- Xu
- 13,791,955
Bài viết: 2022 



Hướng dẫn cách làm một số câu hỏi phụ, yêu cầu phụ trong câu nghị luận văn học của đề thi THPTQG
I. Khái lược
Đề thi môn Ngữ văn THPTQG ngoài mục đích hướng đến xét tốt nghiệp là chính, còn có mục đích phân loại để xét tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng. Cho nên trong câu hỏi của phần nghị luận văn học (câu 5 điểm) cũng sẽ có phần vừa sức cho thí sinh ở mức học trung bình (vế đầu của đề bài) và phần khó hơn cho thí sinh khá, giỏi (vế sau của đề bài, còn gọi là yêu cầu phụ, câu hỏi đuôi)
Ví dụ: Câu 5 điểm trong:
Đề thi THPTQG năm 2018:
Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Từ đó, anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.
Đề thi THPTQG năm 2019:
Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 198)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đề thi minh họa THPTQG năm 2021:
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hỏa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuấn, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biểu, Lương Quản rổi đột ngột vẽ một hình cũng thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dân về Huế. Tin Tuân về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thắm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dây đổi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chi bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, "sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím" như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu "Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên". Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà..
Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 198-199.
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Phần in đậm trong 3 đề ví dụ trên là vế câu hỏi kèm theo chủ yếu để phân loại học sinh. Phần này, đa số những học sinh khá, giỏi, nắm vững kiến thức bài học, có kĩ năng khái quát kiến thức.. mới có thể làm trọn vẹn.
Tùy từng văn bản mà câu hỏi kèm theo có thể là một vấn đề về nội dung, có thể là một vấn đề về nghệ thuật.
Câu hỏi kèm theo này thường chỉ yêu cầu thí sinh viết với dung lượng vừa phải, thường là một đoạn hoặc một vài đoạn nhỏ khoảng 10 – 20 dòng sau khi nghị luận vấn đề trọng tâm ở phần đầu bài viết. Tuy chỉ 10 -20 dòng, nhưng phần này có thể chiếm 0.75 – 1 điểm trong biểu điểm của câu nghị luận văn học.
Những chia sẻ sau đây là một số câu hỏi kèm theo thường gặp trong đề thi, đề kiểm tra về hai văn bản: Vợ nhặt - Kim Lân; Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu.
II. Một số câu hỏi đi kèm thường gặp và định hướng cách làm
Đề thi môn Ngữ văn THPTQG ngoài mục đích hướng đến xét tốt nghiệp là chính, còn có mục đích phân loại để xét tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng. Cho nên trong câu hỏi của phần nghị luận văn học (câu 5 điểm) cũng sẽ có phần vừa sức cho thí sinh ở mức học trung bình (vế đầu của đề bài) và phần khó hơn cho thí sinh khá, giỏi (vế sau của đề bài, còn gọi là yêu cầu phụ, câu hỏi đuôi)
Ví dụ: Câu 5 điểm trong:
Đề thi THPTQG năm 2018:
Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Từ đó, anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.
Đề thi THPTQG năm 2019:
Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 198)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đề thi minh họa THPTQG năm 2021:
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hỏa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuấn, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biểu, Lương Quản rổi đột ngột vẽ một hình cũng thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dân về Huế. Tin Tuân về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thắm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dây đổi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chi bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, "sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím" như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu "Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên". Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà..
Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 198-199.
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Phần in đậm trong 3 đề ví dụ trên là vế câu hỏi kèm theo chủ yếu để phân loại học sinh. Phần này, đa số những học sinh khá, giỏi, nắm vững kiến thức bài học, có kĩ năng khái quát kiến thức.. mới có thể làm trọn vẹn.
Tùy từng văn bản mà câu hỏi kèm theo có thể là một vấn đề về nội dung, có thể là một vấn đề về nghệ thuật.
Câu hỏi kèm theo này thường chỉ yêu cầu thí sinh viết với dung lượng vừa phải, thường là một đoạn hoặc một vài đoạn nhỏ khoảng 10 – 20 dòng sau khi nghị luận vấn đề trọng tâm ở phần đầu bài viết. Tuy chỉ 10 -20 dòng, nhưng phần này có thể chiếm 0.75 – 1 điểm trong biểu điểm của câu nghị luận văn học.
Những chia sẻ sau đây là một số câu hỏi kèm theo thường gặp trong đề thi, đề kiểm tra về hai văn bản: Vợ nhặt - Kim Lân; Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu.
II. Một số câu hỏi đi kèm thường gặp và định hướng cách làm
Yêu cầu phụ bài Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
Nhận xét (bình luận) về giá trị hiện thực
Định hướng: Cần nẳm rõ những biểu hiện của giá trị hiện thực.
Trong truyện ngắn "Trăng sáng", Nam Cao đã từng viết: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Quả thực, văn chương luôn bắt đầu từ điểm xuất phát là cuộc đời. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chẳng thể nào tồn tại mãi nếu nó xa rời thực tế. Hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ lựa chọn đưa vào trong tác phẩm qua cái nhìn, quan điểm và ngòi bút của mình, đem đến với bạn đọc, để từ đó mở ra bức tranh đời rộng lớn. Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ bắt gặp ở đó giá trị hiện thực sâu sắc, bức tranh đời đớn đau của những người dân miền núi. Truyện không chỉ cho ta thấy sự tàn bạo độc ác trong chế độ cai trị của bọn chúa đất miền núi qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng mà còn tái hiện lại cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người lao động vùng cao Tây Bắc dưới sức đàn áp của cường quyền và thần quyền.. Giá trị hiện thực khiến cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, gần đời hơn.
Nhận xét (bình luận) về giá trị nhân đạo
Định hướng: Cần nắm rõ những biểu hiện của giá trị nhân đạo.
"Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy", T. Sekhop đã từng khẳng định như vậy. Nhà văn, bên cạnh việc phải phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống và con người, còn cần phải đưa vào trong tác phẩm của mình, tình cảm, suy nghĩ và quan điểm của mình về cuộc đời, về con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ thấy được ở đó giá trị nhân văn, tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Điều đó được thể qua lòng cảm thương sâu sắc của Tô Hoài dành cho số phận những người dân bị áp bức. Từ thương cảm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn ác, những hủ tục lạc hậu đã đẩy con người vào tình cảnh khốn khổ (cúng trình ma, bắt vợ, xử kiện phạt vạ, cho vay nặng lãi). Đồng thời, nhà văn còn ca ngợi nâng niu và trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất của những con người miền núi. Không chấp nhận để nhân vật rơi vào ngõ cụt, nhà văn còn chỉ ra cho họ con đường mới – con đường tìm đến cách mạng để tự giải phóng cuộc đời.
Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Nhận xét về nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của tác giả.
Đoạn: Ở lâu trong cái khổ, Mị quen.. chết thì thôi.
Định hướng: Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của Tô Hoài: Nhận xét cách nhà văn khắc họa nhân vật qua dòng tâm trạng, hành động, dáng vẻ, ngôn ngữ nhân vật, chi tiết tiêu biểu, yếu tố ngoại cảnh, sử dụng từ ngữ, giọng văn, biện pháp nghệ thuật..
Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài. Để khắc họa nhân vật Mị với những nỗi thống khổ trong kiếp sống nô lệ nhà thống lí, với sự chai sạn, vô cảm trong cảm xúc tâm hồn, nhà văn đã miêu tả nhân vật chủ yếu qua ý nghĩ và hành động lặp đi lặp lại. Mặt khác, chuỗi hình ảnh so sánh tăng cấp, từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, như con rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày).. cũng mang lại hiệu quả biểu đạt cao trong khắc họa chân dung nhân vật. Đặc biệt, chi tiết căn buồng Mị với cái ô cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay còn mang lại những ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả về nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.
Nhận xét (bình luận) về sự chuyển biến của nhân vật Mị
Qua đoạn: "Lần lần, mấy năm qua.. Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa"
Định hướng: Sự chuyển biến của nhân vật Mị: Nhận xét sự thay đổi, chuyển biến của nhân vật từ trạng thái này sang trạng thái khác như thế nào? Sự chuyển biến ấy thể hiện điều gì ở nhân vật? Thể hiện tư tưởng gì của nhà văn?
Đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là "quen khổ rồi", hai là "phơi phới trở lại", "muốn đi chơi". Nếu ở phần đầu đoạn văn người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến phần sau của đoạn, dấu ấn về sự "nổi loạn", bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp.
Như vậy đoạn văn đã cho ta thấy sự chuyển biến của nhân vật Mị trong suy nghĩ, nhận thức và cả hành động. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do.
Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn Mị. Thế nhưng không! Ngọn lửa tình yêu cuộc sống, khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn ấy. Khi có điều kiện thuận lợi, ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên mạnh mẽ, đưa Mị trượt ra khỏi trạng thái thờ ơ, vô cảm thường ngày.
Miêu tả sự chuyển biến ấy của Mị, nhà văn đã gửi vào trang viết tấm lòng đồng cảm, yêu thương sâu sắc của mình dành cho nhân vật. Nhà văn đã không để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đau khổ triền miên, ông mang đến cho Mị những phút giây rạo rực trong khát khao hạnh phúc, tình yêu để làm sống dậy một cô Mị trẻ trung, yêu đời thuở mười tám, đôi mươi..
Nhận xét (bình luận) về ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo của Tô Hoài
Qua đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hoặc đêm đông cởi trói cứu A Phủ.
Định hướng: Ngòi bút miêu tả tâm lí: Nhận xét cách nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật qua cách nhà văn miêu tả dòng tâm trạng của nhân vật một cách trực tiếp, hay gián tiếp qua ngoại cảnh, hành động, ngôn ngữ, cách nhà văn sử dụng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, chi tiết tiêu biểu..
Đoạn trích không chỉ thể hiện phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài ở lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn, giọng văn trầm lắng, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất tính tạo hình và đậm phong vị miền núi.. mà còn tạo ấn tượng đặc biệt ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật. Nhà văn đã kiên trì dõi theo sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, tinh tế trong cách lựa chọn ngôn từ khi diễn tả những biến đổi ấy của Mị. Có cảm tưởng như Tô Hoài đang nhập thân vào nhân vật Mị, hòa mình vào dòng tâm tư ấy để nói giùm cô những trạng thái cảm xúc tinh tế nơi sâu thẳm tâm hồn.
Tô Hoài còn khéo léo dẫn những thôi thúc của ngoại cảnh làm cơ cở cho sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị (yếu tố tiếng sáo, không khí mùa xuân, hoặc dòng nước mắt A Phủ). Quá trình thức tỉnh đó được miêu tả đi dần từ những cõi xưa về cõi nay, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng, khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt trong nhân vật Mị và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả nội tâm của Tô Hoài.
Nhận xét (bình luận) về phong vị miền núi trong tác phẩm hoặc một đoạn trích
Định hướng: Phong vị miền núi trong tác phẩm: Nhận xét về những yếu tố tạo nên phong vị miền núi cho đoạn trích hay tác phẩm: Phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống thường nhật, cách nghĩ, cách làm.. của các nhân vật; những yếu tố như thiên nhiên, cảnh vật, sự vật được nhà văn miêu tả..
Đề tài miền núi là đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đồng thời còn mở ra một giai đoạn mới cho văn học viết về đời sống của những người lao động nơi rẻo cao Tây Bắc. Bằng vốn hiểu biết về đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi qua chuyến đi thực tế và tài năng văn chương của mình, Tô Hoài đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cũng ghi nhận những nét đặc sắc ấy của Tô Hoài khi viết về đề tài này. Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ.. với những nét rất riêng của đồng bào Tây Bắc như khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn, nhảy múa.. cảnh đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu ngày Tết, cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện, tục cướp vợ, tục cúng trình ma..
Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh đặc trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ..
Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ.. cũng góp phần tạo nên phong vị Tây Bắc rất riêng cho những trang văn Tô Hoài.
Nhận xét (bình luận) về chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài
Đoạn miêu tả đêm tình mùa xuân.
Định hướng: Chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài: Nhận xét về những yêu tố làm nên chất thơ (chất trữ tình, lãng mạn) : Giọng văn, cảm xúc nhân vật, cảnh vật thiên nhiên, ngôn từ, hình ảnh.. được nhà văn miêu tả
Đúng như ai đó đã từng nhận xét: "Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm", đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài.
"Chất thơ" trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực.
Chất thơ dạt dào ấy thấm đẫm trong những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội" . Hình ảnh những chiếc váy hoa"đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi"lấp ló ngoài đầu núi" mang đến chất thi vị cho mùa xuân Tây Bắc.
Mặt khác, từ dòng hồi ức của Mị, ta còn cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi [..] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng [..] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường [..] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo..". "Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị".
Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng còn lan tỏa trong nhịp điệu câu văn khi co khi duỗi, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, trong lời bài hát xen vào nhịp kể trần thuật:
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Như vậy, đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho ngôn ngữ văn chương thấm đẫm chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".
Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài.
Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài để đọc tiếp nha!
[HIDETHANKS=1]Nhà văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi đã bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn của họ vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đọa đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tô Hoài.
Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt khả năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phong phú, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn-người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.
Nhận xét sự tinh tế của nhà văn Tô Hoài khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm mùa xuân.
Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của cô. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa tiệc đón năm mới.. tất cả đã hóa thành những tiếng gọi đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức cả niềm khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó trong dòng máu truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị. Người đọc không thể không dừng lại, suy ngẫm và chia sẻ cảm xúc với những hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm như các chi tiết: "Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát" trong một trạng thái thật khác thường. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự đày đọa. Cái cách uống rượu một hơi, một ực như thế, khiến người ta nghĩ: Người uống rượu ấy đang thực sự phẫn nộ. Và người ta cũng có thể nghĩ: Cô ấy uống như thể đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, như thể đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Mị với cõi lòng đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa ." Nghịch lí trên cho thấy: Khi niềm khao khát sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh lực không ngờ, xung đột gay gắt, quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách.
Với trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm gấp khúc tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị. Chính sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.
Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm mùa đông của nhà văn Tô Hoài.
Diễn biến tâm lí phức tạp nhưng hợp lôgic, mang tính tất yếu, thể hiện được quá trình chuyển biến nhận thức của Mị: Từ những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, số phận mình, số phận A Phủ; về tội ác của cha con thống lí Pá Tra.. Mị đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính mình.
Biểu hiện của sức sống tiềm tàng trong Mị bùng lên. Mị đã tự giải phóng cho mình, cùng lúc vượt qua ngục tù của phong kiến và nhà tù vô hình của thần quyền.
Qua suy nghĩ, hành động của Mị, nhà văn Tô Hoài đã phản ánh quá trình chuyển biến từ nhận thức đi đến hành động vùng lên giải phóng cuộc đời khỏi thân phận nô lệ của người dân lao động bị áp bức trước Cách mạng tháng Tám.[/HIDETHANKS]
Định hướng: Cần nẳm rõ những biểu hiện của giá trị hiện thực.
Trong truyện ngắn "Trăng sáng", Nam Cao đã từng viết: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Quả thực, văn chương luôn bắt đầu từ điểm xuất phát là cuộc đời. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chẳng thể nào tồn tại mãi nếu nó xa rời thực tế. Hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ lựa chọn đưa vào trong tác phẩm qua cái nhìn, quan điểm và ngòi bút của mình, đem đến với bạn đọc, để từ đó mở ra bức tranh đời rộng lớn. Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ bắt gặp ở đó giá trị hiện thực sâu sắc, bức tranh đời đớn đau của những người dân miền núi. Truyện không chỉ cho ta thấy sự tàn bạo độc ác trong chế độ cai trị của bọn chúa đất miền núi qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng mà còn tái hiện lại cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người lao động vùng cao Tây Bắc dưới sức đàn áp của cường quyền và thần quyền.. Giá trị hiện thực khiến cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, gần đời hơn.
Nhận xét (bình luận) về giá trị nhân đạo
Định hướng: Cần nắm rõ những biểu hiện của giá trị nhân đạo.
"Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy", T. Sekhop đã từng khẳng định như vậy. Nhà văn, bên cạnh việc phải phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống và con người, còn cần phải đưa vào trong tác phẩm của mình, tình cảm, suy nghĩ và quan điểm của mình về cuộc đời, về con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ thấy được ở đó giá trị nhân văn, tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Điều đó được thể qua lòng cảm thương sâu sắc của Tô Hoài dành cho số phận những người dân bị áp bức. Từ thương cảm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn ác, những hủ tục lạc hậu đã đẩy con người vào tình cảnh khốn khổ (cúng trình ma, bắt vợ, xử kiện phạt vạ, cho vay nặng lãi). Đồng thời, nhà văn còn ca ngợi nâng niu và trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất của những con người miền núi. Không chấp nhận để nhân vật rơi vào ngõ cụt, nhà văn còn chỉ ra cho họ con đường mới – con đường tìm đến cách mạng để tự giải phóng cuộc đời.
Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Nhận xét về nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của tác giả.
Đoạn: Ở lâu trong cái khổ, Mị quen.. chết thì thôi.
Định hướng: Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của Tô Hoài: Nhận xét cách nhà văn khắc họa nhân vật qua dòng tâm trạng, hành động, dáng vẻ, ngôn ngữ nhân vật, chi tiết tiêu biểu, yếu tố ngoại cảnh, sử dụng từ ngữ, giọng văn, biện pháp nghệ thuật..
Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài. Để khắc họa nhân vật Mị với những nỗi thống khổ trong kiếp sống nô lệ nhà thống lí, với sự chai sạn, vô cảm trong cảm xúc tâm hồn, nhà văn đã miêu tả nhân vật chủ yếu qua ý nghĩ và hành động lặp đi lặp lại. Mặt khác, chuỗi hình ảnh so sánh tăng cấp, từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, như con rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày).. cũng mang lại hiệu quả biểu đạt cao trong khắc họa chân dung nhân vật. Đặc biệt, chi tiết căn buồng Mị với cái ô cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay còn mang lại những ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả về nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.
Nhận xét (bình luận) về sự chuyển biến của nhân vật Mị
Qua đoạn: "Lần lần, mấy năm qua.. Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa"
Định hướng: Sự chuyển biến của nhân vật Mị: Nhận xét sự thay đổi, chuyển biến của nhân vật từ trạng thái này sang trạng thái khác như thế nào? Sự chuyển biến ấy thể hiện điều gì ở nhân vật? Thể hiện tư tưởng gì của nhà văn?
Đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là "quen khổ rồi", hai là "phơi phới trở lại", "muốn đi chơi". Nếu ở phần đầu đoạn văn người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến phần sau của đoạn, dấu ấn về sự "nổi loạn", bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp.
Như vậy đoạn văn đã cho ta thấy sự chuyển biến của nhân vật Mị trong suy nghĩ, nhận thức và cả hành động. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do.
Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn Mị. Thế nhưng không! Ngọn lửa tình yêu cuộc sống, khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn ấy. Khi có điều kiện thuận lợi, ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên mạnh mẽ, đưa Mị trượt ra khỏi trạng thái thờ ơ, vô cảm thường ngày.
Miêu tả sự chuyển biến ấy của Mị, nhà văn đã gửi vào trang viết tấm lòng đồng cảm, yêu thương sâu sắc của mình dành cho nhân vật. Nhà văn đã không để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đau khổ triền miên, ông mang đến cho Mị những phút giây rạo rực trong khát khao hạnh phúc, tình yêu để làm sống dậy một cô Mị trẻ trung, yêu đời thuở mười tám, đôi mươi..
Nhận xét (bình luận) về ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo của Tô Hoài
Qua đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hoặc đêm đông cởi trói cứu A Phủ.
Định hướng: Ngòi bút miêu tả tâm lí: Nhận xét cách nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật qua cách nhà văn miêu tả dòng tâm trạng của nhân vật một cách trực tiếp, hay gián tiếp qua ngoại cảnh, hành động, ngôn ngữ, cách nhà văn sử dụng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, chi tiết tiêu biểu..
Đoạn trích không chỉ thể hiện phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài ở lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn, giọng văn trầm lắng, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất tính tạo hình và đậm phong vị miền núi.. mà còn tạo ấn tượng đặc biệt ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật. Nhà văn đã kiên trì dõi theo sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, tinh tế trong cách lựa chọn ngôn từ khi diễn tả những biến đổi ấy của Mị. Có cảm tưởng như Tô Hoài đang nhập thân vào nhân vật Mị, hòa mình vào dòng tâm tư ấy để nói giùm cô những trạng thái cảm xúc tinh tế nơi sâu thẳm tâm hồn.
Tô Hoài còn khéo léo dẫn những thôi thúc của ngoại cảnh làm cơ cở cho sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị (yếu tố tiếng sáo, không khí mùa xuân, hoặc dòng nước mắt A Phủ). Quá trình thức tỉnh đó được miêu tả đi dần từ những cõi xưa về cõi nay, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng, khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt trong nhân vật Mị và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả nội tâm của Tô Hoài.
Nhận xét (bình luận) về phong vị miền núi trong tác phẩm hoặc một đoạn trích
Định hướng: Phong vị miền núi trong tác phẩm: Nhận xét về những yếu tố tạo nên phong vị miền núi cho đoạn trích hay tác phẩm: Phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống thường nhật, cách nghĩ, cách làm.. của các nhân vật; những yếu tố như thiên nhiên, cảnh vật, sự vật được nhà văn miêu tả..
Đề tài miền núi là đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đồng thời còn mở ra một giai đoạn mới cho văn học viết về đời sống của những người lao động nơi rẻo cao Tây Bắc. Bằng vốn hiểu biết về đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi qua chuyến đi thực tế và tài năng văn chương của mình, Tô Hoài đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cũng ghi nhận những nét đặc sắc ấy của Tô Hoài khi viết về đề tài này. Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ.. với những nét rất riêng của đồng bào Tây Bắc như khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn, nhảy múa.. cảnh đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu ngày Tết, cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện, tục cướp vợ, tục cúng trình ma..
Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh đặc trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ..
Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ.. cũng góp phần tạo nên phong vị Tây Bắc rất riêng cho những trang văn Tô Hoài.
Nhận xét (bình luận) về chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài
Đoạn miêu tả đêm tình mùa xuân.
Định hướng: Chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài: Nhận xét về những yêu tố làm nên chất thơ (chất trữ tình, lãng mạn) : Giọng văn, cảm xúc nhân vật, cảnh vật thiên nhiên, ngôn từ, hình ảnh.. được nhà văn miêu tả
Đúng như ai đó đã từng nhận xét: "Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm", đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài.
"Chất thơ" trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực.
Chất thơ dạt dào ấy thấm đẫm trong những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội" . Hình ảnh những chiếc váy hoa"đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi"lấp ló ngoài đầu núi" mang đến chất thi vị cho mùa xuân Tây Bắc.
Mặt khác, từ dòng hồi ức của Mị, ta còn cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi [..] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng [..] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường [..] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo..". "Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị".
Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng còn lan tỏa trong nhịp điệu câu văn khi co khi duỗi, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, trong lời bài hát xen vào nhịp kể trần thuật:
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Như vậy, đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho ngôn ngữ văn chương thấm đẫm chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".
Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài.
Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài để đọc tiếp nha!
[HIDETHANKS=1]Nhà văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi đã bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn của họ vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đọa đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tô Hoài.
Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt khả năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phong phú, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn-người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.
Nhận xét sự tinh tế của nhà văn Tô Hoài khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm mùa xuân.
Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của cô. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa tiệc đón năm mới.. tất cả đã hóa thành những tiếng gọi đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức cả niềm khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó trong dòng máu truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị. Người đọc không thể không dừng lại, suy ngẫm và chia sẻ cảm xúc với những hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm như các chi tiết: "Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát" trong một trạng thái thật khác thường. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự đày đọa. Cái cách uống rượu một hơi, một ực như thế, khiến người ta nghĩ: Người uống rượu ấy đang thực sự phẫn nộ. Và người ta cũng có thể nghĩ: Cô ấy uống như thể đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, như thể đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Mị với cõi lòng đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa ." Nghịch lí trên cho thấy: Khi niềm khao khát sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh lực không ngờ, xung đột gay gắt, quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách.
Với trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm gấp khúc tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị. Chính sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.
Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm mùa đông của nhà văn Tô Hoài.
Diễn biến tâm lí phức tạp nhưng hợp lôgic, mang tính tất yếu, thể hiện được quá trình chuyển biến nhận thức của Mị: Từ những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, số phận mình, số phận A Phủ; về tội ác của cha con thống lí Pá Tra.. Mị đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính mình.
Biểu hiện của sức sống tiềm tàng trong Mị bùng lên. Mị đã tự giải phóng cho mình, cùng lúc vượt qua ngục tù của phong kiến và nhà tù vô hình của thần quyền.
Qua suy nghĩ, hành động của Mị, nhà văn Tô Hoài đã phản ánh quá trình chuyển biến từ nhận thức đi đến hành động vùng lên giải phóng cuộc đời khỏi thân phận nô lệ của người dân lao động bị áp bức trước Cách mạng tháng Tám.[/HIDETHANKS]
Chỉnh sửa cuối: