
Trống đồng Đông Sơn với kỹ thuật chế tác và trang trí tinh xảo là biểu tượng Văn hóa Đông Sơn.
Từ Văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm Đông Sơn vẫn là nền văn hóa đồ đồng có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồ đồng ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Khá nhiều di chỉ Văn hóa Ðông Sơn ở Phú Thọ, đặc biệt tập trung các di chỉ Ðông Sơn quanh Ðền Hùng và Việt Trì với các hiện vật bằng đồng nổi tiếng như trống đồng, bộ rìu gót vuông, rìu xéo, rìu hình thuổng, lục lạc, vòng ống, tấm che ngực, mũi lao, ngọn giáo, dao găm, vòng tay, v. V..
Qua hoa văn trên thạp đồng, trống đồng và hiện vật khảo cổ khác, thấy hình thái kinh tế, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cư dân Văn Lang.
Một trống đồng Hê Gơ loại I có đường kính lớn nhất trong số trống đồng cùng loại tìm thấy ở chân núi Nghĩa Lĩnh, núi Hùng và tiếp sau là trống đồng loại II còn gọi trống Mường chỉ có ở vùng người Mường, phát hiện nhiều nhất trong vùng Mường Phú Thọ với hơn 60 chiếc.
Cả nước ít hơn nhiều, chứng tỏ Phú Thọ từng là Đất Tổ. Trống đồng Mường xuất hiện tương ứng ngàn năm Bắc thuộc.
Đầu Công Nguyên, người Việt cổ phân thành 2 nhánh người Việt và người Mường là lúc ngàn năm Bắc thuộc, giặc nhiều lần thu vét trống đồng hoặc phá để thủ tiêu văn hóa Việt và tinh thần Việt.
Các làng vùng ngoài bị giặc lùng sục ráo riết hơn, từ đó trống đồng vắng bóng, bị cướp, hoặc chôn giấu dưới lòng đất. Ở vùng Mường khuất nẻo, tục đánh trống đồng duy trì nên vẫn đúc tiếp trống đồng.
Số trống đồng loại II đúc ra khi mất nước nói lên tình cảm của dân, nghệ nhân gửi gắm vào đó qua đơn giản hóa các họa tiết hoa văn và hình dáng kích thước trống.
Nhiều làng Mường Phú Thọ kể truyền thuyết về nhạc khí, trống đồng bị chôn giấu khi chạy giặc.
Trống đồng hầu như chỉ đào được ở xóm Chiềng các làng Mường vì xóm Chiềng là trung tâm một làng Mường, nơi quan thổ tù ở, có các đình miếu công đồng, hàng năm có các lễ hội lớn, tổ chức chàm thau (đánh trống, đánh chiêng đồng).
Nay phát hiện hơn 170 chiếc ở khắp đất Bắc Việt Nam. Trống đồng thể hiện trình độ cao kỹ thuật luyện kim đương thời.
Kiểu dáng và các hình trang trí trên mặt trống và tang trống thể hiện trình độ nghệ thuật cao, thẩm mỹ tinh tế, quan niệm nhất định về quan hệ giữa người và thế giới xung quanh.
Cấu tạo trống hài hòa, cân đối. Thân trống chia 3 phần rõ rệt: Tang, thân, chân. Mặt, tang, thân đều đúc nổi các hoa văn đặc trưng.
Mặt trống có mặt trời nhiều tia và các vòng hoa văn răng cưa, chim mỏ dài bay từ phải sang trái. Tang trống có vòng hoa văn răng cưa, đoạn thẳng ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến.
Thân trống có hoa văn hình thoi, vòng tròn có chấm, vòng hoa văn răng cưa, người hóa trang lông chim, người chơi nhạc cụ, giã gạo, thuyền, nhà..
Trống có 4 quai đôi đối xứng trên thân, quai trang trí những đường xương cá.
