Bài viết: 11 



Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Nguyễn
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Nguyễn
黃 梅 山 上 村
山 下 有 長 松,
山 上 有 遙 村.
山 下 長 松 梢,
正 當 山 上 門.
門 內 所 居 人,
窮 年 何 所 為.
女 事 惟 績 麻,
其 男 業 耘 耔.
耘 耔 苟 得 閒,
下 山 伐 松 枝.
聊 以 足 官 稅,
不 事 書 與 詩.
催 租 一 不 到,
雞 犬 皆 熙熙.
密 石 礙 車 馬,
雜 花 當 歲 時.
山 外 興 與 廢,
山 中 皆 不 知.
算 來 一 年 中,
所 憂 無 一 時.
所 以 山 中 人,
人人 皆 其 頤.
松 花 柏 子 肯 許 食,
白 頭 去 此 將 安 歸.
Hoàng Mai sơn thượng thôn
Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu diêu thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính đương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kì nam nghiệp vân tỉ
Vân tỉ cẩu đắc gian
Hạ sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mã
Tạp hoa đương tuế thì
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kỳ di
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy
Dịch nghĩa
Dưới chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Cao ngang cổng trên núi
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm làm gì?
Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai
Việc đàn ông là cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp cho quan
Không bận sách cùng thơ
Quan đòi thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá kín dầy cản xe ngựa
Các loại hoa cho biết mùa trong năm
Sự hưng phế bên ngoài núi
Người ở trong núi đều không biết
Tính lại suốt năm
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Người người sống lâu trăm tuổi
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa
Hoàng Mai: Núi ở huyện Hoàng Mai, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Bài thơ có khí vị giống bài Đào hoa nguyên ký của Đào Uyên Minh (365-427) : "Dân trong vùng Suối hoa đào cũng ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục của mình, không giao thiệp với người ngoài, cũng chẳng có quan lại triều đình gì cả, và tiếng gà tiếng chó tiếp nhau" . (Xem Cổ văn Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản, Houston, USA, trang 189).
Dịch thơ
Chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm vào
Ngọn tùng cao dưới núi
Vươn tới cổng trên cao
Người ở trong núi ấy
Quanh năm việc gì đấy?
Đàn bà xe sợi gai
Đàn ông nghề cầy cấy
Cấy cầy, khi nhàn nhã
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ tiền thuế má
Thi thơ chẳng bận bùng
Quan thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá dầy cản xe ngựa
Hoa mọc báo tin mùa
Bên ngoài hưng hoặc phế
Trong núi biết gì đâu
Cứ một năm như thế
Chẳng lúc nào lo âu
Cho nên người trong núi
Ai nấy đều sống lâu
Hoa tùng, quả bách mà ăn được
Bạc đầu, về đó chứ về đâu..
Hoàng Mai sơn thượng thôn thuộc tập thơ Bắc hành tạp lục của tác giả Nguyễn Du. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Mở đầu quyển là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc. Bài cuối làm khi trở về đến Võ Xương (Hồ Bắc), từ đó lên thuyền trở về, nên không có đề tài ngâm vịnh nữa. Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường.
Đường đến Yên Kinh đã dài, khi về phải tránh giặc giã mà đi vòng sang phía đông, rồi trở lại Vũ Hán, nên nhà thơ đã đi qua nhiều tỉnh: Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy và trở lại con đường cũ.
Nguyễn Du cùng phái đoàn đi công sứ Trung Hoa, rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), lên tới Bắc kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).
Theo tài liệu ghi chép và dựa theo những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du làm khi thăm viếng những di tích lịch sử Trung Hoa thì lộ trình của phái bộ Nguyễn Du như sau: Thăng Long, Nam Quan, Quảng Tây, Quế Lâm, Toàn Châu, Hồ Nam, Lôi Châu, Hành Dương, Giang Nam, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Hán Dương, Võ Xương, Hứa Đô, Nghiệp, Hàm Đan, Tấn Dương, Yên Kinh, Sơn Đông, Khúc Phụ, Tứ Thuỷ, Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, Võ Xương, Lâm An (Hàng Châu), Quế Lâm, Quảng Tây, Nam Quan.
Theo một tài liệu khác thì lộ trình sứ bộ Nguyễn Du (1813-1814) đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), đến Yên Kinh ngày 4 tháng 10 năm Quí Dậu (1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814) :
- 06-04 Quý Dậu: Đi qua cửa Nam Quan (1813).
- 08-04 Quý Dậu: Đến Ninh Minh Châu.
- 02-05 Quý Dậu: Đến thành phủ Ngô Châu.
- 18-07 Quý Dậu: Đến Trường Sa, tỉnh lỵ Hồ Nam.
- 30-07 Quý Dậu: Đến Võ Xương, tỉnh lỵ Hồ Bắc.
- 09-08 Quý Dậu: Từ Hán Khẩu ra đi.
- 22-08 Quý Dậu: Ra khỏi địa phận huyện An Dương, tỉnh Hà Nam.
- 04-10 Quý Dậu: Đến Yên Kinh (1813).
- 24-10 Quý Dậu: Từ Yên Kinh khởi hành về nước (1813).
- 02-11 Quý Dậu: Qua tỉnh An Huy xuống Hồ Bắc.
- 25-12 Quý Dậu: Đến huyện Lâm Tương, tỉnh Hồ Nam.
- 30-01 Giáp Tuất: Đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam.
- 04-02 Giáp Tuất: Đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
- 29-03 Giáp Tuất: Về qua Nam Quan (1814).
Last edited by a moderator: