Bài viết: 33 

Dị hương - Hoạt - Phiêu - Thõa
Hồi đầu tháng 10, có cuộc ra mắt tập truyện ngắn "Dị hương" của nhà văn Sương Nguyệt Minh tại một quán cà phê ở trung tâm Hà Nội, khách tới dự đông tới hơn 100 người, trong đó có nhiều tên tuổi được biết đến như nhà văn Bảo Ninh, Võ Thị Hảo, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Y Ban, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá... Nhiều nhà chuyên môn đã có lời phát biểu khiến cuộc tọa đàm giới thiệu sách bất ngờ gần như biến thành cuộc hội thảo, không khí trong khán phòng trở nên nhộn nhịp. Tàn cuộc, tác giả tập truyện ngắn của ngày hôm đó, nhà văn Sương Nguyệt Minh dường như không quan tâm lắm đến những lời phê bình mà chỉ bất ngờ vì khách đến đông quá. Anh bảo: "Chắc người ta thương mình".
Quả thật, trong năm 2009, người ta gần như đã bão hòa bởi các cuộc tọa đàm, ra mắt sách liên tục tháng nào cũng vài ba cuộc, hơn nữa, việc ra mắt một tập truyện ngắn hay tiểu thuyết, cho dù là tác phẩm mang nhiều dấu ấn văn học cũng khó thu hút nhiều tên tuổi đến thế tham gia, vậy mà những người đến với Sương Nguyệt Minh dường như không phải chỉ tham dự cho vui, rất nhiều vị đã đọc hết tác phẩm từ trước đó. Tập truyện ngắn "Dị hương" xuất hiện được coi như là sự đổi mới hoàn toàn phong cách sáng tác của nhà văn. Trước nay, cái tên Sương Nguyệt Minh thường gắn liền với những câu chuyện viết về đề tài chiến tranh và nông thôn, nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị, nhiều tính dục với bút pháp huyền ảo và giả tưởng trong tập "Dị hương" khiến nhiều người đọc lạ lẫm. Chính tác giả cũng nói rằng "Trước đây, tôi viết chân thật, dung dị, ấm áp hay dữ dội, u ám, hoặc tôi kể những câu chuyện cảm động, ám ảnh... thì cũng đều bằng cảm quan bút pháp hiện thực và lãng mạn là chủ yếu. Tôi nghĩ nhà văn vượt qua chính mình cũng là điều quá khó khăn, khổ ải, nhọc nhằn. Và cho đến lúc này, tôi cảm nhận mình đã vượt qua được tôi của ngày hôm nay."
Nhà văn Sương Nguyệt Minh viết sớm nhưng chính thức bước chân vào nghề văn muộn. Mới 10 tuổi, anh đã làm thơ tặng bạn gái cùng lớp chỉ vì cô bé bảo: "Tao toàn cho mày mượn thước kẻ, toàn cho mày bơm mực Cửu Long mà mày chỉ làm thơ tặng cô giáo, không làm thơ tặng tao." Thế là anh viết bài thơ "Con Na thả bèo hoa dâu" khen cô bạn thả bèo hoa dâu giỏi, vớt bèo về cho lợn ăn tăng trọng và bán lợn nghĩa vụ cho các chú bộ đội.
Anh còn nhớ khi thầy giáo chủ nhiệm đi họp ở phòng giáo dục huyện về bảo có trò Trần Đăng Khoa mới 8 tuổi đã làm thơ. Thầy đọc "Sao không về Vàng ơi", "Góc sân khoảng trời." Sương Nguyệt Minh kể rằng, khi ấy anh bẽ bàng nhận ra thơ mình thật chẳng là gì so với người bạn đồng trang lứa, liền thôi không viết nữa. Sau này anh là đồng nghiệp cùng cơ quan với thần đồng Trần Đăng Khoa, mới nói đùa rằng: "May mà dạo ấy thầy giáo đọc thơ ông và tôi thấy thơ tôi dớ dẩn quá nên rẽ sang viết văn xuôi. Chứ không thì cứ làm thơ mãi giờ lại thành cái thằng dở người dở ngợm".
Năm 1992, Sương Nguyệt Minh mới in truyện ngắn đầu tiên ở Văn nghệ quân đội. Năm 1996 được giải thưởng Văn nghệ quân đội và một năm sau đó được mời về làm biên tập viên văn xuôi. Cái sự khiến anh bước chân vào nghề muộn cũng là vì anh khá lận đận, gian truân thời trẻ trai. Năm 1974, Sương Nguyệt Minh có giấy gọi vào đại học, nhưng xã giữ lại không cho đi. Đầu năm 1975, Sương Nguyệt Minh nhập ngũ, rồi tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam và lăn lộn trên chiến trường nước bạn Campuchia. Lận đận mãi đến 10 năm sau mới quay về trường đại học, rồi ước mơ trở thành sinh viên tổng hợp văn cuối cùng cũng trở thành hiện thực.
Anh thường nói: "Từ đơn vị về Văn nghệ Quân đội như ao tù gặp đại dương mênh mông." Có lẽ chỉ ở VNQĐ anh mới được sống với con người thật của mình, thỏa mãn đam mê văn chương. Suốt quãng thời gian tuổi trẻ, Sương Nguyệt Minh đi chiến đấu ở Mặt trận biên giới Tây Nam, rồi liền sau đó về đầu quân làm trợ lý Văn hóa văn nghệ ở Viện Quân Y 103 thuộc Học viện Quân Y. Khi đó anh còn độc thân, ở một mình trong căn phòng trên tầng hai hội trường gần nhà xác, ngày đêm chứng kiến cảnh bệnh tật, chết chóc và tiếng kèn đám ma. Anh vẫn bảo rằng sau những năm tháng chứng kiến cảnh chết chóc trên chiến trường và trong bệnh viện thì thấy cái chết chẳng có gì đáng sợ nữa. Nhưng dường như không phải thế, những nỗi đau trần thế ám
ảnh trong từng trang viết của Sương Nguyệt Minh, những đứa trẻ tật nguyền, những quái thai, dị dạng trong "Mười ba bến nước", cô bộ đội Mây bị cụt một chân trong "Người ở bến sông Châu" luôn khiến người đọc phải day dứt. Anh đã truyền vẹn nguyên nỗi ám ảnh ấy cho độc giả bằng những bi kịch được đẩy lên đến tận cùng.
Đến nay, anh đã cho ra đời 7 tập truyện ngắn, một tập bút ký (mà điển hình là tập "Mười ba bến nước" với bút pháp huyền ảo và truyện ngắn cùng tên đã được chuyển thể thành phim truyện). Anh đã "gặt hái" được hơn chục giải thưởng văn chương trong những cuộc thi uy tín. Tuy nhiên, cái "đại dương mênh mông" ấy dường như cũng chưa thỏa mãn khao khát của người đàn ông ngang tàng, quyết liệt. 10 năm sau ngày đầu quân về nhà số 4, anh đột ngột "bỏ ngang" công việc biên tập để xin sang Ban sáng tác. Một thời giới viết văn khắp trong Nam ngoài Bắc cứ ồn lên vì cái sự ông đại tá nhà văn bỏ chức Trưởng ban Văn xuôi mà đi tìm thú vui chỉ chuyên đọc sách, viết văn. Ai hỏi thì anh chỉ nói: "Đơn giản là làm biên tập chiếm mất nhiều thời gian, không có lúc nào mà sáng tác". Thân hơn thì bảo: "Trước kia sáng tác, lúc nào cũng có một gã biên tập viên thấp thoáng đứng bên cạnh. Viết rất khó nhọc, vừa viết vừa biên tập, như kiểu cắt chân cho vừa giày." Mỗi người nói thành một kiểu khác nhau nhưng những người thực sự hiểu anh thì chia sẻ. Người ta biết anh là kẻ không ham chức quyền, ngay từ lúc được giao trọng trách trưởng ban đã có ý từ chối. Hỏi cái được nhiều nhất trong quá trình làm biên tập thì anh bảo: "Cảm ơn những ngày làm biên tập vì nó cho mình nhiều bạn bè". Và cái điều mà anh vẫn nhắc đi nhắc lại "Chắc người ta thương mình" cũng là hàm ý nay anh chỉ đơn thuần là người sáng tác, vậy mà bạn bè vẫn đến đông đủ. Sương Nguyệt Minh lúc nào cũng vậy, chỉ quan tâm đến việc "được bạn".
Nhà văn Sương Nguyệt Minh. Ảnh Đoàn Hoài Chung
Tuy nhiên, tại buổi ra mắt tập "Dị hương", các đồng nghiệp vẫn khen chê thẳng thừng cho dù tác giả có lấy đó làm điều hay không. Cùng là một truyện ngắn, nhà văn Y Ban cho rằng cách khai thác đề tài bị lặp lại, không phải vùng đất mới, nhưng nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên lại khẳng định: tác giả đã đổi mới về tư duy nghệ thuật, dám bước vào phong cách mới. Nhà phê bình Văn Giá nhấn mạnh ba chữ về "Dị hương" là Hoạt – Phiêu – Thõa. Thậm chí nhà văn Văn Chinh còn phát biểu rằng: Riêng viết về Nguyễn Ánh, thì Sương Nguyệt Minh với "Dị Hương" đã vượt qua Nguyễn Huy Thiệp về độ tươi tắn, hấp dẫn, sống động, "hiện sinh" và mộng tưởng phong phú... Bản thân tác giả thì cho rằng: "Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công khi viết về nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh qua bộ ba thiên truyện ngắn: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết. Tôi rất nể phục tài ông Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng không có nghĩa là người đi sau nhìn thấy thành công xuất sắc của người đi trước là run rẩy, tránh né, chẳng dám cầm bút bởi "Thôi Hiệu đã có Hoàng Hạc Lâu". Viết và cứ viết! Còn cái chuyện sáng tác có hay và thành công xuất sắc không lại là việc khác. Viết còn là nhu cầu bày tỏ, chia sẻ nữa. Vì vậy viết Dị hương, tôi muốn đưa ra một cái nhìn khác. Đó là cái đẹp chết tức tưởi bởi chiến tranh và nỗi khốn nạn của bậc kỳ tài sinh bất phùng thời, suốt đời đi tìm cái đẹp, suốt đời muốn phụng sự mà không tìm được minh chủ qua bộ ba Nguyễn Ánh – Công chúa Ngọc Bình – Trần Huy Sán."
Riêng về tính "hiện sinh", có lẽ không chỉ đậm nét trong truyện ngắn "Dị hương" mà còn rất ấn tượng trong "Đồi con gái", cũng là tác phẩm được đánh giá cao trong tập sách. Tính dục, như trong một số tác phẩm khác của Sương Nguyệt Minh, được miêu tả chân thực nhưng không trần trụi, vẫn đầy chất lãng mạn, gợi cảm, yêu thương và không kém phần huyền ảo.
Có thể thêm một tập truyện ngắn đối với nhà văn chuyên nghiệp không phải là điều gì đặc biệt, nhưng thêm một phong cách, thêm một quan điểm sống, một thái độ về cuộc sống đã là sự vượt qua chính mình - điều không phải duy nhất, nhưng tối cần thiết đối với người sáng tạo.
Quả thật, trong năm 2009, người ta gần như đã bão hòa bởi các cuộc tọa đàm, ra mắt sách liên tục tháng nào cũng vài ba cuộc, hơn nữa, việc ra mắt một tập truyện ngắn hay tiểu thuyết, cho dù là tác phẩm mang nhiều dấu ấn văn học cũng khó thu hút nhiều tên tuổi đến thế tham gia, vậy mà những người đến với Sương Nguyệt Minh dường như không phải chỉ tham dự cho vui, rất nhiều vị đã đọc hết tác phẩm từ trước đó. Tập truyện ngắn "Dị hương" xuất hiện được coi như là sự đổi mới hoàn toàn phong cách sáng tác của nhà văn. Trước nay, cái tên Sương Nguyệt Minh thường gắn liền với những câu chuyện viết về đề tài chiến tranh và nông thôn, nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị, nhiều tính dục với bút pháp huyền ảo và giả tưởng trong tập "Dị hương" khiến nhiều người đọc lạ lẫm. Chính tác giả cũng nói rằng "Trước đây, tôi viết chân thật, dung dị, ấm áp hay dữ dội, u ám, hoặc tôi kể những câu chuyện cảm động, ám ảnh... thì cũng đều bằng cảm quan bút pháp hiện thực và lãng mạn là chủ yếu. Tôi nghĩ nhà văn vượt qua chính mình cũng là điều quá khó khăn, khổ ải, nhọc nhằn. Và cho đến lúc này, tôi cảm nhận mình đã vượt qua được tôi của ngày hôm nay."
Nhà văn Sương Nguyệt Minh viết sớm nhưng chính thức bước chân vào nghề văn muộn. Mới 10 tuổi, anh đã làm thơ tặng bạn gái cùng lớp chỉ vì cô bé bảo: "Tao toàn cho mày mượn thước kẻ, toàn cho mày bơm mực Cửu Long mà mày chỉ làm thơ tặng cô giáo, không làm thơ tặng tao." Thế là anh viết bài thơ "Con Na thả bèo hoa dâu" khen cô bạn thả bèo hoa dâu giỏi, vớt bèo về cho lợn ăn tăng trọng và bán lợn nghĩa vụ cho các chú bộ đội.
Anh còn nhớ khi thầy giáo chủ nhiệm đi họp ở phòng giáo dục huyện về bảo có trò Trần Đăng Khoa mới 8 tuổi đã làm thơ. Thầy đọc "Sao không về Vàng ơi", "Góc sân khoảng trời." Sương Nguyệt Minh kể rằng, khi ấy anh bẽ bàng nhận ra thơ mình thật chẳng là gì so với người bạn đồng trang lứa, liền thôi không viết nữa. Sau này anh là đồng nghiệp cùng cơ quan với thần đồng Trần Đăng Khoa, mới nói đùa rằng: "May mà dạo ấy thầy giáo đọc thơ ông và tôi thấy thơ tôi dớ dẩn quá nên rẽ sang viết văn xuôi. Chứ không thì cứ làm thơ mãi giờ lại thành cái thằng dở người dở ngợm".
Năm 1992, Sương Nguyệt Minh mới in truyện ngắn đầu tiên ở Văn nghệ quân đội. Năm 1996 được giải thưởng Văn nghệ quân đội và một năm sau đó được mời về làm biên tập viên văn xuôi. Cái sự khiến anh bước chân vào nghề muộn cũng là vì anh khá lận đận, gian truân thời trẻ trai. Năm 1974, Sương Nguyệt Minh có giấy gọi vào đại học, nhưng xã giữ lại không cho đi. Đầu năm 1975, Sương Nguyệt Minh nhập ngũ, rồi tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam và lăn lộn trên chiến trường nước bạn Campuchia. Lận đận mãi đến 10 năm sau mới quay về trường đại học, rồi ước mơ trở thành sinh viên tổng hợp văn cuối cùng cũng trở thành hiện thực.
Anh thường nói: "Từ đơn vị về Văn nghệ Quân đội như ao tù gặp đại dương mênh mông." Có lẽ chỉ ở VNQĐ anh mới được sống với con người thật của mình, thỏa mãn đam mê văn chương. Suốt quãng thời gian tuổi trẻ, Sương Nguyệt Minh đi chiến đấu ở Mặt trận biên giới Tây Nam, rồi liền sau đó về đầu quân làm trợ lý Văn hóa văn nghệ ở Viện Quân Y 103 thuộc Học viện Quân Y. Khi đó anh còn độc thân, ở một mình trong căn phòng trên tầng hai hội trường gần nhà xác, ngày đêm chứng kiến cảnh bệnh tật, chết chóc và tiếng kèn đám ma. Anh vẫn bảo rằng sau những năm tháng chứng kiến cảnh chết chóc trên chiến trường và trong bệnh viện thì thấy cái chết chẳng có gì đáng sợ nữa. Nhưng dường như không phải thế, những nỗi đau trần thế ám
ảnh trong từng trang viết của Sương Nguyệt Minh, những đứa trẻ tật nguyền, những quái thai, dị dạng trong "Mười ba bến nước", cô bộ đội Mây bị cụt một chân trong "Người ở bến sông Châu" luôn khiến người đọc phải day dứt. Anh đã truyền vẹn nguyên nỗi ám ảnh ấy cho độc giả bằng những bi kịch được đẩy lên đến tận cùng.
Đến nay, anh đã cho ra đời 7 tập truyện ngắn, một tập bút ký (mà điển hình là tập "Mười ba bến nước" với bút pháp huyền ảo và truyện ngắn cùng tên đã được chuyển thể thành phim truyện). Anh đã "gặt hái" được hơn chục giải thưởng văn chương trong những cuộc thi uy tín. Tuy nhiên, cái "đại dương mênh mông" ấy dường như cũng chưa thỏa mãn khao khát của người đàn ông ngang tàng, quyết liệt. 10 năm sau ngày đầu quân về nhà số 4, anh đột ngột "bỏ ngang" công việc biên tập để xin sang Ban sáng tác. Một thời giới viết văn khắp trong Nam ngoài Bắc cứ ồn lên vì cái sự ông đại tá nhà văn bỏ chức Trưởng ban Văn xuôi mà đi tìm thú vui chỉ chuyên đọc sách, viết văn. Ai hỏi thì anh chỉ nói: "Đơn giản là làm biên tập chiếm mất nhiều thời gian, không có lúc nào mà sáng tác". Thân hơn thì bảo: "Trước kia sáng tác, lúc nào cũng có một gã biên tập viên thấp thoáng đứng bên cạnh. Viết rất khó nhọc, vừa viết vừa biên tập, như kiểu cắt chân cho vừa giày." Mỗi người nói thành một kiểu khác nhau nhưng những người thực sự hiểu anh thì chia sẻ. Người ta biết anh là kẻ không ham chức quyền, ngay từ lúc được giao trọng trách trưởng ban đã có ý từ chối. Hỏi cái được nhiều nhất trong quá trình làm biên tập thì anh bảo: "Cảm ơn những ngày làm biên tập vì nó cho mình nhiều bạn bè". Và cái điều mà anh vẫn nhắc đi nhắc lại "Chắc người ta thương mình" cũng là hàm ý nay anh chỉ đơn thuần là người sáng tác, vậy mà bạn bè vẫn đến đông đủ. Sương Nguyệt Minh lúc nào cũng vậy, chỉ quan tâm đến việc "được bạn".

Nhà văn Sương Nguyệt Minh. Ảnh Đoàn Hoài Chung
Tuy nhiên, tại buổi ra mắt tập "Dị hương", các đồng nghiệp vẫn khen chê thẳng thừng cho dù tác giả có lấy đó làm điều hay không. Cùng là một truyện ngắn, nhà văn Y Ban cho rằng cách khai thác đề tài bị lặp lại, không phải vùng đất mới, nhưng nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên lại khẳng định: tác giả đã đổi mới về tư duy nghệ thuật, dám bước vào phong cách mới. Nhà phê bình Văn Giá nhấn mạnh ba chữ về "Dị hương" là Hoạt – Phiêu – Thõa. Thậm chí nhà văn Văn Chinh còn phát biểu rằng: Riêng viết về Nguyễn Ánh, thì Sương Nguyệt Minh với "Dị Hương" đã vượt qua Nguyễn Huy Thiệp về độ tươi tắn, hấp dẫn, sống động, "hiện sinh" và mộng tưởng phong phú... Bản thân tác giả thì cho rằng: "Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công khi viết về nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh qua bộ ba thiên truyện ngắn: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết. Tôi rất nể phục tài ông Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng không có nghĩa là người đi sau nhìn thấy thành công xuất sắc của người đi trước là run rẩy, tránh né, chẳng dám cầm bút bởi "Thôi Hiệu đã có Hoàng Hạc Lâu". Viết và cứ viết! Còn cái chuyện sáng tác có hay và thành công xuất sắc không lại là việc khác. Viết còn là nhu cầu bày tỏ, chia sẻ nữa. Vì vậy viết Dị hương, tôi muốn đưa ra một cái nhìn khác. Đó là cái đẹp chết tức tưởi bởi chiến tranh và nỗi khốn nạn của bậc kỳ tài sinh bất phùng thời, suốt đời đi tìm cái đẹp, suốt đời muốn phụng sự mà không tìm được minh chủ qua bộ ba Nguyễn Ánh – Công chúa Ngọc Bình – Trần Huy Sán."
Riêng về tính "hiện sinh", có lẽ không chỉ đậm nét trong truyện ngắn "Dị hương" mà còn rất ấn tượng trong "Đồi con gái", cũng là tác phẩm được đánh giá cao trong tập sách. Tính dục, như trong một số tác phẩm khác của Sương Nguyệt Minh, được miêu tả chân thực nhưng không trần trụi, vẫn đầy chất lãng mạn, gợi cảm, yêu thương và không kém phần huyền ảo.
Có thể thêm một tập truyện ngắn đối với nhà văn chuyên nghiệp không phải là điều gì đặc biệt, nhưng thêm một phong cách, thêm một quan điểm sống, một thái độ về cuộc sống đã là sự vượt qua chính mình - điều không phải duy nhất, nhưng tối cần thiết đối với người sáng tạo.
Nguồn: An ninh Thủ đô (2009)
Chỉnh sửa cuối: