Welcome! You have been invited by Vân Mây to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
Bài viết: 11 Tìm chủ đề
938 12
Ngôn ngữ: Chữ Hán

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)

Thời kỳ: Nguyễn​

黃 梅 山 上 村

山 下 有 長 松,

山 上 有 遙 村.

山 下 長 松 梢,

正 當 山 上 門.

門 內 所 居 人,

窮 年 何 所 為.

女 事 惟 績 麻,

其 男 業 耘 耔.

耘 耔 苟 得 閒,

下 山 伐 松 枝.

聊 以 足 官 稅,

不 事 書 與 詩.

催 租 一 不 到,

雞 犬 皆 熙熙.

密 石 礙 車 馬,

雜 花 當 歲 時.

山 外 興 與 廢,

山 中 皆 不 知.

算 來 一 年 中,

所 憂 無 一 時.

所 以 山 中 人,

人人 皆 其 頤.

松 花 柏 子 肯 許 食,

白 頭 去 此 將 安 歸.

Hoàng Mai sơn thượng thôn

Sơn hạ hữu trường tùng

Sơn thượng hữu diêu thôn

Sơn hạ trường tùng sao

Chính đương sơn thượng môn

Môn nội sở cư nhân

Cùng niên hà sở vi

Nữ sự duy tích ma

Kì nam nghiệp vân tỉ

Vân tỉ cẩu đắc gian

Hạ sơn phạt tùng chi

Liêu dĩ túc quan thuế

Bất sự thư dữ thi

Thôi tô nhất bất đáo

Kê khuyển giai hi hi

Mật thạch ngại xa mã

Tạp hoa đương tuế thì

Sơn ngoại hưng dữ phế

Sơn trung giai bất tri

Toán lai nhất niên trung

Sở ưu vô nhất thì

Sở dĩ sơn trung nhân

Nhân nhân giai kỳ di

Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực

Bạch đầu khứ thử tương an quy

Dịch nghĩa

Dưới chân núi có tùng cao

Trên núi có xóm xa

Ngọn tùng cao dưới núi

Cao ngang cổng trên núi

Người ở trong cổng ấy

Quanh năm làm gì?

Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai

Việc đàn ông là cầy cấy

Cầy cấy, lúc nhàn rỗi

Xuống núi chặt cành tùng

Lo đủ thuế nộp cho quan

Không bận sách cùng thơ

Quan đòi thuế mà không đến

Gà chó vui phởn phơ

Đá kín dầy cản xe ngựa

Các loại hoa cho biết mùa trong năm

Sự hưng phế bên ngoài núi

Người ở trong núi đều không biết

Tính lại suốt năm

Chẳng bao giờ lo âu

Cho nên người trong núi

Người người sống lâu trăm tuổi

Hoa tùng quả bách mà ăn được

Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa

Hoàng Mai: Núi ở huyện Hoàng Mai, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Bài thơ có khí vị giống bài Đào hoa nguyên ký của Đào Uyên Minh (365-427) : "Dân trong vùng Suối hoa đào cũng ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục của mình, không giao thiệp với người ngoài, cũng chẳng có quan lại triều đình gì cả, và tiếng gà tiếng chó tiếp nhau" . (Xem Cổ văn Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản, Houston, USA, trang 189).

Dịch thơ

Chân núi có tùng cao

Trên núi có xóm vào

Ngọn tùng cao dưới núi

Vươn tới cổng trên cao

Người ở trong núi ấy

Quanh năm việc gì đấy?

Đàn bà xe sợi gai

Đàn ông nghề cầy cấy

Cấy cầy, khi nhàn nhã

Xuống núi chặt cành tùng

Lo đủ tiền thuế má

Thi thơ chẳng bận bùng

Quan thuế mà không đến

Gà chó vui phởn phơ

Đá dầy cản xe ngựa

Hoa mọc báo tin mùa

Bên ngoài hưng hoặc phế

Trong núi biết gì đâu

Cứ một năm như thế

Chẳng lúc nào lo âu

Cho nên người trong núi

Ai nấy đều sống lâu

Hoa tùng, quả bách mà ăn được

Bạc đầu, về đó chứ về đâu..

Hoàng Mai sơn thượng thôn thuộc tập thơ Bắc hành tạp lục của tác giả Nguyễn Du. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Mở đầu quyển là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc. Bài cuối làm khi trở về đến Võ Xương (Hồ Bắc), từ đó lên thuyền trở về, nên không có đề tài ngâm vịnh nữa. Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường.

Đường đến Yên Kinh đã dài, khi về phải tránh giặc giã mà đi vòng sang phía đông, rồi trở lại Vũ Hán, nên nhà thơ đã đi qua nhiều tỉnh: Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy và trở lại con đường cũ.

Nguyễn Du cùng phái đoàn đi công sứ Trung Hoa, rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), lên tới Bắc kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).

Theo tài liệu ghi chép và dựa theo những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du làm khi thăm viếng những di tích lịch sử Trung Hoa thì lộ trình của phái bộ Nguyễn Du như sau: Thăng Long, Nam Quan, Quảng Tây, Quế Lâm, Toàn Châu, Hồ Nam, Lôi Châu, Hành Dương, Giang Nam, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Hán Dương, Võ Xương, Hứa Đô, Nghiệp, Hàm Đan, Tấn Dương, Yên Kinh, Sơn Đông, Khúc Phụ, Tứ Thuỷ, Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, Võ Xương, Lâm An (Hàng Châu), Quế Lâm, Quảng Tây, Nam Quan.

Theo một tài liệu khác thì lộ trình sứ bộ Nguyễn Du (1813-1814) đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), đến Yên Kinh ngày 4 tháng 10 năm Quí Dậu (1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814) :

- 06-04 Quý Dậu: Đi qua cửa Nam Quan (1813).

- 08-04 Quý Dậu: Đến Ninh Minh Châu.

- 02-05 Quý Dậu: Đến thành phủ Ngô Châu.

- 18-07 Quý Dậu: Đến Trường Sa, tỉnh lỵ Hồ Nam.

- 30-07 Quý Dậu: Đến Võ Xương, tỉnh lỵ Hồ Bắc.

- 09-08 Quý Dậu: Từ Hán Khẩu ra đi.

- 22-08 Quý Dậu: Ra khỏi địa phận huyện An Dương, tỉnh Hà Nam.

- 04-10 Quý Dậu: Đến Yên Kinh (1813).

- 24-10 Quý Dậu: Từ Yên Kinh khởi hành về nước (1813).

- 02-11 Quý Dậu: Qua tỉnh An Huy xuống Hồ Bắc.

- 25-12 Quý Dậu: Đến huyện Lâm Tương, tỉnh Hồ Nam.

- 30-01 Giáp Tuất: Đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam.

- 04-02 Giáp Tuất: Đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.

- 29-03 Giáp Tuất: Về qua Nam Quan (1814).
 
Last edited by a moderator:

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back