Cách làm một số câu hỏi phụ trong câu nghị luận văn học của đề thi THPTQG

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 16 Tháng tám 2021.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Hướng dẫn cách làm một số câu hỏi phụ, yêu cầu phụ trong câu nghị luận văn học của đề thi THPTQG

    I. Khái lược

    Đề thi môn Ngữ văn THPTQG ngoài mục đích hướng đến xét tốt nghiệp là chính, còn có mục đích phân loại để xét tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng. Cho nên trong câu hỏi của phần nghị luận văn học (câu 5 điểm) cũng sẽ có phần vừa sức cho thí sinh ở mức học trung bình (vế đầu của đề bài) và phần khó hơn cho thí sinh khá, giỏi (vế sau của đề bài, còn gọi là yêu cầu phụ, câu hỏi đuôi)

    Ví dụ: Câu 5 điểm trong:

    Đề thi THPTQG năm 2018:

    Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Từ đó, anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.

    Đề thi THPTQG năm 2019:


    Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

    (Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 198)

    Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Đề thi minh họa THPTQG năm 2021:


    Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hỏa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuấn, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biểu, Lương Quản rổi đột ngột vẽ một hình cũng thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dân về Huế. Tin Tuân về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thắm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dây đổi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chi bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, "sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím" như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu "Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên". Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà..

    Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 198-199.

    Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Phần in đậm trong 3 đề ví dụ trên là vế câu hỏi kèm theo chủ yếu để phân loại học sinh. Phần này, đa số những học sinh khá, giỏi, nắm vững kiến thức bài học, có kĩ năng khái quát kiến thức.. mới có thể làm trọn vẹn.

    Tùy từng văn bản mà câu hỏi kèm theo có thể là một vấn đề về nội dung, có thể là một vấn đề về nghệ thuật.

    Câu hỏi kèm theo này thường chỉ yêu cầu thí sinh viết với dung lượng vừa phải, thường là một đoạn hoặc một vài đoạn nhỏ khoảng 10 – 20 dòng sau khi nghị luận vấn đề trọng tâm ở phần đầu bài viết. Tuy chỉ 10 -20 dòng, nhưng phần này có thể chiếm 0.75 – 1 điểm trong biểu điểm của câu nghị luận văn học.

    Những chia sẻ sau đây là một số câu hỏi kèm theo thường gặp trong đề thi, đề kiểm tra về hai văn bản: Vợ nhặt - Kim Lân; Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu.


    II. Một số câu hỏi đi kèm thường gặp và định hướng cách làm

    Yêu cầu phụ bài Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

    Nhận xét (bình luận) về giá trị hiện thực

    Định hướng: Cần nẳm rõ những biểu hiện của giá trị hiện thực.

    Trong truyện ngắn "Trăng sáng", Nam Cao đã từng viết: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Quả thực, văn chương luôn bắt đầu từ điểm xuất phát là cuộc đời. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chẳng thể nào tồn tại mãi nếu nó xa rời thực tế. Hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ lựa chọn đưa vào trong tác phẩm qua cái nhìn, quan điểm và ngòi bút của mình, đem đến với bạn đọc, để từ đó mở ra bức tranh đời rộng lớn. Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ bắt gặp ở đó giá trị hiện thực sâu sắc, bức tranh đời đớn đau của những người dân miền núi. Truyện không chỉ cho ta thấy sự tàn bạo độc ác trong chế độ cai trị của bọn chúa đất miền núi qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng mà còn tái hiện lại cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người lao động vùng cao Tây Bắc dưới sức đàn áp của cường quyền và thần quyền.. Giá trị hiện thực khiến cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, gần đời hơn.

    Nhận xét (bình luận) về giá trị nhân đạo

    Định hướng: Cần nắm rõ những biểu hiện của giá trị nhân đạo.

    "Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy", T. Sekhop đã từng khẳng định như vậy. Nhà văn, bên cạnh việc phải phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống và con người, còn cần phải đưa vào trong tác phẩm của mình, tình cảm, suy nghĩ và quan điểm của mình về cuộc đời, về con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ thấy được ở đó giá trị nhân văn, tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Điều đó được thể qua lòng cảm thương sâu sắc của Tô Hoài dành cho số phận những người dân bị áp bức. Từ thương cảm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn ác, những hủ tục lạc hậu đã đẩy con người vào tình cảnh khốn khổ (cúng trình ma, bắt vợ, xử kiện phạt vạ, cho vay nặng lãi). Đồng thời, nhà văn còn ca ngợi nâng niu và trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất của những con người miền núi. Không chấp nhận để nhân vật rơi vào ngõ cụt, nhà văn còn chỉ ra cho họ con đường mới – con đường tìm đến cách mạng để tự giải phóng cuộc đời.

    Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm.

    Nhận xét về nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của tác giả.

    Đoạn: Ở lâu trong cái khổ, Mị quen.. chết thì thôi.

    Định hướng: Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của Tô Hoài: Nhận xét cách nhà văn khắc họa nhân vật qua dòng tâm trạng, hành động, dáng vẻ, ngôn ngữ nhân vật, chi tiết tiêu biểu, yếu tố ngoại cảnh, sử dụng từ ngữ, giọng văn, biện pháp nghệ thuật..

    Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài. Để khắc họa nhân vật Mị với những nỗi thống khổ trong kiếp sống nô lệ nhà thống lí, với sự chai sạn, vô cảm trong cảm xúc tâm hồn, nhà văn đã miêu tả nhân vật chủ yếu qua ý nghĩ và hành động lặp đi lặp lại. Mặt khác, chuỗi hình ảnh so sánh tăng cấp, từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, như con rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày).. cũng mang lại hiệu quả biểu đạt cao trong khắc họa chân dung nhân vật. Đặc biệt, chi tiết căn buồng Mị với cái ô cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay còn mang lại những ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả về nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.

    Nhận xét (bình luận) về sự chuyển biến của nhân vật Mị

    Qua đoạn: "Lần lần, mấy năm qua.. Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa"

    Định hướng: Sự chuyển biến của nhân vật Mị: Nhận xét sự thay đổi, chuyển biến của nhân vật từ trạng thái này sang trạng thái khác như thế nào? Sự chuyển biến ấy thể hiện điều gì ở nhân vật? Thể hiện tư tưởng gì của nhà văn?

    Đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là "quen khổ rồi", hai là "phơi phới trở lại", "muốn đi chơi". Nếu ở phần đầu đoạn văn người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến phần sau của đoạn, dấu ấn về sự "nổi loạn", bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp.

    Như vậy đoạn văn đã cho ta thấy sự chuyển biến của nhân vật Mị trong suy nghĩ, nhận thức và cả hành động. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do.

    Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn Mị. Thế nhưng không! Ngọn lửa tình yêu cuộc sống, khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn ấy. Khi có điều kiện thuận lợi, ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên mạnh mẽ, đưa Mị trượt ra khỏi trạng thái thờ ơ, vô cảm thường ngày.

    Miêu tả sự chuyển biến ấy của Mị, nhà văn đã gửi vào trang viết tấm lòng đồng cảm, yêu thương sâu sắc của mình dành cho nhân vật. Nhà văn đã không để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đau khổ triền miên, ông mang đến cho Mị những phút giây rạo rực trong khát khao hạnh phúc, tình yêu để làm sống dậy một cô Mị trẻ trung, yêu đời thuở mười tám, đôi mươi..

    Nhận xét (bình luận) về ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo của Tô Hoài

    Qua đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân hoặc đêm đông cởi trói cứu A Phủ.

    Định hướng: Ngòi bút miêu tả tâm lí: Nhận xét cách nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật qua cách nhà văn miêu tả dòng tâm trạng của nhân vật một cách trực tiếp, hay gián tiếp qua ngoại cảnh, hành động, ngôn ngữ, cách nhà văn sử dụng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, chi tiết tiêu biểu..

    Đoạn trích không chỉ thể hiện phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài ở lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn, giọng văn trầm lắng, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất tính tạo hình và đậm phong vị miền núi.. mà còn tạo ấn tượng đặc biệt ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật. Nhà văn đã kiên trì dõi theo sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, tinh tế trong cách lựa chọn ngôn từ khi diễn tả những biến đổi ấy của Mị. Có cảm tưởng như Tô Hoài đang nhập thân vào nhân vật Mị, hòa mình vào dòng tâm tư ấy để nói giùm cô những trạng thái cảm xúc tinh tế nơi sâu thẳm tâm hồn.

    Tô Hoài còn khéo léo dẫn những thôi thúc của ngoại cảnh làm cơ cở cho sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị (yếu tố tiếng sáo, không khí mùa xuân, hoặc dòng nước mắt A Phủ). Quá trình thức tỉnh đó được miêu tả đi dần từ những cõi xưa về cõi nay, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng, khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt trong nhân vật Mị và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả nội tâm của Tô Hoài.

    Nhận xét (bình luận) về phong vị miền núi trong tác phẩm hoặc một đoạn trích

    Định hướng: Phong vị miền núi trong tác phẩm: Nhận xét về những yếu tố tạo nên phong vị miền núi cho đoạn trích hay tác phẩm: Phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống thường nhật, cách nghĩ, cách làm.. của các nhân vật; những yếu tố như thiên nhiên, cảnh vật, sự vật được nhà văn miêu tả..

    Đề tài miền núi là đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đồng thời còn mở ra một giai đoạn mới cho văn học viết về đời sống của những người lao động nơi rẻo cao Tây Bắc. Bằng vốn hiểu biết về đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi qua chuyến đi thực tế và tài năng văn chương của mình, Tô Hoài đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cũng ghi nhận những nét đặc sắc ấy của Tô Hoài khi viết về đề tài này. Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ.. với những nét rất riêng của đồng bào Tây Bắc như khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn, nhảy múa.. cảnh đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu ngày Tết, cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện, tục cướp vợ, tục cúng trình ma..

    Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh đặc trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ..


    Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ.. cũng góp phần tạo nên phong vị Tây Bắc rất riêng cho những trang văn Tô Hoài.

    Nhận xét (bình luận) về chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài

    Đoạn miêu tả đêm tình mùa xuân.

    Định hướng: Chất thơ trong ngòi bút Tô Hoài: Nhận xét về những yêu tố làm nên chất thơ (chất trữ tình, lãng mạn) : Giọng văn, cảm xúc nhân vật, cảnh vật thiên nhiên, ngôn từ, hình ảnh.. được nhà văn miêu tả

    Đúng như ai đó đã từng nhận xét: "Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm", đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài.

    "Chất thơ" trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực.

    Chất thơ dạt dào ấy thấm đẫm trong những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội" . Hình ảnh những chiếc váy hoa"đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi"lấp ló ngoài đầu núi" mang đến chất thi vị cho mùa xuân Tây Bắc.

    Mặt khác, từ dòng hồi ức của Mị, ta còn cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi [..] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng [..] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường [..] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo..". "Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị".

    Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng còn lan tỏa trong nhịp điệu câu văn khi co khi duỗi, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, trong lời bài hát xen vào nhịp kể trần thuật:

    Mày có con trai con gái

    Mày đi làm nương

    Tao chưa có con trai con gái

    Ta đi tìm người yêu

    Như vậy, đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho ngôn ngữ văn chương thấm đẫm chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".

    Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài.


    Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài để đọc tiếp nha!

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2023
  2. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Yêu cầu phụ bài Vợ nhặt - Kim Lân

    Nhận xét (bình luận) về giá trị hiện thực

    Định hướng: Giá trị hiện thực: Nhận xét khái quát biểu hiện của giá trị hiện thực.

    Xây dựng tình huống nhặt vợ của nhân vật Tràng, tác phẩm "Vợ nhặt" (hoặc đoạn văn) đã phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám - nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở. Người chết như "ngả rạ", "ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường", người sống mặt hốc hác u tối "đi lại dật dờ như những bóng ma", "xanh xám như những bóng ma". Không gian thê lương, não nuột với những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Hiện thực thê thảm ấy còn hiện lên qua mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa

    Đặc biệt, không gian năm đói đã tạo thành khung cảnh nền để Kim Lân kể lại câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của Tràng. Câu chuyện bi hài được miêu tả trong truyện (đoạn văn trên) góp phần hoàn chỉnh bức tranh chân thực về tình cảnh thảm khốc của người nông dân: Vì đói quá mà chị vợ nhặt đã phải đánh đổi cả lòng tự trọng để được ăn, để theo không người đàn ông xa lạ; vì nghèo mà bà cụ Tứ phải dằn vặt bởi không lo nổi dăm ba mâm cho đám cưới của con; vì khổ mà bữa cơm mừng dâu mới chỉ toàn cháo loãng, ăn với muối và món chè khoán đắng chát thực ra chỉ là cháo cám..

    Nhận xét (bình luận) về giá trị nhân đạo

    Ví dụ: Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, từ đó nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn.

    Định hướng: Tấm lòng nhân đạo của nhà văn: Nhận xét khái quát biểu hiện của giá trị nhân đạo.

    Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận cùng khổ của người nông dân nghèo Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của tình người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã diễn tả thành công sự đổi thay trong tâm trạng của nhân vật Tràng: Từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm trở thành người đàn ông trưởng thành, có trách nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh phúc.. có thể biến những điều không thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt ngào. Xây dựng hình tượng nhân vật Tràng, nhà văn đã thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc của con người để từ đó khẳng định: Dù trong tình huống bi thảm tới đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho ra người. Đây cũng chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

    Nhận xét (bình luận) về sự chuyển biến của nhân vật người vợ nhặt (trước và sau khi làm vợ Tràng)

    Định hướng: Sự chuyển biến của nhân vật người vợ nhặt: Nhận xét sự thay đổi, chuyển biến của nhân vật từ trạng thái này sang trạng thái khác như thế nào? Sự chuyển biến ấy thể hiện điều gì ở nhân vật? Thể hiện tư tưởng gì của nhà văn?

    Tác phẩm (hoặc đoạn văn) đã miêu tả sự chuyển biến của nhân vật người vợ nhặt trước và sau khi làm vợ Tràng.

    Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh, chủ động làm quen và "liếc mắt cười tít" với Tràng ngay trong lần gặp dầu tiên. Thậm chí lần gặp thứ hai, thị còn "sầm sập chạy tới", "sưng sỉa nói" và lại còn "đứng cong cớn" trước mặt Tràng, chủ động đòi ăn, trơ trẽn biền đùa làm thật để theo không Tràng.

    Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Thị bẽn lẽn đi cạnh Tràng, lễ phép chào hỏi mẹ chồng, thị còn dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính thị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

    Miêu tả sự thay đổi của nhân vật Thị, Kim Lân đã thể hiện được sự trân trọng và niềm tin vào những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người, đó là những vẻ đẹp mà nạn đói không thể nào hủy diệt được. Chính điều đó đã tạo nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngòi bút Kim Lân.

    Nhận xét (bình luận) về vẻ đẹp của khát vọng, vẻ đẹp của tình người:

    VD: Phân tích tình huống Tràng nhặt được vợ qua đoạn văn "Ít lâu nay.. đẩy xe bò về", từ đó bình luận về vẻ đẹp củakhát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và sự ấm áp của tình người.

    Định hướng: Vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và sự ấm áp của tình người: Nhận xét khái quát biểu hiện của những khía cạnh này.

    Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn giàu giá trị nhân đạo. Xây dựng tình huống nhặt vợ của Tràng, đoạn văn nói lên tình cảnh thê thảm của người nông dân trong cảnh đói, gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy con người đến tình cảnh phải bán rẻ cả nhân phẩm để được sống. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cũng như vẻ đẹp của tình người trong nạn đói. Dưới sự thể hiện của ngòi bút giàu lòng nhân ái Kim Lân, ta thấy sự túng đói quay quắt, hoàn cảnh khốn khổ không làm con người từ bỏ lòng yêu thương, nhân hậu, không ngăn cản được con người hy vọng vào cuộc sống, hy vọng vào hạnh phúc ngày mai. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình người đẹp đẽ, để hướng đến sự sống, hạnh phúc và ngày mai tươi sáng hơn.

    Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn nhân vật, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

    Nhận xét (bình luận) về vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ

    VD: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn văn [..], từ đó nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn nhân vật bà cụ Tứ.

    Định hướng: Vẻ đẹp tâm hồn nhân vật bà cụ Tứ: Nhận xét khái quát, đó là những vẻ đẹp gì?

    Chiều sâu tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ đã nói lên những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ này. Đó là tình mẫu tử cao cả, thiêng liêng, đặc biệt là lòng thương người như thể thương thân, lòng nhân hậu, vị tha và nghị lực sống phi thường.

    Trước hết, đó là vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, bao dung. Lòng bà luôn chan chứa tình yêu thương dành cho các con, bà có những ứng xử chân thành, đầy tình nghĩa đối với cả con trai và con dâu. Người mẹ nghèo khổ ấy đã không vì cái đói, cái cực của kiếp người tha hương cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dửng dưng, vô cảm với tình cảnh khốn cùng của người khác. Bà đã vượt qua những nghi lễ thông thường, đồng ý cho người đàn bà xa lạ làm con dâu mình và còn thấy thương xót, thấu hiểu cho hoàn cảnh của người đàn bà ấy.

    Chẳng những thế, người mẹ ấy dù trong mọi hoàn cảnh dù khắc nghiệt nhất, đáng buồn tủi nhất vẫn cố gắng xua tan những buồn lo để vui sống, khơi lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng cho con cái, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chãi cho các con. Đây chính là điều khiến ta bất ngờ nhất khi đọc truyện. Bởi trong ba nhân vật, người hi vong vào tương lai nhiều hơn cả là bà cụ Tứ. Điều ấy tưởng như trái với quy luật tâm lí người đời từng tổng kết: Tuổi trẻ hay hướng đến tương lai còn người già hay nhìn về quá khứ. Vậy mà người mẹ già lọng khọng gần đất xa trời này lại là người sống cho con và cũng hi vọng cho con.

    Vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ đã thể hiện chiều sâu giá trị nhân văn của tác phẩm: Cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng đến tương lai, vẫn khát khao một mái ấm gia đình, vẫn gắn bó bao bọc lẫn nhau bằng tình thương, lòng nhân ái.

    Nhận xét (bình luận) về nét đặc sắc trong ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật

    VD: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn văn [..], từ đó nêu nhận xét về nét đặc sắc trong ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.

    Định hướng: Nét đặc sắc trong ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật: Nhận xét cách nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật qua cách nhà văn miêu tả dòng tâm trạng của nhân vật một cách trực tiếp, hay gián tiếp qua ngoại cảnh, hành động, ngôn ngữ, cách nhà văn sử dụng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, chi tiết tiêu biểu

    Miêu tả diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong tình huống anh con trai nhặt được vợ, Kim Lân đã khẳng định biệt tài phân tích tâm lí nhân vật một cách chân thật và sâu sắc, cảm động. Ngòi bút của nhà văn đã len lỏi, lách sâu vào những nét tâm lí vô cùng đơn giản, tinh tế của người mẹ nông dân nghèo từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau khi Tràng có vợ.

    Nhà văn không miêu tả sự phát triển tâm lí của nhân vật theo đường thẳng, mà là những trạng thái phức tạp, gấp khúc. Ông cũng không chỉ khắc họa tâm trạng ấy thông qua hành động, lời lẽ, cử chỉ bền ngoài mà còn nhập thân vào nhân vật. Nhờ vậy, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên chân thực hơn, phù hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và giàu tình yêu thương.

    Nhận xét (bình luận) về nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện

    VD: Phân tích đoạn văn: "Ít lâu nay.. đẩy xe bò về", từ đó nhận xét về nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của nhà văn Kim Lân

    Định hướng: Nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Gọi tên tình huống, nhận xét đó là tình huống như thế nào, mang lại giá trị gì cho tác phẩm?

    Ai đó đã nói rằng, tình huống truyện là linh hồn của tác phẩm. Đối với nghệ thuật truyện, xây dựng được một tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố then chốt tạo nên sức sống của tác phẩm ấy. Đoạn trích trên [..] dựng lên một tình huống vừa lạ, vừa éo le đã thể hiện những nét độc đáo trong ngòi bút nghệ thuật Kim Lân.

    Trước hết, cái tài của Kim Lân là dựng được một tình huống lạ. Hiếm có một tình huống nào lại "lạ" như tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng. Bởi chuyện dựng vợ, gả chồng xưa nay vốn là chuyện hệ trong cuộc đời con người, vậy mà Tràng lại lấy được vợ theo kiểu nhặt. Lạ bởi Tràng lại không phải là người hào hoa, giàu có gì mà chỉ là anh phu xe nghèo, xấu, hơi ngốc vậy mà Tràng lại có người theo không.

    Chính vì thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.

    Không chỉ dựng được tình huống lạ, Kim Lân còn tạo cho tình huống ấy những khía cạnh éo le, bất ngờ. Éo le bởi giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám "đèo bòng", "rước cái của nợ đời ấy về". Có vợ, nhưng chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống. Chính vì tình huống éo le này mà mọi người không biết nên buồn hay nên vui, hạnh phúc hay đau khổ..

    Dựng lên tình huống nhặt vợ độc đáo của nhân vật, Kim Lân đã nói lên được rất nhiều những vấn đề tư tưởng sâu sắc của tác phẩm, cũng như miêu tả rõ nét hơn chiều sâu tâm lí và vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.

    Nhận xét (bình luận) về cách nhìn của nhà văn về người lao động

    Ví dụ: Qua nhân vật bà cụ Tứ đoạn "Bữa cơm ngày đói.."

    Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ là minh chứng tiêu biểu thể hiện cách nhìn của nhà văn về cuộc đời người lao động theo chiều hướng tích cực: Đi từ bóng tối vươn ra ánh sáng (khác với các tác phẩm hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám). Điều đó thể hiện cái nhìn đầy nhân hậu, giàu tình yêu thương và lạc quan của nhà văn đối với người lao động. Hiện thực của cuộc Cách mạng tháng Tám - 1945 đã giúp nhà văn nhận ra khả năng cách mạng, khả năng đổi đời của người nông dân, nên cách nhìn của nhà văn về người lao động cũng thay đổi. Không còn những cái chết đau thương như lão Hạc, Chí phèo, bà cái Gái, không còn đêm đen như mực như cái tiền đồ của chị Dậu.. những trang cuối cùng của "Vợ nhặt" đã nhen nhóm lên ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Nhà văn tin vào sự đổi đời của người nông dân, như tin vào câu nói dân gian trong lời cụ Tứ: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.."

    Cách nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị nhân văn trong sáng tác của nhà văn nông thôn được đánh giá xuất sắc nhất trong văn họcViệt Nam hiện đại 1945-1975.

    Nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.

    Tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân được thể hiện ở tình thương, nỗi xót xa và đồng cảm với số phận của một người mẹ nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945. Tác giả gửi gắm tình cảm trân trọng, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ: Tuy nghèo nhưng rất thương con, nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, đặc biệt bà là người rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Tấm lòng đó còn thể hiện qua nghệ thuật diễn tả tâm trạng của nhân vật với chiều sâu bên trong tâm hồn vừa phức tạp, vừa sâu sắc, hiểu và cảm được tận cùng nỗi niềm của người mẹ nghèo;

    Tấm lòng của nhà văn Kim Lân đã làm cho truyện ngắn Vợ nhặt có giá trị phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đem lại niềm tin vào sự đổi đời của người nông dân và sự hướng về cách mạng của họ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2023
  3. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Yêu cầu phụ bài Chiếc thuyền ngoài xa

    Nhận xét (bình luận) về quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống

    VD: Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng về bức tranh cuộc sống trong đoạn văn sau:

    "Ngay lúc ấy, chiếc thuyền . . Đã biến mất". Từ đó nhận xét về quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

    Định hướng: quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nêu lên mối quan hệ đó là gì? Đối lập, hay song hành gắn bó? Tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua những quan niệm ấy.

    Đoạn trích [..] là phát hiện của nghệ sĩ Phùng về bức tranh cuộc sống gai góc, sần sùi, đối lập hẳn với bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ được miêu tả ở đoạn văn trước đó. Sự phát hiện những nghịch lí ấy giúp Phùng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc đời. Giữa nghệ thuật và cuộc đời có mối quan hệ song hành: Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc đời, và cuộc đời là hiện thực phong phú khơi nguồn cho cảm hứng nghệ thuật. "Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con người".

    Từ nhận thức ấy, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm bức thông điệp đến người nghệ sĩ: Người nghệ sĩ - theo nhà văn - phải đào sâu, phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn diện, phải thấy được những góc khuất của cuộc đời. Chiếc thuyền trong sương sớm đẹp vì nó là viễn ảnh, được nhìn từ xa. Nó có thể thanh lọc tâm hồn người nghệ sĩ, khơi dậy những xúc cảm đẹp đẽ. Nhưng khi đến gần, cũng chính từ chiếc thuyền ấy lại là cảnh bạo lực gia đình phi đạo đức, phi thẩm mĩ. Nghệ thuật đích thực, người nghệ sĩ chân chính không thể chỉ dừng lại ở sự phản ánh vẻ đẹp bề ngoài của cuộc sống, nhìn cuộc sống từ cái nhìn ngoài xa, hời hợt. Giá trị nhân văn trong tác phẩm này đã thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật tiến bộ đó của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

    Nhận xét (bình luận) về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn

    VD: Cảm nhận của anh chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích:

    "Người đàn bà bỗng chép miệng.. được ăn no". Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyên Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

    Định hướng: Cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn: Nhận xét đó là cách nhìn như thế nào? Sâu sắc, toàn diện hay đơn giản, dễ dãi..

    Qua sự thể hiện của nhà văn, chiếc thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên trong nó lại bộc lộ những cái thật xấu xí của cảnh bạo lực gia đình. Và trong cuộc sống bất hạnh, trong vẻ xấu xí thô kệnh của người đàn bà khốn khổ kia vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho dù đó là những nét đẹp của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng có và không nên có của người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Cuộc sống đa diện, nhiều chiều, con người có những nỗi niềm sâu kín bên trong, có những vẻ đẹp khuất lấp bên trong, làm sao có thể hiểu một cách đơn giản, dễ dãi được?

    Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để hướng đến cách nhìn nhận con người và cuộc sống ở góc nhìn đa chiều, hướng sự quan tâm đến số phận cá nhân con người – nhất là con người lao động vất vả, lam lũ sau chiến tranh.

    Sau chiến tranh, cuộc sống con người vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: Cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi vậy, nhà văn đã đặt ra vấn đề cần thiết là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.

    Chính từ cái nhìn đầy chất nhân văn ấy, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm bức thông điệp đến người nghệ sĩ: Người nghệ sĩ - theo nhà văn - phải đào sâu, phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn diện, phải thấy được những góc khuất của cuộc đời. Nghệ thuật chân chính không thể chỉ dừng lại ở sự phản ánh vẻ đẹp bề ngoài của cuộc sống, nhìn cuộc sống từ cái nhìn ngoài xa, hời hợt.

    Nhận xét (bình luận) về quan niệm của tác giả về nghệ thuật

    VD: Phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng về bức ảnh được chọn trong bộ lịch, từ đó nhận xét quan niệm của tác giả về nghệ thuật.

    Định hướng: Quan niệm của tác giả về nghệ thuật: Đó là những quan niệm gì? Đây là những quan niệm như thế nào? (đúng đắn, nhân văn hay nông cạn, hời hợt)

    Đoạn văn trên [..] thể hiện những ấn tượng của Phùng về bức ảnh anh thu được trên bãi biển miền Trung. Những ấn tượng ấy đã thể hiện quan điểm nghệ thuật sâu sắc, đúng đắn của tác giả: Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật "không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.." (Nam Cao). Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận ; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.


    Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài

    + Xây dựng nhân vật người đàn bà qua đối thoại rất tự nhiên và có ý nghĩa.

    + Xây dựng nhân vật không chỉ qua ngoại hình mà còn qua lời nói, cử chỉ.. làm nổi bật tính cách riêng, tiêu biểu.

    + Nhân vật không tên, số phận đáng thương nhưng đối lập với vẻ ngoài xấu xí là vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, một vẻ đẹp khuất lấp.

    Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm.

    - Biểu hiện: Đó là tình huống nhân vật Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: Từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều: Những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏvợ.

    - Ý nghĩa: Với tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất cần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
     
    Dana Lê, lacvuphongca, dialua9 người khác thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2023
  4. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Yêu cầu phụ bài Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành

    Nhận xét về ngòi bút miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Trung Thành:

    Tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cũng rất lãng mạn, bay bổng:

    – Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu;

    - Tạo dựng được một bức tranh hoành tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng xà nu (không gian ngút ngàn và hình tượng cây xà nu khoẻ khoắn, mạnh mẽ, ham ánh sáng, khí trời, tràn đầy sinh lực, căng đầy nhựa sống).

    - Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào; vừa lãng mạn bay bổng vừa trữ tình sâu lắng.. Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu của cây xà nu.

    – Điểm nhìn mang tính sử thi và cảm hứng lãng mạn: Đó là một cái nhìn thể hiện sự khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả; đó là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người.

    Nhận xét về vẻ đẹp của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ

    Qua nhân vật cụ Mết cũng như hệ thống nhân vật trong tác phẩm, chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về người Tây Nguyên và thực sự xúc động, trân trọng vẻ đẹp của con người ở vùng đất đầy nắng gió và có âm vang của tiếng cồng tiếng chiêng ấy. Đó là những con người anh hùng, có tâm hồn trong sáng, thủy chung; yêu quê hương, đất nước, căm thù giặc, gan góc dũng cảm; sớm lí tưởng giác ngộ cách mạng, trung thành với Đảng, cách mạng và sẵn sàng sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Họ đã phát huy truyền thống của dân tộc và là lực lượng nòng cốt của cách mạng những năm kháng chiến chống Mĩ. Chính những con người Tây Nguyên ấy đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc để đất nước được độc lập, thống nhất như ngày nay.

    Nhận xét vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú:

    Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Đặc biệt, chi tiết bàn tay Tnú khi bị thiêu đốt bằng chính nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc trở thành biểu tượng đậm chất sử thi. Hai bàn tay đuốc lửa của Tnú đã châm ngòi cho phong trào Đồng khởi của dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt bọn giặc tàn ác và trở thành biểu tượng của khí phách Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời đại ngày nay. Lời văn khi thể hiện nhân vật rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết..
     
    Dana Lê, lacvuphongca, dialua4 người khác thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2023
  5. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Yêu cầu phụ bài Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi

    Nhận xét về sự thay đổi tính cách của nhân vật Việt

    - Sự thay đổi: Từ hồn nhiên -> trưởng thành; từ cá nhân, riêng tư -> có ý thức trách nhiệm với gia đình và đất nước.

    =>Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


    Nhận xét về khuynh hướng sử thi trong tác phẩm.

    - Khuynh hướng sử thi (hay tính sử thi, cảm hứng sử thi) là một trong những đặc điểm cơ bản của văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, thể hiện trên các phương diện chủ yếu như đề tài chủ đề, hệ thống nhân vật, giọng điệu, lời văn.. Đây cũng là đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

    - Tính sử thi trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" trước hết được thể hiện ở đề tài và chủ đề, của tác phẩm: Viết về tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm của nhân dân miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt.

    - Tính sử thi còn được thể hiện qua các nhân vật trong tác phẩm. Họ là những người mang phẩm chất anh hùng, thể hiện lý tưởng chung của cả cộng đồng, dân tộc: Những nhân vật anh hùng: Ông nội, ba má, chú thím Năm, chị em Chiến, Việt và các đồng đội của Việt.

    - Lời văn trang trọng và hào hùng, hình ảnh kì vĩ, giọng điệu ngợi ca.

    - Cuốn sổ của gia đình Việt là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2023
  6. datedo2000

    Bài viết:
    1
    Bí quyết kiếm điểm cộng cho câu nghị luận văn học

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thầy Phan Thế Hoài, giáo viên Văn ở TP HCM, cho biết, đưa kiến thức lý luận văn học vào bài nghị luận là một trong những cách kiếm thêm điểm cộng.

    Câu nghị luận văn học trong đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn chiếm 5.0 điểm, trong đó phần sáng tạo là 0, 5 điểm.

    Yếu tố sáng tạo trong bài làm văn của học sinh trung học phổ thông là những ý kiến, tư tưởng, cách đặt vấn đề, lý giải vấn đề mang tính chất phát hiện, riêng biệt, mới mẻ, có ý nghĩa nhất định về tư tưởng và thẩm mỹ.

    Muốn viết sáng tạo, thu hút người đọc, học sinh phải biết cách đưa lý luận văn học vào bài văn. Có thể đưa lý luận văn học vào phần mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài làm cơ sở dẫn vào luận điểm; phần thân bài làm sáng tỏ vấn đề; phần kết bài khẳng định lại vấn đề.

    Cần lưu ý sử dụng kiến thức lý luận phù hợp với đối tượng cần làm sáng tỏ. Ví dụ, liên quan đến thơ, cần hiểu rõ đặc trưng của thi ca - ngôn từ, hình ảnh. Với tác phẩm văn xuôi là chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ kể chuyện.. Bên cạnh đó, cần thuộc một số nhận định về tác phẩm văn học để làm dẫn chứng.

    Đưa kiến thức lý luận văn học vào bài văn ở mức độ vừa phải (đưa khoảng ba nhận định và chứng minh), tránh dùng quá nhiều vừa mất thời gian, vừa gây nhàm chán cho người đọc.

    Ví dụ 1, cách viết mở bài, kết bài cho tác phẩm "Việt Bắc" (Tố Hữu).

    Mở bài: Nhà thơ Tố Hữu từng tâm sự: 'Ngôn ngữ của tôi chỉ có thể hiểu được giữa những người bạn chí thân. Đó là những bài thơ tình của tôi, viết theo cách của tôi.. Tôi yêu đất nước tôi, dân tộc tôi và tôi nói về họ như về một người tình..'(sau đó dẫn dắt vào tác phẩm).

    Kết bài: Hemingway từng nói: "Tất cả tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử riêng của nó. Bởi vì đó là sản phẩm bền vững của lao động và trí tuệ con người. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể sụp đổ, chỉ có những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để tồn tại vĩnh viễn" (sau đó nâng cao tác phẩm).

    Ví dụ 2, đưa kiến thức lý luận văn học vào một đề bài cụ thể.

    Cảm nhận đoạn trích: "Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, trước cửa, cạnh tàu ngựa.. Mị vừa bước ra, lập tức mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi" (Trích "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài). Từ đó, nhận xét về giá trị nhân đạo được nhà văn thể hiện qua tác phẩm.

    Đoạn văn này có chi tiết nói đến không gian làm việc của Mị: "Bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa".

    Học sinh dẫn dắt, khi bàn về truyện ngắn, chúng ta không thể bỏ qua vai trò của không gian nghệ thuật. M. B. Khrapchencô từng cho rằng: "Một trong các dấu hiệu biểu hiện phong cách nghệ thuật nhà văn là cách tổ chức, xây dựng không gian nghệ thuật trong tác phẩm". Điều đó cho ta thấy trong tác phẩm văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng, không gian nghệ thuật có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

    Không gian nghệ thuật trong đoạn trích "Vợ chồng A Phủ" được Tô Hoài xây dựng rất đặc biệt. Mị làm việc trong không gian "bên tảng đá", "cạnh tàu ngựa" cho thấy sự cô đơn của nhân vật bên cạnh sự vật vô tri vô giác và môi trường ẩm thấp, hôi hám, mất vệ sinh.

    Hay khi bàn về giá trị nhân đạo của tác phẩm, học sinh có thể dẫn câu nói của nhà văn Nga Sê-khốp nói: "Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". Trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã tố cáo, vạch trần tội ác của giai cấp thống trị, đó là gia đình thống lý Pá Tra đã chà đạp lên quyền sống của Mị, A Phủ.

    Bên cạnh đó, tác phẩm còn tập trung biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp nhất của Mị, A Phủ. Cuối cùng, nhà văn đã có sự cảm thông và thấu hiểu được tâm tư tình cảm cũng như những nguyện vọng mơ ước của Mị, A Phủ, giúp họ nói lên những ước nguyện và đấu tranh để giành ước nguyện ấy.

    Muốn viết bài văn sáng tạo, trước hết học sinh phải bảo đảm cấu trúc bài văn nghị luận. Tiếp đến là xác định đúng vấn đề cần nghị luận (tránh viết lạc đề) và sau cùng triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm. Nếu học sinh viết sai nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp cũng sẽ bị trừ điểm.

    Phan Thế Hoài
     
    Last edited by a moderator: 29 Tháng mười 2023
  7. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,906
    Yêu cầu phụ bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ

    1. Nhận xét về triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích.

    - Khái niệm: triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con người, là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của con người và cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người. Bên cạnh đó nhân sinh quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối các hoạt động của con người trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta.


    - Biểu hiện của triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích:

    + Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác.

    + Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.

    + Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.


    2. Triết lí nhân sinh mà Lưu Quang Vũ gửi gắm qua nhân vật.

    Được sống là một điều may mắn, nhưng sống như thế nào mới quan trọng

    Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, có được sự hòa hợp giữa thể xác và linh hồn, giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: "Bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo".

    – Trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là chính mình toàn vẹn.

    3. Nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ .

    - Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.

    - Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu hỏi: Sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì câu hỏi: Sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: Một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm vườn ‌trong‌ ‌tác‌ ‌phẩm‌ ‌của‌ ‌mình. ‌ ‌Hình‌ ‌tượng‌ ‌người‌ ‌làm‌ ‌vườn‌ ‌chính‌ ‌là‌‌đại‌ ‌diện‌ ‌cho‌ ‌những‌ ‌người‌ ‌biết‌ ‌vun‌ ‌xới, ‌ ‌chăm‌ ‌lo‌ ‌cho‌ ‌hạnh‌ ‌phúc‌của‌ ‌người‌ ‌khác. ‌ ‌Ở‌ ‌khía‌ ‌cạnh‌ ‌này‌ ‌chúng‌ ‌ta‌ ‌thấy‌ ‌tư‌ ‌tưởng‌ ‌của‌ ‌nhà‌ ‌văn‌ ‌dù‌ ‌tiến‌ ‌bộ‌ ‌và‌ ‌mới‌ ‌mẻ‌ ‌đến‌ ‌đâu‌ ‌vẫn‌ ‌có‌ ‌sự‌ ‌bắt‌ ‌rễ‌ ‌sâu‌ ‌và‌ ‌hoàn‌

    ‌toàn‌ ‌thống‌ ‌nhất‌ ‌với‌ ‌truyền‌ ‌thống, ‌ ‌đạo‌ ‌lý‌ ‌tốt‌ ‌đẹp‌ ‌của‌ ‌dân‌ ‌tộc. ‌

    4. Bình luận khát vọng được sống là chính mình.

    - Trương Ba không chấp nhận sống chung với sự tầm thường giả dối của người khác, ông muốn được sống thuận theo lẽ tự nhiên: Trọn vẹn là mình hòa hợp linh hồn thể xác. Từ đó,

    - Tác giả muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta phải trang bị tri thức, kĩ năng, luôn chủ động, linh hoạt trước những biến đổi của cuộc sống. Cần giữ vững cá tính, phong cách của bản thân, sống hòa nhập nhưng không hòa tan, sống theo cá tính, phong cách riêng nhưng không lập dị khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc thực sự.

    5. Nhận xét nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.

    - Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.

    - Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu hỏi: Sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì câu hỏi: Sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: Một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến mộtngười nông dân chung chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của mình. Hình tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.


    6. Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:

    - Ðối với bản thân người có lối sống đó: Dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực dụng, giả dối, suy thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng: Tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn xã hội. Bị mọi người coi thường xa lánh.

    - Ðối với cộng đồng: Mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành, hãm hại nhau, kìm hãm sự phát triển.

    - Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng cảm đấu tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...