Bạn được Kakarot mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
20638420_882640821892194_150305041690507958_n.jpg


Hùng Vương (chữ Hán: 雄王, chữ Nôm:

Theo Ngô Sĩ Liên, kinh đô nước Văn Lang là Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, quốc hiệu Văn Lang. Văn Lang tương ứng thời Vua Hùng, gọi chung là thời đại Hồng Bàng. Nguồn gốc dân tộc ta là Lạc Việt, sau này có thành ngữ "con Lạc cháu Hồng", "dòng giống Lạc Hồng."

Nguồn gốc

Cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông vị thần trông coi nghề nông ở trên trời là Đế Minh sinh Đế Nghi. Minh đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy con gái bà Vụ Tiên, sinh Lộc Tục.

Lộc Tục là thánh trí thông minh, Minh rất yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục không dám vâng mệnh, cố nhường cho anh.

Minh lập Đế Nghi (anh của Lộc Tục) nối ngôi cai quản phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản phương Nam gọi là nước Xích Quỷ[2] .

Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, lấy con gái của Động Đình Quân sinh Sùng Lãm. Sùng Lãm rất khỏe, một tay nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm, đi lại dưới nước như đi trên cạn giống cha. Sùng Lãm lấy hiệu Lạc Long Quân thay cha trị nước.

Diệt Ngư Tinh còn gọi Ngư Tinh Xà

Lĩnh Nam Chích Quái ghi Biển Đông có Tinh Ngư Xà (còn gọi Ngư Tinh) dài hơn 50 trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, đi ầm ầm như mưa, ăn thịt người nên ai cũng sợ.

Đời thượng cổ có cá dung mạo như người, tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói, dần lớn lên, sinh nhiều con trai con gái, bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn.

Lại có giống Đản Nhân sống ở gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau biến thành người, giao dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải.

Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở đó. Sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở đường khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền dân đi qua chỗ này thường bị Ngư Tinh hại.

Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để hành nhân qua lại. Ngư Tinh hóa gà trắng gáy trên núi. Quần tiên nghe tiếng, ngỡ rạng đông bèn bay lên trời. Nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (Ngõ Phật Đào).

Long Quân hóa phép thành thuyền dân, lệnh cho Quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, song giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá.

Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên núi, nay chỗ đó gọi Bạch Long Vĩ. Đầu trôi ra ngoài bể biến thành chó. Long Quân lấy đá ngăn bể rồi chém. Nó biến thành đầu chó, nay gọi Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, nay gọi Mạn Cầu Thủy (còn gọi Cẩu Đầu Thủy).

Diệt Hồ Tinh

Truyền thuyết ghi:

Trừ xong nạn Ngư Tinh, ngài đến Long Biên có cáo chín đuôi sống hơn nghìn năm, thành tinh, trú trong hang sâu dưới chân núi đá phía Tây Long Biên.

Cáo thường hóa thành người trà trộn trong dân dụ bắt con gái về hang hãm hại. Từ Long Biên đến núi Tản Viên bị Hồ Tinh hại. Dân hai miền rất sợ, nhiều người bỏ ruộng đồng, nương rẫy, đi nơi khác làm ăn.

Long Quân một mình một gươm đến sào huyệt Hồ Tinh. Ngài đến cửa hang, cáo thấy bóng người liền xông ra, ngài làm mưa gió, sấm sét vây chặt cáo.

Đánh ba ngày ba đêm, cáo dần yếu sức, tìm đường chạy, ngài đuổi theo chém đứt đầu. Nó hiện nguyên hình là cáo khổng lồ chín đuôi.

Ngài vào hang cứu những người còn sống, sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái xoáy hang cáo thành vực sâu, đương thời gọi Đầm Xác Cáo, đời sau gọi Tây Hồ.

Dân quanh vùng về cày cấy trên đồng ven hồ, dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi làng Hồ, nay vẫn còn.

Lĩnh Nam Chích Quái chép:

Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Sau này Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai rồng dẫn thuyền đi, nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy. Xưa ở phía Tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía Đông gối lên sông Lô Giang.

Trong hang, dưới chân núi có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà.

Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc nên gọi là Bạch Y Man (Mán Áo Trắng).

Cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở.

Long Quân bèn lệnh cho lục bộ Thủy Phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân Thủy Phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn.

Nơi này thành một cái vũng sâu gọi là "Đầm Xác Cáo" (tức Tây Hồ nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái.

Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Động (Hang Cáo).

Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà ở nay gọi là Hồ Thôn (Thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.

Vậy Hồ Tây là lăng mộ chôn xác cáo chín đuôi? Mang huyền thoại này đi hỏi những người dân sống lâu năm ở khu vực xung quanh hồ thì được bác Văn (ở phố Trần Vũ) cho biết:

"Gia đình tôi có 3 đời sống ở nơi này. Truyền thuyết về Hồ Tây có rất nhiều, nào là Hồ Trâu Vàng, Đầm Xác cáo, Hồ Dâm Đàm.

Về huyền thoại cáo chín đuôi, tôi được nghe trước đây, vùng đất này là rừng núi hoang vu, ít người qua lại.

Lúc đó, trên một ngọn núi giữa vùng có một con cáo chín đuôi. Nhờ hàng ngàn năm tu luyện, cáo đã thành tinh, phép thuật lợi hại.."

Và có vẻ như khơi đúng mạch, bác Văn ngược về quá khứ, cứ kể như mình là người chứng kiến sự việc:

"Con cáo chín đuôi lúc biến thành cô gái xinh đẹp, lôi dụ các chàng trai; lúc lại thành chàng thanh niên tuấn tú đi tán tỉnh thôn nữ; khi lại là quỷ dữ dọa người đến khiếp sợ.. Nó làm thế vì muốn bắt được nhiều người đưa về hang sâu để ăn thịt dần."

Sách viết về Hồ Tây cũng như trên nhiều phương tiện truyền thông, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nhận xét:

"Hồ Tây là hồ thuộc loại linh thiêng nhất Việt Nam. Không chỉ tôi mà trong tâm thức nhiều người Hà Nội, Hồ Tây đã và đang được tin như là long mạch lớn nhất của Thủ đô cổ kính.

Cái tên xưa nhất của Hồ Tây là Đầm Xác Cáo và truyền thuyết gắn liền với công đức của Lạc Long Quân giúp dân có cuộc sống yên bình, không bị loài yêu tinh quấy phá. Thần đã truy đuổi con cáo vào tận hang và sau đó, cho nước ngập hang làm chết cáo."

Diệt Mộc Tinh

Lĩnh Nam Chích Quái chép:

"Mộc Tinh trải không biết bao năm, khô héo rồi biến thành yêu tinh, rất dũng mãnh, giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng thuật thần đánh thắng nó.

Nó hơi chịu khuất phục nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ.

Hàng năm 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, nó mới cho yên ổn. Dân thường gọi Quỷ Xương Cuồng.

Biên giới Tây Nam giáp nước Mi Hầu, vua nước này sai dân mọi ở Bà Lộ (nay phủ Diễn Châu) bắt giống mọi sống ở Sơn Nguyên tới nạp, thành lệ thường mọi năm.

Tần Thủy Hoàng cho Nhâm Ngao làm quan lệnh Long Xuyên, Ngao muốn bỏ lệ đó, cấm nạp lễ người sống, Xương Cuồng tức giận vật chết Ngao. Sau phải phụng thờ nhiều hơn.

Đời Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Du Văn Tường người phương Bắc, đức hạnh thanh cao, khoảng 40 tuổi qua nhiều nước, biết tiếng các dân mọi, học thuật làm mình vàng và răng đồng, sang nước Nam lúc hơn 80 tuổi.

Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư dạy pháp thuật làm trò vui cho Xương Cuồng xem để giết y.

Người biết pháp thuật này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Hiểm Can, thường làm người cưỡi ngựa hoặc làm bọn con hát.

Hàng năm tháng 11 dựng lầu cầu vồng cao 20 trượng, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây thừng dài 136 thước, đường kính rộng 3 tấc, lấy dây mây quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, ở giữa gác lên cây.

Thượng Kỵ đứng lên dây chạy nhanh 3, 4 lần, đi lại không ngã. Kỵ đội khăn đen, mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba.

Hai người (mỗi người cầm một cán cờ) đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì tránh, lên xuống không ngã.

Khi thì Thượng Đát lấy tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên cây cao 17 thước, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 lần, tiến tiến lùi lùi.

Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng giống cái lờ bắt cá, dài 3 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà không ngã.

Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, miệng la hét kêu gào, chuyển động chân tay, rờ xương vỗ bụng, tiến lên lùi xuống, hoặc làm người cưỡi ngựa phi nhảy, cúi xuống nhặt vật dưới đất mà không rơi khỏi lưng ngựa.

Khi thì Thượng Hiểm Can ngả mình nằm ngửa, lấy thân đỡ một gậy dài cho đứa trẻ trèo lên. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Giết súc vật mà tế.

Xương Cuồng tới xem, pháp sư đọc mật chú, lấy kiếm chém. Xương Cuồng cùng bộ hạ chết hết. Lệ làm lễ nạp dâng người sống hàng năm bèn bỏ, dân sống yên lành như xưa."

Mộc Tinh là "ma mộc" gỗ khô, tức những gì hư hóa, nhất là các thứ dị đoan. Long Quân cũng đuổi đi, sau có người dùng ma thuật cũng chỉ tạm bợ, nên nó còn lưu hành trong dân, nhưng cả ba thứ tinh không còn nhô đầu lên văn đàn được nữa. Hồ Tinh, Ngư Tinh chỉ còn tác hại dưới hình thức du mục võ biền.

Chuyện tả con người chiến đấu yêu ma, thuỷ quái, phản ánh công cuộc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh các vùng miền núi, đồng bằng châu thổ, vùng ven biển.. là khắc phục trở ngại thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống hạn hán, ngập lụt, thú dữ.

Điều này được huyền thoại hóa bằng những kỳ tích chống Thuỷ Tinh (lụt lội), diệt Ngư Tinh (miền sông nước), đánh Mộc Tinh (miền rừng núi), diệt Hồ Tinh (đồng bằng châu thổ)..

Qua đó thể hiện sức mạnh chinh phục, cải tạo thiên nhiên của cư dân Việt cổ để kiến tạo, xây dựng quốc gia phát triển qua hàng ngàn năm đến nay và mãi về sau.

Con Rồng Cháu Tiên

Diệt xong yêu quái, ngài thấy dân vùng này vẫn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm, bèn dạy dân trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn ở, phòng thú dữ.

Dạy dân đạo lý cha con, vợ chồng. Dân cảm tạ, xây tòa cung điện nguy nga trên núi cao. Nhưng ngài không ở, thường về quê mẹ dưới Thủy Phủ, dặn dân:

"Hễ có tai biến gì thì gọi, ta về ngay!"

Đế Lai nhân phương Bắc vô sự, nhớ chuyện Đế Minh tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bảo bề tôi thân cận là Xuy Vưu (còn gọi Xi Vưu) thay mình giữ nước để đi tuần du Xích Quỷ phương Nam.

Đến nơi, Đế Lai thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, nước vô chủ, bèn để ái nữ Âu Cơ và những kẻ hầu ở lại hành tại[3] .

Lai dạo chơi thiên hạ, xem khắp hình thắng. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê tượng đồi mồi, bạc vàng châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn các vị, sơn hào hải vật không thiếu thứ nào.

Bốn mùa khí hậu không lạnh không nóng, Đế Lai yêu thích, quên về, sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài.

Dân nước Nam khổ vì cảnh phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân về, cùng hướng về Biển Ðông gọi to:

"Bố ở nơi nao, mau về cứu chúng con!"

Long Quân thoát nhiên trở về, thấy Âu Cơ dung mạo tuyệt mỹ, Long Quân yêu thích, hóa thành chàng trai đẹp, đông kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến nơi hành tại.

Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng xiêu xiêu. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài trong cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh.

Lai về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân biến hóa trăm hình vạn vẻ, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn hổ voi xé xác chúng làm kẻ đi tìm không dám lục sạo.

Lai đành về phương Bắc, truyền ngôi đến Đế Du Võng thì Xuy Vưu làm loạn. Xuy Vưu mình thú nói tiếng người, sức khỏe dũng mãnh.

Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc.

Đế Du Võng cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, Võng bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Dòng họ Thần Nông tới đây thì hết.

Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ một bọc, cho là bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu, bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở một con trai mới đem về nuôi.

Không phải bú mớm, các con tự lớn, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người kính trọng cho là phi thường.

Hàng chục năm sau, Long Quân sống đầm ấm bên vợ con vẫn nhớ Thủy Phủ. Một hôm từ giã vợ con, hóa rồng vụt lên mây bay về biển.

Vợ con thường muốn về đất Bắc, tới biên giới, Hoàng Đế Hiên Viên nghe nói rất sợ hãi, cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không về được bèn về nước Nam. Âu Cơ đứng trên núi cao hướng về Biển Ðông gọi:

"Bố ở nơi nào để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này."

Long Quân bỗng về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói:

"Thiếp nguyên người đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được trăm đứa con trai không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng; mong chàng đừng ruồng bỏ, làm mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha, chỉ riêng mình đau khổ thôi."

Long Quân nói:

"Ta là giống Rồng, đứng đầu thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được với nhau, tuy khí Âm Dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống tương khắc như nước với lửa, khó bề ở lâu với nhau được.

Nay phải chia ly, ta sẽ mang 50 con trai về Thủy Phủ, chia trị các nơi, còn 50 đứa sẽ theo nàng ở trên đất, chia nước ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống nước có việc cùng gắn bó, đừng bỏ rơi nhau" [3] .

Trăm con vâng theo, từ biệt mà đi. Âu Cơ và 50 con lên ở đất Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, suy phục lẫn nhau, tôn người con cả làm vua, hiệu Hùng Vương[3] .

Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam nói mình là dòng giống Tiên Rồng.

Theo thuyết này, từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia thành những nước nhỏ gọi là Bách Việt, đều là Con Rồng Cháu Tiên.

Chú thích họ "Hồng Bàng" :

Họ Hồng Bàng là tên gọi dòng họ vua đầu tiên ở phương Nam. "Hồng" là tên loài chim to khỏe, bay cao, được coi vật Tổ của dân tộc. "Lạc Hồng:"

Chim Hồng hoặc chim Lạc chỉ là một loài, do phát âm khác nhau. Truyền thuyết nói người Việt thuộc giống chim Hồng (hoặc chim Lạc).

Âu Cơ vốn là Tiên chim. Dân tộc Việt thuộc dòng dõi Lạc Hồng, tức là họ mẹ, ngày xưa theo mẫu hệ nên coi họ mẹ là giống Tiên (chim Hồng chim Lạc tu luyện thành tiên). Hình khắc mặt trống đồng có hình đàn chim bay ngược (thiên về họ mẹ).

ĐVSKTT chép tương tự, nhưng bỏ bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, chỉ nói Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh trăm con:

"Con cháu Thần Nông là Đế Minh lấy con gái của bà Vụ Tiên sinh Kinh Dương Vương, tức Thủy Tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải cái gây nên cơ nghiệp nước Việt ta sao?"

ĐVSKTT, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên:

"Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là trời phân chia giới hạn Nam-Bắc. Thuỷ Tổ ta dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng Bắc triều mỗi bên làm Đế một phương" [3]

Trích Lĩnh Nam Chích Quái:

"Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, cây soa đồng làm bánh, lấy cầm thú, ba ba, cá tôm làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa, cấy bằng nước.

Đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn dễ đi lại trong rừng rú.

Đẻ con lấy lá chuối lót cho nằm. Khi trẻ lớn làm lễ thành đinh mang tính thử thách năng lực các thanh niên, thường tổ chức thi tài ngày hội. Sau lễ thành đinh, thanh niên thành thành viên lao động mới của xã hội."

Tục xăm mình

Thời Lạc Long Quân, vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn ty, luân thường về cha con, vợ chồng.

Điều đáng nói là sinh hoạt tinh thần:

Tục xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng đen, mẫu hệ và thờ cúng Tổ tiên.

Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên tâu Hùng Vương. Hùng Vương bảo:

"Ở núi là loài rồng khác thủy tộc, chúng ưa đồng mà ghét dị mới hại."

Vua lệnh ai cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào người. Từ đó không bị thuỷ quái gây thương tích nữa. Tục xăm mình (văn thân) của Bách Việt bắt đầu từ đây.

Đến thời Lý rồi Trần trị vì thiên hạ, vua quan tới thần dân ai cũng thích xăm hình vào người để giữ bản sắc truyền thống.

Với người hoàng tộc và người phục dịch trong triều đình buộc phải xăm hình lên thân thể, coi như luật phải thi hành.

Tục này đến đời Trần Anh Tông (1293-1314) mới dứt. Ăn trầu, nhuộm răng đen thì thế hệ U60 còn thấy các cụ ăn trầu nhuộm răng.

Lời bàn:

"Chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng sông nước là cả quá trình lâu dài, phức tạp và cực khó khăn. Hình ảnh những con thuồng luồng gây thương tích cho dân có lẽ là một trong những biểu hiện phức tạp và cực khó khăn đó.

Dân gặp khó thì kêu vua, vua ân cần chỉ cho dân mọi điều mình biết. Lời chỉ dẫn ấy, đúng sai thế nào ta đã quá rõ, nhưng điều quan trọng hơn ở chỗ, trên dưới như cha con một nhà, nghĩa tình đằm thắm biết bao.

Bấy giờ, hễ người Việt là xăm mình, hễ ai xăm mình là người Việt. Bạn thích hay không thích tục xăm mình là việc riêng của bạn, nhưng trông lại ngàn xưa, xin bạn hãy ghi nhận chính tục ấy góp phần làm cho Hán và Việt biệt lập rõ ràng, chính nhờ biệt lập rõ ràng ấy giờ này, bạn mới có thể ung dung mà nói: Non sông ta..

Đời sống cổ nhân ra sao, đoạn ghi chép ngắn ngủi trên nói khá rõ. Kính thay, một thời chắt chiu cần mẫn, thương thay, một thời gian truân!

Đi giữa giang sơn gấm vóc, xin chớ vô tâm quên Tổ tiên ngàn đời." (Theo Việt Sử Giai Thoại của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục)

Ý nghĩa truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ

Có người nói mở đầu lịch sử Việt Nam là chia rẽ, vì Lạc Long Quân, Âu Cơ không sống được với nhau, chia tay mỗi người mỗi ngả. Thật ra không phải vậy.

Ông cha ta sáng tạo truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ, chỉ nghĩ đơn giản người Việt phải chia nhau khắp nước để cai quản, khai phá, mở mang đất nước.

Ý nghĩa quan trọng nhất là gì? Ở chỗ Âu Cơ sinh 1 bọc trứng nở 100 con.

Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng:

"Đến giờ Ngọ 28 tháng Chạp, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà Âu Cơ sinh 1 bọc; giờ Ngọ rằm tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra thành 100 con trai."

KĐVSTGCM (1840), Việt Nam Sử Học (1919), Việt Nam Văn Hóa Sử Cương (1938), Thần linh Đất Việt (2002), Truyền thuyết Hùng Vương (1971-2003).. đều ghi Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở thành 100 con trai, hình thành hai tiếng "đồng bào."

Người Việt luôn có tình nghĩa, thủy chung, trên dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có Tổ có tông.

Sống có văn hóa: Văn hóa cộng đồng là phản chiếu hiểu biết, niềm tin, phong tục cổ truyền một dân tộc. Người Việt luôn quan niệm:

Chúng ta sinh cùng một bọc (đồng bào) là con cháu Lạc Hồng, cả nước đều là anh em một nhà.

"Con người có Tổ có Tông

Như cây có gốc, như sông có nguồn."

Nay quan niệm đó càng nhân lên gấp bội. Con cháu ở đâu, ông bà, Tổ tiên ở đó. Quan niệm đó dần thành ý thức hệ trong từng người và cộng đồng. Vua Hùng tồn tại và ngự trị ý thức tâm linh người Việt.

Vì sao là một bọc trứng?

Vì tất cả dân tộc Việt do một mẹ sinh ra, đều là anh em, từ bọc trứng sinh ra, không ai sinh trước, không ai sinh sau, không có thứ tự ai anh, ai em, ai chị.

Cha mẹ yêu thương các con giống nhau, không phân biệt trai gái, đứa lớn hay đứa nhỏ.

Sau này, dù chia nhau đi khắp mọi miền khai phá, mở mang đất nước, đứa lên rừng, đứa xuống biển, sống xa nhau cũng có chung một gốc, tất cả đều từ bọc trứng của Âu Cơ, hãy đoàn kết, yêu thương nhau:

"Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau!"

Ý nghĩa triết học đơn giản, đầy nhân bản hiếm có trên thế giới. Tính bình đẳng này thể hiện rất rõ thời Vua Hùng, cùng một thế hệ Vua Hùng, lấy tên giống nhau, không phân biệt Vua Hùng này với Vua Hùng kia.

Bởi người Việt cổ không cần biết Vua Hùng này có vĩ đại hơn Vua Hùng kia không, chỉ cần biết tất cả Vua Hùng từ một gốc là dân tộc Việt, từ một bọc trứng của Âu Cơ.

Tính chất cùng một bọc trứng đậm nét trong mỗi người Việt, bởi trên 5 triệu người Việt sống rải rác khắp thế giới, nhiều nhất ở Mỹ, Canada, Pháp, Úc, những người Việt xa quê hương vẫn hướng về quê cha Đất Tổ con Lạc cháu Hồng, nhiều người hẳn mong ngày nào đó sẽ về nước.

Lạc Long Quân, Âu Cơ không đưa các con xâm chiếm nước khác, mà chỉ khai sơn phá thạch, lấn biển, dựng nước Văn Lang.

Vì sao Âu Cơ không sinh 50 con gái, 50 con trai, mà tất cả là con trai? Có người đưa thuật Âm-Dương lý giải điều này. Tôi không tin cách lý giải Âm-Dương đó.

Tôi nghĩ có lẽ thêm bằng chứng tư duy đơn giản, chất phác của người Việt xưa:

Con trai là lao động chính trong nhà và xã hội, trách nhiệm rất lớn, đào núi, lấp biển, đắp đê, đánh cá, trồng rừng, săn bắn.

Dù truyền thuyết không nói Âu Cơ sinh con gái, nhưng thể hiện Âu Cơ quyền lực ngang Lạc Long Quân, vì bà lãnh đạo 50 con trai lên núi, ngang Lạc Long Quân lãnh đạo 50 con trai xuống vùng biển.

Hỏi:

- Cho biết ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang?

Trả lời:

- Khoảng TK. VII TCN, các Vua Hùng dựng nên nhà nước đầu tiên là Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa thế nào? Đó là câu hỏi mỗi người đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.

Hiện tại, ít nhất có 3 cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:

Thứ nhất:

Vì Tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó đặt quốc hiệu Văn Lang.

Cơ sở thực tiễn cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm.

Sách Đới ký của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là "Điêu Đề" không ngoài ý nghĩa này (điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

Cách 2:

Vì Tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích:

Chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang.

Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này là tính phổ biến và trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu.

Nhưng "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức sau khi khai sinh Văn Lang rất nhiều thế kỷ. Vì vậy cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

Cách 3: Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.

Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu ngành ngữ âm học lịch sử. Theo đó:

1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người..

2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer). Ghép lại, Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.

Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách này được củng cố thêm bởi kết quả hàng loạt những khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ 3 được nhiều người tán thành nhất.

(Theo Đại cương Lịch sử Văn hóa Việt Nam - Tập 1).

Quốc hiệu Văn Lang có nghĩa là gì?

Văn Lang là tên gọi nước ta thời Hùng Vương, nó không chỉ bắt nguồn trong truyền thuyết dựng nước mà còn thấy trong thần phả, thần tích, sử ghi chép về thời Hùng Vương. Vì vậy có thể khẳng định quốc hiệu Văn Lang là có thực. Vậy Văn Lang có ý nghĩa là gì?

Theo ngôn ngữ học, tên Văn Lang không đứng một mình mà trong hệ thống tộc danh có yếu tố chung là "lang."

Thường các tộc danh trên thế giới, nhất là các tộc danh cổ đều xuất phát từ danh từ chung có nghĩa là "người."

Tiếng Hán Việt, từ "lang" nghĩa là "đàn ông", đồng âm với một số ngôn ngữ các dân tộc anh em như từ "arăng" trong tiếng Ê-đê, "urang" trong tiếng Chăm, "đranglô" trong tiếng Bana.. tất cả đều có nghĩa là "người", "con người" hoặc "đàn ông."

Tộc danh với thành tố "lang" trải dài từ phía Nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến Bắc Trung Bộ Việt Nam, tương ứng với địa bàn sinh sống cộng đồng người Bách Việt.

Vậy tộc danh "lang", "Văn Lang" là một trong những tộc danh cổ nhất của dân tộc ta, thực tế thành quốc hiệu nước ta thời Hùng Vương.

Văn Lang là từ kép trong ngôn ngữ Hán Việt dùng để phiên âm từ Việt cổ chỉ "con người", "người", "đàn ông" và là phiên âm tên nước.

Theo văn tự học thì từ "lang" nghĩa là "người đàn ông"; còn "văn" là chữ xuất phát chính từ tục xăm mình của người Việt.

Về ngữ âm tiếng Hán thì "văn" được biến âm từ "xăm". Ký tự chữ "văn" nguyên thủy là hình vẽ người xăm hình rồng ở ngực.

Cuốn sách Tìm về cội nguồn chữ Hán của hai nhà nghiên cứu Lý Nhạc Nghị (Trung Quốc) và Jim Water (Mỹ) đưa ra quá trình biến đổi của chữ "văn" qua các loại chữ Hán cổ khác nhau và giải thích "văn" nghĩa gốc là xăm mình.

Hình chữ trong cổ văn giống một người trước ngực và sau lưng xăm những hoa văn, đồng thời dẫn ra câu nói của Trang Tử:

"Việt nhân đoạn phát, văn thân" nghĩa là "người Việt cắt tóc, xăm mình."

Như vậy Văn Lang vốn là tộc danh và là đặc điểm văn hóa của người Việt đã thành quốc hiệu với nghĩa:

"Con người", "người", "đàn ông" hoặc "người xăm mình."

Nguyễn Khắc Thuần bàn:

"Không thể nói khác hơn Lạc Long Quân và Âu Cơ đã có cuộc kỳ ngộ. Người từ phương xa theo cha đi chu du khắp cõi, tình cờ dừng bước ở Xích Quỷ.

Người làm vua một phương, dân thương gọi là bố. Xứ sở chẳng cùng, tuổi tác cách biệt, thế mà vừa gặp đã rung động về nhau. Lạ thay!

Xét về thế thứ, Lạc Long Quân và Đế Lai là anh em con chú con bác. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức lấy con gái của anh con nhà bác.

Có người nghiêm phê luân thường đạo lý đảo điên, mối họa cho thiên hạ thật khó lường. Song lấy khuôn mẫu đạo đức hiện thời để xét đoán hành vi của thiên cổ, ngỡ như đúng, cái sai đã chất chứa sẵn rồi.

Đọc sách đâu chỉ đọc chữ trong sách. Ngàn xưa vẫn thế, nỗi tâm sự cần ký thác thường ở giữa những dòng chữ hoặc ở sau những dòng chữ đó.

Sử cũ nhấn mạnh mối thâm tình các nhóm thuộc Bách Việt. Chừng như muốn tỏ vốn dĩ tất cả đều chung máu mủ ruột rà. Ngẫm mà xem!"

Truyền thuyết chọn đất đóng đô

Nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Khắc Xương (con của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu) là nhà "Hùng Vương học, Đền Hùng học" của Phú Thọ 88 tuổi vẫn cực minh mẫn khi kể truyền thuyết Hùng Vương chọn đất đóng đô.

Ngày ấy, Tổ tiên tìm đất đóng đô nước Văn Lang thận trọng cầu kỳ lắm.

Đích thân vua đi nhiều nơi vùng Phú Thọ nay tương ứng thuộc địa danh Thanh Vân, Đông Lĩnh, núi Thắm (Thanh Ba) ; Ao Châu (Hạ Hòa) Xuân Lộc (Thanh Thủy), cuối cùng chọn vùng từ ngã ba sông Bạch Hạc tới quanh núi Nghĩa Lĩnh đóng đô. Truyền thuyết Hùng Vương của Nguyễn Khắc Xương:

"Vua đi mãi nơi này nơi khác chưa tìm được nơi có thể định đô. Tới vùng: Trước mặt ba sông hội tụ, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như hình hổ phục rồng chầu, tướng quân bắn nỏ, ngựa chạy rồng bay.

Giữa những đồi xanh tốt có ngọn núi đột ngột nổi lên như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn bốn phía thấy ba bề bãi rộng bồi đắp phù sa, bốn mặt cây xanh, hoa tươi cỏ ngọt, trùng điệp quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu.

Vua cả mừng khen là đất họp muôn dân, đủ hiểm để giữ, có thế để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước muôn đời. Vua Hùng đặt đô ở đó gọi thành Phong Châu."

Phạm vi kinh đô kéo dài từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới núi Nghĩa Lĩnh. Vùng địa linh này là đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, có bãi sa bồi, rừng núi và đồi, thoáng rộng, tiện thông thương hai miền ngược xuôi bằng đường thủy, có thế hiểm trở chống ngoại xâm.

Niên biểu thời dựng nước

–2070 triệu năm trước: Thiên tạo núi Nghĩa Lĩnh

–50 triệu năm trước: Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng bằng, đầm hồ, xuất lộ địa hình Vĩnh Phú, có dãy đồi 99 voi chầu về Đất Tổ.

–1, 5 vạn năm trước, các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người nguyên thủy cư trú. Họ là chủ nhân nền Văn hóa hậu kỳ đồ đá cũ Sơn Vi.

–Trên 1 vạn năm đến 8000 năm cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-mơ, tràn vào ngập toàn bộ đồng bằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy Sơn Vi tạm lánh lên vùng núi Hòa Bình – Bắc Sơn.

–Khoảng 6000 năm trước, nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm mưa lũ thau chua rửa mặn và phù sa màu mỡ các sông bồi đắp làm hồi sinh thảm thực vật.

Quần thể động vật như chim thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo môi trường sống thuận lợi cho con người.

- Thời kỳ bộ lạc từ TK. 10 TCN trở về trước, ứng với Văn hóa Đồng Đậu – Phùng Nguyên.

–Khoảng 2000 năm TCN có 15 bộ lạc Việt cổ sinh sống trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bộ lạc Văn Lang của thủ lĩnh họ Hùng nhờ địa lợi tuyệt đối vùng ngã ba sông Hồng, Lô, Đà trở nên lớn mạnh.

–Khoảng hơn 1000 năm TCN, thủ lĩnh Văn Lang lập nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, được suy tôn Hùng Vương. Thời dựng nước Văn Lang từ TK. 10 TCN đến giữa TK. 3 TCN ứng văn hóa Gò Mun, Đông Sơn.

–257 TCN Vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán tiêu diệt và chiếm nước.

Văn Lang là nhà nước phôi thai đầu tiên, rất đơn giản, dù mới hình thành nhưng cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt.

Họ bước đầu hiểu mối quan hệ thiên nhiên và con người, sức mạnh cộng đồng khi làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm, đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.

NƯỚC VĂN LANG

TRUYỀN THUYẾT

Giả thuyết 1: Nước Việt 4000 năm

Nước Văn Lang hình thành khoảng 2879 TCN, kết thúc 257 TCN chuyển sang An Dương Vương Thục Phán. Từ đây hình thành quan niệm coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách nay khoảng hơn 4000 năm và sách báo nói 4000 năm văn hiến. (Theo ĐVSKTT do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở TK. 15).

Giả thuyết 2: Nước Việt 2700 năm

Theo bộ sử xuất hiện sớm hơn ĐVSKTT là Đại Việt Sử Lược TK. 13 chép nước Văn Lang lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục 14 bộ tộc Việt khác khoảng TK. 7 TCN (cùng thời Chu Trang Vương của nhà Chu, Trung Quốc). Ông lên ngôi xưng hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Phong Châu – Phú Thọ.

9 truyền thuyết nổi tiếng thời kỳ Hùng Vương - An Dương Vương

Truyền thuyết 1: Con Lạc-cháu Hồng, Lạc Long Quân-Âu Cơ.

Truyền thuyết 2: Chử Đồng Tử-Tiên Dung và Đầm Dạ Trạch, từ thời Hùng Vương thứ ba.

Truyền thuyết 3: Thánh Gióng-Phù Đổng Thiên Vương, Hùng Vương thứ sáu.

Truyền thuyết 4: Trầu-Cau khoảng thời gian từ thời Hùng Vương thứ nhất đến thứ sáu.

Truyền thuyết 5: Dưa hấu-Mai An Tiêm khoảng thời Hùng Vương thứ sáu.

Truyền thuyết 6: Bánh chưng-bánh dày, Hùng Vương thứ sáu.

Truyền thuyết 7: Chuyện tình Trương Chi-Mỵ Nương.

Truyền thuyết 8: Sơn Tinh-Thủy Tinh đời Hùng Vương thứ 18.

Truyền thuyết 9: Mỵ Châu-Trọng Thủy thời An Dương Vương.

Sách tham khảo

ĐVSKTT, soạn giả Phan Phu Tiên, Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên.. NXB. KHXH Hà Nội, 1993.

KĐVSTGCM, soạn giả: Quốc Sử Quán triều Nguyễn, NXB. Giáo dục Hà Nội, 1998.

Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, NXB. Giáo dục, 2006.

An Nam Chí Lược, soạn giả Lê Tắc, NXB. Viện Đại Học Huế; 1961.

Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, soạn giả Đào Duy Anh, NXB. Nhã Nam, 2014.

Lĩnh Nam Chích Quái, soạn giả Trần Thế Pháp, NXB. Hồng Bàng.

Việt Điện U Linh, soạn giả Lý Tế Xuyên, NXB. Hồng Bàng.

Chú thích

1.2. 3 ĐVSKTT; Soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.. Dịch giả Viện sử học Việt Nam; NXB. KHXH Hà Nội 1993; bản điện tử.

Nguồn

Lichsuvietnam

Tsrsblog. Wordpress

Wikipedia - Hùng Vương

Vietnamese Arts & Culture - Văn Hóa & Nghệ Thuật Việt Nam

Ddlqd

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
18951109_848296518659958_5916265022371094830_n.jpg


Các vua

Theo ĐVSKTT tính từ Kinh Dương Vương (2879 TCN) đến hết thời Hùng Vương (257 TCN) kéo dài 2.622 năm. Văn Lang tồn tại đến 257 TCN bị Thục Phán thôn tính.

Thục Phán xưng An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Nếu chia 18 đời, mỗi đời vua trung bình 146 năm là hoang đường.

Các triều vua chúa thời Xuân Thu Chiến Quốc trung bình 10-20 năm như Chu Trang Vương (696-682 TCN) 14 năm chẳng hạn.

Người thời đó thọ trung bình khoảng 50 năm, hơn thời sống trong hang động 20 năm. ĐVSKTT là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân, Hùng Vương vào sử sách.

Trước ĐVSKTT, có 2 bộ sử nữa nhưng không ghi truyền thuyết Lạc Long Quân là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu 1272 và Đại Việt Sử Lược viết vào thời Trần.

ĐVSK thất truyền nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên dùng khi soạn ĐVSKTT. ĐVSL thất lạc nhiều năm, về sau quan nhà Thanh tìm được ở thư khố bên Tàu.

Chuyện 18 đời Vua Hùng cùng truyền tích Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh được Ngô Sĩ Liên nhập vào ĐVSKTT từ sách ghi chuyện u linh hoang đường như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái.

Đặc biệt Lĩnh Nam Chích Quái do Tiến Sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam) tức phía Nam nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Trở lại năm đầu và năm cuối thời Hồng Bàng, Trần Trọng Kim dùng thẳng tài liệu ĐVSKTT (2879-257 TCN) nhưng đặt dấu hỏi () sau năm khởi đầu: 2879 TCN.

Bởi Ngô Sĩ Liên chỉ ghi 18 đời bên ngoài phần Ngoại kỷ (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Ngô Sĩ Liên chép lời bàn ở cuối chương thời Hồng Bàng, ngờ vực truyền thuyết Âu Cơ:

"Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phên giậu, chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt đặt các con thứ để cai trị.

Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết không phải là như thế? Vì mẹ làm quân trưởng, các con đều làm chúa một phương.

Cứ xem như tù trưởng người man ngày nay xưng là nam phụ đạo, nữ phụ đạo (nay bản triều đổi chữ phụ đạo 輔導 thành chữ phụ đạo 父道 thì có lẽ đúng như thế).

Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi."

Ngô Sĩ Liên đoán rất đúng khi đưa truyền tích vào cổ sử, ông gieo nghi ngờ và thắc mắc cho mọi người Việt từ đó đến nay.

Những nghi vấn, băn khoăn

Xét thời gian trị vì hơn 2000 năm mà chỉ có 18 đời vua rất khó thuyết phục; dù ghi để "nêu rõ quốc thống" nhưng các sử gia đều nghi điều này. Ngô Thì Sĩ viết:

"Người ta không phải vàng đá, sao lại sống lâu được thế? Điều ấy càng không thể hiểu được" (Việt Sử Tiêu Án).

Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim viết:

".. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì non 150 năm. Dẫu là người đời thượng cổ cũng khó lòng có nhiều người sống lâu được vậy."

Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam", 18 Vua Hùng liệt kê danh sách bên dưới. Ngay sau danh sách, tác giả nhận xét thuộc một trong hai quan điểm mà các nhà sử học đang tạm chấp nhận:

18 Vua Hùng không phải 18 người mà là 18 chi (nhánh/ngành), mỗi chi có nhiều vua thay phiên nhau trị vì, dùng chung vương hiệu.

Thậm chí số 18 có thể chỉ nên hiểu là tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 số thiêng với người Việt.

1. Kinh Dương Vương (涇陽王, hiệu Hùng Dương) : 2879 TCN -? , huý Lộc Tục (祿續).

2. Hùng Hiền Vương (雄賢王) Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君), huý Sùng Lãm (崇纜).

3. Hùng Lân Vương (雄麟王)

4. Hùng Diệp Vương (雄曄王)

5. Hùng Hi Vương (雄犧王) (phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛)

6. Hùng Huy Vương (雄暉王)

7. Hùng Chiêu Vương (雄昭王)

8. Hùng Vĩ Vương (雄暐王)

9. Hùng Định Vương (雄定王)

10. Hùng Hi Vương (雄曦王) (phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "nhật" 日)

11. Hùng Trinh Vương (雄楨王)

12. Hùng Vũ Vương (雄武王)

13. Hùng Việt Vương (雄越王)

14. Hùng Anh Vương (雄英王)

15. Hùng Triều Vương (雄朝王)

16. Hùng Tạo Vương (雄造王)

17. Hùng Nghị Vương (雄毅王)

18. Hùng Duệ Vương (雄睿王) : ? - 257 TCN

"雄犧王" và "雄曦王" đều đọc "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi khác nhau về tự dạng, ý nghĩa.

Lịch sử 18 đời Hùng Vương

Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá trong tài liệu in ở tạp chí Nguồn Sáng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương 1998 viết:

"Nhiều năm nay, chúng tôi cố gắng sưu tầm các truyền thuyết, thư tịch cổ, các Ngọc phả ở các xã quanh vùng có đền thờ Vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) lưu trữ tại Vụ bảo tồn Bảo tàng, Bộ Văn hóa (số hiệu HTAE 9) thì các tài liệu không ghi:

18 đời Vua Hùng mà ghi 18 chi, mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm Can, Chi lúc sinh và lên ngôi. Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy."

18 chi:

18 chi sắp theo Bát Quái: 1 Càn (trời) (☰), 2 Đoài (đầm) (☱), 3 Ly (hỏa) (☲), 4 Chấn (sấm) (☳), 5 Tốn (gió) (☴), 6 Khảm (nước) (☵), 7 Cấn (núi) (☶), 8 Khôn (đất) (☷) và 10 thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Tổng cộng 2622 năm từ 2879 đến 257 TCN.

Như vậy họ Hồng Bàng trị vì nước Văn Lang không chỉ có 18 đời (18 vua) mà là 18 chi, mỗi chi nhiều đời vua, giải thích hợp lý tồn tại gần 3000 năm thời Hùng Vương.

Đền Hùng nay có bài vị chung thờ các Vua Hùng, có chữ "Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị Thập Bát Thế Thánh Vương, Thánh Vị."

Do tục thờ cúng Tổ tiên, chỉ thờ vị khai sáng đầu tiên nên chữ "thập bát thế" có thể hiểu 18 vương hiệu của các Tổ đầu tiên 18 chi Hùng Vương, thay nhau cầm quyền Văn Lang quốc gia đầu tiên của người Việt.

(Theo Báo Nguồn Sáng số 23-1998)

18 đời vua hay 18 ngành vua?

Về con số 18 đời vua, ĐVSL là sách đầu tiên đề cập, dường như dữ kiện đó được nhiều sách sử, khảo cứu sau này chép theo, các sách ở dạng diễn ca cũng viết:

Xưng Hùng Vương, cha truyền con nối,

Mười tám đời một mối xa thư,

Cành vàng lá ngọc sởn sơ,

Nước xưng một hiệu, năm dư hai nghìn.

(Thiên Nam Minh Giám)

Hoặc các câu đối ca ngợi thời Hùng Vương cũng ghi 18:

Thập bát truyền vi quân vi vương, trùng xuất tiên nga duy mạt tạo

Ngũ thập tử quy sơn quy hải, biệt trung thần nữ thiệu anh phong.

Nghĩa:

Mười tám đời truyền làm quân làm vương, hai vị tiên nga cuối dòng họ

Năm mươi con lên núi, xuống biển, một nàng thần nữ nối ngôi cha.

Câu đối:

Nam thiên thập bát thế xa thư, sơ đầu Đệ Nhất Thánh.

Tây nhạc ức vạn niên hương hỏa, Thượng Đẳng Tối Linh Thần.

Nghĩa:

Trời Nam 18 đời truyền kiếp, buổi đầu Đệ Nhất Thánh.

Tây nhạc ức vạn năm hương hỏa, Thượng Đẳng Tối Linh Thần.

18 đời vua mà cai trị 2.622 năm gây không ít hoài nghi. Theo các bản Ngọc phả, thần tích như Ngọc phả Hùng Vương soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (980) đời Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nhà Tiền Lê thì không phải 18 đời Vua Hùng mà là 18 nhành/ngành với tổng cộng 180 đời vua:

"Dĩ thượng Hùng đồ thập bát diệp, tỷ phú truyền cơ thái bảo, nhất bách thập bát đại Đế Vương tốn vị nhất thống sơn hà."

Nghĩa:

"Mười tám nhành nhà Hùng, ngọc tỷ và ấn tín truyền quyền đại bảo khoảng 180 đời nhường ngôi Đế Vương, một mối non sông xa thư trị nước."

Nhiều tác phẩm khác như Tân đính Lĩnh Nam Chích Quái của nhà sử học thời Hậu Lê là Vũ Quỳnh viết 18 ngành Vua Hùng.

Ngọc phả Hùng Vương ghi chữ "đời" phải hiểu chữ "thế" trong Hán tự có nghĩa không phải một đời người mà là "một dòng gồm nhiều đời."

Đình Tây Đằng ở huyện Ba Vì, Hà Nội còn bài vị "Tam Vị Quốc Chúa" thờ 3 vua cuối thuộc thế/chi/nhành Hùng Vương thứ 18.

Nay nhiều ý khác nhau, có ý nói với người Việt 9 là số thiêng nên các bội số của nó như 18 cũng thiêng tương tự, nên số 18 đời chỉ là biểu trưng, ước lệ.

Như vậy không phải 18 đời Vua Hùng mà là 18 ngành, mỗi ngành gồm nhiều đời vua mang chung vương hiệu, hết một ngành mới đặt vương hiệu mới.

Thời gian trị vì, tuổi thọ một vua có thể hiểu là tuổi của nhiều đời vua và số năm trị vì của nhiều đời vua thuộc một ngành cộng lại nên trị vì hơn 2.622 năm không hoang đường. Nên mới có câu:

Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương,

Nhất thống sơn hà thập bát Vương.

Dư bách hệ truyền thiên cổ tại,

Ức niên hương hỏa ức niên phương.

Nghĩa:

Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương

Mười tám ngành Vua, mười tám chương.

Bách Việt sơn hà muôn thuở đó,

Đời đời đèn nến nức thơm hương.

Thần tích xã Vi Cương (Phú Thọ) ghi rõ các đời vua với thông tin liên quan, 18 ngành Vua Hùng có 180 đời nối nhau trị vì:

"18 chi đời Vua Hùng truyền ngôi đại bảo cho 180 đời Đế Vương, sơn hà quy một mối, lập 122 thành điện. Tổng cộng năm của 18 đời Thánh Vương di truyền ngôi cho các triều thánh tử thần tôn là 2.622 năm, thọ 8.678 tuổi, sinh được 986 chi, các hoàng tử, công chúa sinh được 14.378 cháu chắt miêu duệ, cai trị khắp đầu non góc biển trong nước, vạn cổ trường tồn, mãi mãi không bao giờ dứt."

LTD (BKT)

Nguồn:

Trithucvn

Giật mình chuyện Vua Hùng thọ gần 700 tuổi

Xã hội càng văn minh, tuổi thọ càng cao. Minh chứng rõ nhất là nước phát triển như Nhật, Mỹ, Bỉ. Thời thượng cổ chúng ta có những vua "siêu thọ" gần 700 tuổi. Chuyện giật mình này ở khu du lịch Đồng Xanh, tỉnh Gia Lai.

Nhầm lẫn chết người

Khu du lịch Đồng Xanh trực thuộc công ty cổ phần du lịch văn hóa Gia Lai khá thu hút. Nhiều khách ngạc nhiên gặp hình ảnh Vua Hùng với thông tin cực khó hiểu.

Các tài liệu thời Hùng Vương nhiều dị bản khác nhau. Có tài liệu ghi 18 Vua Hùng, có tài liệu ghi 18 đời Vua Hùng với nhiều vua khác nhau.

Khu du lịch trên có đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương có 1 tượng gỗ Hùng Vương cao 6m, phía ngoài là 18 tượng Vua Hùng khác bố trí thành 2 hàng.

Dưới chân 18 tượng phía ngoài gắn biển đề rõ tên, số vợ, số con, số thời gian trị vì và tuổi thọ các vua.

Hầu như vua nào cũng hàng chục vợ, hàng trăm con, đặc biệt trị vì hàng trăm năm, tuổi thọ trên 100 năm đến gần 700 năm. Khu du lịch "cẩn thận" kèm thêm một biển ghi chú:

"Những số liệu về tên, húy, tuổi, số vợ, số con, cháu của 18 Vua Hùng được trích từ nguồn tài liệu" Giới thiệu Khu di tích lịch sử Đền Hùng "– tác giả Vũ Kim Biên nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn – Sở VHTT & DL Phú Thọ xuất bản năm 2006."

Nhiều ý kiến nói việc đưa các thông tin trên về Vua Hùng là không phù hợp, trước hết là khoa học.

Chưa tài liệu nào trên thế giới ghi tuổi thọ con người mấy trăm tuổi. Điều này khiến giới trẻ và các thế hệ con cháu thêm khó hiểu về kiến thức thế hệ chúng ta?

Số lượng 19 Vua Hùng cũng khiến nhiều người đặt câu hỏi vua thứ 19 là ai, vai trò thế nào? Bởi hầu hết đều nói các chuyện, số liệu về Vua Hùng là dã sử, truyền thuyết.

Số 18 là ước lệ, nhiều khả năng là 18 đời Vua Hùng với nhiều vua trị vì. Khu du lịch không phân biệt được tin chính thống trong chính sử và truyền thuyết mới đưa tin buồn cười đó.

Trần Trọng Kim viết:

"Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì non 150 năm. Dẫu người đời thượng cổ cũng khó có nhiều người sống lâu được vậy."

Bản "Thần tích Vi Cương" (Phú Thọ) ghi khá rõ các đời vua với những thông tin liên quan, theo đó 18 chi Vua Hùng có tất cả 180 đời vua nối nhau trị vì:

"18 chi đời Vua Hùng truyền ngôi đại bảo cho 180 đời Đế Vương, sơn hà quy về một mối, kiến lập 122 thành, điện. Tổng cộng các năm của 18 đời Thánh Vương truyền ngôi cho các triều thánh tử thần tôn:

2.622 năm, thọ 8.678 tuổi, sinh được 986 chi, các hoàng tử, công chúa sinh được 14.378 cháu chắt miêu duệ, cai trị khắp đầu non góc biển trong nước, vạn cổ trường tồn, mãi mãi không bao giờ dứt."

Bị nhắc, vẫn liều!

PV Báo GĐ&XH trao đổi với ông Phan Xuân Vũ, Giám đốc Sở VHTT&DL Gia Lai.

Ông Vũ nói công viên Đồng Xanh của doanh nghiệp tư nhân và Sở VHTT&DL định hướng trưng bày hiện vật trong khu du lịch này.

Sở từng nhắc khu du lịch Đồng Xanh bỏ một hạng mục phản cảm và khu du lịch này đã thực hiện.

Sở VHTT&DL nhận một số ý kiến nói về các biển ghi tuổi thọ, số vợ, con.. của từng Vua Hùng ở khu du lịch. Ông Vũ nói từng xuống để nhắc nhở tin này.

Ông nói tin trên về Vua Hùng nên chú thích rõ là dã sử 18 đời vua. Ông Vũ cho biết sẽ nhắc nhở tiếp doanh nghiệp này để thay đổi!

Tiến sĩ sử học Lê Đình Phụng – Viện Khảo cổ học Việt Nam nhận xét xác đáng sự việc:

"Tôi nghĩ đây là công trình của tư nhân mà tài sản do tư nhân sở hữu. Họ hiểu văn hóa như vậy nên có những sản phẩm như thế.

Lịch sử văn hóa dân tộc phải có thống nhất và phải được thẩm định. Thông tin chưa có bằng chứng khoa học xác đáng chưa nên đưa ra để tuyên truyền."

Nguồn:

Web vungtau. Baria-vungtau

Giải mã chuyện "giật gân" Vua Hùng sống 692 tuổi, 60 vợ

Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân) trị vì lâu nhất, suốt 400 năm, nhưng gần như có ít vợ nhất trong 18 Vua Hùng theo sách của Vũ Kim Biên.

Chuyện các Vua Hùng sống đến mấy trăm năm trong thời tuổi thọ bình quân người Việt chỉ vài ba chục đang gây xôn xao mạng xã hội, bắt nguồn từ những bia dưới chân tượng 18 Vua Hùng trong khuôn viên đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương, khu văn hóa tâm linh thuộc công viên Đồng Xanh, Gia Lai.

Kỷ lục gây sốc

Các phản ứng mỉa mai, phẫn nộ bắt nguồn từ những tin không thể có thực ghi khơi khơi "như đúng rồi", gây phản cảm vì đồng nhất giữa huyền sử và sự thực. Người nào phải cẩn thận lắm, tìm kĩ lắm mới thấy biển ghi chú quay ngược ra phía sau:

"Những số liệu về tên, húy, tuổi, số vợ, con, cháu của 18 Vua Hùng ghi chú trước tượng trích từ nguồn tài liệu Giới thiệu Khu di tích lịch sử Đền Hùng của tác giả Vũ Kim Biên nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn do Sở Văn hóa Thông tin Phú Thọ xuất bản 2006."

Theo những biển đề ở công viên Đồng Xanh (lấy từ nguồn tài liệu của tác giả Vũ Kim Biên), có khá nhiều tin "giật gân" rất thú vị, Vua Hùng sống thọ nhất là Lang Liêu, người sáng tạo bánh chưng, bánh dày, khi lên ngôi lấy hiệu Hùng Chiêu Vương. Ông sống 692 tuổi.

Người trị vì lâu nhất là Hùng Hiền Vương tức Lạc Long Quân (húy Sùng Lãm). Ông làm vua 400 năm, tuổi thọ: 506 tuổi.

Thời gian trị vì và tuổi thọ thuộc hàng top trong 18 Vua Hùng nhưng Lạc Long Quân chỉ có 9 vợ, các Vua Hùng khác thường cưới vài chục phu nhân.

Có điều về đường con cái, các bà vợ của ông lại có hiệu suất cao nhất, giúp Lạc Long Quân đứng đầu về số con: 180 con trai và 29 con gái. Riêng bà Âu Cơ đã sinh 100 con trai.

So với cha mình là Kinh Dương Vương là Vua Hùng đầu tiên, Lạc Long Quân "vượt mặt" cả về tuổi thọ, số năm làm vua lẫn số vợ và con.

Kinh Dương Vương (húy Lộc Tục) chỉ sống 260 tuổi, trị vì 216 năm, ít thê thiếp nhất, chỉ 6 vợ, sinh 44 con.

Hiệu suất sinh nở thấp nhất thuộc Vua Hùng rất nổi tiếng vì là bố vợ của Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) một trong Tứ Bất Tử. Đó là Hùng Duệ Vương, húy Huệ Lang, 150 năm trị vì, 221 tuổi thọ.

Giữ kỷ lục về số vợ: 100 bà, chỉ có 20 con trai và 4 con gái. Nghĩa là nếu không bà vợ nào của Hùng Duệ Vương sinh quá 1 con, có hơn 3/4 trong số các bà bị vô sinh.

Á quân về chuyện lấy nhiều vợ lẫn kém đường con cái là Hùng Chiêu Vương – Lang Liêu. Ông lấy 60 vợ, chỉ sinh 59 con, nghĩa là trung bình mỗi vợ chỉ sinh 1 con, vẫn có 1 bà vô sinh.

Hiểu thế nào về các Vua Hùng sống và trị vì nhiều thế kỷ?

Thực ra chuyện về vương hiệu, húy, tuổi thọ, thời gian trị vì cũng như số vợ, số con cháu.. của 18 Vua Hùng ghi trong các bản Ngọc phả.

Khá nhiều bản Ngọc phả liệt kê các đời Vua Hùng, còn ít nhất 3 bản lưu lại được, sớm nhất là "Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi "Cổ Việt Hùng thị thập bát thế Thánh Vương Ngọc phả cổ truyền", soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (980, thời Lê Đại Hành).

Muộn hơn có "Hùng Vương Ngọc phả thập bát thế truyền" do Hàn Lâm Viện Trực Học Sĩ Nguyễn Cố soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470, thời Lê Thánh Tông) và "Hùng Vương sự tích Ngọc phả cổ truyền" do Hàn Lâm Học Sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572, Lê Anh Tông).

Ra đời bản Ngọc phả này, Hùng Vương chính thức hóa trong chính sử Việt Nam, từ đây Vua Hùng có tông phả giữa thế gian.

Nhờ có tông phả đó mà triều đình Hậu Lê mới có đủ điều kiện làm lễ "tế Giao" như các vua phương Bắc, để xác nhận quyền độc lập quốc gia và quyền lực chuyên chế của vua Đại Việt:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác."

(Nguyễn Trãi - Bình Ngô Đại Cáo)

Ngọc phả không phải lịch sử, bởi do đời sau chép từ những truyền thuyết dân gian qua đường truyền miệng nhiều thần thoại, hoang đường.

Nếu các văn bản lịch sử thời Hùng Vương có tồn tại cũng bị người Hán hủy hoại suốt 1000 năm Bắc thuộc để diệt văn hóa Việt, đồng hóa dân tộc Việt.

Người Việt lưu giữ ký ức dân tộc, truyền con cháu qua các chuyện kể, theo thời gian, yếu tố hư cấu, thần kỳ được bồi đắp.

Chuyện các Vua Hùng cũng vậy. Nên dù không phải lịch sử nhưng Ngọc phả có bóng dáng lịch sử, phải chắt lọc thông tin, kết hợp các sử liệu đời sau cùng khảo cổ học.

Các nhà sử học hiện đại cố làm điều đó để hình dung rõ nhất nước Việt thời Vua Hùng, dĩ nhiên không có chuyện mỗi Vua Hùng sống và trị vì suốt mấy trăm năm.

Số năm trị vì, các nhà sử học đưa hai quan điểm. Thứ nhất, triều Hùng Vương 2.622 năm, bắt đầu từ năm Kinh Dương Vương lên ngôi (Nhâm Tuất, 2879 TCN) kết thúc năm Giáp Thìn (257 TCN) khi An Dương Vương chiếm nước.

Mốc thời gian này xác định theo Ngọc phả Hùng Vương và ĐVSKTT. 2.622 năm chia cho 18, mỗi Vua Hùng trị vì 146 năm.

"Người ta không phải vàng đá, sao lại sống lâu được thế? Điều ấy càng không thể hiểu được."

Điều không thể hiểu được ấy, nhiều sử gia nay tìm cách lý giải:

Triều Hùng Vương không phải có 18 vua, mà là 18 ngành (nhánh), mỗi ngành có nhiều vua trị vì, dùng chung vương hiệu, hết một ngành mới đổi vương hiệu mới, chẳng hạn có nhiều vua nối nhau cùng gọi Hùng Hiền Vương, thuộc ngành đầu tiên.

Theo bản Ngọc phả soạn thời Lê Đại Hành, 18 ngành tổng cộng 180 đời vua, chia trung bình mỗi vua chỉ trị vì chưa đến 15 năm.

Nhiều nhà sử học nói ngay số 18, dù 18 đời vua hay 18 ngành vua mang tính tượng trưng, ước lệ, không nên hiểu cụ thể, chính xác.

18 là số đẹp, bội số của 9 số thiêng của người Việt (khi thách cưới, vua Hùng thứ 18 đòi phải mang đến voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao).

Nguồn: Tin mới/Nguoiduatin

Diệt vong

Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái xinh đẹp. Thục Vương sai người đến cầu hôn. Hùng Hầu nói Thục Vương chỉ lấy cớ hôn nhân để xâm lược.

Hùng Vương gả con cho Sơn Tinh, Thục Vương oán giận. Thục Phán nối ngôi, xâm lược Văn Lang. Hùng Vương có binh hùng tướng mạnh thắng Thục Phán. Hùng Vương bảo:

- Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư?

Từ đó bỏ bê đất nước, chỉ ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo đến nơi, vua say mềm chưa tỉnh. Tỉnh dậy, Hùng Vương cùng đường, thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân đầu hàng Thục Phán. Nước Việt sang kỷ mới: Kỷ nhà Thục[1]

Chú thích

[1] ĐVSKTT; Soạn giả Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.. Dịch giả Viện sử học Việt Nam; NXB. KHXH Hà Nội 1993; bản điện tử.

Nguồn:

Web nguyenxuanhung

Web vanvn

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
77417790_1482120678610869_4205903443946110976_n.jpg


Kỹ nghệ Ngườm là kỹ nghệ chế tác công cụ lao động từ đá của người nguyên thủy thời hậu kỳ đá cũ.

Thập niên 1970 và 1980, các nhà khảo cổ học liên tục phát hiện các hiện vật mà họ cho là các công cụ nạo chế tác từ phiến tước bằng đá có niên đại cách nay khoảng 2 vạn năm ở các hang và mái đá phía Nam khối núi Bắc Sơn, tiêu biểu:

Mái Đá Ngườm, hang Miệng Hổ, hang Na Khù ở xã Thần Sa (Võ Nhai),

Nà Coóc ở xã Yên Đĩnh (Chợ Mới),

Hang Dơi ở xã Vũ Lễ (Bắc Sơn),

Bó Lấm ở xã Bằng Hữu (Chi Lăng),

Lạng Nắc ở xã Mai Sao (Chi Lăng),

Nà Nông (Chi Lăng), thuộc địa bàn các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Giáo sư Hà Văn Tấn lấy địa danh Ngườm đặt tên cho loại kỹ nghệ này.

Người nguyên thủy thời này biết chọn đá cuội sông, suối có góc cạnh, hạt đá mịn để tước thành mảnh có kích cỡ khoảng 5cm và tu chỉnh thành công cụ có mũi nhọn hình lá, hình nửa vỏ trùng trục hoặc hình tam giác.

Những công cụ làm từ mảnh tước đá này được sử dụng vào các loại lao động nhẹ như cắt, khứa, nạo, cạo, dùi, đâm.

Ngoài các công cụ làm từ mảnh tước, các nhà khảo cổ phát hiện thấy tỷ lệ nhỏ hơn các công cụ làm từ hạch cuội có hình dáng không ổn định có lẽ dùng trong các hoạt động lao động nặng như chặt, đẽo.

Kỹ nghệ Ngườm được cho là khác kỹ nghệ cuội đồ đá lớn trong các nền Văn hóa Sơn Vi, Bắc Sơn, Hòa Bình.

Về niên đại, các công cụ phát hiện có niên đại cách nay hơn 23.000 năm.

Tham khảo

Quang Văn Cậy (1994), Kỹ nghệ Ngườm và vị trí của nó trong thời đại đá Việt Nam, luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử, Viện Khảo cổ học.

Nguồn wikipedia

Phát hiện dấu tích người Việt cổ tại Thái Nguyên

Đoàn khảo cổ học Bảo tàng Thái Nguyên và Viện Khảo cổ học Việt Nam phát hiện nhiều hang động có dấu tích người Việt cổ sinh sống.

Theo thông tin từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên, đợt khảo sát khảo cổ học cuối tuần qua tại huyện Võ Nhai và Đồng Hỷ, đoàn khảo cổ học của Bảo tàng Thái Nguyên và Viện Khảo cổ học Việt Nam phát hiện nhiều hang động có dấu tích người Việt cổ sinh sống,

Đáng chú ý nhất là phát hiện các di vật cổ ở hang Ốc, thuộc địa bàn xóm Phố, xã Bình Long (huyện Võ Nhai).

Tại hang Ốc - nơi có diện tích hơn 100m2, đoàn khảo cổ phát hiện và sưu tầm hơn 300 di vật đá cùng rất nhiều vỏ ốc bị chặt đuôi, xương, răng động vật và các loại như công cụ chặt thô, nạo, dao, cuốc..

Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy đây là dấu tích người tiền sử có niên đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm; những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa.

Ngoài ra, đoàn khảo cổ phát hiện những mảnh gốm thời kim khí chứng tỏ hang được sử dụng làm nơi cư trú cư dân thời đại kim khí cách nay khoảng 3.000 năm.

Theo các nhà khảo cổ, đây là di tích rất quan trọng, cần quan tâm khai quật cũng như bảo tồn bởi hang Ốc có tầng lớp văn hóa dầy.

Chứa đựng những hiện vật của nhiều thời đại, hứa hẹn sẽ cung cấp những nhận thức mới về sự phát triển liên tục của văn hóa tiền sử Thái Nguyên và Việt Nam..

Từ những năm 1980, tại huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ phát hiện dấu tích người Việt cổ tại khu vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa.

Hiện di chỉ khảo cổ học này xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia và thành một trong những "điểm nhấn" quan trọng trong hệ thống các điểm du lịch trên địa bàn.

Hoàng Thảo Nguyên (TTXVN/Vietnam+)

Nguồn vietnamplus

Phát hiện răng voi hóa thạch ở Thái Nguyên

Đợt khảo sát điều tra khảo cổ học đầu tháng 3 tại tỉnh phía Bắc Thái Nguyên, các nhà khảo cổ tim được một răng voi hóa thạch, được cho răng voi Châu Á.

"Căn cứ mức độ hóa thạch, niên đại răng voi có tuổi 30.000 - 50.000 năm.

Đây là trường hợp đầu tiên hóa thạch loài răng voi này tìm thấy ở Thái Nguyên", Tiến sĩ Trình Năng Chung, trưởng đoàn khảo cổ nói.

Răng voi hóa thạch này phát hiện đầu 2011 tại khu vực sông Thần Sa (huyện Võ Nhai), đoạn chảy qua di chỉ Mái Đá Ngườm di tích khảo cổ học nổi tiếng được xếp hạng cấp quốc gia.

Ông Đồng Văn Chung, 71 tuổi, một người sở tại cho biết hóa thạch tìm thấy ở độ sâu khoảng 3m so với lòng sông Thần Sa, một trong những hố đào vét lòng sông để đãi vàng.

Lúc đầu, những người đãi vàng cho rằng đó là hòn đá bình thường, nhưng do hình thù khá kỳ lạ nên nó được giữ lại.

Theo Tiến sĩ Trình Năng Chung, đó là hóa thạch voi Châu Á, tên khoa học Elephas maximus.

Voi này sống cách nay hơn 1 triệu năm từ thời sơ kỳ cánh tân đến tận ngày nay vẫn tồn tại. Voi nặng từ 3.000kg đến 5.000kg, cao từ 2m đến 4m.

Các nhà khảo cổ cho rằng, loài voi này sống cùng thời với bầy người nguyên thủy, chủ nhân Văn hóa Ngườm phát hiện thấy trong thung lũng Thần Sa, Thái Nguyên.

Nguồn:

Khoahoc. Tv

Văn hóa Ngườm và Văn hóa Sơn Vi

Văn Hóa Ngườm

Sự hình thành:

Văn hóa Ngườm, do các nhà khảo cổ học tìm thấy những mảnh tước ở Mái Đá Ngườm, Thái Nguyên nên lấy tên này đặt cho niên đại của nền văn hóa đó - khoảng 23.000 năm TCN.

Văn hóa Ngườm còn gọi kỹ nghệ Ngườm là giai đoạn phát triển của người tối cổ sang người tinh khôn (người khôn ngoan sớm) ở Việt Nam trước nền Văn hóa Sơn Vi (từ 18.000 - 11.000 năm cách ngày nay).

Thời gian: Cách ngày nay 2 vạn năm.

Địa bàn cư trú:

+Sống trong mái đá, hang động, ven bờ sông, suối

+Từ Sơn La đến Quảng Trị.

Công cụ lao động: Đá cuội được ghè đẽo ở rìa tạo thành cạnh sắc.

Hoạt động kinh tế: Săn bắt, hái lượm.

Tổ chức xã hội: Sống thành thị tộc.

Công xã thị tộc hình thành.

Văn Hóa Sơn Vi

Văn hóa Sơn Vi là nền văn hóa ở Việt Nam vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 18.000 đến 11.000 năm. Đây là nền văn hóa kế trước Văn hóa Hòa Bình.

Sơn Vi là tên xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ nền văn hóa này. Đến nay có khoảng 160 địa điểm thuộc Văn hóa Sơn Vi được phát hiện.

Không gian Văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị.

Những người nguyên thủy chủ nhân Văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc.

Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động.

Công cụ lao động của người nguyên thủy trong Văn hóa Sơn Vi làm từ đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Họ sống bằng săn bắn và hái lượm, chưa trồng trọt và chăn nuôi.

Nguồn:

Sites. Google

Thời đại đá cũ:

Núi Đọ, Sơn Vi, Ngườm

I. Sơ kỳ thời đại đá cũ

Việt Nam chứng kiến quá trình tiến hóa liên tục của con người, từ Homo erectus, sang Homo sapiens, rồi Homo sapiens sapiens.

Người khôn ngoan có 2 giai đoạn:

Khôn ngoan sớm (Homo sapiens) - thoát khỏi yếu tố vượn thành người hiện đại, di cốt hóa thạch, niên đại cổ hơn 40.000 năm BP. Họ là chủ nhân của các văn hóa trung kỳ đá cũ.

Giai đoạn Khôn ngoan muộn (Homo sapiens sapiens) con người tiếp tục hoàn thiện mình, một số di cốt hóa thạch, họ là chủ nhân của các nền văn hóa hậu kỳ đá cũ, cách đây chừng 30.000 năm.

Ở Việt Nam, người Khôn ngoan sớm phát hiện ở Thẩm Ồm (Nghệ An) và Hang Hùm (Yên Bái), niên đại 60 - 50 nghìn năm BP. Cổ hơn các nơi khác trong khu vực. Riêng Thẩm Ồm còn tìm thấy công cụ mảnh tước quartzite.

Người Khôn ngoan muộn phát hiện ở Kéo Lèng (Lạng Sơn), Thung Lang (Ninh Bình), niên đại 30.000 năm BP.

Hai địa điểm này chưa tìm thấy công cụ, nhưng một số di chỉ có niên đại hậu kỳ đá cũ đã tìm thấy công cụ cuội ghè đẽo hoặc công cụ mảnh tước như trong Mái Đá Ngườm (Thái Nguyên), Mái Đá Điều (lớp dưới).

2. Các văn hóa sơ kỳ đá cũ Việt Nam:

Trong thành phần động vật hóa thạch Pongo - Stegodon – Ailuroponda niên đại cuối trung kỳ Pleistocene ở Thẩm Khuyên và Thẩm Hai có động vật do con người săn bắt được và là kết quả hoạt động của người vượn, ở đây chưa thấy công cụ lao động, chưa thấy yếu tố văn hóa.

- Ngược lại, trong di tích Núi Đọ, tìm thấy công cụ lao động kiểu sơ kỳ đá cũ lại không thấy di cốt người.

Hiện các nhà khoa học đang thảo luận niên đại sơ kỳ đá cũ núi Đọ. Tình hình hiện nay, vẫn sử dụng tư liệu núi Đọ làm đại diện cho văn hóa sơ kỳ đá cũ.

Sơ kỳ: Hai nhóm di tích chính ở Bắc và Nam Việt Nam.

Nhóm di tích núi Đọ, Thiệu Yên, Thanh Hóa:

Di tích ngoài trời, hiện vật thu lượm trên bề mặt. Công cụ đá basalt, loại hình chính:

Rìu tay, công cụ chặt thô, mảnh tước Clacton và Levallois.. Niên đại khoảng 40 vạn năm cách ngày nay.

Nhóm di tích miền Đông Nam Bộ:

Phát hiện lẻ tẻ trên bề mặt đồi đất đỏ ở Xuân Lộc (Đồng Nai) và An Lộc (Bình Dương), công cụ đá basalt với các loại hình:

Rìu tay, công cụ ghè một mặt, mũi nhọn, hòn ném (bolas).. Về mặt kỹ thuật tiến bộ hơn so với núi Đọ.

Sơ kỳ đá cũ Việt Nam có nhiều nét tương đồng với sơ kỳ đá cũ Đông Nam Á, với các di tích như Tampan (Malaysia), Pajitan (Indonesia)..

II. Hậu kỳ thời đại đá cũ:

Tồn tại song song hai văn hóa thuộc hai kỹ nghệ khác nhau:

Văn hóa Sơn Vi - kỹ nghệ cuội ghè (30.000 – 11.000 năm BP), Văn hóa Ngườm - kỹ nghệ mảnh tước (40.000 – 20.000 năm BP).

Hai văn hóa này có khuynh hướng phát triển và tầm ảnh hưởng khác nhau.

1. Kỹ nghệ Ngườm gồm hang Miệng Hổ và Mái Đá Ngườm (lớp dưới), cùng ở thung lũng Thần Sa (Thái Nguyên) mà đặc trưng nổi bật là chế tác và sử dụng công cụ mảnh tước nhỏ có tu chỉnh.

Văn hóa Sơn Vi trên 140 địa điểm. Các di tích Văn hóa Sơn Vi phân bố rộng và không đều ở các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, xa nhất về phía Nam là Quảng Trị.

Các địa điểm Sơn Vi tập trung cao nhất ở vùng trung du Phú Thọ. Các di tích Văn hóa Sơn Vi phân bố trên 2 loại địa hình:

Đồi gò - thềm sông và hang động - mái đá. Loại hang động - mái đá có số lượng ít.

Công cụ đá Văn hóa Sơn Vi chủ yếu làm từ cuội sông, suối, kỹ thuật chế tác công cụ đá chủ đạo là ghè đẽo (một mặt), ít tu chỉnh, không có kỹ thuật mài.

Công cụ cuội ghè (công cụ dạng hạch) có số lượng nhiều và phong phú:

Công cụ rìa lưỡi ngang, dọc, mũi nhọn, công cụ hình nửa viên cuội, hình ¼ viên cuội (múi bưởi).

Săn bắt và thu lượm là chính. Cư dân Văn hóa Sơn Vi là tiền thân của Văn hóa Hòa Bình, có vị trí quan trọng trong tiền sử Việt Nam và Đông Nam Á.

Xuất hiện các di tích hoặc nhóm di tích hậu kỳ đá cũ thuộc kỹ nghệ cuội ghè, cổ hơn, tương đương hoặc muộn hơn Sơn Vi, loại hình công cụ khác Sơn Vi hoặc gần với Sơn Vi ở nhiều địa bàn trên toàn quốc:

Nhóm di tích Đồi Thông (Hà Giang)

2.

Nhóm di tích cuội ghè Nậm Tun - Bản Phố ở Tây Bắc.

Nhóm di tích cuội ghè Lung Leng (lớp Laterite) ở Tây Nguyên

Nhóm di tích cuội ghè Lâm Đồng

Nhóm di tích cuội ghè miền Đông Nam Bộ.

Hậu kỳ đá cũ Việt Nam xuất hiện các văn hóa khảo cổ (gồm một số di tích, phân bố liền khoảnh, có đặc trưng ổn định về di tích và di vật, tồn tại trong thời gian nhất định và của một tộc người nhất định), các nhóm di tích, trong đó kỹ nghệ công cụ cuội là đặc trưng, điển hình nhất.

Lâm Thị Mỹ Dung

Nguồn minhquan-lichsu blogspot

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
77360324_1483032461853024_4477563591456718848_n.jpg


Núi Đọ - Di chỉ khảo cổ học thời đại đồ đá cũ

Núi Đọ thuộc địa phận 2 xã Thiệu Tân (huyện Thiệu Hóa) và Thiệu Khánh (thành phố Thanh Hóa), ngay bên bờ hữu ngạn nơi hợp lưu sông Mã và sông Chu, cách bờ biển Sầm Sơn 22km.

Núi Đọ nằm trong vùng đồng bằng do bồi tích của sông Chu và sông Mã tạo nên, cách thành phố Thanh Hóa 7km về phía Bắc – Tây Bắc.

Đá ở núi Đọ có tinh thể rất kết thực, hạt rất mịn, màu xanh xám, khá cứng, rất khó ghè vỡ, nhưng khi ghè vỡ lại tạo nên những cạnh rất sắc.

Đây là vật liệu rất tốt, phù hợp trong chế tác công cụ, khi con người chưa tìm ra những loại vật liệu khác có nhiều ưu điểm hơn.

Cuối năm 1960, núi Đọ được các nhà khảo cổ học trẻ tuổi Việt Nam cùng Giáo sư P. I. Boriskovski phát hiện, nghiên cứu và chứng minh nơi đây tồn tại nền văn hóa sơ kỳ thời đá cũ.

Người nguyên thuỷ từng sinh sống ở núi Đọ cách nay khoảng 30-40 vạn năm.

Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu như so sánh, thực nghiệm.. các nhà khảo cổ học cho chúng ta biết để tạo ra mảnh tước, người nguyên thuỷ ở núi Đọ dùng đá đẽo đá:

Phải có một vật có độ cứng tương đương, trọng lượng tương đối nặng mới ghè được đá.

Đá là vật liệu tốt nhất để người nguyên thuỷ ở núi Đọ vừa chế tác công cụ, vừa dùng nó để tạo những công cụ.

Phương pháp ghè đá là phương pháp ghè trực tiếp:

Người nguyên thuỷ hoặc cầm hạch đá trên tay, hoặc đặt hạch đá xuống đất và cũng có thể họ đặt trên một hòn đá khác.

Tay kia cầm hòn ghè bằng đá trực tiếp bổ xuống theo hướng định sẵn, để tách ra những mảnh tước. Ở núi Đọ, mảnh tước chiếm đa số di vật mà người ta tìm thấy.

Hình dáng, kích thước các mảnh tước ở núi Đọ rất khác nhau:

Có mảnh rất lớn (chiều dài tới 14.7cm, rộng 17cm, dày 6.2cm), có mảnh nhỏ hơn (dài 4cm, rộng 5cm, dày 1cm). Diện ghè của các mảnh tước rất khác nhau:

Có diện ghè rất rộng (dài 16.5cm, rộng 4.5cm) nhưng có diện ghè rất nhỏ (dài 3.2cm, rộng 0.5cm).

Nghiên cứu những dấu vết kỹ thuật trên các mảnh tước núi Đọ, các học giả cho rằng nó mang đầy đủ tính chất đặc trưng của mảnh tước Clắctôn điển hình.

Đây là đặc trưng kỹ thuật cơ bản trong chế tác công cụ của con người thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ.

Căn cứ dấu vết kỹ thuật, dấu vết sử dụng để lại trên các mảnh tước, các nhà nghiên cứu cho biết:

"Không phải tất cả mảnh tước đều bị vứt bỏ, đều là phế liệu, mà có thể một số mảnh tước được người xưa sử dụng để cắt, nạo, hoặc chặt những cây mềm và nhỏ. Nhiều mảnh tước ở núi Đọ vì vậy được sử dụng như một loại công cụ chân chính."

Bên cạnh mảnh tước là những hạch đá, tức là những hòn đá mà từ đó người ta ghè ra các mảnh tước.

Những hạch đá này thường không có hình dáng nhất định, là những khối đá lớn, nặng nề, kích thước không giống nhau.

Hạch đá không được sửa trước khi đem ghè đẽo ra mảnh tước - tức không được định hình sẵn.

Dấu vết các nhát ghè để lại trên hạch đá cho thấy người núi Đọ khi ghè đá thường lấy mặt lõm của vết ghè trước làm diện ghè cho nhát ghè sau.

Ở núi Đọ còn khá nhiều công cụ được ghè đẽo qua loa, thường có một rìa lưỡi dày, mép uốn sóng, do những nhát ghè lớn chênh nhau ở hai mặt.

Các nhà khảo cổ học gọi chúng là những công cụ chặt thô hay chopper.

Đây là loại công cụ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số công cụ của người nguyên thuỷ ở núi Đọ.

Tuy nhiên rìu tay mới là những công cụ đẹp nhất của họ. Hình dáng và kỹ thuật, về tư duy của người nguyên thuỷ núi Đọ.

Các nhà khảo cổ học cho biết rìu tay là loại công cụ tiêu biểu cho sơ kỳ thời đại đá cũ – giai đoạn Sen – A sơn (Chelléen - Acheuléen).

Đó là loại công cụ duy nhất có hình dáng khá hoàn chỉnh và tương đối chính xác.

Rìu tay ở núi Đọ khá hiếm. Đó là những công cụ có hình hạnh nhân, hình bầu dục. Một đầu rìu tay có hình gần mũi nhọn và đầu đối diện là đốc cầm.

Đốc cầm thường to, dày, gần thành khối, cầm lọt lòng bàn tay. Rìu tay ở núi Đọ ghè đẽo nhiều nhất trên cả hai mặt, có hình dạng cân xứng, có rìa lưỡi chạy xung quanh.

Ngoài những loại hình công cụ trên, núi Đọ còn một loại công cụ nữa mà nhà khảo cổ học gọi là công cụ gần rìu.

Đây là loại công cụ có hình dáng gần giống những chiếc rìu tứ diện, nhưng có số lượng rất lớn và nhiều chiếc được ghè đẽo cả hai mặt.

So với tất cả các loại công cụ khác ở núi Đọ, loại công cụ này không khác gì về kỹ thuật chế tác, về chất liệu, màu sắc mặt ngoài, độ phong hóa và cả kích thước.

Đa số công cụ gần hình rìu ở núi Đọ có dáng hình chữ nhật hoặc gần chữ nhật, mặt trên và mặt dưới thường song song với nhau.

Một số công cụ này có rìa lưỡi ngang ở một đầu của hình chữ nhật, đồng thời hai cạnh dài của công cụ cũng được ghè đẽo cả hai mặt làm thành hai rìa tác dụng.

Nghiên cứu bộ di vật sưu tập và hiện trạng khu di tích, các nhà khảo cổ học nói với chúng ta, người nguyên thuỷ ở núi Đọ dùng đá bazan ngay tại núi Đọ để chế tác tất cả các loại công cụ tại chỗ.

Vì vậy các nhà khảo cổ học gọi di tích núi Đọ là di chỉ - xưởng. Đây cũng là điều thường thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ khác thuộc sơ kỳ đá cũ trên thế giới.

Tổng hợp

Tài liệu tham khảo: Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa. Lịch sử Thanh Hóa tập 1. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990. Trang 21-26.

Nguồn:

Baotangthanhhoa

Văn hóa núi Đọ

Tôi hay nghe nói đến Văn hóa núi Đọ mà không hiểu nơi này ở vùng nào và có gì đặc biệt?

Trịnh Thị Tâm, Mỏ Cày, Bến Tre

Núi Ðọ nằm bên hữu ngạn sông Chu, thuộc huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Núi Đọ nằm ngay ngã ba của 3 xã:

Thiệu Tân, Thiệu Vân, Thiệu Khánh, ngã ba của sông Chu, sông Mã, hai sông lớn nhất của tỉnh Thanh Hóa.

Cùng núi Bàn A (Núi Vồm - Thiệu Khánh) - Cồn Chân Tiên (Thiệu Khánh) tạo ra thế chân kiềng vững chãi. Núi Ðọ được xem là nơi có nhiều vết tích về người cổ.

Núi Ðọ còn được gọi Quy Sơn, ngợi ca là "Linh Quy Hý Thuỷ" (rùa thiêng uống nước) là thắng cảnh trong Bàn A thập cảnh.

Nhiều nhà khoa học xếp di chỉ núi Đọ vào sơ kỳ đồ đá cũ, giai đoạn phát triển đầu tiên của loài người.

Thời điểm kết thúc giai đoạn này là cách đây khoảng 10.000 năm.

Theo thông tin trên mạng (web samson) thì núi Ðọ chiếm không gian không lớn trong quần thể, nhưng có cấu tạo địa chất đặc biệt mà các núi khác xung quanh không có.

Một đặc điểm rất dễ nhìn thấy của đá núi Ðọ là cứng rắn sắc cạnh hơn nhiều lần các loại đá xung quanh như đá vôi, đá lớp.

Cha ông ta biết điều đó từ rất sớm, nên sử dụng chúng làm công cụ lao động - những chiếc mảnh tước, rìu tay.. được lấy từ đá núi Ðọ từng giúp cộng đồng duy trì và phát triển, vượt qua thời đại đồ đồng với nền Văn hóa Ðông Sơn rực rỡ. Ðất Thiệu Hóa ôm trọn đôi bờ hạ lưu sông Chu.

Ði ngược thượng nguồn, các nhà khoa học phát hiện phần lớn lưu vực sông Chu nằm trong các khối đá mác-ma mà ta thường gọi đá hoa cương, như những khối bê tông khổng lồ được cấu tạo từ những nguyên liệu hết sức bền vững, nhất là về mặt hóa học.

Sông Chu núi Ðọ còn là huyền thoại của Thiệu Hóa. Khi đến địa phận núi Ðọ, sông Chu mềm mại đổi hướng về phía Bắc, âu yếm ôm lấy chân núi, tạo các bãi bồi tít tắp của xã Thiệu Nguyên và Thiệu Tân.

Nhưng đến địa phận núi Trịnh, núi Vồm, sông Chu lừng lững chảy thẳng giữa hai dãy núi để sớm được hòa vào sông Mã cùng đi đến Biển Ðông.

Nguyễn Đông Thức, Hà Nội

Nguồn báo nongnghiep

Núi Đọ – Di chỉ khảo cổ học thời đại đá cũ

Núi Đọ còn gọi là núi Quy Sơn, bồi đắp bởi hợp lưu sông Chu và sông Mã, thuộc địa phận 2 xã Thiệu Tân (huyện Thiệu Hóa) và xã Thiệu Khánh (thành phố Thanh Hóa).

Đặc trưng hiện vật di tích văn hóa núi Đọ

Hiện vật tìm thấy trong di tích núi Đọ gồm nhiều loại hình như mảnh tước, rìu tay, bôn, nhưng phổ biến nhất là mảnh tước.

Mảnh tước

Nhiều kích thước khác nhau, mảnh lớn nhất dài 14.7cm, mảnh nhỏ nhất dài 4cm, diện ghè có khi rộng, nhưng cũng có khi diện ghè nhỏ.

Những mảnh tước ở đây mang đặc trưng mảnh tước Clacton – đặc trưng kỹ thuật cơ bản trong chế tác công cụ của con người thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ.

Những mảnh tước ở đây có thể sử dụng như một loại công cụ chính, có thể dùng để cắt, gọt, nạo, chặt.

Hạch đá

Là những di vật còn sót lại khi con người ghè đá để tạo những mảnh tước, chúng thường không có hình dáng nhất định, kích thước không giống nhau.

Trước khi đá được đem ra ghè, hạch đá không được định hình trước, thường mặt lõm của vết ghè trước làm diện ghè cho các lần ghè sau.

Công cụ chặt thô (còn gọi chopper)

Là những công cụ được ghè đẽo qua loa, có rìa lưỡi dày, mép uốn sóng, do những nhát ghè lớn chênh nhau ở hai mặt.

Loại hình hiện vật này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các công cụ của người nguyên thủy ở núi Đọ.

Rìu tay

Là những công cụ tiêu biểu cho sơ kỳ thời đại đá cũ – giai đoạn Sen-A sơn. Rìu chia làm 2 phần:

Đốc cầm và lưỡi hình mũi nhọn; đốc cầm thường to, dày, cầm vừa lòng bàn tay.

Rìu có hình dạng giống như hạt hạnh nhân, hình bầu dục, hình dáng khá hoàn chỉnh và tương đối chính xác.

Rìu được chế tác trên cả hai mặt, có hình dáng cân xứng, có rìa lưỡi chạy xung quanh.

Rìu tay ở núi Đọ tương đối hiếm và là loại hình hiện vật đẹp nhất được phát hiện ở đây.

Công cụ gần rìu

Đây là loại hình hiện vật gần giống như những rìu tứ diện về hình dáng, chất liệu, kích thước, màu sắc, có số lượng lớn và ghè đẽo cả hai mặt.

Loại hình hiện vật này có hình dáng chữ nhật hoặc gần chữ nhật, hai cạnh dài được ghè đẽo cả hai mặt và đều có khả năng sử dụng.

Hiện các nhà khảo cổ học phát hiện được ở núi Đọ khoảng hơn 2.500 hiện vật, bao gồm nhiều loại hình hiện vật khác nhau và đá basalt được người nguyên thủy dùng làm nguyên liệu chế tác chính. Các công cụ này đều chế tác tại chỗ, vì vậy núi Đọ được gọi là di chỉ – xưởng.

Tại di chỉ này người ta không tìm thấy di cốt con người (loài vượn Hominid được tìm thấy ở Trung Quốc và Indonesia). Theo J. S. Bowman, người khôn ngoan tồn tại ở Việt Nam khoảng 22.000 năm trước.

Vì vậy niên đại chính xác công cụ đá núi Đọ vẫn chưa được thống nhất và hiện nay thì công cụ đá vẫn được tạm dùng làm hiện vật đại diện cho văn hóa sơ kỳ đá cũ ở Việt Nam.

Do thoát khỏi yếu tố vượn để thành người, có ý thức về lao động và chế tác công cụ nên hình thành nên một nền văn hóa và có thể gọi là Văn hóa núi Đọ.

Nguồn:

Lisuvina

Thanh Hóa: Kỳ bí "vết chân tiên" trên núi Đọ

Núi Đọ - nằm trên địa bàn 3 xã Thiệu Tân (Thiệu Hóa), Thiệu Vân, Thiệu Khánh (TP. Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa được xếp vào 1 trong 10 cảnh đẹp nổi tiếng quanh dãy núi Bàn A.

Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, linh thiêng của ngọn núi ẩn chứa rất nhiều bí mật, trong đó phải kể đến "vết chân tiên."

Chếch về hướng Tây của dãy núi cũng là chân núi Đọ có một tảng đá lớn, bên trên có dấu tích của "bàn chân tiên", với những vết lõm hình 5 ngón chân rõ ràng.

Có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh "bàn chân tiên" này, về dấu chân của người khổng lồ từ xa xưa đến bạt núi, san đồi cho dân làng - xóm mọc lên mà dân gian hay gọi ông Vồm - người từng thi thố sức mạnh siêu phàm với ông Bưng như trong lời kể của nhiều bậc cao niên tại đây.

"Vết chân tiên" này nằm trong vườn của gia đình anh Đỗ Văn Toản ở xóm 8, xã Thiệu Vân (TP Thanh Hóa). Anh cho hay, từ nhỏ tôi thường nghe các cụ trong làng kể không biết từ bao giờ, không ai nhớ rõ, tại khu vực chân núi Đọ xuất hiện tảng đá lớn, bên trên in hình bàn chân to, đủ 5 ngón.

Các cụ bảo đó là bàn chân tiên (hay có tên gọi bàn chân của người Giao Chỉ xưa). Nhiều người dân truyền miệng, nếu muốn sinh con trai, vợ chỉ cần đưa bàn chân trái ướm lên "vết chân tiên" sẽ được như ý muốn.

Núi Đọ với hình "Linh Quy Hý Thủy" là di chỉ văn hóa thời đại đá cũ sơ kỳ.

Với sự quyết tâm của giới khảo cổ phát hiện nhiều vết tích di chỉ Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Phù Lãng, Chu Đậu.. của thời các Vua Hùng dựng nước, với rất nhiều trống đồng, thạp đồng, rìu tay bằng đá, kiếm, mác.. tại chân núi Đọ.

Anh Toản - chủ khu vườn có tảng đá "bàn chân tiên" chia sẻ, từ khi phát hiện bàn chân kỳ lạ này, hàng ngày anh đón nhận rất nhiều khách đến tham quan, phần lớn là giới khảo cổ, dân buôn đồ cổ.

Thập niên 90 thế kỷ trước, GS. Nguyễn Quốc Vượng cùng cộng sự ghé thăm khu vườn anh Toản để nghiên cứu, khảo sát.

Qua thăm dò, khai quật đoàn khảo cổ phát hiện rất nhiều vật dụng bằng rìu đá, bát, đĩa bằng sành, sứ..

Quanh khu vực vườn anh Toản, cạnh "vết chân tiên", người dân phát hiện một viên đá dựng, đào lên xuất hiện một số chum sành.

Còn tại phía Đông Nam của núi Đọ, người dân còn phát hiện khu mộ táng cổ thuộc giai đoạn Hán - Đường.

Người dân làng Đọ (xã Thiệu Khánh) thường truyền tai nhau về những câu chuyện cổ tích mang đậm nét huyền thoại liên quan đến núi Đọ, về vùng đất Cửu Chân xưa.

Từ chuyện người khổng lồ đánh quỷ dữ đến sự tích "bàn chân tiên."

Có thể nói huyền tích núi Đọ với "vết chân tiên" từ lâu đã trở thành giai thoại.

Những câu chuyện xoay quanh ngọn núi kỳ vĩ này thường được dân truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Dù trong số những chuyện đó "thực thực, hư hư", nhưng có thể nói đây là một trong những di tích quan trọng, ý nghĩa trong đời sống văn hóa, tâm linh của người dân bản xứ.

Trung Lê

Nguồn:

Baomoi

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70391429_1220026111530972_4075521040137060352_n.jpg


Di chỉ khảo cổ Tràng An

Văn hóa Tràng An là nền văn hóa cổ ở Việt Nam, hình thành từ thời kỳ đồ đá cũ cách nay khoảng 25.000 năm.

Tràng An là tên địa danh ở Ninh Bình, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ nền văn hóa này.

Đến nay có khoảng 30 địa điểm thuộc nền Văn hóa Tràng An được phát hiện.

Khu vực Quần thể Danh thắng Tràng An ở Ninh Bình có hơn 30 di tích khảo cổ học thời tiền sử được phát hiện.

Kết quả nhiều cuộc nghiên cứu của các chuyên gia khảo cổ học cho thấy dấu ấn người tiền sử thích nghi với biến cố lớn về môi trường, cảnh quan ít nhất là từ:

Khoảng 23.000 năm TCN đến nay, một số nền văn hóa tiền sử tiến hóa liên tục ở khu vực này, từ thời đại đồ đá cũ qua thời đồ đá mới đến thời đại đồ đồng và đồ sắt..

Với những giá trị về văn hóa và thiên nhiên mang tính nổi bật toàn cầu, Tràng An được UNESCO vinh danh thành Khu Di sản Thế giới kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á[1]

Tổng quát

Văn hóa Tràng An kéo dài từ thời đồ đá cũ sang thời đồ đá mới (cách nay 25.000 năm), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Nam châu thổ sông Hồng.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử cho hay, căn cứ kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ học hang động Tràng An xác nhận các di tích tiền sử mang trong mình những đặc thù riêng biệt, xác lập hiện diện nền văn hóa khảo cổ - Văn hóa Tràng An.

Nó rất khác so với Văn hóa khảo cổ Hòa Bình, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn, Hạ Long, Hoa Lộc cả về không gian cư trú, về chất liệu công cụ đá, kỹ thuật gia công công cụ, có giao thoa, tiếp xúc và diễn tiến văn hóa để bước từ nguyên thủy sang văn minh ở địa bàn hết sức đặc trưng của thung lũng karst lầy trũng.

Truyền thống khai thác nhuyễn thể ở hang động Tràng An còn lưu truyền tới những người Việt sau này[2]

Qua phân tích, đối sánh giữa nền Văn hóa Tràng An với các văn hóa khảo cổ học đã biết, ở Tràng An:

Về vị trí địa lý là thung lũng đá vôi đầm lầy chứ không phải đá vôi vùng núi khác.

Công cụ lao động không sử dụng đá cuội mà sử dụng bằng đá vôi, phổ biến sử dụng đồ gốm hoa văn dấu thừng thô chứ không phải dấu thừng mịn.

Khai thác các loài vỏ nhuyễn thể (như vỏ ốc, trai, hàu) là nước ngọt và biển (đồng thời).

Con người cư trú hầu như chỉ ở trong hang động, không ở ngoài trời và các hang động đó sử dụng đến nay (ban đầu là nơi cư trú, sinh sống sau này được sử dụng làm chùa, nơi sinh hoạt văn hóa cư dân địa phương).

Niên đại kéo dài từ 25.000 năm đến 3.000 năm cách ngày nay.

Điều kiện tự nhiên đặc biệt, hầu như chỉ có đá vôi là chất liệu đá duy nhất, người Tràng An biết sử dụng nó làm công cụ lao động ít nhất đến cách ngày nay khoảng 3.000 năm.

Quá trình đó nhận biết đá vôi đô-lô-mít thuộc loại chất liệu tốt nhất có thể có.

Đồng thời với giai đoạn biển tiến lớn nhất cuối cùng (khoảng 7.000-4.000 năm trước), người tiền sử Tràng An biết tới nghệ thuật làm đồ gốm.

Những chứng cứ sớm nhất được cho tương đương với gốm Đa Bút (6000 năm trước), nhưng thực tế làm ra ở đây sớm hơn nhiều (khoảng 9.000 năm trước) và tiến hóa liên tục qua thời đại kim khí đến tận sau này.

Việc sử dụng đồ gốm từ sớm và liên tục ở Tràng An chứng tỏ một trung tâm gốm sứ rất khác biệt so nhiều trung tâm gốm sứ khác ở Việt Nam từng tồn tại ở đây.

Ts. Masanari Nishimura (Nhật Bản) qua nghiên cứu khảo cổ học tiền sử Quần thể Danh thắng Tràng An khẳng định:

Cách đây 5.000-6.000 năm trước, có một trận động đất lớn ở Tràng An và người Việt cổ ở Tràng An trải qua nhiều biến đổi của thiên nhiên để thích ứng và phát triển đến nay, tạo giá trị về nền Văn hóa Tràng An[3]

Giá trị

Hệ thống các di tích khảo cổ hang động trong Quần thể Di sản Thế giới Tràng An (Ninh Bình) là thí dụ nổi bật về sự định cư truyền thống của loài người, việc sử dụng đất hoặc biển.

Đại diện cho nền văn hóa (hoặc nhiều nền văn hóa) hoặc tác động của con người đến thiên nhiên đặc biệt khi nó trở nên bị nguy hại dưới tác động của thay đổi không thể thay đổi được. Điều này chứng minh qua các tư liệu:

Truyền thống định cư hang động lâu dài từ thời tiền sử, cách đây 25.000 năm (C14 Hang Trống) đến các chùa hang mà người Việt đang sử dụng.

Tại đây con người sống, khai thác nguồn lợi tự nhiên trong vùng karst nhiệt đới, gắn liền với những biến động địa chất mang tính toàn cầu (biển tiến, biển thoái).

Gắn liền với những phát minh vĩ đại của nhân loại (kỹ thuật mài trong chế tác công cụ, kỹ thuật làm đồ gốm, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi), một thí dụ điển hình về bước tiến văn hóa nhân loại ở vùng biển cổ Ninh Bình.

Địa tầng các di tích tiền sử Tràng An cho biết các giá trị văn hóa tiền sử ở đây phát triển bền vững, truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và thành truyền thống (tradition).

Theo thời gian, truyền thống ở đây không lặp lại nguyên gốc, mà do áp dụng kỹ thuật mới hoặc các dạng thức hoạt động mới đã nảy sinh cái mới (innovation), cái mới được cách tân (renovation) và gia nhập vào truyền thống.

Cứ như vậy, truyền thống và cách tân là 2 chiều ngang và dọc, dệt nên bức tranh văn hóa tiền sử, làm nên giá trị bền vững, tinh hoa của các cộng đồng tộc người ở vùng Tràng An Ninh Bình.

Các chứng tích văn hóa khảo cổ tiền sử ở Tràng An phong phú và đa dạng là nguồn sử liệu vật thật minh chứng cho sự biến đổi đặc biệt về:

Kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng cư dân nơi đây dưới tác động thay đổi môi trường karst, biến động của cổ khí hậu, của mực nước biển vùng nhiệt đới gió mùa.

Đây là các chứng tích điển hình nhất cho loại hình cư trú liên tục trong hang động trước, trong và sau biển tiến.

Truyền thống khai thác và sử dụng nhuyễn thể biển và trên cạn, truyền thống săn bắt đa tạp, theo phổ rộng, săn bắt nhiều loài, mỗi loài một ít và không dẫn đến hủy diệt bầy đàn động vật đó.

Truyền thống chế tác và sử dụng công cụ đá vôi, nảy sinh kỹ thuật mài, cưa và kỹ thuật làm gốm và trồng trọt trong thung lũng đầm lầy là nét riêng độc đáo, làm nên giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể các di tích khảo cổ nơi đây.

Hệ thống các di tích khảo cổ tiền sử hang động Tràng An (Ninh Bình) còn chứa đựng độc bản hoặc chí ít là chứng cứ đặc biệt về truyền thống văn hóa hoặc nền văn minh hiện còn tồn tại hoặc đã mất của nhân loại (tiêu chí: Iii của Di sản Thế giới) [4]

Các di chỉ

Dựa trên những dấu tích nền Văn hóa Tràng An còn lại cho thấy các di tích tiền sử Tràng An phát triển qua 3 giai đoạn:

Trước biển tiến Holocene trung (trước 6000 năm cách ngày nay) có các di tích Hang Trống, Hang Bói, Mái Đá Ông Hay, lớp dưới Mái Đá Chợ và lớp sớm nhất Hang Mòi.

Giai đoạn biển tiến (6000 - 4000 năm cách ngày nay) có các di tích:

Mái Đá Vàng, Hang Ốc và lớp trên Hang Mòi. Giai đoạn sau biển tiến (4000 - 2000 năm cách ngày nay) có các di tích:

Hang Núi Tướng 1, Núi Tướng 2, lớp trên Mái Đá Chợ, di tích Thung Bình 1, Thung Bình 2.

Các di tích ở Tràng An đều thuộc loại hình hang động, mật độ cao, phân bố không đều, tập trung ở khu trung tâm và vùng rìa phía Tây và Tây Nam, phần còn lại (phía Bắc và phía Đông) của Quần thể Di sản Thế giới Tràng An có rất ít.

Chúng phân bố thành nhóm, mỗi nhóm từ 4 đến 6 di tích, chiếm vài thung lũng núi đá vôi liền khoảnh, thuộc các tiểu vùng cảnh quan khác nhau gồm nhóm:

1, 2 ở trung tâm khối đá vôi Tràng An, tiêu biểu là các di tích Hang Trống, Hang Bói và Hang Mòi, Mái Đá Ông Hay, Mái Đá Chợ, Mái Đá Vàng.

Các di tích này phân bố trong địa hình núi đá vôi dạng chóp nón, đỉnh nhọn, kết nối với nhau bằng các sống núi kiểu thành lũy.

Bao lấy các hố sụt, trũng kín, đáy bằng, tụ nước dạng đầm lầy, liên thông nhau bằng các động xuyên thủy. Nhóm 3 ở rìa phía Tây khối đá vôi Tràng An, tiêu biểu là 4 hang:

Thung Bình 1, 2, 3, 4 và Hang Chùa.

Đây là vùng núi đá vôi dạng tháp tách biệt nhau, thung lũng rộng, ngập nước và liên kết nhau qua mạng lưới sông suối.

Nhóm 4 ở rìa Tây Nam, tiêu biểu là Mái đá Ốc 1, 2, Núi Tướng 1, 2 và Hang Vàng.

Cảnh quan nơi đây thuộc dạng chóp nón nối đỉnh, dạng dãy, thành lũy đan xen; thung lũng hẹp chạy dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, có nhiều hang xuyên thủy, xuyên thung.

Nhóm 5 ở phía Bắc, gồm các di chỉ Hang Áng Nồi, Hang Ông Mi, Hang Trâu, Hang Son.

Các núi đá vôi ở đây đỉnh bằng, đứng tách rời nhau, rải rác trong các thung lũng ngập nước và liên thông bởi hệ thống sông suối tự nhiên như sông Ngô Đồng, sông Đền Vối, sông Sào Khê, sông Bến Đang[5]

Chú thích

1. Quần thể Danh thắng Tràng An: Di sản Thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam

2. Danh thắng Tràng An xứng đáng là Di sản Thế giới

3. Tràng An hướng tới Di sản Thế giới

4. Châu Á: Việt Nam – Quần thể Danh thắng Tràng An (2014)

5. Di tích khảo cổ học Tràng An: Chứa đựng hệ giá trị nổi bật

Tham khảo

Tống Trung Tín, Những phát hiện mới về nền Văn hóa Tràng An. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 2012.

Tạp chí khảo cổ học Việt Nam.

Nguồn wikipedia

Skyscrapercity

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
78895566_1485251658297771_8701497256571830272_o.jpg


Phục dựng cảnh người thượng cổ Việt Nam tại khu du lịch Suối Tiên

Văn hóa Sơn Vi là nền văn hóa ở Việt Nam vào hậu kỳ thời đồ đá cũ cách nay khoảng 30.000 đến 11.000 năm. Đây là nền văn hóa kế trước Văn hóa Hòa Bình.

Sơn Vi là xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ nền văn hóa này. Đến nay có khoảng 160 địa điểm thuộc Văn hóa Sơn Vi được phát hiện[1]

Không gian Văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Những người nguyên thủy chủ nhân của Văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc.

Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động, mái đá.

Công cụ lao động của người nguyên thủy trong Văn hóa Sơn Vi làm từ đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Họ sống bằng săn bắn và hái lượm, chưa có trồng trọt và chăn nuôi.

Tham khảo

1. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến TK. X

Nguyễn Cảnh Minh (2007), "Thời đại nguyên thủy trên đất nước Việt Nam", trong Trương Hữu Quýnh chủ biên (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam - Tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

Nguồn:

Wikipedia

Sưu tập công cụ cuội Văn hóa Sơn Vi

Văn hóa Sơn Vi là di chỉ văn hóa lấy tên theo địa phận xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là nơi phát hiện đầu tiên các công cụ cuội ghè, đẽo. Tập trung chủ yếu tại các di chỉ:

Sơn Vi, Vườn Sậu, Sóc Lọi, Làng Nghìa, Núi Thắm, Phân Đậu, Phân Muồi, Núi Nỏn..

Đến nay các nhà khảo cổ học phát hiện 105 địa điểm của địa bàn Phú Thọ, trên 230 địa điểm Sơn Vi trong cả nước.

Nhiều nhất ở tỉnh Phú Thọ 105 địa điểm, Yên Bái 39, Sơn La 22, Lai Châu 18, Bắc Giang 13, Lâm Đồng 2, Quảng Trị 1..

Qua các hiện vật thu trên địa bàn cả nước cũng như trong tỉnh Phú Thọ, các nhà nghiên cứu xác định Văn hóa Sơn Vi thuộc giai đoạn hậu kỳ đá cũ lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới.

"Văn hóa Sơn Vi có niên đại mở đầu khoảng 23.000 năm chấm dứt khoảng 11.000 năm cách ngày nay" (Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chung, 1999).

Địa bàn phân bố Sơn Vi khá rộng, không chỉ ở phía Bắc mà còn ở Bắc Trung Bộ, phân bố không đồng đều trên hai loại hình cơ bản:

Loại hình hang động – mái đá phân bố rải rác, đan xen ở vùng núi đá vôi Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, ở những hang cao và đầu nguồn các con suối. Và loại hình đồi gò – thềm sông:

Các địa điểm Sơn Vi tập trung thành 4 vùng hay 4 nhóm lớn:

Trung lưu sông Hồng; thượng lưu sông Đà; thượng lưu sông Lục Nam và thượng lưu sông Cả.

Từ trước đến nay các nhà khoa học chứng minh một trong những nguồn hợp hình thành văn hóa thời Hùng Vương là các văn hóa tiền Đông Sơn kế tiếp nhau ở lưu vực sông Hồng, với các Văn hóa:

Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.

Việc phát hiện Văn hóa Sơn Vi cho chúng ta biết được Tổ tiên xa xăm hơn trên Đất Tổ Vua Hùng dựng nước.

Từ khi phát hiện nền văn hóa này 1968, các nhà khoa học có rất nhiều điều phải bàn:

Niên đại Văn hóa Sơn Vi, địa bàn cư trú, sự có mặt Văn hóa Sơn Vi trong hệ thống di chỉ thuộc khu vực Đông Nam Á, vấn đề mảnh tước trong Văn hóa Sơn Vi, dấu tích di cốt động vật..

Ở đây thông qua bộ sưu tập này Bảo tàng Hùng Vương giới thiệu với người xem về loại hình công cụ, nguyên liệu, chất liệu, kỹ thuật chế tác, chức năng sử dụng các công cụ cư dân Sơn Vi đó là một trong những cách thức trong xác định mối quan hệ về bước chuyển biến từ Văn hóa Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) lên Văn hóa Hòa Bình (sơ kỳ đá mới).

Hơn 1 thế kỷ qua ngành khảo cổ học có những đóng góp không nhỏ trên địa bàn vùng Đất Tổ với những phát hiện khảo cổ:

Văn hóa Sơn Vi (cách nay 11 vạn năm), Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn (đến 2000 năm).

Hiện nay trong kho hiện vật Bảo tàng tỉnh Phú Thọ lưu rất nhiều bộ sưu tập quý giá là các văn hóa sơ sử kế tiếp nhau tương ứng thời kỳ Hùng Vương ở lưu vực sông Hồng và có bộ sưu tập hiện vật có ý nghĩa giá trị lịch sử hết sức to lớn đối với tiến trình lịch sử dân tộc.

Đó là bộ sưu tập công cụ cuội của Văn hóa Sơn Vi được trưng bày trong 2 tủ với số lượng hơn 40 công cụ với đầy đủ các loại hình.

Các nhà khảo cổ khẳng định:

"Đặc trưng nổi bật trong công cụ đá Văn hóa Sơn Vi là sử dụng cuội sông, suối để chế tác công cụ. Đó là nguồn nguyên liệu tại chỗ được người xưa tuyển chọn có hình dáng khá ổn định đối với từng loại hình và từng nhóm di vật cụ thể." (Hà Văn Tấn – Nguyễn Khắc Sử – Trình Năng Chung 1999, 129).

Về chất liệu các loại đá trong sưu tập Sơn Vi thường xác định dựa vào màu sắc để đoán nhận. Theo các công trình công bố đều thống nhất chất liệu được người Sơn Vi sử dụng là đá Quartzite đôi khi có cả đá cát kết, basalte, porphyrite, phtanite, bộ sưu tập Sơn Vi trong Bảo tàng tỉnh Phú Thọ được xác định là đá Quartzite.

Về loại hình và kỹ thuật chế tác:

Công cụ đặc trưng loại hình Văn hóa Sơn Vi được chia 2 nhóm:

Công cụ cuội nguyên bao gồm chày, bàn nghiền, hòn ghè và nhóm công cụ cuội ghè đẽo. Các sưu tập Sơn Vi nhóm công cụ cuội nguyên rất ít.

Nhóm công cụ cuội ghè đẽo có số lượng nhiều và loại hình phong phú, sưu tập công cụ cuội trong bảo tàng chủ yếu là nhóm công cụ cuội ghè đẽo bao gồm:

Những công cụ rìa lưỡi ngang:

Kích thước trung bình chiều dài từ 9cm đến 12cm, chiều rộng từ 7cm đến 9cm, lưỡi hẹp, thân dài ghè ít lớp, góc lưỡi nhỏ.

Với loại hình công cụ này cho thấy cư dân Sơn Vi sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu, những loại công cụ này thường ghè vài nhát, ghè một lớp theo hướng, có đốc cầm dài.

Vẫn loại hình công cụ rìa ngang nhưng thân cuội cực ngắn, ghè sát đến phần đầu hẹp viên cuội được gọi là núm cuội, khiến viên cuội có đốc cầm cực ngắn (10, 5 x 6, 5 cm).

Những công cụ rìa lưỡi dọc với lưỡi dài, thân ngắn, ghè ít hoặc nhiều lớp, góc lưỡi hẹp hoặc lớn, loại công cụ này làm từ loại cuội bầu dục dẹt, mỏng.

Kỹ thuật ghè tạo một lớp lưỡi ghè mỏng chạy dọc theo chiều dài viên cuội. Kích thước chiều dài từ 11cm đến 13cm, chiều rộng từ 3cm đến 6cm.

Công cụ phần tư viên cuội sử dụng kỹ thuật bổ cuội, chặt bẻ sau đó các loại công cụ này sử dụng kỹ thuật ghè, đẽo tạo rìa tác dụng từ cuội bổ.

Kỹ thuật chặt bẻ trong Sơn Vi tạo công cụ phần tư viên cuội (chiều dài từ 9cm đến 13cm, chiều rộng từ 5cm đến 8cm), trong Văn hóa Hòa Bình tạo công cụ rìu ngắn.

Sử dụng công cụ từ cuội bổ chính là tận dụng nguồn nguyên liệu trong điều kiện khan hiếm và giảm thiểu quy trình ghè đẽo tạo rìa tác dụng.

Bộ công cụ rìa lưỡi xiên tại bảo tàng có kích thước (chiều dài từ 7cm đến 15cm, chiều rộng từ 4, 7cm đến 12cm) làm từ cuội dẹt, ghè một mặt, thường cuội mỏng ghè ít lớp, cuội dày ghè nhiều lớp. Loại công cụ này còn gọi là công cụ lưỡi lệch.

Ngoài ra trong bộ sưu tập này còn có các loại công cụ hai rìa, ba rìa, công cụ mũi nhọn, công cụ đa rìa, một số mảnh tước, vẫn sử dụng kỹ thuật ghè đẽo là chủ yếu.

Loại hình công cụ đa rìa kỹ thuật ghè được sử dụng để ghè hết một mặt lớn của vỏ cuội tự nhiên, được ghè từ một lớp đến nhiều lớp khác nhau tạo thành rìa cạnh sắc.

Như vậy trong Văn hóa Sơn Vi kỹ thuật ghè đẽo sử dụng chủ yếu trên hòn cuội tự nhiên..

Kết hợp bổ cuội để tạo phần tư viên cuội làm công cụ trong điều kiện tận dụng nguyên liệu tại chỗ và kỹ thuật chặt bẻ là thủ pháp đặc thù trong kỹ thuật Sơn Vi.

Chặt bẻ là khâu thứ hai tiếp theo sau khi tạo được công cụ có rìa lưỡi.

Chặt đôi công cụ rìa dọc để tạo công cụ phần tư cuội, chặt đốc công cụ rìa lưỡi hẹp để tạo những chopper đốc ngắn và phẳng.

Vẫn sử dụng các kỹ thuật ấy đến Văn hóa hòa Bình đã có bước phát triển hơn tạo thành rìu đá kết hợp với kỹ thuật mài.

Về công dụng:

Các loại công cụ trên được cư dân Sơn Vi sử dụng hàng ngày như những loại dụng cụ chặt, cắt, đập, giã, nghiền trên các vật dụng sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày như rau, cỏ, thịt thú rừng..

Từ những chứng tích về Văn hóa Sơn Vi ta có thể hình dung đôi nét về cuộc sống cư dân lúc đó:

Họ sống trên những hang cao, đầu nguồn các suối và đồi gò thấp, ven sông, dựa vào kinh tế săn bắt hái lượm, chưa có kinh tế sản xuất nông nghiệp, chưa biết làm đồ gốm.

Tại Phú Thọ, Văn hóa Sơn Vi tập trung chủ yếu tại vùng ngã ba sông, đồi gò của huyện Lâm Thao.

Ngoài ra còn có ở vùng đồi gò dọc bờ sông Thao và sông Lô thuộc các huyện Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng, Cẩm Khê, Phù Ninh, Tam Nông..

Thông qua bộ sưu tập này, chúng tôi muốn giới thiệu đến đông đảo bạn đọc về nền văn hóa xa xôi mà Phú Thọ vinh dự, tự hào mang tên nền văn hóa đó, Văn hóa Sơn Vi – Phú Thọ là một trong những trung tâm thời đại đá cũ của Việt Nam.

Lấp vào khoảng trống lịch sử từ sơ kỳ đá cũ lên sơ kỳ đá mới, giúp các nhà khoa học khẳng định chắc chắn về nguồn gốc con người thời kỳ tiền Hùng Vương và Hùng Vương trên vùng đất cổ của Tổ quốc.

Nguồn:

Baotanghungvuong

Di tích khảo cổ Sơn Vi và Gò Mun ở Phú Thọ được xếp hạng quốc gia

Di tích khảo cổ Sơn Vi gồm hai địa điểm là Gò Vườn Sậu và Rừng Sóc Lọi (xã Sơn Vi), phát hiện từ 1968 và khai quật năm 1969.

Trên địa bàn Phú Thọ, đây là khai quật đầu tiên và duy nhất về Văn hóa Sơn Vi - văn hóa của cư dân thời đại hậu kỳ đá cũ, cách đây khoảng 10.000 đến 30.000 năm.

Hơn 1000 hiện vật khai quật và tìm thấy tại hai địa điểm trên chủ yếu là các công cụ lao động chế tác từ đá cuội, với các loại hình bán nguyệt, hình rẻ quạt, rìa ngắn nguyên sơ, chày nghiền, mảnh tước..

Kết quả nghiên cứu cho thấy cư dân Sơn Vi là những người sống bằng săn bắt, hái lượm, phân bố từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến miền trung, thậm chí vết tích công cụ còn tìm thấy ở Tây Nguyên.

Song Phú Thọ là nơi phát hiện đầu tiên và tập trung dầy đặc nhất di tích Văn hóa Sơn Vi với 104 địa điểm.

Di vật đồ đá Sơn Vi là cổ vật lâu đời nhất ở Phú Thọ, gồm công cụ, hạch đá, mảnh tước nằm rải rác trên các ngọn đồi thấp ở Lâm Thao và các gò đồi ở các huyện dọc sông Thao, sông Lô.

Sưu tập hiện vật khảo cổ ở Vườn Sậu và Rừng Sóc Lọi khẳng định thêm Văn hóa Sơn Vi khác Văn hóa Hòa Bình.

Và hiện diện trước Hòa Bình không chỉ ở Phú Thọ mà các vùng khác của đất nước. Văn hóa Sơn Vi là mắt xích quan trọng trong văn hóa tiền sử ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Di tích khảo cổ Gò Mun (xã Tứ Xã) phát hiện đầu 1961, qua khai quật:

1961, 1965, 1969, 1971 thu hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm thuộc nền văn hóa thời đại đồng thau có niên đại cách nay 2300 - 3000 năm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, cư dân Văn hóa Gò Mun là thực thể cộng đồng chặt chẽ, đời sống vật chất, tinh thần có chuyển biến rõ rệt so giai đoạn trước.

Họ sống chủ yếu bằng chăn nuôi và trồng trọt, ngoài ra còn săn bắt và khai thác thuỷ sản.

Các nghề thủ công như đúc đồng, làm gốm, chế tác đá, dệt vải, đan lát, làm mộc, đan lưới cũng là những hoạt động kinh tế quan trọng.

Ngoài các công cụ và vũ khí bằng đồng, cư dân Văn hóa Gò Mun tạo những đồ trang sức tinh tế như các loại khuyên tai bốn màu, khuyên tai hình gối qua, vật hình "đầu trâu" bằng đá ngọc.

Đồ gốm nhiều kiểu dáng, trang trí hoa văn phong phú và phức tạp; tượng người, tượng thú sinh động làm bằng đồng, gốm, đá.

Những hiện vật này góp phần làm sáng tỏ cuộc sống cư dân Văn hóa Gò Mun, giúp chúng ta thấy phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, thẩm mỹ của người Việt thời Văn Lang-Âu Lạc.

Văn hóa Gò Mun là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển từ Văn hóa Phùng Nguyên đến Đông Sơn, tương ứng với thời kỳ Hùng Vương dựng nước.

Nguồn:

Baonhandan

Wikipedia

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70496463_1220043391529244_4975992454508445696_o.jpg


Văn hóa Soi Nhụ gọi theo tên địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc vịnh Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long, là nền Văn hóa người tiền sử được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện 1964 và khai quật 1967.

Khái niệm và đặc điểm Văn hóa này đầu tiên được Ts. Hà Hữu Nga, Viện Khảo cổ học đề xuất trong Hội nghị thông báo "Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996" (NXB. KHXH, Hà Nội năm 1997).

Niên đại

Văn hóa Soi Nhụ chia 3 giai đoạn:

1. Giai đoạn sớm ở các hang Áng Mả (Cát Bà), Thiên Long, Mê Cung, Tra Giới, Hang Trống trên Vịnh Hạ Long, niên đại từ 25.510 đến 17.000 năm.

2. Giai đoạn giữa gồm các hang Soi Nhụ trên, Tiên Ông, Bồ Quốc.. trên Vịnh Hạ Long, có niên đại từ khoảng 16.000 đến 9.000 năm cách ngày nay.

3. Giai đoạn muộn gồm các hang động và mái đá Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Dơi (huyện Hoành Bồ), Phương Nam (Uông Bí) có niên đại từ 8000 - 6000 năm cách ngày nay.

Đặc điểm

Phản đối quan điểm của các nhà tiền sử Úc đại diện là Peter Bellwood, coi nguồn gốc các văn hóa Mã Lai-Đa Đảo và các nền:

Văn minh lúa nước Đông Nam Á xuất phát từ các văn hóa Ngưỡng Thiều, Long Sơn (Trung Quốc), Ts. Hà Hữu Nga khẳng định các Văn hóa Cái Bèo và Văn hóa Hạ Long.

Hậu duệ của Văn hóa Soi Nhụ, là tiền thân của các nhóm văn hóa ngôn ngữ biển đầu tiên Việt Nam và Đông Nam Á, sau này mang tên gọi các nhóm văn hóa thuộc ngữ hệ Mã Lai-Đa Đảo (Malayo-Polynesian).

Cách tiếp cận đó phù hợp với thực tế là cách ngày nay 5000-6000 năm, khi mực nước biển còn thấp, một trong những cái nôi nền văn hóa biển Đông Nam Á là Văn hóa Cái Bèo, phân bố rộng khắp khu vực Vịnh Hạ Long của Việt Nam, kết nối dễ với các hệ thống đảo Đông Nam Á.

Tham khảo

1. Hà Hữu Nga 1997: Có một nền Văn hóa Soi Nhụ trong khu vực Vịnh Hạ Long (Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996, Hà Nội 1997).

2. Hà Hữu Nga - Nguyễn Văn Hảo 2000. Tiền sử Hạ Long. NXB. Thế giới, Hà Nội năm 2000.

3. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh, Tập I. Quảng Ninh 2001.

Nguồn wikipedia

Soi Nhụ - Nền Văn hóa cổ nhất hiện biết trên Vịnh Hạ Long*

Lịch sử vấn đề

Đầu năm 1938 nhà địa chất – khảo cổ học Thụy Điển J. G. Andersson lần đầu đến nghiên cứu khảo cổ học tại khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.

Ông phát hiện một loạt hang động chứa các vỏ nhuyễn thể nước ngọt.

Dù xuất thân là nhà địa chất học, nhưng Andersson không trả lời được câu hỏi tại sao có những đống tích tụ vỏ ốc nước ngọt – lẽ ra phải là nhuyễn thể nước mặn – trong các hang động giữa vùng biển mênh mông này.

Ngoài các tích tụ hang động, Andersson phát hiện một số di chỉ ngoài trời, trong đó có di chỉ Danh Do La.

Sau này gọi là Ngọc Vừng; di chỉ Xích Thổ và di chỉ Đống Màu, còn gọi Đồng Mang.

Vậy là cùng thời điểm, ông có công phát hiện hai nền văn hóa trên chính vùng Vịnh Hạ Long, hay nói cách khác, ông là người có công đầu phát hiện tiền sử Hạ Long.

Ông không biết những di chỉ này thuộc hai thời đại khác nhau, cách nhau hàng vạn năm.

Giải thích khác biệt giữa hai loại hình di chỉ - trong hang động và ngoài trời – ông nghĩ có lẽ điều đó phụ thuộc vào tình trạng bảo tồn các di vật.

Băn khoăn khác của Andersson là khan hiếm gốm trong các tích tụ hang động, ngược lại, tầng văn hóa của các di chỉ ngoài trời cấu tạo chủ yếu bởi gốm.

Với cảm nhận nghề nghiệp, ông nghĩ tới các khả năng khác biệt niên đại hoặc tộc thuộc.

Nhưng Andersson không đủ thời gian tại Việt Nam để trả lời thấu đáo câu hỏi này. Đặc biệt với tích tụ vỏ ốc nước ngọt, ông gọi đó là "bí ẩn".

Việc khan hiếm gốm trong các hang động, ông chọn trả lời – không phải căn cứ khác biệt niên đại, mà phần nào bởi khác biệt định kiến văn hóa – khi cho rằng:

Người tiền sử trong các hang động ăn ốc sống, mà không cần đun nấu, nên không tìm thấy gốm ở đó [Andersson 1939] .

Cuối đợt điền dã tại vùng Vịnh Hạ Long, Andersson mời một đồng nghiệp địa chất làm khảo cổ - người dành trọn cuộc đời khoa học cho những nghiên cứu tiền sử Việt Nam – bà M. Colani tới thăm các hang động trên Vịnh, bà nói:

"Những tích tụ nhuyễn thể Melania đó phổ biến trong các hang động đá vôi thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và nay người Việt vẫn bắt về ăn."

Từ hiểu biết mới này, Andersson cho rằng người tiền sử trên Vịnh hạ Long rời khỏi các đảo vào đất liền bắt ốc về ăn.

Các tích tụ vỏ ốc tại hang Đục – nhìn vào bản vẽ của Andersson thấy rất giống hang Tiên Ông nay – được giải thích người tiền sử ở đây vượt biển sang đảo Cát Bà bắt về.

Cùng năm đó, M. Colani phát hiện hang Đồng Cẩu (làng Yên Mỹ, Quảng Yên cũ).

Bà cho đó là "đống rác bếp Bắc Sơn" vì ở độ sâu 1, 2m tìm thấy 3 rìu mài lưỡi.

Ngoài ra bà còn phát hiện một di tích được gọi là "Hòa Bình ngoài trời" tại Giáp Khẩu, nay thuộc phường Hà Khánh, TP. Hạ Long.

Toàn bộ chuyện phát hiện tiền sử trước Văn hóa Hạ Long trên Vịnh Hạ Long gần như được bỏ lửng ở đó trong 30 năm tới khi địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ - thuộc huyện đảo Vân Đồn nay, các nhà khảo cổ học Việt hợp tác các cán bộ Ty Văn hóa Quảng Ninh khai quật 1967 [Đỗ Văn Ninh, 1968, tr. 57] .

Hang: Hang dưới, hang giữa và hang trên, thực chất hang giữa là một ngách hang dưới. Theo Giáo sư Đỗ Văn Ninh đáng chú ý là suốt dọc cửa hang có lớp ốc biển.

Chủ yếu là ốc tai, hầu hết bị gãy trôn, kết với đất cát thành tầng dày 1, 5m và rất rắn, trên bề mặt là lớp nhũ mỏng, phần còn lại vẫn bám chặt vách hang.

Tầng này tìm thấy một đoạn xương chi bò, một số mảnh sọ người, răng người đã hóa thạch và một số mảnh gốm thô.

Hang giữa là bộ phận chủ yếu của cuộc khai quật có chứa trầm tích Pleistocene. Hiện vật tìm được tại hang Soi Nhụ không nhiều, trong đó có hai nạo đá đẽo, 3 rìu đá mài, 2 hòn cuội, 2 mảnh bàn mài, 1 chày đá. Tất cả những hiện vật này đều được phát hiện tại phần cao của hang.

Những chiếc rìu đá thì được cho còn ở trình độ thấp kỹ thuật mài, bằng cách lợi dụng hình dáng của mảnh tước, mài sơ qua một mặt để có được rìa tác dụng, mặt lưng vẫn giữ nguyên vỏ cuội. Vì vậy rìu thô, dày và không đều [Đỗ Văn Ninh 1968, tr. 60] .

Gốm Soi Nhụ có miệng loe, đáy tròn. Loại gốm xám thì phần miệng để trơn, phần cổ có vành hoa văn đắp thêm có hình làn sóng.

Tiếp đó là "văn chải", có những mảnh trang trí bằng loại văn rổ rá.

Căn cứ vào đồ đá và đồ gốm, tác giả của báo cáo khai quật cho là muộn nhất cũng chỉ trung kỳ đá mới.

Nguyễn Văn Hảo so sánh phát hiện đồ đá Soi Nhụ với đồ đá do M. Colani phát hiện ở Đồng Cẩu và Giáp Khẩu cũng đồng ý chúng có niên đại trung kỳ đá mới.

Đồ gốm so sánh với các phát hiện gốm hang Bái Tử Long, trong lớp tích tụ vỏ ốc biển, nên có niên đại hậu kỳ đá mới [Nguyễn Văn Hảo 1985, tr. 42] .

Vì vậy có ý kiến nói nhóm di tích Soi Nhụ, bao gồm cả các hang trên Vịnh Hạ Long và các hang động trên đảo Cát Bà, có thể xếp chung vào văn hóa:

"Thuộc giai đoạn sớm của thời đại đá mới sau Văn hóa Bắc Sơn" [Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Khắc Sử 1976, tr. 58] .

3 nhóm di vật, tích tụ tầng văn hóa, đồ đá, đồ gốm cho thấy hang Soi Nhụ bao gồm 2 văn hóa thuộc 2 thời đại hoàn toàn khác nhau.

Hang Giữa chứa trầm tích Pleistocene, các công cụ đá, những chiếc nạo bằng mảnh tước cuội, rìu mài lưỡi đơn sơ và đặc biệt là các tích tụ vỏ ốc nước ngọt chứng tỏ thời gian ấy, khu vực này vẫn là đất liền.

Các kết quả định niên đại C14 từ các mẫu nhuyễn thể nước ngọt lấy từ Hang Giữa cũng cho thấy các di tích văn hóa ở đây có niên đại Pleistocene.

Mẫu có niên đại sớm BLN-1975II là 15.650 ± 180 BP. Mẫu có niên đại muộn BLN-3333 I cũng lên tới 12.460 ± 60 BP.

Như vậy hang Soi Nhụ đại diện cho một thời đại, một văn hóa độc lập tại khu vực này trong giai đoạn tương đương với các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn [Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo 1998, tr. 61] .

II. Nền văn hóa Soi Nhụ

Các nhà địa chất cho rằng cách nay khoảng 18.000 năm, khi đợt băng hà lần cuối cùng (Wurm muộn) phát triển thì mực nước Biển Đông vẫn còn ở độ sâu 110-120m.

Băng tan khoảng 17.000 năm trước thì mực nước đại dương bắt đầu dâng cao. Người ta gọi là đợt biển tiến Flandrian.

10.000 năm trước, mực nước chỉ dâng tới độ sâu 50-60m. Khoảng 7.000 – 8.000 năm nó dừng lại ở độ sâu 25-70m so mực nước hiện tại.

Khoảng 4.500 - 5.000 năm trước mực nước đạt tới cực đại, cao hơn mực nước hiện tại 5m [Lưu Tỳ - Nguyễn Thế Tiệp và những người khác 1985, tr. 16-18] .

Ý kiến khác, căn cứ các thềm biển, vốn là các bãi biển cổ nâng cao 10-15m phát hiện ở Đồ Sơn, Cát Bà, TP. Hạ Long, cho rằng khoảng 20.000 – 30.000 năm trước biển tràn vào khu vực Vịnh Hạ Long và hình thành vịnh cổ ở đây.

Thềm Ao Cối tại Cát Bà cao 10m, cấu tạo bằng trầm tích cát kết yếu, chứa nhiều mảnh san hô, sò ốc biển là minh chứng chắc chắn cho nguồn gốc biển thềm này, tuổi thềm tương tự ở Phan Thiết định niên đại C14 là 18.500 ± 250 năm.

Thực tế mực nước biển không cao tới mức ấy, sau này nó nâng lên do vận động kiến tạo nâng địa phương.

Vì trong kỷ nhân sinh, những lần biển tiến do băng tan chưa lần nào mực nước vượt quá hiện nay [Trần Đức Thạnh 1998, tr. 46] .

Như vậy khoảng 30.000 năm tới 17.000 năm có hai đợt biển tiến lớn phụ thuộc thay đổi khí hậu trái đất, lên mực nước đại dương, và hai lần đều để lại những dấu ấn khá rõ đối với cuộc sống các cư dân tiền sử trong khu Bắc Việt Nam nói chung và khu Vịnh Hạ Long nói riêng.

Tại Mái Đá Điều, Thanh Hóa, kỹ nghệ đá mảnh lớn có tuổi ước tính 30.000 – 17.000 năm đang dần làm sáng tỏ sau khi kỹ nghệ đá mảnh nhỏ Ngườm tồn tại trong thời gian tương đương đã khẳng định.

Mới đây các nhà khảo cổ học phát hiện di chỉ niên đại cổ xưa gần như vậy tại khu Vịnh Hạ Long, đó là hang Áng Mả trên đảo Cát Bà với niên đại C14 lên tới hơn 25.000 năm.

Giống Mái Đá Điều là một trong những nền tảng Văn hóa Hòa Bình, kỹ nghệ Ngườm là một trong những nền tảng Văn hóa Bắc Sơn, giờ đây với những phát hiện mới trên đảo Cát Bà, tại hang Áng Mả, nền tảng Văn hóa Soi Nhụ đang làm sáng tỏ.

Theo những người nghiên cứu hang này cho biết Áng Mả phía Tây Nam xã Hiền Hào (Cát Bà, Hải Phòng). Địa tầng mỏng, gồm có các loại nhuyễn thể sống trên cạn, nhiều nhất là Cyclophorus fulguratus.

Sau đó là ốc suối Antimelania costula [Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 2000] .

Ngoài hang Áng Mả, Vịnh Hạ Long còn nhiều hang động chứa chủ yếu là nhuyễn thể cạn như vậy.

Trước đây, chưa phát hiện nhiều hang động thuộc loại hình này, hầu hết các nhà khảo cổ học Việt Nam đồng ý có nhóm di tích Soi Nhụ riêng.

Gần đây, tiếp tục nghiên cứu khu vực này, phát hiện thêm một loạt hang động mới, một khoảng không gian trên dưới 2000 km2, bao gồm các khu núi đá vôi ở:

Kinh Môn (Hải Dương), Thủy Nguyên, Cát Bà (Hải Phòng) và hầu hết các huyện thị Uông Bí, Yên Hưng, Hoành Bồ, Cẩm Phả, Vân Đồn và TP. Hạ Long của Quảng Ninh, chúng tôi tiến tới xác lập văn hóa riêng – Văn hóa Soi Nhụ:

Gọi theo tên di chỉ Soi Nhụ cho khu này [Hà Hữu Nga 1997, 91-94; Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo 1998, tr. 43-89] .

Khái niệm đó công bố tại Đại hội lần 16 của IPPA (Indo-Pacific Prehistory Association) ở Melaka, Malaysia [Hà Hữu Nga 1998] và bước đầu tham khảo, sử dụng [Tonny Waltham 1998, pp. 35-37; Jaap Vermeulen and Tony Whittten 1999, p. 47] .

Các đặc trưng chính Văn hóa Soi Nhụ

1. Văn hóa Soi Nhụ chủ yếu phân bố trong khu vực các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long, bao gồm cả đảo Cát Bà, Bái Tử Long.

Các di chỉ Văn hóa Soi Nhụ còn phân bố tại các hang động đá vôi ven bờ các vịnh biển ấy thuộc các huyện Cẩm Phả, TP. Hạ Long, huyện Hoành Bồ, thị trấn Uông Bí, huyện Kinh Môn (Hải Dương) ; huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).

2. Đây là nền văn hóa hang động, cửa sông, thềm biển, mà tầng văn hóa cấu tạo chủ yếu vỏ ốc núi, ốc suối cùng một số loài nhuyễn thể nước ngọt khác.

Bên cạnh những thành phần này còn lượng đáng kể các di tích xương cốt động vật có vú. Tuy hiếm, nhưng xuất hiện các loài động vật thân mềm biển trong tích tụ văn hóa.

3. Khác các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, trong tích tụ tầng Văn hóa Soi Nhụ rất hiếm các loại cuội nguyên liệu, công cụ đá, mảnh tước và gốm.

4. Một số công cụ tìm thấy đều không có hình dáng ổn định.

Kỹ thuật chế tác đơn giản, chủ yếu bằng thủ pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa hệ thống, quy chỉnh.

Có vẻ như nhiều công cụ chặt đập thô đều chế tác từ đá vôi nên rất khó phân biệt với những mẩu đá vôi vỡ tự nhiên hoặc do những người đời sau làm vỡ để lại.

5. So các cư dân Hòa Bình, Bắc Sơn cùng thời thì cư dân Soi Nhụ có lẽ gần gũi biển nhiều hơn, trực tiếp hơn. Một số bằng chứng khai thác biển phát hiện tại các hang Soi Nhụ, Tiên Ông, Bồ Quốc.. nhưng niên đại của chúng cần nghiên cứu thêm.

6. Đối với hai nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn cùng thời, có lẽ Văn hóa Soi Nhụ có những mối liên quan, ảnh hưởng qua lại với Văn hóa Bắc Sơn nhiều hơn, thường xuyên hơn và thuận lợi hơn.

Điều đó phần nào thể hiện qua các rìu mài lưỡi dạng Bắc Sơn phát hiện tại hang Soi Nhụ và một số hang động khác ở Hoàng Bồ và trên đảo Cát Bà.

Các công cụ mài lưỡi gợi lại hình dáng rìu Bắc Sơn còn thấy phổ biến tại các địa điểm ngoài trời như Hòn Ngò, Núi Hứa..

Các giai đoạn phát triển Văn hóa Soi Nhụ

Một trong những khó khăn khi nghiên cứu Văn hóa Soi Nhụ là tới giờ chúng ta chưa có chứng cớ địa tầng chắc chắn nào để khẳng định các giai đoạn phát triển Văn hóa Soi Nhụ.

Một khó khăn khác là những bằng chứng về loại hình công cụ cũng không giúp được gì nhiều. Không chỉ có thế, gốm – ưu thế khác của các nhà khảo cổ - đối với Văn hóa Soi Nhụ lại càng nghèo nàn.

Trước thực tế như vậy, chỗ dựa đáng tin cậy cho chúng tôi hiện là phân tích các loại hình hang động mà người tiền sử cư trú kết hợp nghiên cứu, quan sát các thành phần cấu tạo, cách thức cấu tạo các trầm tích văn hóa.

Andersson cho rằng khu này có hai hệ thống hang động. Ông gọi chúng là các hang cổ và các hang mới.

Các hang cổ bao giờ cũng có độ cao lớn hơn và chúng thường có cấu trúc thành tạo theo phương thẳng đứng và phức tạp hơn.

Hang mới có độ cao nhỏ hơn, phần nào chịu chi phối của mực nước biển.

Nên chúng có xu hướng phát triển theo chiều ngang, thường có nền phẳng hơn, cấu trúc ít phức tạp hơn [Andersson 1939, pp. 88-91; Tony Waltham 1998, pp. 8-11] .

Ý khác nói quá trình hình thành hang động ở khu Hạ Long phổ biến trong khoảng Pleistocene giữa và muộn, từ 700.000 tới 11.000 năm cách ngày nay.

Đặc biệt là sau thời gian băng Holocene, thời tiết rất thuận lợi cho quá trình tạo thạch nhũ [Trần Đức Thạnh 1998, tr. 43-44] .

Các phân tích địa chất trên có thể thành những dẫn liệu đáng tin cậy để xét niên đại và các giai đoạn phát triển Văn hóa Soi Nhụ.

Chúng ta cần lưu ý thêm cái Andersson gọi hang mới, không nhất thiết chỉ thành tạo một lần mãi về sau này, gần lúc người Soi Nhụ tới đó sinh sống, có thể nó thành tạo trước đó khá lâu, nhưng bị giăm kết lấp đầy.

Sau đó nhờ rửa trôi của nước mưa hoặc nước biển, các hang này tái khơi thông.

Nhưng so các hang động có độ cao lớn hơn, các hang ở dưới thấp thường trẻ hơn.

Các lớp trầm tích và di vật người Soi Nhụ bỏ lại trong hang phần nào giúp sáng tỏ điều đó, chúng cho thấy các giai đoạn phát triển văn hóa này.

Giai đoạn I:

Những bằng chứng điển hình cho giai đoạn I thể hiện rõ tại các hang Thiên Long, Mê Cung, Hang Trống và hang Tra Giới.

Trước hết các hang này đều nằm ở độ cao khoảng 40 – 60m so với đáy vịnh dưới chân núi. Hơn nữa các hang này đều có cấu trúc rất phức tạp và đều phát triển theo phương thẳng đứng.

Trầm tích ở đây vừa là ốc suối, vừa là ốc núi với tỷ lệ tương đương nhau, hoặc tỷ lệ ốc núi trội hơn (trường hợp hang Thiên Long).

Một chi tiết đáng lưu ý là kích thước ốc suối, ốc núi đều nhỏ.

Chúng có vẻ sống trong môi trường ít thuận lợi, có thể do khan hiếm thức ăn, do khô hơn, ít mưa hơn.

Có thể chúng bị con người khai thác với cường độ mạnh, vì họ có ít các nguồn thức ăn khác. Nếu như vậy có thể thời kỳ này ứng với khí hậu phần nào còn khô lạnh băng hà khoảng 18.000 – 17.000 năm trước chăng?

Chi tiết khác rất quan trọng, hầu hết trầm tích ở các hang này đều kết tầng, xi măng hóa rất rắn chắc.

Chúng tôi gần như chưa gặp hiện tượng này trong các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, kể cả những di chỉ có niên đại sớm như hang Xóm Trại (xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình), hang Vũ Lễ (xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn).

Điều đó cho thấy các trầm tích này trải qua biến động khí hậu lớn.

Giai đoạn sau, nhờ khí hậu ấm áp hơn, mưa nhiều hơn, quá trình rửa trôi khiến nhũ đá sinh sôi mạnh, làm tăng cường xi măng hóa các trầm tích thuộc các hang động này.

Giai đoạn II:

Hệ quả giai đoạn I, mưa nhiều làm nước xối thông giăm kết ở các hang động có độ cao nhỏ hơn, hang trở nên thông thoáng, thuận lợi hơn cho người cư trú.

Khí hậu trở nên ấm áp làm muôn loài phát triển, thức ăn dồi dào, sông suối, đầm hồ luôn sẵn nước.

Nhờ vậy những con ốc Cyclophorus và Melania giai đoạn sau to hơn hẳn. Tiêu biểu giai đoạn này là các hang Soi Nhụ, Tiên Ông, Bồ Quốc.. đều nằm độ cao khoảng 3 – 5m so mực nước biển hiện tại.

Cùng ốc Melania kích thước lớn, tại các hang Tiên Ông và Bồ Quốc thấy rải rác những vỏ sò rất lớn mà nay dân chài không hề gặp.

Có lẽ cuối giai đoạn này người Soi Nhụ tăng khai thác biển, tạo lập nhiều hơn các mối liên hệ với bên ngoài, trước hết đó có thể là với cư dân Bắc Sơn.

Có thể do biển tiến cùng những biến đổi môi trường sống nên nguồn lợi biển ngày một dồi dào, khiến người Bắc Sơn mở rộng các mối quan hệ, và có thể chuyển cư bộ phận xuống khu đồng bằng ven biển.

Có thể thấy rõ những bằng chứng này qua rìu mài lưỡi Bắc Sơn điển hình trong Văn hóa Soi Nhụ. Ngược lại, thấy cả những ốc biển Cypraea tại nhiều địa điểm Văn hóa Bắc Sơn như Lạng Nắc, Mái Đá, Bình Gia. V. v..

Giai đoạn III:

Trên dưới 7000 năm trước, nước biển tiếp tục dâng, nên cuộc sống dân Soi Nhụ phần nào có những thay đổi và biến động.

Có thể những nhóm cư dân sống các hang động thấp dưới các chân núi đá thuộc khu Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long bây giờ buộc phải chuyển tới những khu cao hơn, an toàn hơn, thuộc các huyện miền núi phía Bắc Vịnh như Cẩm Phả, Uông Bí, Hoành Bồ và các vùng núi đá vôi cao hơn thuộc đảo Cát Bà.

Những hang động và mái đá như hang Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Dơi (Hoành Bồ) ; hang Áng Giữa, Eo Bùa, Tùng Bồ, v. V.. (đảo Cát Bà) ; hang Phương Nam (xã Phương Nam, Uông Bí), v. V.. thuộc giai đoạn này.

Ngoài ra, giai đoạn này, bên cạnh các quan hệ với cư dân Văn hóa Bắc Sơn, có lẽ người Soi Nhụ còn tăng hơn nữa các quan hệ các cư dân văn hóa phương Bắc tới, không loại trừ khả năng các khu lân cận cũng nằm trong ảnh hưởng nền văn hóa này.

Một số dấu ấn văn hóa các địa điểm khảo cổ học mới phát hiện tại Hòn Ngò, Núi Hứa, cả Giáp Khẩu được so sánh với các di tích cùng loại vùng ven biển Quảng Tây, Trung Quốc [Bùi Vinh – Trần Trọng Hà 1999; Hoàng Xuân Chinh 1999] .

III. Vị trí Văn hóa Soi Nhụ trong tiền sử Việt Nam và khu vực

1. Văn hóa Soi Nhụ là nguồn gốc trực tiếp của đường Cái Bèo – Hạ Long:

Lâu nay trong tiền sử Việt Nam, hai nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn được coi hai cội nguồn trực tiếp duy nhất của các văn hóa đá mới, cội nguồn trực tiếp cuộc cách mạng đá mới, cuộc cách mạng nông nghiệp trên đất nước ta.