Thông qua những trống đồng với những hoa văn phong phú mang đậm nét nghệ thuật, người xưa chuyển tải tư duy, nhận thức để lại đời sau như cách lưu truyền nền văn hóa đương thời cho hậu thế.
Thí dụ:
Trong số trống Đông Sơn được phát hiện, trống Ngọc Lũ to nhất, hoa văn phong phú nhất, thể hiện kỹ thuật đúc đồng cao cấp thời Hùng Vương do cụ già phát hiện:
1893 khi đắp đê sông Hồng và để ở chùa Đọi ở núi Long Đọi (tức Long Đội Sơn tên thời Lý) thuộc làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Từ đó trống đồng Ngọc Lũ được thế giới biết tiếng.
Trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ:
Mặt trống tròn, giữa có sao nhiều cánh, xung quanh có hàng chục vành, mỗi vành một hoa văn: Hươu nai, chim cò, người hóa trang lông chim, tháp canh, hoa văn hình chữ S, hình tròn có tiếp tuyến v. V.. Tất cả khắc tinh tế, cùng kiểu dáng, đều đặn, đẹp.
Tang trống in nổi hình những thuyền có người chèo, người cầm cung tên. Các thuyền này thuộc thuyền đua và thuyền chiến.
Mỗi trống đồng thường trang trí khác nhau, giữ những nét đặc sắc chung, nhưng không dừng ở trình độ cách điệu như nhau.
Hoa văn trên trống đồng phản ánh bước tiến quan niệm thẩm mỹ.
Hoa văn khắc trên trống đồng (hay gốm) quan niệm như hình họa trang trí, ý nghĩa về nghệ thuật, quan trọng nhất của hoa văn là tư duy người xưa biết dùng:
Kinh Dịch để chuyển tải tư duy dưới hình thức những hoa văn trang trí, những người vẽ đồ án hoa văn thời Hùng Vương kết hợp hài hòa tư tưởng và nghệ thuật.
Họ là những nhà tư tưởng, những triết gia thời đại và Việt Nam.
Trình bày Kinh Dịch dưới dạng hoa văn cho thấy họ có tư duy linh hoạt, sáng tạo. Vài nội dung thể hiện Kinh Dịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ:
- Mặt trống Ngọc Lũ từ trung tâm trở ra có 16 vành. Giữa mặt là hình mặt trời 14 tia. Chú ý vành 8 và 10. Vành 8 có 2 nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng 2 tốp chim bay, 1 tốp 6 con, 1 tốp 8 con.
Hươu đi, chim bay. Hươu đực đi trước, theo sau là hươu cái, nối tiếp nhau hết đực đến cái. Đây là cách thể hiện hình tượng Âm Dương luôn vận động, biến dịch trong vũ trụ.
Vành 10 có 36 chim gồm 18 chim bay, 18 chim đậu, cứ 1 chim bay kèm 1 chim đậu thành 1 nhóm. Thể hiện hình tượng Âm Dương trong trạng thái đối lập 1 động, 1 tĩnh.
Bay là động, đậu là tĩnh. Động thuộc Dương, tĩnh thuộc Âm. Âm Dương nối tiếp vận hành không ngừng làm nên cuộc sống. (theo Nguyễn Thiếu Dũng – Việt Báo - 30 Tháng tám 2005).
Số 36 có thể hiểu theo nghĩa khác:
Theo Thiệu Khang Tiết, Kinh Dịch có 64 quẻ gồm 8 quẻ bất dịch (đảo ngược vẫn là hình quẻ đó), 28 cặp quẻ phản dịch (đảo ngược thành quẻ khác) nghĩa là 64 = 8 + (28 x 2), do đó tiên sinh nói Kinh Dịch có 36 cung (36 = 8 + 28).
Thượng Kinh có 18 cung gồm 6 quẻ bất dịch và 12 quẻ phản dịch. Hạ Kinh gồm 2 quẻ bất dịch, 16 quẻ phản dịch.
Mặt trống Ngọc Lũ có 2 dải băng răng cưa thuộc vành 12 và 16. Mỗi băng răng cưa do 2 lớp tam giác đối đỉnh tạo thành.
Tam giác nổi tượng hình năng lượng Dương, tam giác chìm tượng hình năng lượng Âm, các tam giác tạo 2 lớp răng cưa khớp nhau, giống 2 bánh răng cưa trong cỗ máy vận hành ăn khớp như ngày và đêm quyện nhau dịch chuyển theo thời gian.
Nói theo Dịch Truyện là "cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa". Cương là Dương, nhu là Âm, Âm Dương thúc đẩy nhau sinh biến hóa (Hệ từ thượng truyện. II, 2).
Nay tất cả ngành và liên ngành khoa học, sử dụng những phương pháp chuyên môn tạo những luồng sáng khác nhau từ nhiều chiều hướng cùng rọi chiếu 1 điểm.
Cuối cùng dưới ánh sáng nghiên cứu tổng hợp dần hiện ra và liên kết lại khiến hình ảnh cả thời đại bộc lộ dần.
Đây là thời bồi đắp và định hình nền văn minh đầu tiên mang bản lĩnh dân tộc với một loạt thành tựu đặc sắc trong đời sống vật chất, xã hội, tinh thần - từ nhà sàn mái cong đến thuyền đuôi én, từ những chuyện kể kỳ thú đến trống đồng kỳ diệu.
Trống đồng vừa là nhạc khí vừa là hiện vật tượng trưng cho quyền uy thủ lĩnh.
Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật luyện đồng mới ra đời, dấu tích đồ đồng trong các di chỉ còn rất hiếm, càng về sau tỷ lệ hiện vật đồng càng nhiều.
Đến Văn hóa Đông Sơn, bên cạnh kỹ thuật chế tác đồ đồng có kỹ thuật luyện quặng sắt, chế tác đồ sắt.
Chuyện Thánh Gióng thể hiện cốt lõi lịch sử quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội khi nghề luyện sắt ra đời. Kỹ thuật luyện sắt xuất hiện là lúc kỹ thuật chế tác đồ đồng phát triển đỉnh cao.
Văn hóa Đông Sơn đồ đồng có nhiều loại hình sản phẩm phong phú từ công cụ sản xuất đến vũ khí, nhạc cụ.. kỹ thuật đúc trống đồng đạt tinh xảo. Vì thế trống đồng Đông Sơn thành biểu tượng nền văn minh thời Hùng Vương.
Cùng thành Cổ Loa, trống đồng Đông Sơn là hiện vật tiêu biểu cho văn minh Văn Lang, Âu Lạc.
4 nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R. H. Geldern, B. Karlgren và O. Jansé đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc từ bên ngoài.
Người nói bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Châu Âu, truyền qua vùng thảo nguyên Âu-Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn.
Có người dựng lên nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycenae của Hy Lạp theo hành trình rất phức tạp qua trung gian các nền văn minh Trung Ấn rồi Tây Á, đến đây chia 2 ngả:
1 theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, 1 theo lưu vực sông Hoàng Hà, sinh ra văn hóa đồ đồng nhà Thương ở Trung Hoa.
Nhưng các lập luận trên chỉ đứng vững khi chưa phát hiện Văn hóa Phùng Nguyên hơn khoảng 1.000 năm so với những di vật ở Đông Sơn.
Người Việt cổ còn văn minh ở chỗ họ để lại đời sau những hình ảnh tốt đẹp qua các tượng, các hình chạm khắc trên trống đồng, thạp đồng.. Qua những hiện vật quý hiếm ấy, Tổ tiên người Việt mách bảo:
Họ ở nhà sàn, dựng nhà kho, làm thuyền lớn đi sông biển, thích tổ chức hội mùa vui chơi múa hát, có khi cầm vũ khí phô trương lực lượng. Họ chăn nuôi nhiều gia súc: Gà, heo, chó, voi..
Họ sống hài hòa với chim trời, thú rừng. Họ có những tín ngưỡng, tôn giáo như chôn người chết, thờ vật Tổ, tổ chức bơi chải cầu mưa, cho gái trai tự do thương yêu để tác động đến cỏ cây, mùa màng, thời tiết theo tín ngưỡng phồn thực thấy ở nhiều dân tộc khác.
Đặc biệt người Việt cổ còn có khái niệm về số học và hình học, đối xứng (đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến), biết sử dụng một loại compa.
Trống đồng Đông Sơn - đỉnh cao văn minh thời Hùng Vương
Từ bao đời nay, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương. Trống đồng thành biểu tượng thiêng liêng nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Quê hương trống đồng Đông Sơn là trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn tồn tại từ TK7 TCN đến TK. 6 SCN. Sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.
Tổ tiên ta vượt những khắc nghiệt thiên nhiên bằng dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, tạo kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa người Việt, tạo nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Châu Á.
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ tỏa sáng trên lưu vực sông Hồng.
Theo các nhà nghiên cứu, trống đồng ra đời từ nền Văn hóa Đông Sơn gắn liền thời Vua Hùng. Phú Thọ là trung tâm nền Văn hóa Đông Sơn - văn minh sông Hồng.
Đỉnh cao hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Đền Hùng có kích thước trống loại 1 lớn nhất từ trước đến nay phát hiện năm 1990 tại đồi Khuôn Muồi là làng cổ sát chân núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ Vua Hùng.
Chứng minh trống đồng Đền Hùng là vật linh thiêng được nước Văn Lang dùng làm linh vật mỗi khi tế lễ, hội hè tại khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Trống đồng phát hiện ở đồi Khuôn Muồi cùng nhiều trống đồng loại 1 khác tìm thấy trên dải đất Việt Nam là những tư liệu vô cùng quý báu có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh người Việt.
Trống đồng là vật linh, qua đó sáng tỏ nhiều vấn đề, thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất những thành tựu sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền uy nhà nước được xác lập đầu tiên trên nước ta.
Những hình khắc họa trên trống giúp hình dung về cuộc sống người Việt cổ thời xa xưa.
Hoa văn trống đồng nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên phần mặt, tang, thân trống.
Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích làm cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, Văn hóa Đông Sơn thời đó.
Trống đồng có chức năng nhạc khí và làm biểu tượng quyền lực, tôn giáo..
Trống dùng trong nghi lễ tôn giáo, lễ hội và chống ngoại xâm, khi thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người khắp nơi tụ về chiến đấu.
Trống thường thuộc về những thủ lĩnh. Thủ lĩnh có quyền lực càng lớn, trống càng to đẹp. Trống đồng được coi tài sản quý, làm đồ tuỳ táng khi chủ qua đời.
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển, hiện vật quý báu, một trong những niềm tự hào lớn của văn hóa Việt Nam.
Nay hàng trăm trống đồng phát hiện, lưu giữ, trưng bày trang trọng ở các bảo tàng quốc gia và các địa phương, vùng đất Thanh Sơn miền Tây của Phú Thọ, nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày hội trống đồng của dân tộc Mường với lễ hội "Đâm Đuống" và "Chàm Thau."
Đây là một trong những vùng địa linh của Phú Thọ phát hiện nhiều trống đồng trong lòng đất nhất.
Phú Thọ khôi phục nghi thức linh thiêng là đánh trống đồng trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng 10-3 Âm Lịch hằng năm.
Tiếng trống đồng Đông Sơn ngân vang ở Đền Hùng, vang vọng mọi miền đất nước, khẳng định những giá trị truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của Việt Nam suốt lịch sử:
Dựng nước giữ nước với bao biến cố, thăng trầm vẫn hiên ngang đứng vững, tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại.
Trống đồng là bảo vật văn hóa Việt Nam, điểm hội tụ hồn thiêng sông núi hình thành từ thời Hùng Vương, tích tụ tinh hoa dân tộc suốt tiến trình lịch sử dựng nước giữ nước từ thời Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.
Những trống đồng Đông Sơn phát hiện khắp Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho tinh hoa văn hóa, ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.
Khá nhiều di chỉ Văn hóa Ðông Sơn ở Phú Thọ, đặc biệt tập trung các di chỉ Ðông Sơn quanh Ðền Hùng và Việt Trì với các hiện vật bằng đồng nổi tiếng như trống đồng, bộ rìu gót vuông, rìu xéo, rìu hình thuổng, lục lạc, vòng ống, tấm che ngực, mũi lao, ngọn giáo, dao găm, vòng tay, v. V..
Qua hoa văn trên thạp đồng, trống đồng và hiện vật khảo cổ khác, thấy hình thái kinh tế, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cư dân Văn Lang.
Một trống đồng Hê Gơ loại I có đường kính lớn nhất trong số trống đồng cùng loại tìm thấy ở chân núi Nghĩa Lĩnh, núi Hùng và tiếp sau là trống đồng loại II còn gọi trống Mường chỉ có ở vùng người Mường, phát hiện nhiều nhất trong vùng Mường Phú Thọ với hơn 60 chiếc.
Cả nước ít hơn nhiều, chứng tỏ Phú Thọ từng là Đất Tổ. Trống đồng Mường xuất hiện tương ứng ngàn năm Bắc thuộc.
Đầu Công Nguyên, người Việt cổ phân thành 2 nhánh người Việt và người Mường là lúc ngàn năm Bắc thuộc, giặc nhiều lần thu vét trống đồng hoặc phá để thủ tiêu văn hóa Việt và tinh thần Việt.
Các làng vùng ngoài bị giặc lùng sục ráo riết hơn, từ đó trống đồng vắng bóng, bị cướp, hoặc chôn giấu dưới lòng đất. Ở vùng Mường khuất nẻo, tục đánh trống đồng duy trì nên vẫn đúc tiếp trống đồng.
Số trống đồng loại II đúc ra khi mất nước nói lên tình cảm của dân, nghệ nhân gửi gắm vào đó qua đơn giản hóa các họa tiết hoa văn và hình dáng kích thước trống.
Nhiều làng Mường Phú Thọ kể truyền thuyết về nhạc khí, trống đồng bị chôn giấu khi chạy giặc.
Trống đồng hầu như chỉ đào được ở xóm Chiềng các làng Mường vì xóm Chiềng là trung tâm một làng Mường, nơi quan thổ tù ở, có các đình miếu công đồng, hàng năm có các lễ hội lớn, tổ chức chàm thau (đánh trống, đánh chiêng đồng).
Nay phát hiện hơn 170 chiếc ở khắp đất Bắc Việt Nam. Trống đồng thể hiện trình độ cao kỹ thuật luyện kim đương thời.
Kiểu dáng và các hình trang trí trên mặt trống và tang trống thể hiện trình độ nghệ thuật cao, thẩm mỹ tinh tế, quan niệm nhất định về quan hệ giữa người và thế giới xung quanh.
Cấu tạo trống hài hòa, cân đối. Thân trống chia 3 phần rõ rệt: Tang, thân, chân. Mặt, tang, thân đều đúc nổi các hoa văn đặc trưng.
Mặt trống có mặt trời nhiều tia và các vòng hoa văn răng cưa, chim mỏ dài bay từ phải sang trái. Tang trống có vòng hoa văn răng cưa, đoạn thẳng ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến.
Thân trống có hoa văn hình thoi, vòng tròn có chấm, vòng hoa văn răng cưa, người hóa trang lông chim, người chơi nhạc cụ, giã gạo, thuyền, nhà..
Trống có 4 quai đôi đối xứng trên thân, quai trang trí những đường xương cá.
Thông qua những trống đồng với những hoa văn phong phú mang đậm nét nghệ thuật, người xưa chuyển tải tư duy, nhận thức để lại đời sau như cách lưu truyền nền văn hóa đương thời cho hậu thế.
Thí dụ:
Trong số trống Đông Sơn được phát hiện, trống Ngọc Lũ to nhất, hoa văn phong phú nhất, thể hiện kỹ thuật đúc đồng cao cấp thời Hùng Vương do cụ già phát hiện:
1893 khi đắp đê sông Hồng và để ở chùa Đọi ở núi Long Đọi (tức Long Đội Sơn tên thời Lý) thuộc làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Từ đó trống đồng Ngọc Lũ được thế giới biết tiếng.
Trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ:
Mặt trống tròn, giữa có sao nhiều cánh, xung quanh có hàng chục vành, mỗi vành một hoa văn: Hươu nai, chim cò, người hóa trang lông chim, tháp canh, hoa văn hình chữ S, hình tròn có tiếp tuyến v. V.. Tất cả khắc tinh tế, cùng kiểu dáng, đều đặn, đẹp.
Tang trống in nổi hình những thuyền có người chèo, người cầm cung tên. Các thuyền này thuộc thuyền đua và thuyền chiến.
Mỗi trống đồng thường trang trí khác nhau, giữ những nét đặc sắc chung, nhưng không dừng ở trình độ cách điệu như nhau.
Hoa văn trên trống đồng phản ánh bước tiến quan niệm thẩm mỹ.
Hoa văn khắc trên trống đồng (hay gốm) quan niệm như hình họa trang trí, ý nghĩa về nghệ thuật, quan trọng nhất của hoa văn là tư duy người xưa biết dùng:
Kinh Dịch để chuyển tải tư duy dưới hình thức những hoa văn trang trí, những người vẽ đồ án hoa văn thời Hùng Vương kết hợp hài hòa tư tưởng và nghệ thuật.
Họ là những nhà tư tưởng, những triết gia thời đại và Việt Nam.
Trình bày Kinh Dịch dưới dạng hoa văn cho thấy họ có tư duy linh hoạt, sáng tạo. Vài nội dung thể hiện Kinh Dịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ:
- Mặt trống Ngọc Lũ từ trung tâm trở ra có 16 vành. Giữa mặt là hình mặt trời 14 tia. Chú ý vành 8 và 10. Vành 8 có 2 nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng 2 tốp chim bay, 1 tốp 6 con, 1 tốp 8 con.
Hươu đi, chim bay. Hươu đực đi trước, theo sau là hươu cái, nối tiếp nhau hết đực đến cái. Đây là cách thể hiện hình tượng Âm Dương luôn vận động, biến dịch trong vũ trụ.
Vành 10 có 36 chim gồm 18 chim bay, 18 chim đậu, cứ 1 chim bay kèm 1 chim đậu thành 1 nhóm. Thể hiện hình tượng Âm Dương trong trạng thái đối lập 1 động, 1 tĩnh.
Bay là động, đậu là tĩnh. Động thuộc Dương, tĩnh thuộc Âm. Âm Dương nối tiếp vận hành không ngừng làm nên cuộc sống. (theo Nguyễn Thiếu Dũng – Việt Báo - 30 Tháng tám 2005).
Số 36 có thể hiểu theo nghĩa khác:
Theo Thiệu Khang Tiết, Kinh Dịch có 64 quẻ gồm 8 quẻ bất dịch (đảo ngược vẫn là hình quẻ đó), 28 cặp quẻ phản dịch (đảo ngược thành quẻ khác) nghĩa là 64 = 8 + (28 x 2), do đó tiên sinh nói Kinh Dịch có 36 cung (36 = 8 + 28).
Thượng Kinh có 18 cung gồm 6 quẻ bất dịch và 12 quẻ phản dịch. Hạ Kinh gồm 2 quẻ bất dịch, 16 quẻ phản dịch.
Mặt trống Ngọc Lũ có 2 dải băng răng cưa thuộc vành 12 và 16. Mỗi băng răng cưa do 2 lớp tam giác đối đỉnh tạo thành.
Tam giác nổi tượng hình năng lượng Dương, tam giác chìm tượng hình năng lượng Âm, các tam giác tạo 2 lớp răng cưa khớp nhau, giống 2 bánh răng cưa trong cỗ máy vận hành ăn khớp như ngày và đêm quyện nhau dịch chuyển theo thời gian.
Nói theo Dịch Truyện là "cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa". Cương là Dương, nhu là Âm, Âm Dương thúc đẩy nhau sinh biến hóa (Hệ từ thượng truyện. II, 2).
Nay tất cả ngành và liên ngành khoa học, sử dụng những phương pháp chuyên môn tạo những luồng sáng khác nhau từ nhiều chiều hướng cùng rọi chiếu 1 điểm.
Cuối cùng dưới ánh sáng nghiên cứu tổng hợp dần hiện ra và liên kết lại khiến hình ảnh cả thời đại bộc lộ dần.
Đây là thời bồi đắp và định hình nền văn minh đầu tiên mang bản lĩnh dân tộc với một loạt thành tựu đặc sắc trong đời sống vật chất, xã hội, tinh thần - từ nhà sàn mái cong đến thuyền đuôi én, từ những chuyện kể kỳ thú đến trống đồng kỳ diệu.
Trống đồng vừa là nhạc khí vừa là hiện vật tượng trưng cho quyền uy thủ lĩnh.
Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật luyện đồng mới ra đời, dấu tích đồ đồng trong các di chỉ còn rất hiếm, càng về sau tỷ lệ hiện vật đồng càng nhiều.
Đến Văn hóa Đông Sơn, bên cạnh kỹ thuật chế tác đồ đồng có kỹ thuật luyện quặng sắt, chế tác đồ sắt.
Chuyện Thánh Gióng thể hiện cốt lõi lịch sử quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội khi nghề luyện sắt ra đời. Kỹ thuật luyện sắt xuất hiện là lúc kỹ thuật chế tác đồ đồng phát triển đỉnh cao.
Văn hóa Đông Sơn đồ đồng có nhiều loại hình sản phẩm phong phú từ công cụ sản xuất đến vũ khí, nhạc cụ.. kỹ thuật đúc trống đồng đạt tinh xảo. Vì thế trống đồng Đông Sơn thành biểu tượng nền văn minh thời Hùng Vương.
Cùng thành Cổ Loa, trống đồng Đông Sơn là hiện vật tiêu biểu cho văn minh Văn Lang, Âu Lạc.
4 nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R. H. Geldern, B. Karlgren và O. Jansé đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc từ bên ngoài.
Người nói bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Châu Âu, truyền qua vùng thảo nguyên Âu-Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn.
Có người dựng lên nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycenae của Hy Lạp theo hành trình rất phức tạp qua trung gian các nền văn minh Trung Ấn rồi Tây Á, đến đây chia 2 ngả:
1 theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, 1 theo lưu vực sông Hoàng Hà, sinh ra văn hóa đồ đồng nhà Thương ở Trung Hoa.
Nhưng các lập luận trên chỉ đứng vững khi chưa phát hiện Văn hóa Phùng Nguyên hơn khoảng 1.000 năm so với những di vật ở Đông Sơn.
Người Việt cổ còn văn minh ở chỗ họ để lại đời sau những hình ảnh tốt đẹp qua các tượng, các hình chạm khắc trên trống đồng, thạp đồng.. Qua những hiện vật quý hiếm ấy, Tổ tiên người Việt mách bảo:
Họ ở nhà sàn, dựng nhà kho, làm thuyền lớn đi sông biển, thích tổ chức hội mùa vui chơi múa hát, có khi cầm vũ khí phô trương lực lượng. Họ chăn nuôi nhiều gia súc: Gà, heo, chó, voi..
Họ sống hài hòa với chim trời, thú rừng. Họ có những tín ngưỡng, tôn giáo như chôn người chết, thờ vật Tổ, tổ chức bơi chải cầu mưa, cho gái trai tự do thương yêu để tác động đến cỏ cây, mùa màng, thời tiết theo tín ngưỡng phồn thực thấy ở nhiều dân tộc khác.
Đặc biệt người Việt cổ còn có khái niệm về số học và hình học, đối xứng (đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến), biết sử dụng một loại compa.
Trống đồng Đông Sơn - đỉnh cao văn minh thời Hùng Vương
Từ bao đời nay, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương. Trống đồng thành biểu tượng thiêng liêng nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Quê hương trống đồng Đông Sơn là trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn tồn tại từ TK7 TCN đến TK. 6 SCN. Sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.
Tổ tiên ta vượt những khắc nghiệt thiên nhiên bằng dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, tạo kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa người Việt, tạo nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Châu Á.
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ tỏa sáng trên lưu vực sông Hồng.
Theo các nhà nghiên cứu, trống đồng ra đời từ nền Văn hóa Đông Sơn gắn liền thời Vua Hùng. Phú Thọ là trung tâm nền Văn hóa Đông Sơn - văn minh sông Hồng.
Đỉnh cao hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Đền Hùng có kích thước trống loại 1 lớn nhất từ trước đến nay phát hiện năm 1990 tại đồi Khuôn Muồi là làng cổ sát chân núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ Vua Hùng.
Chứng minh trống đồng Đền Hùng là vật linh thiêng được nước Văn Lang dùng làm linh vật mỗi khi tế lễ, hội hè tại khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Trống đồng phát hiện ở đồi Khuôn Muồi cùng nhiều trống đồng loại 1 khác tìm thấy trên dải đất Việt Nam là những tư liệu vô cùng quý báu có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh người Việt.
Trống đồng là vật linh, qua đó sáng tỏ nhiều vấn đề, thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất những thành tựu sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền uy nhà nước được xác lập đầu tiên trên nước ta.
Những hình khắc họa trên trống giúp hình dung về cuộc sống người Việt cổ thời xa xưa.
Hoa văn trống đồng nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên phần mặt, tang, thân trống.
Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích làm cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, Văn hóa Đông Sơn thời đó.
Trống đồng có chức năng nhạc khí và làm biểu tượng quyền lực, tôn giáo..
Trống dùng trong nghi lễ tôn giáo, lễ hội và chống ngoại xâm, khi thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người khắp nơi tụ về chiến đấu.
Trống thường thuộc về những thủ lĩnh. Thủ lĩnh có quyền lực càng lớn, trống càng to đẹp. Trống đồng được coi tài sản quý, làm đồ tuỳ táng khi chủ qua đời.
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển, hiện vật quý báu, một trong những niềm tự hào lớn của văn hóa Việt Nam.
Nay hàng trăm trống đồng phát hiện, lưu giữ, trưng bày trang trọng ở các bảo tàng quốc gia và các địa phương, vùng đất Thanh Sơn miền Tây của Phú Thọ, nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày hội trống đồng của dân tộc Mường với lễ hội "Đâm Đuống" và "Chàm Thau."
Đây là một trong những vùng địa linh của Phú Thọ phát hiện nhiều trống đồng trong lòng đất nhất.
Phú Thọ khôi phục nghi thức linh thiêng là đánh trống đồng trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng 10-3 Âm Lịch hằng năm.
Tiếng trống đồng Đông Sơn ngân vang ở Đền Hùng, vang vọng mọi miền đất nước, khẳng định những giá trị truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của Việt Nam suốt lịch sử:
Dựng nước giữ nước với bao biến cố, thăng trầm vẫn hiên ngang đứng vững, tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại.
Trống đồng là bảo vật văn hóa Việt Nam, điểm hội tụ hồn thiêng sông núi hình thành từ thời Hùng Vương, tích tụ tinh hoa dân tộc suốt tiến trình lịch sử dựng nước giữ nước từ thời Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.
Những trống đồng Đông Sơn phát hiện khắp Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho tinh hoa văn hóa, ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.
Nguồn
Web vinhphuctv
Còn tiếp