu búp bê, trong đó đặc biệt nhất là một bộ gồm 108 búp bê khoác trên mình trang phục của 54 dân tộc. Cuộc triển lãm này đã tiêu tốn của tác giả đến hàng trăm triệu đồng. Tôi tẩn mẩn ngắm những con búp bê mang dáng hình thiếu nữ Dao, H'Mong, Thái, Mường, Tày.. xúng xính váy áo rực rỡ như trong một phiên chợ ngày Tết đang đứng kìn kìn giữa căn phòng lát gỗ của cặp vợ chồng nghệ sĩ Bùi Minh Quốc – Hiền Thục. Khác với búp bê mặt sứ của Trung Quốc và búp bê mặt vải của Nhật Bản, những khuôn mặt bằng len trông sinh động hơn, tinh xảo hơn, mang đậm hồn Việt, hồn tài hoa của những người con người Đà Lạt thân thiện, nhưng cũng vì thế mà quá trình làm ra nó cũng công phu hơn rất nhiều. Nhà thơ Bùi Minh Quốc dường như hết lòng vì sự nghiệp búp bê của vợ. Vừa ngồi chưa ấm chỗ, nhà thơ chẳng nói mấy về văn thơ chữ nghĩa, chỉ mê mải giới thiệu búp bê. Ngoài việc giúp đỡ vợ tìm tư liệu ảnh về màu sắc và hoa văn của các trang phục dân tộc, ông còn hàng ngày đi bỏ mối búp bê len ở các quầy bán đồ lưu niệm và tự tay tham gia vào quá trình sản xuất. Không đan len được thì ông giúp vợ làm cốt gỗ. Là một cựu sinh viên văn khoa Sài Gòn, nghệ nhân Hiền Thục hẳn đã vô cùng xúc động về bài thơ cổ vũ tinh thần được sáng tác dành riêng cho bà. Em ngồi đó quên cả ngày tàn quên đêm khuya khoắt Mười ngón tay lan một thế giới dịu hiền Những búp bê len muôn màu hồn nhiên ánh mắt Em lẳng lặng đẩy lùi cơn bão dập đời anh Nhà thơ Bùi Minh Quốc và nghệ nhân Hiền Thục Trong suốt quá trình nằm trên giường dưỡng bệnh, bà được sự chăm sóc đủ đầy của người chồng tận tụy. Ông pha thuốc, dọn dẹp, làm búp bê, check mail giúp vợ và đặc biệt là nấu cơm ngày hai bữa, một việc mà ông nói đùa rằng cũng kinh dị không khác nào cuốn tiểu thuyết kinh dị của tôi. Nghệ nhân Hiền Thục nói với tôi rằng cuộc sống của hai người vẫn còn rất vất vả về kinh tế nên nhiều mong muốn chưa thực hiện được. Tuy nhiên, sự sang trọng tinh tế vẫn toát lên từ ngôi nhà giản dị đong đầy tình yêu thương qua những đôi mắt búp bê len. Bà đang có kế hoạch biến tiệm búp bê Hiền Thục và xưởng sản xuất của mình thành địa điểm tham quan cho du khách, vừa góp phần bảo tồn di sản văn hóa dân tộc khi mà những tiêu bản trang phục gốc đang dần mai một, vừa đóng góp cho sự phát triển du lịch của Đà Lạt. Tôi cũng cho rằng đó là một ý tưởng thú vị và khả thi, bởi một người lần đầu tiên đặt chân đến thành phố hoa như tôi thấy may mắn khi tình cờ có thêm một kỷ niệm nữa về văn hóa và con người Đà Lạt, từ lúc bắt đầu đặt chân vào ngôi nhà của búp bê. Nguồn: Tiền phong (2009) Lời tác giả Tôi gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc tại Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ VII tại Hội An hồi năm 2006. Sau đó ông hay "trao đổi sách" với tôi qua đường bưu điện, thỉnh thoảng còn gửi những bài viết cũng qua đường bưu điện, với sự rất cẩn thận của một người có tuổi. Khi dự trại sáng tác ở Đà Lạt, tôi liên lạc với nhà thơ và đề nghị đến thăm ông. Hẹn giờ đến thăm nhưng rồi tôi bận gì đó mãi hôm sau mới liên lạc lại, xin lỗi vì đã thất hẹn và giờ nếu ông có mặt ở nhà thì tôi chuẩn bị đi xe máy đến. Tôi không thể quên được giọng nói rầu rầu của ông khi ấy "Hôm qua chú thấy cháu không đến mà chẳng gọi lại, chú tưởng cháu sợ nên không dám đến". Tôi cuống quýt thanh minh rằng không phải thế, nào tôi có sợ hãi gì đâu, chỉ vì hôm qua còn mải phóng xe lên mạn Đồi Mộng Mơ để mua dâu tây nên khi về thì đã quá muộn. Trước đó tôi có nghe loáng thoáng về những tai ách liên quan đến chính trị gì đó của nhà thơ, nên đâm giờ ông cứ bị ám bởi cái ý nghĩ rằng ai gặp ông cũng sợ bị liên lụy.
Nỗi buồn thơ kiêu hãnh Bấm để xem Như không ít những người được gọi là trẻ, tôi cũng mắc một căn bệnh là ngại thân thiết với người có tuổi. Thậm chí trong chừng mực nào đó, tôi còn hay trốn những cuộc giao tế xã giao với họ. Tôi không muốn bị xét nét bằng cái nhìn nghiêm khắc thường thấy của một bậc bề trên đối với những người luôn bị coi là chưa trưởng thành, cần tiếp thu ý kiến và kinh nghiệm. Và tôi cũng không muốn chịu trận các câu chuyện liên tu bất tận của những người đã bước vào ngưỡng của "sự nói nhiều". Người phụ nữ có tuổi, tức thì tôi liên tưởng đến hình ảnh nhàm chán và tẻ nhạt của việc sắm sanh đi lễ chùa, dậy sớm tập dưỡng sinh và các chuyện kể hàng giờ không dứt về đứa cháu nội, về bà hàng xóm, về bệnh mỡ máu, cao huyết áp, thấp khớp và công thức mới cho bát canh thập đậu bổ dưỡng. Nhìn họ, tôi thấy vừa xa lạ, vừa bị ám ảnh bởi hình dung nhãn tiền của mình sau 30 năm nữa. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Ảnh Nguyễn Đình Toán Song nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn là một người phụ nữ đặc biệt. Và hình ảnh bà luôn có mặt trong những phiếm đàm đầy ngưỡng mộ của tôi khi nhắc tới những nhân vật đời ưa thích. Lần ấy tôi dự Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam được tổ chức tại Tuần Châu. Đêm thơ quốc tế. Một người phụ nữ ăn vận lịch lãm ở hàng ghế trên quay xuống hỏi rằng liệu tôi có thể dịch giúp bài thơ này sang tiếng Anh và lên sân khấu diễn phần dịch khi bà đã đọc xong khúc thơ gốc, nhân tiện thì dịch cả lời giới thiệu rằng đó là bài thơ tình đầu tay của bà. Chẳng có lý do gì để từ chối khi lời đề nghị ấy là từ tác giả của "Hương thầm" và cả "Làm anh" mà tôi thuộc lòng từ thuở chưa cắp sách đến trường. Tôi dịch rất nhanh những câu thơ da diết, hờn dỗi và đầy kiêu hãnh của một cô gái 20 tuổi. Nếu anh đi với người yêu Chỉ mong anh nhớ một điều, nhỏ thôi: Con đường ta đã dạo chơi Xin đừng đi với một người khác em (Trích đoạn bài thơ "Con đường") Tôi dịch thành: If you go for a walk with your darling, I wish you'd remember a small thing: The road we walked on Please, ever be there with a girl, not me Lúc trở về chỗ, rồi cho đến tận ngày hôm sau, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn vẫn nhiệt tình cảm ơn đến mức tôi phát ngại. Sau này, khi đã trở nên thân thiết, thấy nhà thơ nhiều lần như thế, cứ thích "trả ơn" những người khác vì một sự rất nhỏ. Chỉ thoáng thế ấy, tôi đã đoán biết ngoài sự trước sau và lịch lãm của một người có gốc Hà Nội từ nhiều đời, còn là định mệnh sinh ra một con người với tính cách dễ bị tổn thương. Phàm là người luôn cảm động vì tấm thịnh tình của người khác (dù chuyện nhỏ xíu), ắt nhiều phần đề cao tình cảm và tình nghĩa. Thế rồi khi đã hết lòng với đời, hết tình với người, mà sự đáp lại chẳng như mong muốn, hẳn sinh tủi lòng vì nỗi bạc bẽo của người đời. Mà Phật pháp thì dạy: Con người ta sinh ra vốn dĩ đã vô ơn. Lần đầu tiên đến thăm nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, tôi nhìn thấy trong phòng khách tấm ảnh thờ nhà thơ Thi Nhị, người chồng quá cố của bà. Tác giả của những vần thơ "Cửa sổ hai nhà cuối phố, không hiểu vì sao không khép bao giờ" đã từng trả lời trong một bài phỏng vấn rằng "Ông xã, có thể nói, là một phần mơ mộng tuổi trẻ của tôi. Nhưng chúng tôi chỉ cùng sống được 12 năm thì anh bệnh nặng và qua đời, khi tôi mới ngoài 30. Sau khi nhà tôi mất, cho đến bây giờ là hơn 30 năm, tôi đã.. thử yêu và không ngừng thất vọng." Nhiều lần nhà thơ vẫn bảo những cô gái trẻ chưa chịu lấy chồng rằng tìm đâu ra một người hoàn hảo bây giờ, mà bản thân mình đâu có phải người hoàn hảo, tương đối thôi.. Ấy là nói thế, nhưng người đã thất vọng tới hơn 30 năm tới giờ cũng vẫn chưa tìm thấy đâu một người lòng thực sự ngưỡng mộ mà lại đền đáp trọn vẹn tấm chân tình của nhà thơ. Nhiều phần tôi nghĩ, người sáng tạo mà chỉ mưu cầu một sự "tương đối" là khó lắm, bởi tính duy mỹ và vị cảm là điều không thể thiếu đối với những người làm nghệ thuật luôn muốn vươn đến chân-thiện-mỹ và cả đời đi tìm sự hoàn hảo. Phòng khách của nhà thơ trong căn hộ nằm trên khu chung cư đường Lê Văn Lương có vẻ như quá rộng, có lẽ vì lớn quá so với nhân khẩu hai người một mẹ một con. Nhưng lúc ấy tôi không dám nhận xét thế, chỉ đến khi bà chuyển nhà sang khu mới trên đường Bưởi, một căn hộ chung cư hạng sang với hành lang bóng lộn như khách sạn năm sao, nội thất gỗ tinh xảo và không gian ấm áp, tôi mới nức nở khen sự lựa chọn này thật vô cùng phù hợp. Ngôi nhà mới xinh xắn hơn, nhỏ nhắn hơn và vì thế cũng đầm ấm hơn. Không hiểu sao, tôi luôn bị thu hút bởi những người sống lặng lẽ, đặc biệt là khi họ lại là nghệ sĩ. Tôi cảm thấy từng đồ đạc, từng vật dụng nhỏ của nữ nhà thơ, từ chiếc giường một gối, chiếc máy tính để bàn hàng ngày làm việc, những cuốn sách trên giá, lọ hoa tươi và cả bát đĩa trong chạn đều toát lên chút gì đó giản dị mà cô đơn, một nỗi cô đơn kiêu hãnh của người mang những câu thơ tình đến sổ tay từng cặp đôi lứa đang yêu. Tuy nhiên, chỉ duy nhất có một lần nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn nói rằng "Phải bao giờ đến tuổi cô cháu mới cảm được nỗi cô đơn khi phải sống một mình". Còn phần nhiều, người bạn nhà thơ lớn tuổi của tôi thường chỉ gọi điện rủ đi ăn món gì đó ngon lành, đi du lịch xa hay dancing sáng chủ nhật. Riêng điều này mới là cái sự khiến tôi kinh ngạc về vẻ thanh xuân và sức sống của một người phụ nữ dường không có tuổi. Một tuần có 7 ngày sống thì phần nhiều thời gian nhà thơ dành cho tennis, bơi lội, dancing và đôi khi cả massage thẩm mỹ. Tất cả sự di chuyển đến các CLB thể thao đều vù vù bằng xe gắn máy. Bà nhảy tango rất cừ, và cả Viennese Valse (Valse xoay) là điệu mà tôi chưa bao giờ dám thử vì mắc bệnh chóng mặt. Hễ đi đâu thì bà hay đòi đi bộ, bảo gần như thế có chi phải cần leo lên xe, trong khi tôi uể oải đòi gọi taxi. Và khi được hỏi về một căn bệnh kinh niên mãn tính nào đó thì bà nghĩ một lúc rồi bảo "Có, cách đây một tháng cô cũng bị.. đau lưng mất cả buổi tối, rồi từ bữa ấy đến giờ chưa thấy bị lại nữa". Rõ là nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã khiến tôi giảm bớt nỗi ám ảnh kinh hãi của "những bài tập dưỡng sinh và canh thập đậu bổ dưỡng" cũng như lạc quan hơn về một tương lai mà bất cứ người phụ nữ nào cũng phải chạm tới. Hồi đầu không biết, tôi hay mời nhà thơ nữ đi ăn cơm chay, nghĩ chắc bà phải thích lắm, sau thấy khách mời giãy nảy lên "Ấy không, không, bà già này chỉ thích hải sản thôi, không ăn cơm chay". Phòng khách xinh xắn của bà cũng là nơi tiếp nhiều bạn bè thân như nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát, Bảo Chân, nhà văn Trần Thị Trường.. Những người trẻ như tôi cũng yêu quý "cô Nhàn", yêu quý con người luôn lạc quan và hài hước. Nhiều người đàn ông quý mến, trân trọng nhà thơ, có người ở rất xa cũng hay gọi điện thăm hỏi. Bà hài hước bảo lúc nhấc máy nghe ông ấy "A nô" tức mình lắm, mà chỉnh mãi không được. Sau người bạn kia sợ quá, cứ mỗi lần gọi cho nữ thi sĩ, thay vì bảo "Tôi sắp ra Hà Nội" thì lại ấp úng "Tôi sắp ra.. Thủ đô", để tránh vần N. Người ham thích thể thao, trong lòng ắt vui tươi và thèm được hoạt động. Phan Thị Thanh Nhàn cũng là người thích du lịch. Chỉ cần có một người đồng cảm, chung sở thích và một điểm đến, vậy là bà sẵn sàng lên đường, với nhiệt huyết và nụ cười khó lòng nguội tắt. Năm nào bà cũng tiêu tốn vô khối tiền vào những chuyến đi cả trong và ngoài nước. Nhiều lần tôi thở dài "Khi nào cháu bằng tuổi cô, chắc chẳng được một phần thế này. Giờ đã nhiều phần theo không kịp..". Điều ấy không phải tôi khen nịnh, mà rõ rằng tôi không đủ sức theo đuổi một môn thể thao hạng nặng như tennis, không đủ kiên trì tập luyện hàng tuần như bà đã làm từ mấy chục năm nay, và vài thập niên sau, cũng đủ hình dung mình không thể giữ nổi vóc dáng thon gọn, thanh thoát như bậc tiền bối. Có lần, "phê bình" sự mệt mỏi ngay khi tuổi còn đang trẻ của tôi, Phan Thị Thanh Nhàn bảo "Ngày xưa hồi yêu nhau, lúc ấy là năm 67, đang còn chiến tranh, cô với chồng chưa cuới còn đèo nhau bằng xe đạp về quê anh ở Thái Bình, cũng ngót 200 cây. Đi suốt một đêm, vừa đi vừa ríu rít trò chuyện và cô đã viết bài thơ Đêm Thái Bình sau chuyến đi đầy kỷ niệm ấy." Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn càng ngày càng gọn gàng, nhanh nhẹn, và sự trẻ trung đến từ sức sống đang tỏa ra hàng ngày chứ không phải bằng cách người ta đo đếm những nếp nhăn trên gương mặt người, cho dù bà có lần đã thảng thốt viết một cách vừa hài hước vừa cay đắng thế này: Như chớp mắt như chiêm bao Vừa thơ ngây đã chớm vào già nua Mắt đeo kính, tóc rụng thưa Gặp người yêu cũ muốn vờ rằng quên Và cả: Ôi người yêu thuở hoa niên Đâu còn cái tuổi mắt nhìn toàn hoa Trẻ trung thời ấy đã xa Cuộc đời thực với dưa cà cần lao Nhiều bài thơ tự trào, âu cũng là càng khẳng định lòng người vẫn sôi nổi và tim người vẫn đa đoan. "Có đôi lúc buồn, tôi đã định tự tử" vì "Sống làm chi khi bè bạn bon chen", "Sống làm chi khi người yêu thành người lạ", "Sống làm chi khi mọi tượng thần đều sụp đổ. Người ta tin yêu lại hóa tầm thường" nhưng cuối cùng thì"Vậy mà tôi vẫn sống nhơn nhơn.. Vẫn hy vọng kiếm được một ông chồng đáng mến.. Và tôi hiểu ra trong thăm thẳm niềm đau. Tôi vẫn còn yêu đời quá." (Trích "Yêu đời") . Những khoảnh khắc cô đơn khi đối diện với nỗi ám ảnh vừa trờ đến của thời gian, đối diện với niềm tin sụp đổ trong hành trình đi tìm chân thiện mỹ vẫn không áp đảo được trái tim yêu đời đầy kiêu hãnh của người đàn bà quên tuổi. Ngoài những hoạt động thể thao, giải trí thì đến giờ bà vẫn viết đều đặn, tần suất bài xuất hiện trên các báo không phải là ít. Mới hồi năm ngoái bà cũng vừa cho ra mắt tập chân dung văn học "Sự cực đoan đáng yêu" mà ngoài những giai thoại văn học thú vị thì còn là một nguồn tư liệu quý cho những người khảo cứu văn học sử sau này. Tập sách gồm nhiều mẩu chuyện về những tên tuổi lớn đương thời như Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Tô Hoài, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thị Xuân Quý, Đoàn Thị Lam Luyến, Xuân Quỳnh.. Trong đó, cá tính và đời sống của người viết cũng hiện lên rất rõ. Nhiều đoạn có nhắc đến người chồng thân thương của nhà thơ, khi ông nói với người vợ trẻ rằng "Em trẻ con lắm. Cái thằng xách nước cho em tắm, lau nhà giặt quần áo cho em thì em không xúc động, lại xúc động thằng cha nhăng nhít tặng bông hoa cứt lợn hả?". Riêng điều này, nỗi tiếc nuối cứ day dứt mãi không nguôi trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn: "Một người mang đi hết. Bao nhiêu là thông minh. Chẳng còn ai hóm hỉnh. Ai cũng đều nhạt tênh. Tấm ván nằm chông chênh. Sao rơi như nước mắt. Lòng em nghiêng về anh. Để tháng ngày lặng ngắt" . Nỗi thất vọng hơn 30 năm vì bao nhiêu khao khát ở đời đã bị "một người mang đi hết". Nhưng tôi cũng tìm thấy trong số rất nhiều bài thơ tình của bà có những câu thơ viết ở giai đoạn sau này, khi chồng bà đã mất một thời gian: Sáng sớm anh dậy trước Lẹ làng như con ong Thổi cơm rồi đun nước Cho em nằm ngủ thêm Anh đong gạo mua dầu Việc nặng giành làm cả Mỗi chiều đi làm về Thương dáng anh tất tả Người phụ nữ, khi có bàn tay đàn ông "xách nước" hay "đun nước" âu đều là hạnh phúc ở đời. Tôi băn khoăn lắm điều này và đã hỏi tác giả, liệu bà có khắt khe quá không với những gì đã qua, và nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn "thú nhận" rằng trong quãng thời gian "thử yêu", cũng có một mối tình đẹp mà bà không muốn thổ lộ, vì.. cuộc đời thường "ko hiểu vì sao".. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn tự nhận mình là người không bon chen, điều ấy thoáng qua tôi biết, cho dù bà đã lên đến đỉnh cao của thi ca khi người người, nhà nhà đều thuộc lòng chí ít một đoạn dài trong "Hương thầm". Tâm trong sáng, không cạnh tranh, không hận thù, những câu thơ của bà cũng trong sáng, không hiểu sao tôi cứ cảm thấy thế, trong sáng ngay cả trong lời thơ buồn với nỗi đời viết khi tuổi đã không còn trẻ: "Lòng không hề xúc động, dẫu mùa thu heo may. Lòng dửng dưng chai sạn, dẫu nắng hè đắm say. Ăn qua loa xong bữa. Đi làm cho gặp ngày. Chẳng còn thân ai nữa. Có chút gì đắng cay" (Trích "Mùa xuân"). Nhiều bận đi đâu, gặp ai, tôi cũng chìa tay hớn hở "Đây là tác giả của Hương thầm". Nhà thơ nhăn mặt, hàm ý rằng nhỡ đâu người ta chẳng biết Hương thầm là gì, mình giới thiệu thế người ta ngơ ngác rồi không khí lại nặng nề. Nhưng tôi chưa lần nào bị "hẫng" như thế, vì từ anh cán bộ trẻ cho đến cậu nhân viên khiếm thị đều à lên đọc một mạch vài câu. "Hương thầm" được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc năm 1984, sau khi bài thơ được giải nhì cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ năm 1969. Những thi phẩm được phổ nhạc, phần nhiều không mấy ai nhớ đến tác giả ca từ, nhưng với "Hương thầm", người ta gắn liền nó với nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Hoa bưởi (chứ chẳng phải hoa hồng) từ ấy cũng đâm thoảng hương vị tình yêu, thay vì chỉ mang đi ướp chè và mía nướng. Nhà thơ sinh ra ở Tứ Liên, nơi đất đai rộng rãi để trồng hoa, để ươm gió trời và ngoài sân nhà thì có cây hoa bưởi. Yêu hoa bưởi, thương em trai, bà viết bài thơ ấy tặng em, để rồi sau đó người em ra trận và vĩnh viễn không trở về. Giờ nhiều cô gái bảo "Yêu thì sáp dô chứ làm chi phải khổ màngồi im không biết nói năng chi, rồi anh không dám xin cô gái chẳng dám trao" . Nhiều nhà thơ nữ đương đại cũng phát biểu đại ý rằng: Nếu tôi yêu thì tôi sẽ đến gặp người tôi yêu và tỏ tình chứ nhất định không chịu "giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay, cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm", vì thế thơ của tôi cũng sẽ khác. Lời tỏ tình có thể khác nhau ở cách biểu hiện, nhưng tình yêu và thi ca thì bất tử. Người ta có thể "sáp dô" ở thế kỷ 21 nhưng vẫn không thôi chậm rãi những câu thơ "Hương thầm". Hương thầm, tôi thấy giống như bức ảnh "Nụ hôn" chụp trên Quảng trường Thời đại (Mỹ) vào ngày quân đồng minh chiến thắng phát xít Nhật rồi sau đó được đăng tải trên tạp chí Life. Trong ảnh, anh lính thủy vô danh đã ôm chầm lấy cô y tá mà hôn. Người ta vẫn hôn nhau hàng giờ, hàng ngày, hôn mọi nơi, mọi lúc, mọi thời và mọi kiểu cách khác nhau. Nhưng "Nụ hôn" của nhiếp ảnh gia Alfred Eisenstaedt đã trở thành bất tử. "Hương thầm" cũng đã ghi dấu một khoảnh khắc lịch sử như thế. Đã từng có biết bao người lính và cô gái chia tay người ra trận như trong bài thơ? Chắc chỉ còn biết hỏi hương bưởi mà thôi. Và đã gần nửa thế kỷ trôi qua, hương bưởi vẫn ngan ngát thoảng đưa bất cứ khi nào lời thơ được cất lên. Mấy bữa nay, tôi chưa thăm lại nhà mới của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn để ngó xem cây bưởi con trên ban công nhà cũ đã được chuyển đến nơi ở mới hay chưa? Nguồn: An ninh thế giới (2011)
Lang bạt xứ người Bấm để xem Tôi đọc truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Thọ lần đầu tiên cách đây 5 năm. Ấy là khi tôi có một truyện in chung trong tập truyện ngắn 2006. Tôi tìm thấy "Quyên" ở trong đó, và tôi cũng chỉ đọc mỗi "Quyên", đọc như bị những con chữ ám vào người mà lôi đi giữa bộn bề công việc hối hả quay cuồng dường ngày nào cũng thế. Đọc mà không hề biết mặt tác giả, cũng không biết rằng truyện ngắn "Quyên" là chương đầu tiên của cuốn tiểu thuyết sẽ được giải thưởng của Hội Nhà văn 5 năm sau đó. Tình cờ một lần đến NXB Hội Nhà văn, người ta giới thiệu với tôi "Còn đây là nhà văn Nguyễn Văn Thọ". Tôi nhìn người đàn ông nhỏ bé có cái đầu trọc lốc, mặc áo sơ mi xanh, tươi cười ngồi ôm chiếc cặp to đùng trước ngực. Tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với "Quyên", rồi chợt buột miệng rằng thì là tôi hình dung tác giả của "Quyên" khác cơ, chứ không phải như thế này. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ có vẻ chạnh lòng, nụ cười hơi nhạt đi, nhưng vẫn hỏi lại một câu mà người hỏi đã biết rõ câu trả lời "Thế cô hình dung tôi như thế nào?" Nhà văn hạnh phúc nhất thế gian Khi hẹn gặp tôi để tặng cuốn tiểu thuyết mới ra lò ở một quán cà phê nằm trên nóc khu phố sách Đinh Lễ, tác giả của "Quyên" bị một người đàn ông bán sách chặn lại một cách tôn kính "Chào bác. Sách của bác hồi này vẫn bán chạy lắm đấy ạ". Nguyễn Văn Thọ mỉm cười gật gật. Nụ cười khiêm nhường, nhã nhặn rất đặc trưng của.. một ngôi sao. Tôi hỏi Nguyễn Văn Thọ rằng anh quen ông ta hay sao. Nguyễn Văn Thọ lắc đầu bảo chắc hắn nhận ra mình nhờ cái đầu trọc trên ảnh. Sau vừa ngồi chưa nóng chỗ, tay còn đang lật thực đơn, cậu bồi bàn có khuôn mặt trẻ măng cúi xuống nói nhỏ "Dạ thưa.. chú có phải nhà văn Nguyễn Văn Thọ". Lại vẫn nụ cười của một ngôi sao. "Cháu đã đọc Quyên rồi. Cháu rất thích ạ." Ôi chao, tôi nhìn Nguyễn Văn Thọ bằng đôi mắt kinh ngạc. Trong vòng 5 phút có hai người xa lạ xuất hiện bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Nếu không tận mắt chứng kiến cái cảnh đáng ghen tị ấy mà nghe Nguyễn Văn Thọ kể lại khéo tôi bảo nhà văn lại sáng tác để tự nâng mình lên. Thời đại này, văn chương ở xứ này sao mà được trọng vọng nhường ấy. Sau khi thấy cậu phục vụ có vẻ nhiệt tình hơn với ly cốc ở bàn của nhà văn, tôi bảo Nguyễn Văn Thọ quả là người hạnh phúc nhất thế gian. Nguyễn Văn Thọ hạnh phúc thật, tiểu thuyết "Quyên" vừa ra mắt, giải thưởng đâu chưa thấy đã nhìn ra sách lậu trên các sạp. Các công ty sách đều bảo "Bán Quyên sướng lắm". Dân kinh doanh, cho dù là kinh doanh một sản phẩm tri thức như sách thì vẫn mang tôn chỉ hàng đầu là lợi nhuận, và sự tôn thờ của họ dành cho các nhà văn có sách bán chạy là rõ rệt, dẫu biết rằng sự tôn thờ ấy sẽ bay biến như gió thoảng nếu ngày mai lượng ấn bản của nhà văn bị sụt giảm thảm hại. Nhưng hai năm trôi qua, "Quyên" vẫn giữ vị trí đầu bảng và công ty sách nào có "Quyên" đều được các bạn hàng coi là may mắn. Không những "Quyên" được bán rất chạy trên thị trường sách trong nước mà năm nào nhà văn Việt kiều Nguyễn Văn Thọ trở về Đức cũng mang theo "một bao tải Quyên" theo yêu cầu của bà con trong cộng đồng người Việt châu Âu. Thế rồi "Quyên" được đón nhận và mua hết sạch. Nhà văn có lần kể rằng "Một chị ở cách nhà tôi vài trăm cây số đã tìm tới, chỉ cuốn sách trên tay, nghẹn ngào kể: Cuộc đời em cũng khốn khổ như chị Quyên của anh. Anh đã nói thay em. Em đã ba lần bị hãm hiếp khi vượt biên từ Nga sang Đức..". Mỗi cuốn sách có giá từ 15-20 Euro nhưng nhiều phần độc giả thường đồng cảm, không chỉ đồng cảm với nhân vật trong sách, mà còn đồng cảm với cuộc sống của tác giả bên trời Âu, cũng bon chen, vất vả kém chi cuộc sống của mình, mới dúi vào tay nhà văn cả 50 Euro. Khi ấy con người dễ xúc động của nhà văn (mà ông tự gọi mình là người thợ khách viết văn) muốn bật khóc, bởi tác giả lại đồng cảm ngược với độc giả "Tôi biết ở Đức không phải ai cũng giàu. Đứng dưới trời tuyết có ngày ế trỏng ế trơ, chỉ mong đủ tiền mua xăng về nhà, có người cả 10 năm không có tiền mua vé máy bay về thăm mẹ.. Tiền ai lại chả thích. Song 50 euro có khi là cả ngày chợ của hai vợ chồng và hai đứa con." Nhà văn Nguyễn Văn Thọ Cho đến giờ, chỉ trong vòng hai năm, "Quyên" đã thu được hơn 400 triệu, từ tiền bản quyền tiểu thuyết, nhuận bút in truyện nhiều lần trên các báo, giải thưởng, tiền bán sách rồi bản quyền làm phim. Mới đây hãng phim BHD cũng đã chính thức ký hợp đồng mua bản quyền phim "Quyên". Nhà văn Nguyễn Văn Thọ rất phấn khởi. Ông hồ hởi kể về các "khoản thu" của "Quyên". Tôi biết đó là niềm tự hào của bất kỳ nhà văn nào, khi mà thu nhập từ nghề viết đã phần nào đại diện cho thành công của cuốn sách, đã chứng minh công sức lao động và tâm huyết mồ hôi nước mắt của người sáng tạo bỏ ra cho đứa con tinh thần của mình không phải đổ xuống sông xuống bể. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ ít nhiều mang tính cách sòng phẳng đặc trưng của người Đức, rất không thích nhắc đến chuyện người ta xin không sách của mình hoặc in truyện của mình mà lại trả nhuận bút thấp. Và với cá tính thẳng thắn của mình, nhiều lần ông đã tuyên bố công khai rằng ông không thích cách đối xử kiểu tem phiếu này đối với sản phẩm nghệ thuật của người viết. Nửa tỷ đồng cho một cuốn sách viết bất quá cũng chỉ vài năm trời, kèm theo linh đình dư luận trong ngoài nước, rồi giải thưởng và bản quyền phim. Người ngoài trông vào dễ tưởng đâu tiền bạc và danh tiếng đến với nghề văn dễ lắm, ấy là do tự dưng Trời sinh ra một nhà văn thiên bẩm, rồi ấn ngòi bút vào tay anh ta. Nhưng những người biết rõ cuộc đời của Nguyễn Văn Thọ, như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng gọi ông là một "pho cổ tích thời hiện đại", thì hiểu rằng: Quyên, thực sự là kết tinh của máu, mồ hôi và nước mắt, đúng theo nghĩa đen của từ này. Pho cổ tích thời hiện đại Nguyễn Văn Thọ là người quyết liệt và dữ dội, như những gì người ta nói: "Văn là người". Sau này có lần ông cũng nhắc lại lời nhận xét rõ vô duyên của tôi lúc mới gặp "tưởng tác giả của Quyên phải khác cơ". Cái điều khiến con người nhà văn trở nên quyết liệt đến thế, ngoài tính cách bẩm sinh, còn phần nhiều bộc phát từ hoàn cảnh. Nguyễn Văn Thọ từng miêu tả một câu rất hài hước và bi kịch về cuộc đời mình thế này: "Làm quan thì nửa chừng, làm dân thì trôi nổi, làm tình thì hai lần dang dở, còn làm văn thì muộn màng." Năm 1965, Nguyễn Văn Thọ nhập ngũ, khi mới chỉ là một chàng trai 17 tuổi. Thuộc binh chủng pháo phòng không, lên đến trung đội trưởng, lăn lộn đủ binh chủng khác, gùi thồ, trinh sát, bộ binh.. khắp các chiến trường Quảng Trị, Trường Sơn, Tây Nguyên, Lào, tham gia hơn 500 trận đánh, rồi giải ngũ năm 1976, người thanh niên 28 tuổi hiến 11 năm tuổi xuân cho bom đạn, điều bình thường nhất là tình yêu cũng chưa hề được biết, khi quay về thành phố mang tâm trạng háo hức của một người anh hùng trở về từ mặt trận. Cho dù lúc ấy chỉ đủ tiền mua một điếu thuốc chén nước ba người chia nhau thì vẫn cứ hớn hở một niềm tin ngây thơ cho rằng cả Hà Nội sẽ chào đón mình. Nhưng khi bước xuống ga tàu, không một người nào để ý đến ba người lính đang lầm lũi bước đi. Từ ấy, Nguyễn Văn Thọ hiểu rằng sự vinh danh đối với người lính chỉ có giới hạn. Giờ khắc vai trò của người lính đã chấm dứt, phải lập tức quay trở lại đời thường thôi. Nguyễn Văn Thọ viết 16 lá đơn để xin ra khỏi quân ngũ. Nhưng lúc này, cơn sốc thứ hai lại đến. Nguyễn Văn Thọ thất nghiệp. Trong suốt một năm trời, người lính giải ngũ long tong đi tìm việc, chỉ cần một chân bảo vệ trong nhà máy sản xuất khăn mặt thôi cũng không xong. Cuối cùng thì cũng kiếm được một chân thu dọn vệ sinh trong một công ty buôn bán cấp I. Cơ cực, đói khát, hiểm nguy trăm bề thời chiến cũng chưa bằng nỗi nhục nhã của một gã trai còn vẹn nguyên tâm hồn thi ca mơ mộng đi dọn những nhà vệ sinh công cộng. Không chịu nổi, cuối cùng Nguyễn Văn Thọ xin đi học, tại chức cũng được. Ông nghĩ, bao giờ, thời nào cũng cần tri thức, mà mình không có tri thức đâu phải lỗi tại mình. Rồi trong 5 năm, từ một nhân viên quèn đã nhanh chóng trở thành thư ký giám đốc, rồi trưởng phòng. Có một tác phẩm của Nguyễn Văn Thọ mà tôi rất thích, ấy là "Nhà ba hộ". Những câu chuyện tưởng chừng vụn vặt xoay quanh ba gia đình là lời kể rì rầm về cả một giai đoạn lịch sử của đất nước. "Nhà ba hộ" đồng thời cũng là một phần đời đầy cay đắng của tác giả. Lương nhà nước không đủ để nuôi vợ con, Nguyễn Văn Thọ kiêm thêm đủ nghề khác để bằng mọi con đường kiếm được đồng tiền một cách chân chính: Chụp ảnh đám cưới, mua đài, xe đạp từ nước ngoài về bán. Việc gì cũng thức thời làm. Rồi khi đang ở chức trưởng phòng, thu nhập đã ổn định, Nguyễn Văn Thọ lại xin từ chức ra đi, ấy là "làm quan thì nửa chừng". Sang xứ người, dường như ông thảng thốt chạy trốn một sự thật đang dần tan vỡ trong gia đình. Cái câu tự miêu tả số mệnh mình một cách kỳ quặc chính là như thế: "Làm tình thì hai lần dang dở". Nguyễn Văn Thọ Cay đắng "Con người đã gắn bó với mình nhường ấy, đã tưởng chừng cùng nhau vượt qua tất cả, vậy mà còn không tin tưởng nhau thì liệu trên đời có tồn tại tình yêu hay không, hay tất cả chỉ là sự gá tạm." Sang Đức năm 1988, làm đội trưởng đội điện tử. Chưa đầy hai năm bức tường Berlin sụp đổ. Dường như những cú sốc cứ luôn đeo đẳng cuộc đời người đàn ông có vóc dáng nhỏ bé và đôi mắt đầy sức sống này. "Làm dân thì trôi nổi" - Kiếp nạn trôi nổi lại đẩy Nguyễn Văn Thọ vào công việc thu dọn vệ sinh lần thứ hai, nhưng lần này là dọn dẹp trên xứ người. Khi ấy hàng triệu người thất nghiệp. Các nhà máy đóng cửa. Người "thợ khách" xin được một chân dọn vệ sinh trong chính cái nhà máy trước đây làm việc. Trong suốt 6 tháng trời, ông phải làm việc 10 tiếng một ngày, trưa có 30 phút để nghỉ ngơi. Những chiếc máy đánh bóng sàn, hút bụi có công suất lớn, khiến có lần vóc dáng không lấy gì làm to lớn của người cầm bút đã bị máy đánh bóng đẩy bật, ngã lăn ra đến khốn khổ. Nhưng lúc ấy vẫn chưa thấy nuốt nước mắt bằng khi một người đàn bà Đức trẻ đẹp làm cùng nhà máy tình cờ gặp đồng nghiệp người Việt đang thu dọn vệ sinh mới hỏi "Anh vẫn ở đây à?". Sự nhạy cảm khiến ông hiểu hàm ý của câu hỏi ấy. Nhiều người hỏi Nguyễn Văn Thọ tại sao không trở về, tôi cũng hỏi thế. Ông nói rằng đó là một cơ hội để chứng kiến "thế giới phía bên kia" xem có đúng như nhận thức của mình không. Nhưng rồi tất cả đã vỡ òa. "Lúc ấy tôi luôn tự đặt ra một câu hỏi: Sao người ta sướng thế mà dân tộc mình khổ thế?". Trước những thay đổi dữ dội ở châu Âu cả về đời sống chính trị và xã hội, tâm tính đầy nhạy cảm của một người có khả năng sáng tạo thiên bẩm cũng trở nên biến đổi kỳ lạ. Ông triền miên mất ngủ. Có lần về nước Nguyễn Văn Thọ bỏ nhà đi lang thang cả đêm ngoài đường không biết lối trở về nhà. Đận ấy đúng dịp Tết, Nguyễn Văn Thọ suýt phải nhập viện. Nhưng ngày qua ngày, Nguyễn Văn Thọ cứ nghe cha đánh đàn, thế rồi sự an ủi sâu lắng từ tâm hồn của một người cha đã khiến căn bệnh bột phát tự chấm dứt. Ông cụ vốn học Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 3, tiếp thu cả Hán Nôm và Tây học đã khuyên con trai rằng "Con đừng thức mà không làm gì cả". "Làm văn thì muộn màng" "Đừng thức mà không làm gì cả". Nguyễn Văn Thọ hiểu hàm ý của người cha uyên bác. Những đêm mất ngủ đã trở thành cơ hội để những bài thơ xuất hiện. Nguyễn Văn Thọ đã viết được gần 1000 bài thơ mà phần lớn ra đời trong những đêm đối diện với bốn bức tường trắng lạnh lẽo của phòng ngủ, ngăn cách với lớp lớp tuyết dày đang buông trắng bên ngoài. Ban ngày dầm tuyết bán hàng 13, 14 tiếng, đêm thức dậy từ 3 giờ sáng để viết. Lịch trình ấy đã song hành cùng nhà văn suốt 18 năm nay. Viết là một cách để lý giải những gì mình chứng kiến, viết cũng là một cách để giải tỏa nỗi cô đơn. Nguyễn Văn Thọ có lần kể rằng "Ban ngày đi bán hàng phải nói chuyện với cái cây". Chẳng hiểu chuyện ấy là thật hay đùa, nhưng nhân vật Kumar trong "Quyên" cũng đứng nói chuyện với cái cây. Trò chuyện với cái cây ư? Tôi từng xem một bộ phim về nhân vật bị dạt lên đảo hoang do Tom Hanks đóng. Anh ta vẽ hình mặt người lên quả bóng rồi hàng ngày trò chuyện với hình nộm ấy giữa mênh mang bao quanh là nước biển. Nhưng sống giữa một thành phố vài triệu dân giữa trung tâm của châu Âu mà phải nói chuyện với cái cây, âu là nỗi cô đơn đã được đẩy lên đến tận cùng. Không ai tự tạo ra số mệnh cho mình, cũng không ai vẽ nên được bi kịch riêng, nhưng biết đâu, những gì mà nhà văn Nguyễn Văn Thọ nhìn thấy, cảm thấy trong suốt cuộc đời gắn liền với nhiều mốc lịch sử, những gì khiến ông trở nên ám ảnh đến độ thời gian không thể xóa đi những giọt nước mắt hễ mỗi lần hồi ức quay trở lại, tôi cho rằng âu cũng là một sự may mắn đối với người viết. Nguyễn Văn Thọ bước vào nghề văn muộn màng, cho dù năm 1972 đã bắt đầu viết. Khi ấy Mặt trận Tây Nguyên tổ chức hội diễn. Tiểu đoàn thấy Nguyễn Văn Thọ hay nói chuyện văn chương mới đề nghị anh trung đội trưởng trẻ tuổi tham gia. Nguyễn Văn Thọ viết hai bản nhạc cho tốp ca đoạt giải nhất toàn mặt trận và một vở kịch. Hồi ấy nhà văn Khuất Quang Thụy cũng cùng ở quân đoàn, viết một vở kịch chèo được giải nhất, làm thơ rất hay, nổi tiếng khắp mặt trận, nên họ kết bạn từ thuở đó. Nhưng mãi đến năm 1984, sau khi xem một bộ phim truyền hình nói về người lính ngoài mặt trận, Nguyễn Văn Thọ bảo "thấy giả lắm", mới tức thì viết truyện ngắn "Rồi chúng con sẽ trở lại quê hương", được in ngay trên báo Văn nghệ. Sau đó đến truyện ngắn "Sương đêm" rồi "Muối mặn" viết về thời kỳ sau đổi mới được Lưu Quang Vũ dựng thành vở kịch chèo "Muối mặn đời em" giải nhất Liên hoan sân khấu chèo toàn quốc 1986. Trong lúc sự nghiệp văn chương đang phát triển, Nguyễn Văn Thọ ngừng viết, chỉ vì "cảm thấy trở thành cái đuôi của các nhà văn lớn". "Quyên" được khai bút từ năm 2001, là kết tinh của quãng thời gian đắng đót trên xứ người. Khó ai có thể phủ nhận tính hấp dẫn của "Quyên", điều thường vắng bóng trong các tiểu thuyết Việt Nam. Kết cấu tiểu thuyết chặt chẽ, cốt truyện lạ và hiện thực những con người tha hương đã khiến "Quyên" giành được giải B cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn VN. Ở "Quyên" có một điều đặc biệt, nếu ngắt hầu hết các chương ra thì đều có thể đứng riêng thành những truyện ngắn độc lập. Cuộc đời chìm nổi của người phụ nữ tên Quyên chỉ là cái cớ để nhà văn miêu tả và phân tích hỉ nộ ái ố của những người Việt tha hương. Có những đoạn văn hài hước, và cũng có cả những câu chuyện đắng cay. Tôi thích hình tượng những con người "vô tăm tích", lần đầu tiên được đề cập đến trong văn học. Có những con người tự làm cho mình vô tăm tích dù còn đang hiện diện như nhân vật Hùng. Và cũng có những người trở thành vô tăm tích thực sự trên xứ người như Dũng. Cả tính địa phương chủ nghĩa kìm hãm sự phát triển chung của cộng đồng cũng được nhắc tới trong tác phẩm thông qua trải nghiệm thực sự của nhà văn. Cuộc sống mưu sinh trên tuyết là giành giật, là được và mất, là thành công và tay trắng. Nguyễn Văn Thọ thấm thía điều ấy. Năm 2003, Nguyễn Văn Thọ và người vợ sau này của ông rút số vốn dành dụm được trong suốt quá trình kiếm sống trên xứ người là 50.000 Euro, vay mượn thêm 30.000 Euro đầu tư cửa hàng, rồi mất trắng, chỉ trong vài tháng. Lên đến đỉnh cao hoặc dìm kiệt xuống đáy, đâu cũng là sự tận cùng. Trong số hơn 3 triệu kiều bào ở nước ngoài, không ít người viết văn, nhưng chưa có cuốn tiểu thuyết nào lột tả đến cùng bi kịch tha hương như "Quyên". Nguyễn Văn Thọ có giọng nói sang sảng, sẵn sàng phản pháo một cách ngoa ngoắt với kẻ nào xúc phạm hoặc chơi xấu mình. Ai cũng dễ phải vía con người nhỏ bé ấy. Nhưng ẩn sau vẻ ngoài dữ dội và sự sòng phẳng đến lạnh lùng là một bản năng dễ xúc động trước thân phận con người, dễ rơi nước mắt, mà tôi đồ rằng cũng logic thôi, nếu thiếu sự rung cảm ấy, sao tác phẩm có thể ra đời, hoặc ra đời nhưng sẽ chỉ đứng vào hàng phế phẩm. Thỉnh thoảng Nguyễn Văn Thọ gọi điện từ Berlin, nói rất nhiều, nói rất lâu, nói một cách tốc độ về chuyện văn chương trong ngoài nước rồi như vừa chợt liếc qua đồng hồ lại vội vàng cúp máy một cách.. tốc độ "Thôi nhá, thôi nhá, anh có việc phải làm". Tôi không biết tật nói nhiều của Nguyễn Văn Thọ có phải nảy sinh từ lúc "nói chuyện với cây" hay không nhưng rõ ràng là ông thèm tiếng người, tiếng của những người đồng bào ở trên chính quê hương mình. Nguồn: Văn nghệ (2011) Lời tác giả: Nhà văn Nguyễn Văn Thọ là người rất đặc biệt. Nói năng ngoa ngoắt, tốc độ và dứt khoát, hành động quyết liệt. Không ai dám cãi nhau. Thế nên thấy có nhà phê bình X nói câu gì đó đụng chạm trên mạng, bị tác giả của "Quyên" dọa kiện, nhà phê bình X bình thường cũng ngoa ngoắt không kém, ấy thế mà phải vội vàng xin lỗi. Song Nguyễn Văn Thọ cũng hơi tí là khóc. Mới đầu tôi chưa biết tật này. Khi gửi bản thảo bài viết cho nhà văn đọc duyệt trước khi in, ông gọi lại cho tôi, nghẹn ngào mãi không nói nên lời, bảo đọc những điều tôi viết thấy ứa nước mắt. Tôi hình dung đầu dây bên kia nước mắt ngắn dài cứ thi nhau nhỏ xuống bàn phím mà nếu là thời cách đây 30 năm thì chắc cái bản thảo bút mực đã bị ướt nhòe nhoẹt. Còn đầu dây bên này tôi cứ ngẩn tò te bên cục a lô. Sau tôi xúc động kể lại thì nhiều người bảo "À không sao, Nguyễn Văn Thọ khóc mấy lần trước mặt anh rồi". Ôi chao là nước mắt đàn ông. Có ai ngờ đâu cái ông ngoa ngoắt là thế mà lại cứ đụng tí khóc.
Ngôi nhà mới của nhà văn Phạm Ngọc Tiến Bấm để xem Mấy bận đầu gặp nhà văn Phạm Ngọc Tiến, tôi cứ gãi đầu gãi tai hoài. Chả là nhoắt cái lại có người tiến đến gọi anh là bố. Rồi bố con trao đổi công việc gì đó có vẻ rất quan trọng chứ không chút nào bỡn cợt. Con cái, người nào người ấy to lớn kềnh càng, mặt mũi già nua có phần gần bằng bố. Biết ý, Phạm Ngọc Tiến giới thiệu "Con nuôi của anh đấy". Ra thế, tôi thở phào áng chừng hiểu. Nhưng con nuôi nhiều quá, lại toàn con nổi tiếng, trong ấy có nhà thơ Bình Nguyên Trang, nhà văn Nguyễn Quỳnh Trang.. rồi cả Nguyễn Anh Vũ biên tập viên NXB Văn học, số cân ngót tạ, có thể nhấc bổng bố nuôi lên trời vẫn cung cúc một điều bố hai điều con. Kẻ ngộ miệng bảo Phạm Ngọc Tiến như mẹ mìn, không biết bày trò gì mà lắm con nuôi đến thế. Có bận tôi đề nghị nếu có thể thì cho tôi.. tham gia đội con nuôi với. Phạm Ngọc Tiến trợn mắt, ý chừng con cái đã đông, không phải người nào cũng dễ dàng có suất, và dứt khoát không muốn thu nhận thêm đứa con nào nữa, nhất là một kẻ như tôi. Người mới gặp dễ chợn trước vẻ dữ tướng và lạnh nhạt ban đầu của ông bố lắm con này. Có lẽ chỉ khi nào đã thực sự trở thành bạn thân, Phạm Ngọc Tiến mới bộc lộ hết sự hài hước, chân thành và đầy tình cảm của mình. Trước sau, tôi vẫn luôn coi Phạm Ngọc Tiến là một người thầy trong nghề nghiệp, chỉ đơn giản bởi một điều, thuở ban đầu, anh là người đầu tiên bỏ công đọc và tỉ mẩn sửa từng từ các truyện ngắn của tôi lúc còn bản thảo. Phạm Ngọc Tiến đọc rất kỹ, đọc xong gửi mail lại, đóng mở ngoặc những chỗ sửa, đôi lúc chỉ là: Theo anh chỗ này nên dùng từ "ngờ nghệch" thay cho từ "ngớ ngẩn".. hoặc Câu này hơi phi logic, em xem lại thế nào. Thậm chí có lần tôi kinh ngạc nhìn thấy trên đứa con tinh thần của mình một đoạn ba bốn dòng mới toe, đọc nhang nhác giọng văn của tôi nhưng rõ là không phải của tôi, đọc tiếp mới thấy mở ngoặc: Hai đoạn này em viết tắt quá không có điểm nối nên sợ rằng độc giả khó hiểu, thôi anh viết thêm một đoạn nữa cho nhanh, chứ giải thích thì còn lâu hơn. Tôi cười ngất, tất nhiên vẫn cứ sửa lại theo ý mình. Sau mới thấy có nhà văn trẻ cũng kể lại rằng Phạm Ngọc Tiến vẫn hay làm thế, đọc sửa tiểu thuyết cho người khác rồi tự viết thêm một đoạn.. cho nhanh, lại có cái tài là dựa trên đúng giọng văn của tác giả. Sau này, thi thoảng tôi vẫn gửi bản thảo mới cho Phạm Ngọc Tiến nhờ góp ý. Nhà văn reply lại, giọng nghe đã hơi chạnh lòng "Thôi, em đã tự đứng, tự đi được, tự biết thế nào là đúng, không cần phải góp ý nữa". Tâm lý này tôi hiểu, giống như người thầy nửa mừng vui, lại đôi chút thoáng buồn khi thấy những trò mình nâng đỡ thuở ban đầu giờ đã đủ lông đủ cánh bay trên khung trời rộng. Điều mà tôi biết ơn hơn cả ở Phạm Ngọc Tiến, điều khiến tôi dùng từ "thầy" với anh, ấy là sau khi đọc một truyện ngắn, anh đã nói với tác giả của nó rằng "Truyện ngắn này còn nhiều điều phải bàn, nhưng em có trường lực tốt, anh tin rằng em sẽ tiến xa". Tôi không biết lúc ấy thực lòng anh có tin rằng tôi sẽ "tiến xa" hay không nhưng chắc chắn chính nhà văn cũng không hề biết rằng câu nói ấy quan trọng với tôi đến thế nào. Và sau đó anh nói thêm "Tạng em hợp với tiểu thuyết, năm nay em phải viết tiểu thuyết". Nhà văn Phạm Ngọc Tiến. Ảnh Nguyễn Đình Toán Nhà văn Phạm Ngọc Tiến viết không nhiều nhưng rất lắm giải: Tập truyện ngắn "Họ đã trở thành đàn ông" đoạt giải B giải thưởng Hội nhà văn VN, tiểu thuyết chiến tranh "Tàn đen đốm đỏ" giải A Hội nhà văn Hà Nội, truyện dài "Đợi mặt trời" giải A Nhà xuất bản Kim Đồng. Anh vẫn nói "Nghề văn đã nuôi tôi, đúng nghĩa đen." và hay kể về những khoản tiền giải thưởng đã giúp anh mua được xe máy như thế nào. Phạm Ngọc Tiến có một điều ngộ nghĩnh là trí tưởng tượng bẩm sinh của một nhà văn khiến anh rất hay liên tưởng đến một câu chuyện qua những hiện tượng rất nhỏ. Nhiều bận Phạm Ngọc Tiến kể say sưa trầm bổng về một câu chuyện có đầu, có kết, có thoại, có chi tiết gay cấn đàng hoàng. Riết rồi tôi hỏi truyện ấy in trong tập nào thì người kể chuyện bảo chỉ vừa mới nghĩ ra đây thôi, nói đoạn lại "Anh cho em cái cốt truyện ấy đấy, tha hồ mà viết". Phạm Ngọc Tiến dắt lưng vô số cốt truyện và thỉnh thoảng lại đem.. cho. Cho chẳng biết có ai nhận không nhưng nhiều cốt truyện hay cứ treo lơ lửng ở những quán bia mà chính chủ cho đến giờ vẫn chưa thèm viết. Nhiều tác phẩm của Phạm Ngọc Tiến gây kịch tính ở cách lật ngược vấn đề, nhân vật truyền hình cũng mang nhiều nét đặc trưng hóm hỉnh của tác giả kịch bản như Quềnh, Tòng, Khuếnh, Ló, Dỏ.. Văn là người. Nhớ có lần đúng đợt cúm gà, anh bảo mình vừa đi thăm trại gà về xong. Tôi giật nẩy mình theo phản xạ hơi lùi ra xa, Nhăn mặt kêu nhỡ đâu lây cúm từ gà thì sao. Anh bảo "Có mà chủ trại nó sợ anh lây cúm sang gà của nó ấy. Khi vào bắt anh mặc quần áo bảo hộ kín từ đầu đến chân cho đỡ dây bẩn trại gà". Năm rồi gia đình anh xây nhà mới. Ròng rã gần năm trời Phạm Ngọc Tiến thuê một căn nhà cấp bốn để lấy chỗ vừa đặt laptop viết kịch bản truyền hình vừa trông công trình. Hỏi thăm hôm nay anh có đi làm hay không thì nhà văn kêu lên "Làm gì có.. quần mà đi làm". Là vì nóng nực nên anh chỉ bận xà lỏn để chỉ đạo việc xây dựng cho tiện, suốt tháng như thế, quần áo chắc vứt lộn xộn đi đằng nào mất. Mùa hè có hôm nóng đến 39oC, lại còn nghe tin chủ công trình vừa bị ngã gãy chân, tôi hình dung nhà văn quay ra quay vào trong túp lều không máy lạnh mới phàn nàn rằng sao anh không mua căn hộ chung cư mà ở cho tiện, cớ gì phải trông nom gạch vữa khổ thế. Phạm Ngọc Tiến bảo không, chung cư nào mà được ở ven hồ thế này, một mình một cõi rộng thênh thang, rồi ngôi nhà này sẽ có phòng làm việc riêng hoành tráng, cả bể sục nữa, khác gì biệt thự. Rồi trong lúc mơ về ngôi nhà tương lai, Phạm Ngọc Tiến cằn nhằn, mà tôi hình dung ở đầu dây bên kia anh đang vã mồ hôi trong căn hộ thuê tối om và ẩm thấp "Đây này, giờ mà có gã nào già rồi còn bỏ vợ đi lấy vợ hai thì cũng chỉ đến ở trong cái nhà thế này thôi. Vợ trẻ con thơ, khổ, rồi lại xách nước đi rửa đít cho con". Tôi lại cười ngất, không biết vì cơn cớ gì mà anh lại có ngay một sự liên tưởng kỳ quặc như thế. Có lẽ đâu anh đang tự hình dung ra mình, lỡ có yêu cô gái trẻ, bị vợ đuổi ra khỏi căn biệt thự trong mơ ven hồ, rồi đèo bòng vợ mọn con thơ trong ngôi nhà cấp bốn tạm bợ, quay trở lại thời kỳ kinh hoàng của chỗ ở chật hẹp thiếu điện thiếu nước thời bao cấp. Phạm Ngọc Tiến dường bị ám ảnh bởi điều ấy, thời ấy, và tôi có thể đọc thấy nó trong những tác phẩm của anh. Thời gian gần đây, anh viết ít đi vì bao nhiêu thời gian dồn hết cho kịch bản phim truyền hình. Người ta biết nhiều đến anh lại qua cái tên xuất hiện trên màn ảnh nhỏ của "Chuyện làng Nhô", "Đất và người", "Ma làng", "Gió làng Kình", "Chuyện phố phường".. Có lẽ giống như nhiều nhà văn khác, sự mưu sinh đã khiến anh phải "kìm hãm" niềm đam mê sáng tác lại. Cách đây nhiều năm, Phạm Ngọc Tiến hay nhắc đến chuyện ô tô. Anh chăm chỉ đi học lái xe, thi lấy bằng, rồi cũng mua được xe. Xe xịn hẳn hoi. Anh yêu chiếc xe lắm, âu yếm chăm chút như bà mẹ mới sinh con so, thấy vệt phân chim trên cốp cũng phải lau chùi cho sạch. Phạm Ngọc Tiến đi xe máy hay gặp tai nạn, cũng là vì những cuộc nhậu triền miên khiến anh không còn phân biệt được đâu là đất đâu là trời. Đến khi có xe hơi, trong cốp xe luôn để sẵn can rượu, hà cớ gì mà không va quệt cho được. Đi xe máy va quệt thì tự mình gãy chân, xe hơi va quệt chân tay không sao nhưng mỗi lần cho "con cưng" vào bệnh viện xe hơi cũng mất ngót chục triệu, lại có bữa cán người như chơi. Thỉnh thoảng lại nghe Phạm Ngọc Tiến gọi điện giọng buồn so, thông báo hôm qua anh vừa bị quệt xe. Riết rồi thấy anh đi.. xe đạp, bảo luyện tập cho khỏe người, nhưng tôi ngờ rằng anh tông xe nhiều quá đâm sợ, xe quẳng cho vợ đi, bốn bánh thay thế bằng hai bánh đạp chân. Bận ấy chúng tôi có cuộc tọa đàm, cuối buổi liên hoan mạn Hồ Tây, Phạm Ngọc Tiến bảo đi trước. Lát sau ngang qua khu chợ Hàng Da, tôi và nhà văn Đặng Thiều Quang phóng xe máy vù vù, thấy tác giả của "Tàn đen đốm đỏ" đội mũ tai bèo, túi dết bắt chéo đang guồng chân đạp xe phía đằng sau. Chẳng ai dám cười, phóng xe đi trước thì áy náy, mà cứ tà tà đi song song với ông đội mũ tai bèo giữa lúc phố phường đang nghẽn tắc cũng chẳng ra làm sao. Phạm Ngọc Tiến phẩy tay, giọng đã theo nhịp đạp "Đi trước.. đi trước đi". Hai năm sau khi tậu xe hơi thì Phạm Ngọc Tiến báo xây nhà. Anh thông báo tiến độ thi công một cách hào hứng, cầu thang thế nào, bồn tắm ra sao. Tôi biết ngôi nhà là tâm huyết và mơ ước của nhà văn. Bữa ấy tôi đến thăm quan sau khi nhà khánh thành đã lâu. Ngôi nhà nằm ven bờ nước, rộng thênh thang với phòng khách có cửa sổ trắng to tướng trông ra hồ, nhạc Trịnh bật réo rắt. Anh dẫn khách vào từng căn phòng, tầng thượng có bể sục Jacuzzi ngang khách sạn năm sao, phòng làm việc riêng trên tường treo chiếc bi đông nước bằng sắt đã tróc lở từ thời còn trong quân ngũ, buồng tắm để sẵn chiếc kính mà khi đeo lên mắt thì có hai ngọn đèn sáng quắc hai bên gọng, ấy là kính để đọc sách. Dường như lúc nào nhắc đến Phạm Ngọc Tiến thì tôi cũng muốn mỉm cười. Ngay cả đồ đạc trong nhà anh cũng hồn nhiên và ngộ nghĩnh như chủ nhân của nó vậy. Thời hoàng kim của Phạm Ngọc Tiến (mà nhà văn Nguyễn Quang Lập gọi là "thời huy hoàng say" trong một bài viết chân dung cùng tựa đề về ông bạn vàng) có lẽ không khi nào không Thấy anh bên những tiệc rượu khi ngớt giờ làm việc. Phạm Ngọc Tiến nhiều bạn thân, lại yêu rượu như bạn, bạn bè cũng yêu anh, rượu chắc cũng yêu anh, nên thể tất không thể không ghép hai thứ ấy lại với nhau. Chuyện say của Phạm Ngọc Tiến có nhiều giai thoại, thật như đùa, đùa như thật, khiến tôi không biết có nên tin hay không. Nhưng tôi biết nhiều năm, cứ đêm giao thừa Tết Tây là anh lại hay ra biển, với bạn hoặc một mình. Lúc ấy anh gọi điện, với những câu chuyện bất tận không đầu không cuối, sau vài lần kinh ngạc thì tôi quen tính, biết đầu dây bên kia sau vài ly rượu đang tưởng gió biển là gió quạt nhà mình, nếu có bận việc gì mà đặt máy đó để đằng kia tự độc thoại rồi nhấc lên nghe tiếp chắc cũng không sao. Trong những lúc say, bản tính thật của con người thường trỗi dậy nhiều nhất, ấy là lúc nhà văn quên mất cuộc đời không phải lúc nào cũng được phép hào phóng của mình, mới mở ví phân phát cho các cô phục vụ. Mỗi cô được một tờ bạc mệnh giá cao nhất, phát cho kỳ sạch ví mới thôi. Sáng sau hỏi bạn quái thật sao tiền để trong ví nhiều thế mà rơi đâu mất cả rồi. Nhưng thời gian sau này, thấy anh uống rượu thưa dần, chỉ còn dám uống rượu vang. Thì khắp văn giới đều biết Phạm Ngọc Tiến mắc bệnh tiểu đường. Ông Trời thường như thế, rất thích lấy đi của người ta những gì yêu thích nhất. Rượu lại là kẻ thù của căn bệnh chết người này. Trong hai thứ rất tệ thì đành chọn một phương án đỡ tệ hơn. Anh bắt đầu đi tập yoga, ngồi với bạn chỉ trò chuyện và uống cầm chừng. Nhưng nhìn bạn uống tì tì mà mình phải nhịn thì rõ là sinh lòng đố kỵ. Phạm Ngọc Tiến chọn thêm phương án thứ ba: Quyết không gặp bạn nữa. Kiêng cữ tuyệt đối như thế, con người anh bỗng dưng trở nên là lạ, khang khác với những người từng quen biết. Đến nơi làm việc của anh, giờ không còn thấy anh khoe các loại rượu thuốc, khoe cả với tôi - người chẳng đụng đến một giọt rượu bao giờ, mà chỉ còn nghi ngút mùi thuốc bắc. Đang nói chuyện qua điện thoại cũng nghe cuống quýt "Thôi nhá, anh phải đi tắt ấm thuốc bắc", rồi cúp máy cái rụp. Có ai rủ đi ăn trưa thì bảo thôi tôi còn phải uống thuốc bắc cho đúng giờ. Từ bận có nhà mới, dường như anh càng không muốn rời khỏi nhà. Anh bảo anh đang nghiên cứu đạo Phật, giờ đã tận diệt hết mọi ham muốn, chỉ còn mỗi.. tham sân si thôi. Chẳng biết Phạm Ngọc Tiến đắc đạo đến chừng nào mà anh tiết lộ 5 năm nữa sẽ cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết khủng, trong đó một cuốn sẽ là.. "bom sex". Hỏi tại sao không viết ngay, bảo còn phải nghiên cứu thêm triết lý nhà Phật. Nói chuyện với Phạm Ngọc Tiến thường là thế, không biết đâu là thật đâu là giả, cuối cùng chỉ còn lại nụ cười. Phạm Ngọc Tiến từng nói rằng: "Tôi chỉ là nhà văn thuộc về số đông các nhà văn, nghĩa là hành nghề văn chương một cách chính đáng, yêu thích, có thể thuần túy hoặc trong các lĩnh vực lân cận, chứ không thuộc các nhà văn số ít. Họ là những người hiếm hoi có thể để lại dấu ấn trong nền văn học. Tôi cũng không đặt mục tiêu phải trở thành nhà văn lớn." Nhưng tôi biết ám ảnh văn chương vẫn đeo đuổi anh hàng ngày, hàng giờ. Khả dĩ mất đi những niềm yêu thích là rượu và bạn rượu, có thể chăng âu cũng là điều may mắn. Để rồi trong ngôi nhà ven hồ, anh sẽ lại tiếp tục dồn tâm sức cho một trong những tình yêu lớn là văn học. Phạm Ngọc Tiến luôn khát khao được.. học giỏi tiếng Anh. Nhưng từ bận đầu lên cơ quan anh nhìn thấy chữ "Passport", "Can you help me?" trên bảng trắng, mà anh giải thích rằng đang chăm chỉ tự học tiếng Anh để đi nước ngoài cho chủ động, năm sau đến vẫn thấy nguyên những chữ ấy trên bảng, chưa thêm được chữ nào. Tuần trước, anh nhờ tôi gọi điện giùm đến đại sứ quán để trao đổi vài câu với tùy viên về việc cấp thị thực sang châu Âu. Hẹn để đưa máy nói chuyện nhưng điện thoại của tôi sáng ấy lại trục trặc sao đó nên tôi cũng không gặp được anh. Khi đã liên lạc được, tôi áy náy quá bảo làm thế nào bây giờ. Anh lại phẩy tay qua điện thoại, chắc thế, "Anh tự gọi rồi, nói chuyện được rồi, nó hiểu". Tôi kinh ngạc "Làm sao mà người ta hiểu được anh?". Bảo "Anh tự giới thiệu: I am Phạm Ngọc Tiến. I am a writer." – "Vâng, rồi sao nữa?" – "Nó à lên rồi nói tiếng Việt, hóa ra nó biết tiếng Việt". Ba hôm sau thì Phạm Ngọc Tiến bay sang Cộng hòa Séc. Giờ chắc anh đang nói chuyện rất rôm rả bằng một thứ ngôn ngữ riêng nào đó của Phạm Ngọc Tiến bên trời Âu. Còn tôi thì nhân ấy viết trộm những dòng này. Nguồn: An ninh thế giới (2011) Lời tác giả: Lúc gửi bản thảo cho nhân vật đọc duyệt, Phạm Ngọc Tiến đang ở bên CH Séc, thấy reply lại rằng "Để hôm về anh kể cho em nghe chuyện: Tôi đã biết hết các màu tóc như thế nào. Đảm bảo đàn ông nước Việt đều phải ngả mũ". Tôi hỏi lại: Chắc anh.. vào cửa hàng tóc giả hử?
Con nợ của nhân gian Bấm để xem "Nhà phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế. Tôi từng cộng tác với nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhiều lần, nói nhờ vả thì đúng hơn, và lần nào cũng lắm sự không thể không viết thành chuyện. Phạm Xuân Nguyên thì khối người nhờ vả, và cái tính cả nể của anh đâm thành giai thoại. Nhà văn Nguyễn Quang Lập có lần nói rằng Phạm Xuân Nguyên là người không thể nói "không". Từ sáng chí tối, anh "được" vô số lời mời, mời hội thảo, mời tọa đàm, mời khai trương, mời ra mắt sách, cả mời tiệc tùng đình đám, và "bị" nhờ, nhờ viết bài cho báo, nhờ dịch sách, nhờ viết tiểu luận, phê bình, nhờ làm MC, nhờ đọc tham luận, nhờ nhận xét, nhờ đủ thứ nhờ. "Được" hay "Bị", cái gì cũng không thể nói "không". Thật bi kịch khi Thượng đế không cho Phạm Xuân Nguyên 48 tiếng một ngày nhưng lại ban cho cái đức luôn luôn nói "có". Thế mới sinh ra chuyện. Thoạt đầu tôi không biết điều ấy, mới nhờ Phạm Xuân Nguyên viết giùm cho một lời giới thiệu đầu sách. Là tôi được nhà xuất bản đề nghị đứng ra tuyển chọn một tập 18 tác giả trẻ. Lần đầu tiên làm việc này, tôi tâm huyết lắm. Và sau khi chọn chọn lựa lựa, tính tới tính lùi, tôi quả quyết rằng không ai khác có thể thực hiện được công việc rất quan trọng này giùm tôi ngoài Phạm Xuân Nguyên. Anh nhận lời ngay, một cái gật đầu rất sốt sắng (là lúc ấy tôi cảm thấy thế). Ngày hẹn trả bài đã đến, tôi gọi điện cho Phạm Xuân Nguyên. Anh bảo anh chưa xong, và nói bằng giọng nghiêm trọng như đang khảo cứu một công trình lớn "Anh biết cuốn này em mất nhiều công sức, anh đọc cũng thấy thế nên muốn viết cho thật kỹ". Tôi cảm động lắm, lại cảm ơn rối rít và hẹn ngày trả bài. Cùng hôm ấy, tôi đến công ty phát hành đã đặt hàng tôi tập sách. Tôi khoe rằng cuốn sách sẽ rất oách, vì chính Phạm Xuân Nguyên đã nói rằng "Anh biết cuốn này..". Chị giám đốc cười rộ "Ôi dào, ông ấy nói thế đấy. Đây này, vẫn còn nợ đây hai cuốn sách dịch hơn năm nay chưa trả được". Gặp biên tập viên của NXB Phụ nữ, tôi lại khoe về cuốn sách tuyển chọn đầu tay, và để chứng minh cho chất lượng của nó, chẳng gì bằng trích dẫn lại lời của Phạm Xuân Nguyên "Anh biết cuốn này..". Chị biên tập viên cười mím chi "Bác ấy nói vậy thôi, là lười chưa làm. Bác ấy vẫn còn nợ bên chị mấy việc đã xong đâu". – "Không, nhưng mà anh Phạm Xuân Nguyên bảo đã đọc cuốn của em rất kỹ..". Tôi chạnh lòng vì "công trình" của mình có vẻ bị phủ nhận, đành nói vớt mấy câu thế. "Thôi, có khi bác ấy còn chưa đọc đâu.", chị biên tập phẩy tay rồi nói sang chuyện khác. Đến chiều, nhà văn Nguyễn Quỳnh Trang, phóng viên báo Thể thao&Văn hóa gọi điện cho tôi có công chuyện. Quỳnh Trang cũng có một tác phẩm trong tập. Nhân tiện tôi báo cho cô biết tập sách đã hoàn thành, chỉ còn chờ lời bạt của Phạm Xuân Nguyên nữa là đưa vào máy in. Tôi nhắc lại "Phạm Xuân Nguyên đã bảo rằng..". – "Ôi trời," Quỳnh Trang cắt ngang lời, "thế thì chị chờ còn lâu. Phạm Xuân Nguyên không có thời gian để làm việc ấy đâu. Chị không biết rằng nếu Phạm Xuân Nguyên nhận lời hẹn với ai mà trên đường đi gặp một người khác là chú ấy rẽ ngang vào quên ngay cuộc hẹn thứ nhất à?". Rồi Trang mắng tôi xơi xơi "Mà sao chị lại cứ nhờ ông ấy vào lúc này. Báo Tết bên em đang chờ bài của Phạm Xuân Nguyên, ngày in đến nơi rồi mà em phải giục suốt từ hôm nọ đến giờ. Thôi thôi, chị đừng nhờ vả gì nữa để chú ấy viết bài cho bọn em cho xong đi". Lần này thì tôi tổn thương ghê gớm. Tôi gọi điện ngay cho Phạm Xuân Nguyên với vẻ không hài lòng. Tôi trách rằng tại sao anh nợ nần nhiều như thế mà còn nhận lời viết cho tôi. Phạm Xuân Nguyên bảo yên trí, yên trí, nợ rồi sẽ lần lượt được trả hết. Từ bữa đó, niềm tin trong tôi bị lung lay. Tôi bắt đầu ráo riết "thúc nợ". - Đây, đêm nay anh sẽ ngồi viết. Sáng mai em mở hộp thư ra sẽ thấy bài. Tôi yên trí ngủ ngon. Sáng sớm khấp khởi mở máy tính, vào mailbox. Không thấy bài. - Em chưa thấy bài? Anh gửi lại đi. - Vậy à? Thế thì anh còn đoạn kết nữa, nhất định đêm nay sẽ hoàn thành nốt. Tôi chờ ngót một tháng sau mới nhấc máy điện thoại nhắc nhở "đoạn kết". - Đúng 7 giờ sáng mai là em sẽ nhìn thấy bài. – Phạm Xuân Nguyên tuyên bố chắc nịch như thế. Tất nhiên đến 7h tối hôm sau trong mailbox của tôi vẫn chỉ thấy toàn thư rác của Agoda, Airasia và Vietnamairline. Trong khi đó, phía công ty sách liên tục giục giã "Em ơi, hay là thôi mình cứ in đi nhé. Hoặc em nhờ người khác. Chị nói rồi. Bác ấy không viết đâu". Không. Tôi có thói quen đã làm việc gì là làm đến cùng, và cái việc thúc giục một "con nợ gan lì" như Phạm Xuân Nguyên cũng phải làm đến cùng. Đúng đợt đó là Hội nghị quốc tế Văn học Việt Nam, tôi biết Phạm Xuân Nguyên đến đấy sẽ "sa vào lưới" của vô số những bạn văn trong nước và quốc tế. Tôi gọi điện ốp và ngạc nhiên khi thấy đang giờ "hot" của hội nghị mà Phạm Xuân Nguyên lại ở nhà. - Đây, tôi phải ở nhà để viết bài cho chị. Có dám đi đâu đâu. Ai gọi điện mời mọc tôi cũng từ chối hết. Tôi lại cảm động lắm lắm. Sáng hôm sau gặp Phạm Xuân Nguyên tại hội nghị. Như một phản xạ có điều kiện, lập tức tôi gào lên từ "Bài" thay cho câu "Chào". - À, đúng chiều nay anh sẽ gửi. - Sao lúc chiều qua anh bảo anh đang ngồi viết? - Ừ thì.. viết được nửa bài rồi thấy bí, đứng lên để đến đêm viết tiếp. - Đêm viết tiếp thì bài đâu? - Thì anh viết rồi thấy không ưng lại.. xé đi viết lại. Vẫn giọng nghiêm trang như đang đứng giữa hội thảo quốc tế. Trời đất quỷ thần ơi. Cứ thế này thì phát điên lên mất. Tôi biết Phạm Xuân Nguyên chưa đụng bút được chữ nào. Lần cuối cùng gọi điện thúc giục, tôi nghe tiếng chuông đổ một cách giận dữ khác thường, tôi đồ rằng Phạm Xuân Nguyên sẽ "trốn nợ" mà không dám nhấc máy, ai ngờ nhấc ngay sau hồi thứ hai. Miệng tôi còn tròn vo chưa kịp trút hết nỗi điên tiết thì từ đầu dây bên kia, giọng xứ Nghệ đã đều đều cất lên, nghiêm trang và kính trọng: - Dạ thưa chị, em đây ạ. Chị có điều gì chỉ bảo? Khuôn miệng tròn vo lại kéo ngang đến mang tai. Vừa buồn cười vừa tức anh ách. Và tôi đồ rằng mình không phải là người duy nhất ở nước Nam này điên tiết với Phạm Xuân Nguyên như thế. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên. Ảnh Đoàn Hồng Sau bận ấy thì tôi giận thật. Phạm Xuân Nguyên đành nói cùn "Càng tốt. Càng đỡ bị nhờ vả". – "Ừ, lần sau em cũng chẳng dám nhờ anh nữa". Nhưng rồi tôi vẫn cứ chờ bài. Nhưng rồi tôi vẫn phải nhờ vả Phạm Xuân Nguyên. Thiên hạ có tức thế nào thì tức, tức như phải đấm lần sau vẫn đành hạ giọng nhờ. Nhiều lần, nhà xuất bản tổ chức lễ ra mắt tác phẩm của tôi. Không thể nhờ ai khác ngoài Phạm Xuân Nguyên làm MC, dù rất không muốn nhún nhường năn nỉ một người mà mình đã tuyên bố "không thèm nhờ vả gì nữa". Người có khả năng hoạt ngôn, mà lại hoạt ngôn trong lĩnh vực văn học dường như tìm không nổi người mà đếm trên đầu ngón tay. Có Phạm Xuân Nguyên, người ta yên tâm chương trình dù bị phát sinh rắc rối, dù có khuyết thiếu, dù xuất hiện thêm nhiều thành phần quá khích vẫn thành công trong tiếng cười hỉ hả. Phạm Xuân Nguyên hoạt ngôn cả trên bàn tiệc cũng như trước sân khấu lớn, trước công chúng trong nước cũng như quốc tế. Dường như anh có cái biệt tài thâu tóm mọi đầu mối trong khán phòng để tung hứng với kho ngôn ngữ và chữ nghĩa lúc nào cũng đầy ắp. Thậm chí còn có thể biến một bài diễn văn rất dở và tẻ nhạt của một cử tọa thành điểm nhấn ấn tượng và hài hước. MC là viết tắt của từ Master of Ceremony. (Người làm chủ buổi lễ) và Phạm Xuân Nguyên luôn trở thành người chủ của mọi buổi lễ mà anh tham dự. Đâm ra Phạm Xuân Nguyên thành rất "đắt sô". Từ talk show của Hội đồng Anh, tọa đàm văn học của Hội nhà văn, họp báo ra mắt sách cho đến các hội thảo văn học lớn nhỏ đều không thể không mời MC tay ngang này. Có bận một cháu bé lớp bốn khoe với chúng bạn rằng cái bác trên ti vi kia là bạn của bố tớ. Thế là nhân một sự kiện của nhà trường, "bố tớ" năn nỉ bạn quý Phạm Xuân Nguyên đến dẫn chương trình, giao lưu với các cháu. Nhà văn Trần Thanh Hà có lần bình luận rằng "Đến nói chuyện với các cháu lớp bốn, bác ấy còn nói được.." Việc nước đã thế, đến việc tiệc tùng Phạm Xuân Nguyên cũng không thoát khỏi cảnh bị chèo kéo. Không biết có khi nào anh nghĩ rằng thiên hạ "giành giật" anh để nhờ vả hoặc chỉ để uống một ly rượu là sự khốn khổ hay hạnh phúc. Những bàn tiệc có anh không khi nào ngớt tiếng cười. Phạm Xuân Nguyên có một kho chuyện như cái nồi Thạch Sanh không bao giờ cạn. Hay có đôi khi, chỉ một cách chơi chữ, một từ phát kiến hoàn toàn mới cũng khiến cho những người cùng bàn phì cười bó tay trước kẻ mà sự phản ứng nhanh nhậy trong các nơ ron thần kinh dường như tỉ lệ thuận với tuổi tác. Phạm Xuân Nguyên có sự thông minh, hóm hỉnh và vừa khiêm nhường, vừa cao ngạo đặc thù của một ông đồ xứ Nghệ. "Nhà phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế. Ngạo mà không ai trách. Ngạo mà không ai ghét. Người ta thường có một câu nhận xét rất chung về Phạm Xuân Nguyên "Gã này cực kỳ thông minh". Cho đến giờ này, Phạm Xuân Nguyên là người duy nhất ở Viện Văn học chỉ có bằng cử nhân, và là một trong số rất ít những người thuộc giới viết lách, phê bình chuyên nghiệp viết rất nhiều mà lại chưa in sách, chưa khi nào có ý gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam. Phạm Xuân Nguyên chả lấy đó làm điều. Đi đâu còn phàn nàn rằng "Cũng là hạn chế đấy, vì nhiều trường đại học muốn mời tôi về giảng mà tôi chỉ có bằng cử nhân". Chuyện này làm tôi nhớ đến nhà thơ Trần Hòa Bình, người chưa bao giờ in một tập thơ khi còn sống, chưa có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam, và thấy loay hoay làm tiến sĩ một hồi rồi lại bỏ ngang, xách ba lô lên rừng xuống bể. Chỉ những người rất tự tin vào tri thức của mình, chỉ những người đã có danh tiếng, danh vị mà coi nó như thứ phù du mới có thể đứng giữa thiên hạ mà ngang như thế. Có một điều khiến tôi rất nể Phạm Xuân Nguyên là anh có thể tự học được ngoại ngữ. Là người làm việc trong chuyên ngành ngoại ngữ, tôi biết học một ngôn ngữ thứ hai gian lao như thế nào và cần phải có những quy trình gì. Vậy mà Phạm Xuân Nguyên tự học. Nhập ngũ ba năm thì cũng ôm mấy cuốn tự học nhàu nát mà xong được tiếng Nga, tiếng Pháp. "Xong" ở đây là mang nghĩa thành dịch giả chuyên nghiệp. Với bút danh Ngân Xuyên, dịch giả tự học Phạm Xuân Nguyên đã chuyển ngữ được cả những cuốn của Milan Kundera, một trong những tác giả khó dịch nhất, và những tập lý luận phê bình nặng ký. Nhưng có một điều kỳ quặc mà có lần tôi gợi ý nếu anh gửi hồ sơ rất có thể sẽ có tên trong Guinness. Ấy là anh dịch thành thạo được cả Anh, Pháp, Nga nhưng chẳng nghe nói được câu nào, nửa chữ cũng không. Đi dự hội thảo quốc tế chỉ biết cười hì như người dốt thật. Vậy mà chẳng biết làm cách nào vẫn giao tiếp thân thiết được với Cao Hành Kiện và nhiều bậc danh gia khác. Có bận tôi sang Bắc Kinh, trong quá trình công tác có làm việc với dịch giả Điền Tiểu Hoa. Tôi hỏi chị có biết nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên không. Điền Tiểu Hoa quay sang nhìn tôi ngạc nhiên "Sao lại không biết?" và nói rằng anh Nguyên là một người đáng kính trọng. Lần này tới Hà Nội, nếu ăn tối với chúng tôi, chị nhất định mong muốn được mời Phạm Xuân Nguyên đến tham dự. Nhiều người biết Phạm Xuân Nguyên, lắm người quý mến anh, âu cũng là nỗi khổ. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến có lần nói với ông bạn thân rằng "Phạm Xuân Nguyên yêu quý cả nhân loại. Kẻ yêu tất cả mọi người là kẻ không yêu ai cả", rồi đay nghiến thêm "Ngày đi làm, tối đi nhậu, đọc vào lúc nào mà lại viết được, nói được lắm thế". Tôi đem điều đó giễu lại Phạm Xuân Nguyên. Lần này thì anh có vẻ tổn thương. Anh bắt đầu cố gắng chứng minh rằng không phải anh "yêu" tất cả, rằng trong phê bình anh là người nghiêm túc, phê phán thẳng thừng, không yêu quý gì hết. Riêng điều này thì tôi công nhận, vì mặc dù là một "chủ nợ" khắc nghiệt, chưa khi nào tôi được "con nợ" ăn năn bằng cách khen ngợi "trả nợ" về tác phẩm của mình. Rõ là đối với Phạm Xuân Nguyên, nợ nào đi nợ đấy. "Nỗi tổn thương" của nhà phê bình còn thể hiện ở một sự rất kỳ quặc và ngộ nghĩnh. Ấy là cái bận tôi có một cuộc tọa đàm tác phẩm và đề nghị Phạm Xuân Nguyên viết tham luận. Sáng trước ngày tọa đàm, anh gọi điện cho tôi bảo giờ anh đang đi công tác, chiều muộn mới về, sách anh chưa có, tôi cứ đến nhà anh mà gửi lại qua bà trông xe đạp xe máy ở khu tập thể, lúc nào về anh sẽ đọc. Tôi tá hỏa. Sáng mai đã phải có tham luận. Cuốn sách dày như thế, còn phải đọc, còn phải viết, còn phải ngẫm nghĩ. Tất cả những việc ấy làm vào lúc nào. Tôi rầu rầu mà rằng "Nếu anh có nhận được sách của em thì cũng cố gắng đọc cho hết hai truyện nhé. Có 10 truyện tất cả nhưng đọc hai thôi cũng được". Phạm Xuân Nguyên ngạc nhiên "Sao lại thế? Anh phải đọc hết chứ." Tôi cười méo mó qua điện thoại. - Là vì em thấy mọi người bảo anh chỉ đọc một trang đầu, một trang giữa, và một trang cuối, thế là viết được thành một bài 10 trang giấy. Tối hôm ấy, Phạm Xuân Nguyên gọi điện cho tôi, thông báo đã nhận được sách và giờ đang ngồi đọc. Anh nói rằng anh tìm thấy hai lỗi chính tả, lỗi thứ nhất là ở trang 15, dòng thứ 9 từ trên xuống, tôi viết nhầm tên nhà sư trụ trì với tên ngôi chùa, lỗi thứ hai là dòng đầu tiên ở trang 20, tôi gõ nhầm chữ "khai thác" thành "khai khác". - Vâng? – Tôi kiểm tra lại thông tin, xác nhận thế và chờ đợi. - Ừ.. thế thôi. – Nói xong nhà phê bình cúp máy. Tôi ngơ ngác. Tôi tưởng có chuyện gì quan trọng trong phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Mãi mới nghĩ ra, Phạm Xuân Nguyên vẫn còn rất ấm ức về chuyện bị vu oan rằng "không đọc gì mà vẫn viết được". Nay anh chứng minh cho tôi thấy rằng anh đọc rất kỹ, kỹ đến mức tìm được cả hai lỗi chính tả nhỏ xíu. Tuy nhiên, sáng hôm sau, tại buổi tọa đàm, Phạm Xuân Nguyên không cần đến một tờ giấy ghi chép mà vẫn có thể tham luận về tác phẩm, với những chú dẫn, dẫn giải tỉ mỉ ở từng chi tiết, một việc sẽ là bất khả thi ngay cả với người có đọc mà không kỹ. Sau đó tôi mới biết những gì người ta vẫn nói về Phạm Xuân Nguyên chỉ là giai thoại. Tất cả đều biết rằng một ngày của anh chỉ có 24 tiếng, anh luôn trở về nhà khi đã muộn và thường cắt thời gian ngủ ra để làm việc. Phạm Xuân Nguyên làm việc đêm, và làm việc rất nhanh, đọc rất nhanh, việc người khác làm cả tháng thì với anh chỉ bằng một phần nhỏ thời gian như thế. Đấy là cái sự trời cho. Phạm Xuân Nguyên nói rằng anh thích làm việc đêm bởi vì những khi đối mặt với chiếc máy vi tính và công việc nợ nần ngập đầu, anh sẽ tạm quên đi bốn bức tường trống vắng ở bên trong thời khắc mà con người dễ cô quạnh nhất. Ngày cuối năm, người ta bảo "vui như Tết" thì Phạm Xuân Nguyên nói "buồn như Tết". Anh sợ những khoảnh khắc cô độc một mình của giao thừa, khi mà những gia đình đông đủ sẽ đầm ấm bên nhau, còn những người độc thân chỉ chờ từng giờ cho qua đi ba ngày Tết, để rồi sau đấy, ra Giêng, anh lại khỏa lấp sống đời bằng những nợ nần của nhân gian. Nguồn: VnExpress (Xuân Tân Mão) Lời tác giả Báo Tết vừa ra lò, Phạm Xuân Nguyên gọi điện cho tôi "Cảm ơn cô đã bêu riếu tôi trên báo", và ngay sau đó ông Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội cũng đồng thời gửi "trả nợ" bài viết kia cho tôi. Chắc ông cũng sợ "tai tiếng" trước công chúng rằng nợ nần lâu quá.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa làm bố như thế nào Bấm để xem Thần đồng Trần Đăng Khoa từng "lẫy lừng" với những tin đồn thật có, giả có, nay nhiều người trong và ngoài giới văn nghệ lại rộ lên với cái tin "Một thần đồng mới xuất hiện trong ngôi nhà của Trần Đăng Khoa". Trần Đăng Khoa luôn là một tên tuổi 'hot'. Trần Đăng Khoa lấy vợ. Trần Đăng Khoa làm bố. Người hâm mộ lúc nào cũng quan tâm đến những chi tiết đời tư của nhân vật đã nổi tiếng từ lúc còn cặp sách đến trường. Trong bài phỏng vấn này, PV báo Phụ nữ Thủ đô đã kéo cả bà nội tướng của Trần Đăng Khoa vào cuộc. Phỏng vấn nhanh ông bố nổi tiếng Chào nhà thơ Trần Đăng Khoa, nghe tin anh mới sinh cháu. Độc giả tò mò muốn biết liệu có phải một thần đồng tí hon vừa mới xuất hiện không? Cảm ơn bạn đã quan tâm đến cháu. Làm một thần đồng không hay ho gì đâu bạn à. Vì thần đồng là một đứa trẻ không bình thường. Tôi cầu mong con gái tôi không phải là thần đồng. Tôi sẽ đầu tư cho cháu học, dạy cho cháu thành một người tử tế.. Anh có thấy cuộc sống thay đổi khi đang từ chỗ một thân một mình lại có thêm "nhân khẩu" rồi lại "nhân khẩu" nữa không? Có chứ, khi một người trưởng thành, xây dựng gia đình là một bước đột biến, khi có con, lại thêm một bước đột biến nữa. Khi đó anh ta không còn sống cho riêng mình nữa, mà sống cho vợ, cho con. Tôi rất tâm đắc một câu thơ của thi sĩ Thanh Thảo, khi ông cho rằng, ta nói yêu Tổ quốc, yêu nhân dân bao giờ cũng dễ dàng, đơn giản, vì ta được là người yêu nước, nhưng lại chẳng mất gì. Còn nói yêu vợ, yêu con, hay yêu một người bạn cụ thể nào đó thì vai ta đã phải gánh vác một trách nhiệm rất cụ thể. Trong thời gian này, ai là "nội tướng" trong gia đình anh? "Nội tướng" trong gia đình tôi chính là cô con gái bé bỏng của tôi. Có khi tôi vừa về, bà vợ đã truyền "lệnh" : Ôsin đâu, đi múc nước rửa đít cho vua nhé. Vua mà nhức đầu sổ mũi thì các quần thần, các Ôsin đủ các kích cỡ - là ông bà, bố mẹ chạy nháo nhào. Nhà thơ Trần Đăng Khoa. Ảnh Nguyễn Đình Toán Anh có định thực hiện chỉ tiêu của nhà nước "Mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con" không? Hay giống luật "ưu đãi" của nhà nước Trung Quốc là nếu vợ chồng mà đều là tiến sĩ thì được phép có hai con thay vì con một như "phó thường dân", thần đồng Trần Đăng Khoa cũng muốn "sản xuất" thêm hàng loạt thần đồng nữa. Tốt nhất là chỉ nên có một đứa con và nuôi dạy nó cho thật đàng hoàng. Và nếu chỉ có một đứa con thì nên là con gái. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa rồi bị tai biến mạch máu não, ông phải nằm liệt giường trong một khoảng thời gian khá dài. Ông chợt phát hiện ra rằng, ông là người may mắn, vì có những hai cô con gái. Chúng luôn túc trực bên giường ông, bón thức ăn cho ông. Nếu có con trai không khéo nằm trên giường bệnh rồi, lại còn phải nơm nớp lo nó đua xe máy. Có đứa con gái tử tế, mình lại có thêm một thằng con trai chồng nó nữa. Và bạn hãy cứ để ý mà xem, nếu Tết, chỉ có một chai rượu thì thế nào nó cũng mang đi biếu bố vợ trước, còn bố đẻ thì xì xằng thế nào cũng được. Con trai trọng "đối ngoại" hơn "đối nội" mà. Vì thế, có con gái là "lãi" lắm đấy. Anh có ngại rằng khi thiên hạ biết bất kì một tin mới nào của anh, họ lại thổi phồng sự thật và kể lại thành một câu chuyện ly kỳ hoàn toàn khác? Tôi quen với những chuyện ly kỳ rùng rợn ấy từ rất lâu rồi, nên không thấy có gì đáng sợ. Vả lại, tôi rất tin bạn đọc. Những người đọc tôi, hiểu đúng rất đông. Họ lại rất thông minh. Họ biết cái gì là thật, cái gì chỉ là những chuyện tầm phơ. Thế thì có gì mà phải sợ hãi. Câu hỏi dành cho chị Trần Đăng Khoa Có bao giờ chị đang bù đầu lên vì việc mà anh Khoa lại ngồi văn thơ chữ nghĩa không? Không, về nhà tôi rất ít khi thấy anh ấy bàn chuyện văn chương. Chúng tôi chỉ quan tâm đến chuyện nuôi dưỡng bố mẹ già của hai bên nội ngoại và chăm sóc con cái. Chồng tôi chỉ viết từ bốn giờ sáng, có khi mới có hai giờ sáng, anh ấy đã ngồi vào bàn vi tính rồi, khi ấy cả tôi và cháu vẫn còn đang ngủ. Anh Khoa là một nhân vật có nhiều người hâm mộ, và họ quý anh đến nỗi đôi lúc xuyên tạc sự thật theo tưởng tượng của mình cho hình ảnh thần tượng thêm gần gũi. Cảm giác của chị lúc đó thế nào? Có tức giận không? Không, nói thật là tôi không đọc. Chỉ khi đến cơ quan, nghe bạn bè kể, tôi mới biết, và biết rồi thì chỉ thấy buồn cười. Nếu chỉ vì những chuyện nhăng nhắng như thế mà tức giận thì tôi đã không dám lấy anh Khoa. Nhà văn họ thường có đầu óc tưởng tượng rất phong phú, họ dựng được chuyện thiên đường, chuyện địa ngục, chuyện ma quỷ thì làm sao họ không dựng được những nhân vật lập dị, dở người. Tôi nghĩ đấy là những nhân vật trong văn học. Ai lại đi đồng nhất ông chồng của mình với những nhân vật hư cấu, tưởng tượng của nhà văn. Nhà văn nhà báo họ cứ phải "đàn sáo" như thế thì mới hấp dẫn, mới có nhiều người xem, chứ bình thường thì người ta xem làm gì. Tôi chẳng bao giờ quan tâm đến những chuyện đó. Có lần anh Khoa kể lại rằng anh ấy đưa cuốn sách cho chị đọc, nhưng chị lại úp lên mặt che cho khỏi sáng và.. ngủ mất. Đặc biệt trong thời điểm bận rộn con cái như bây giờ điều đó càng hay xảy ra. Phản ứng của chồng chị lúc đó thế nào? Anh ấy vui quá chứ sao. Vì như thế, tôi không phải uống thuốc ngủ. Anh ấy bảo uống thuốc ngủ rất không có lợi cho sức khỏe. Anh ấy rất sung sướng nếu tất cả bạn đọc của anh ấy cứ cầm lấy sách của anh ấy là buồn ngủ và ngủ ngon. Người ta nói rằng nhà văn nhà thơ tâm hồn luôn gửi theo gió trăng cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu như, chỉ nếu thôi nhé, chồng chị vì chán cảnh vợ con đùm đề mà chạy theo niềm vui mới thì chị sẽ xử trí ra sao? Tôi không phải băn khoăn lo "xử trí" gì, vì anh Khoa không có khả năng lang bạt giang hồ. Sống với anh ấy hai năm rồi, tôi thấy anh ấy chẳng có gì là "nhà thơ" hay "nhà văn" cả, mà chỉ là một người chỉn chu, dung dị bình thường như rất nhiều những ông chồng khác của bạn bè tôi. Tôi chọn anh ấy cũng vì anh ấy là một người bình thường như thế, chứ không phải anh ấy là người nổi tiếng. Nhờ thế chúng tôi có được một gia đình bình thường, nhưng rất hạnh phúc, vợ chồng chưa từng nói nặng với nhau một lời nào cả. Cảm ơn anh chị rất nhiều. Nguồn: Đời sống gia đình (2002) Lời tác giả Khi tôi liên hệ với Trần Đăng Khoa qua điện thoại, anh yêu cầu tôi gửi câu hỏi qua e-mail để anh trả lời trên văn bản cho chính xác. Nghe có vẻ như nhà thơ đã đầy tinh thần cảnh giác về những bài chân dung kinh dị mà nhân vật là "hắn", là "gã" rất ly kì. Mãi 8 năm sau, tôi mới được diện kiến Trần Đăng Khoa. Anh không hề biết tôi đã từng phỏng vấn anh. Khi tôi nhắc lại chuyện ấy, anh thú thật rằng sợ lắm các nhà báo chỉ ngồi một lúc là lên được bài chân dung, phỏng vấn khiến lắm lúc nhân vật tự xem mình cũng thấy thất kinh. Tôi nói với Trần Đăng Khoa rằng anh có một niềm hạnh phúc lớn, ấy là ở đâu người ta cũng biết đến tên Trần Đăng Khoa. Khi tôi hỏi sinh viên của mình về văn học Việt Nam thì các em chỉ kể được mỗi tên Trần Đăng Khoa. Cụ Kim Lân và cụ Tô Hoài cũng chỉ nhắc đến Trần Đăng Khoa. Tôi đùa "Nam phụ lão ấu đều biết đến anh. Dường như văn học Việt Nam đương đại người ta chỉ biết có Trần Đăng Khoa". Anh chẳng cười theo tôi, bảo "Thế phát thanh viên truyền hình đi đâu người ta chẳng biết đến tên. Biết đến như thế nào mới là quan trọng chứ".