Đó là con đường Văn hóa Đa Bút ở Thanh Hóa; con đường Văn hóa Quỳnh Văn ở Nghệ Tĩnh; con đường Văn hóa Bàu Dũ ở Quảng Nam – Đà Nẵng; và con đường Văn hóa Cái Bèo ở Hải Phòng – Quảng Ninh [Hà Văn Tấn 1990, tr. 152, 153] .

Có đề xuất xếp Giáp Khẩu ở Cửa Lục, Cái Bèo ở Cát Bà và Bầu Dũ ở Quảng Nam vào phức thể Hòa Bình – không phải Hòa Bình hang động hay Hòa Bình thung lũng, mà là Hòa Bình cồn bàu ven biển? [Trần Quốc Vượng 1991, tr. 51] .

Xác lập Văn hóa Soi Nhụ đồng thời với các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn bổ sung vào bức tranh tiền sử Việt Nam điểm nhấn, cơ sở mới để lý giải con đường phát triển:

Văn hóa Cái Bèo, tiếp đó là Văn hóa Hạ Long – con đường văn hóa biển cho khu vực Đông Bắc nước ta.

2. Con đường Soi Nhụ - Cái Bèo – Hạ Long tạo dựng một phương thức sống phức hợp theo định hướng khai thác biển trong tiền sử Việt Nam:

Nếu trước đây định hướng nông nghiệp là đường phát triển duy nhất sau Hòa Bình – Bắc Sơn và mọi tiền đề cho con đường đó được chuẩn bị ở hai nền văn hóa này, nay xác lập Văn hóa Soi Nhụ, còn thấy tất yếu khác.

Đó là mô hình phát triển phức hợp mà ở đó nông nghiệp là một trong các thành tố.

Người ta không thể phủ nhận vai trò kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là nền nông nghiệp làm vườn trong các Văn hóa Cái Bèo và Hạ Long, nhưng định hướng chính con đường Cái Bèo – Hạ Long là khai thác biển, đánh bắt hải sản lẫn trao đổi, thương mại và phát triển một số nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, đồ trang sức, đóng thuyền.

Bằng chứng còn lại là những búa đá to khỏe, không thấy ở đâu ngoài khu Văn hóa Hạ Long. Môi trường biển tạo cho hậu duệ Văn hóa Soi Nhụ phương thức phức hợp như vậy.

3. Văn hóa Soi Nhụ - cội nguồn và tổng hòa các yếu tố văn hóa biển khu vực:

Không phải ngẫu nhiên sau khi phát hiện một số di chỉ đầu tiên Văn hóa Soi Nhụ hay hậu duệ của nó như hang Đồng Cẩu, địa điểm Giáp Khẩu mà M. Colani liên hệ ngay với các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn.

Sau này với các nhà khảo cổ học Việt, phát hiện các hiện vật đá tại hang Eo Bùa, Soi Nhụ người ta lập tức liên hệ chúng với các yếu tố Hòa Bình – Bắc Sơn. Nhưng Soi Nhụ không chỉ có các yếu tố đó, đó chưa phải đặc trưng bộ công cụ văn hóa này.

Tại đây thấy các công cụ bằng đá vôi, các công cụ cuội không định hình, không mang đặc trưng Sumatralith. Hơn nữa so các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, tại các điểm Soi Nhụ rất hiếm công cụ đá, tích tụ tầng văn hóa bằng vỏ nhuyễn thể rất dày, gồm cả ốc suối, ốc núi, sau này là nhuyễn thể biển.

Tổng thể, không thể xếp nó vào Hòa Bình hay Bắc Sơn, nó là nền văn hóa độc lập, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với các nền văn hóa khu vực rồi tạo truyền thống riêng, truyền thống văn hóa biển trong tiền sử Việt Nam.

Văn hóa Soi Nhụ là một trong những cội nguồn sâu xa nhất góp phần tạo thế giới văn hóa – ngôn ngữ Austronesian Đông Nam Á và xa hơn nữa.

* Ghi chú: Bài tham gia Hội thảo Vịnh Hạ Long – 5 năm Di sản Thế giới, do UBND tỉnh Quảng Ninh – Bộ VHTT và Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức tại Hạ Long 4-2000.

Tài liệu tham khảo

Andersson J. G. 1939. Archaeological Research in the Fai Tsi Long Archipelago, Stockholm - Bulletin No. 11, Stockholm 1939.

Bùi Vinh – Trần Trọng Hà 1999. Hòn Ngò (Quảng Ninh), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Đỗ Văn Ninh 1968. Khai quật hang Soi Nhụ, Quảng Ninh, trong Nghiên cứu Lịch sử, số 117 – 12 – 1968.

Hà Hữu Nga 1997. Có một nền Văn hóa Soi Nhụ tại khu vực Vịnh Hạ Long, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 1997, Hà Nội 1998.

Ha Huu Nga 1998. Relationships between the Soi Nhu and Ha Long cultures. Paper presented in the 16th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Melaka, Malaysia 1 – 7th, July 1998.

Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo 1998. Hạ Long thời tiền sử, Nxb. Thế giới – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.

Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1990. Thời Tiền sử và Sơ sử, Lịch sử Thanh Hóa. Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội.

Hoàng Xuân Chinh 1999. Công cụ cuội ghè đẽo vùng duyên hải và hải đảo Đông Bắc, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Jaap Vermeulen and Tony Whitten 1999. Biodiversity and Cultural Property in the Management of Limestone Resources – Lessons from East Asia, The World Bank, Washington D. C.

Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần.. 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, trong khảo cổ học, số 2 – 1985.

Nguyễn Văn Hảo 1984. Niên đại của những di vật tìm được ở hang Soi Nhụ năm 1967, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 1984, Hà Nội 1985.

Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Khắc Sử 1976. Tìm kiếm di tích khảo cổ ven biển Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Bình, trong khảo cổ học, số 17 – 1976.

Tony Whitten 1998. Limestone Karst of Ha Long Bay, Vietnam. Nottingham Trent University, UK.

Trần Đức Thạnh 1998. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, Nxb. Thế giới – ban quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.

Trần Quốc Vượng 1991. Vị thế lịch sử và bản sắc địa-văn hóa của Hội An, trong đô thị cổ Hội An, Nxb. KHXH, Hà Nội.

Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 1999. Phát hiện mới một số di chỉ hang động trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Nguồn: Tieng vong kittigaga blog

Nguồn vanhoanghean

Hang Soi Nhụ - Di chỉ khảo cổ về người Việt cổ

Hang Soi Nhụ, tức hang Miếu, cách áng Trà Thần khoảng 6km đường biển về phía Tây Nam, cách cảng Cái Rồng khoảng 8km.

Đây là điểm dừng chân để du khách tìm hiểu một trong những nơi phát tích nền văn hóa người Việt thời tiền sử, minh chứng cho lịch sử phát triển rất lâu đời vùng đất này.

Hang Soi Nhụ khảo sát từ 1964 và khai quật năm 1967. Hang phân thành 3 ngăn:

Ngăn dưới, ngăn giữa và ngăn trên.

Hang trên có kích thước nhỏ, nền cao 12m so mực nước biển, nền hang toàn cát, phân dơi và xương cá do chim ăn để lại. Từ nền tới trần cao 3, 4m, rộng 3, 5m, sâu 3, 7m.

Hang giữa là đối tượng chủ yếu khai quật năm 1967. Hang này có chiều cao từ nền tới trần 1, 7m, nền hang nơi sâu nhất 3, 4m, rộng nhất 3, 6m.

Những di vật tìm thấy ở hang Soi Nhụ:

10 chiếc đồ đá gồm 2 công cụ đá ghè đẽo, 3 rìu đá mài, 2 hòn cuội tự nhiên, 2 mảnh bàn mai, 1 chày đá. Đồ gốm hang Soi Nhụ đều là những mảnh vỡ vụn, 2 mảnh tương đối lớn của nồi thấy trong tầng vỏ ốc sát vách hang dưới.

Căn cứ vào các mảnh miệng, hoa văn, và màu sắc, nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh phán đoán tổng số hiện vật gốm ở đây có 4 chiếc khác nhau, trang trí bằng văn đắp thêm hình làn sóng, "văn chải", văn "nan rá."

Hang dưới có nền hang cao khoảng 1m so mực nước thủy triều cao nhất. Hang rộng 12m, cao 9m, sâu 21m. Tầng văn hóa bao gồm các vỏ ốc biển gắn kết đất cát rất rắn, dày 1, 5m.

Tầng văn hóa có 1 xương chi bò, 400 đốt xương sống cá và các loại vỏ ốc tích tụ thành tầng dày 1, 5m phía vách hang dưới. Chứng tỏ các chủ nhân sống ở đây khá lâu, sống chủ yếu bắt sò ốc, hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây.

Theo nhà khảo cổ học Nguyễn Văn Hảo, di tích Soi Nhụ gồm hai nền văn hóa thuộc hai thời hoàn toàn khác nhau.

Hang giữa chứa trầm tích Pleistocene, đặc biệt các công cụ đá chế tác trình độ thấp, chủ yếu vẫn lợi dụng các mảnh tước cuội, ghè sơ qua một mặt để dùng và các tích tụ nhuyễn thể nước ngọt.

Niên đại 4 mẫu vỏ nhuyễn thể nước ngọt lấy từ ngăn giữa dao động 12.500 đến 15.650 năm cách ngày nay, thuộc sơ kỳ đá mới. Chứng tỏ thời gian ấy khu Bái Tử Long, Hạ Long vẫn là đất liền, đường bờ biển cổ lúc đó ở rất xa bên ngoài vùng này.

Theo Nguyễn Văn Hảo, nồi tìm thấy trong tầng ốc biển ở vách hang dưới có hình dáng, chất liệu và trang trí bằng văn thừng mang đặc trưng gốm Văn hóa Hạ Long - thuộc hậu kỳ đá mới cách nay 4000-5000 năm.

Vịnh Bái Tử Long chắc chắn còn rất nhiều hang động chưa phát hiện và khám phá. Hy vọng những khai quật tiếp theo phát hiện thêm nhiều di chỉ khảo cổ để minh chứng Văn hóa Soi Nhụ và nguồn gốc Văn hóa Hạ Long.

Nguồn minhquan. Blogspot

Bái Tử Long - miền trầm tích lịch sử, văn hóa

Giống khu Vịnh Hạ Long và Cát Bà, Bái Tử Long là nơi người Việt cổ cư trú từ lâu đời. Từ phát hiện đầu tiên của nữ khảo cổ học người Pháp M. Colani về dấu tích người tiền sử trên đảo Danh Do La (Ngọc Vừng) công bố 1938, đến nay khá nhiều địa điểm tương tự phát hiện, khai quật, làm rõ hơn lịch sử cư trú người Việt cổ trên vịnh Bái Tử Long nói riêng, Quảng Ninh nói chung..

1938, sau khi phát hiện các công cụ đá, đồ gốm trên đảo Danh Do La và hang Hà Giắt (thuộc xã Hạ Long, Vân Đồn) và vài địa điểm khác ven bờ Hòn Gai, Bãi Cháy.. bà Colani công bố và đưa khái niệm "Văn hóa Danh Do La" để chỉ về giai đoạn con người hậu kỳ đá mới cư trú tại Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long khoảng 7.000 - 4.500 năm cách ngày nay.

Khái niệm này là tiền đề để các nhà khảo cổ học Việt sau mở rộng nghiên cứu, phát triển phạm vi lên thành Văn hóa Hạ Long để khái quát hàng chục di chỉ cùng tính chất phân bố trên các đảo và ven bờ Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long từ Móng Cái về Vân Đồn, Hạ Long.

Tính đến nay, nhiều di tích về cư trú người Việt cổ trên vịnh Bái Tử Long được các nhà khảo cổ phát hiện, khai quật, quan tâm nhiều nhất là Soi Nhụ, Ba Vũng, Đông Trong.

Hang Soi Nhụ nằm cách cảng Cái Rồng chừng 8km, các nhà khảo cổ Việt khai quật 1967. Những di vật ở hang Soi Nhụ gồm 10 chiếc đồ đá gồm 2 công cụ đá ghè đẽo, 3 rìu đá mài, 2 hòn cuội tự nhiên, 2 mảnh bàn mai, 1 chày đá.

Đồ gốm hang Soi Nhụ đều là những mảnh vỡ vụn, có 2 mảnh tương đối lớn của 1 nồi. Theo các nhà khảo cổ, người Việt cổ sống tại hang Soi Nhụ khoảng 1 vạn năm trước. Họ sống bằng thu lượm nhuyễn thể biển, hái hoa quả, có thể săn bắn..

Cách hang Soi Nhụ khoảng 4km, di chỉ Ba Vũng là bãi cát nằm gần hang Hà Giắt không xa khai quật năm 2001, 2003, 2005 với tham gia các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

3 lần khai quật và các đợt khảo sát, các nhà khảo cổ thu trên 3.000 di vật bằng các chất liệu đá, gốm, hàng trăm nghìn mảnh gốm..

Căn cứ đặc điểm các di vật, các nhà khảo cổ đoán định Ba Vũng là "công xưởng" chế tác gốm, mũi khoan bằng đá thuộc giai đoạn muộn Văn hóa Hạ Long, qua giám định bằng phương pháp đồng vị phóng xạ cacbon (C14) cho niên đại từ 4.800 đến 3.900 năm trước.

Nếu hang Soi Nhụ và bãi cát Ba Vũng nằm trên biển hay cách xa khu dân cư nhưng phát hiện khá sớm thì di tích Đông Trong tuy nằm gần ngay cảng Cái Rồng nhưng phát hiện mới đây, rất tình cờ.

Đầu 2007, dự cuộc làm việc của UBND huyện Vân Đồn với các nhà doanh nghiệp tại trụ sở Xí nghiệp Hợp Lực Mai Quyền, tôi tác giả bài viết này, được ông Lưu Văn Tốt, thương binh đầu tư để kinh doanh du lịch tại động Đông Trong, kể quá trình thi công thuỷ cung, ông và những thợ phát hiện trong hang có những ống xương như xương người hóa thạch dính chặt nền hang.

Tò mò, tan cuộc họp, tôi theo ông Tốt chui vào hang. Vốn có chút kiến thức khảo cổ học, sau khi chắc chắn là di chỉ khảo cổ, tôi gọi điện cho PGS. TS Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học).

Mấy ngày sau, TS Chung và PGS. TS Hà Văn Phùng (Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam) đích thân xuống khảo sát. Đầu 2007, khai quật hang Đông Trong tổ chức và 2009, khai quật lần 2.

Phát hiện 7 mộ kèm di cốt người là mảnh sọ, xương chi, răng, có 2 mộ chôn trong vò gốm; phần lớn mộ chôn theo đồ tuỳ táng là rìu đá, đồ trang sức như vòng đá, hạt chuỗi làm từ vỏ nhuyễn thể.

Nhiều mảnh gốm; xương động vật, vỏ nhuyễn thể biển là tàn tích thức ăn người xưa để lại. Căn cứ đặc điểm di vật cho thấy hang Đông Trong vừa là nơi cư trú vừa là nơi mộ táng người Việt cổ thời Văn hóa Hạ Long.

Theo các nhà khảo cổ, các di chỉ Văn hóa Hạ Long trên vịnh Bái Tử Long có giá trị rất cao về văn hóa và lịch sử, đem cho các nhà khoa học những nhận thức mới trong nghiên cứu về văn hóa tiền sử vùng Đông Bắc Việt Nam, góp phần tôn vinh giá trị văn hóa lịch sử cho Di sản Thế giới Vịnh Hạ Long.

Đại Dương

Nguồn web qtv

Người Việt cổ khai thác biển thế nào?

Di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ, nơi phát hiện có dấu tích người Việt cổ.

Nền văn hóa cổ trên Vịnh Hạ Long

Văn hóa Soi Nhụ cách nay 18.000-7000 năm, cuối thời hậu kỳ đồ đá cũ và cổ nhất hiện biết trên Vịnh Hạ Long. Dựa các tài liệu khảo cổ học, dấu tích sớm nhất con người có mặt trong khu Vịnh Hạ Long thuộc chủ nhân Văn hóa Soi Nhụ.

Tên gọi Văn hóa Soi Nhụ theo tên địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc Bái Tử Long, nền văn hóa của người tiền sử được các nhà khảo cổ học Việt phát hiện 1964, khai quật 1967.

Theo TS Hà Hữu Nga, Viện Khảo cổ học, Văn hóa Soi Nhụ có niên đại tương đương các nền Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn. Có thể có nguồn gốc từ 25.000 năm trước, ngang Văn hóa Ngườm ở Thái Nguyên.

Khảo cổ học cho thấy cư dân Soi Nhụ cư trú chủ yếu trên các đảo đá vôi Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, gồm cả Cát Bà, Hải Phòng, các huyện Vân Đồn, Cẩm Phả, Hoành Bồ, khu Hòn Gai, Kinh Môn, Đông Triều thuộc Quảng Ninh và Hải Dương.

Săn bắt, hái lượm và khai thác nhuyễn thể nước ngọt với công cụ lao động bằng đá có hình dáng không ổn định, kỹ thuật chế tác đơn giản bằng phương pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ, rất ít tu sửa.

Căn cứ các di chỉ khai quật, Văn hóa Soi Nhụ chia 3 giai đoạn:

Giai đoạn sớm ở các hang Áng Mả (Cát Bà), Thiên Long, Mê Cung, Tra Giới và hang Trống trên Vịnh Hạ Long, niên đại khoảng từ 25.510 đến 17.000 năm.

Giai đoạn giữa gồm các hang Soi Nhụ trên Tiên Ông, Bồ Quốc trên Vịnh Hạ Long từ khoảng 16.000 đến 9.000 năm trước.

Giai đoạn muộn gồm các hang động và mái đá Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Dơi (huyện Hoành Bồ), Phương Nam (Uông Bí) từ 8000-6000 năm trước.

Theo TS Hà Hữu Nga, các nền Văn hóa Cái Béo, Hạ Long, hậu duệ của Văn hóa Soi Nhụ là tiền thân các nhóm văn hóa ngôn ngữ biển đầu tiên Việt Nam và Đông Nam Á, sau này được biết dưới tên gọi các nhóm văn hóa thuộc hệ ngữ Mã Lai-Đa Đảo.

Cách tiếp cận này phù hợp thực tế cách nay 5.000-6.000 năm, mực nước biển còn thấp, một trong những cái nôi văn hóa biển Đông Nam Á là Văn hóa Cái Bèo, phân bố rộng khắp khu Vịnh Hạ Long và kết nối hệ thống các đảo Đông Nam Á.

Đánh dấu phương thức khai thác biển

Vịnh Hạ Long, một trong những cái nôi của người Việt cổ với 3 nền văn hóa tiền sử kế tiếp nhau, cách nay 18.000 đến 3500 năm. Đó là Văn hóa Soi Nhụ, Văn hóa Cái Bèo, Văn hóa Hạ Long.

So Văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn cùng thời, người Soi Nhụ có mô hình văn hóa đa dạng hơn, phong phú hơn vì trong phương thức kiếm sống cư dân ở đây có thêm yếu tố biển.

Văn hóa Cái Bèo là gạch nối giữa Văn hóa Soi Nhụ với Văn hóa Hạ Long mà các di sản tiêu biểu là Cái Bèo, Hà Giát, Giáp Khẩu phân bố trên bờ vùng vịnh kín gió, tựa lưng vào núi, chủ yếu núi đá vôi.

Soi Nhụ là nền văn hóa hang động, cửa sông, thềm biển, tầng văn hóa cấu tạo chủ yếu vỏ ốc núi, ốc suối cùng một số nhuyễn thể nước ngọt khác.

Bên cạnh đó còn có một số di tích xương cốt động vật có vú. Tuy hiếm nhưng nó cho thấy xuất hiện các loài động vật thân mềm biển trong tích tụ Văn hóa Soi Nhụ.

Khác các Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, trong tích tụ tầng Văn hóa Soi Nhụ rất hiếm các loại cuội nguyên liệu, công cụ đá, mảnh tước và gốm. Một số dụng cụ tìm thấy đều không có hình dáng ổn định.

Kỹ thuật chế tác đơn giản, chủ yếu bằng thủ pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa hệ thống, quy chỉnh. Có vẻ nhiều công cụ chặt đập thô đều chế tác từ đá vôi nên rất khó phân biệt với những mẩu đá vôi vỡ tự nhiên hoặc do đời sau làm ra.

Nổi bật nhất là cư dân Văn hóa Soi Nhụ gần gũi biển nhiều hơn, trực tiếp hơn. Một số bằng chứng khai thác biển được phát hiện tại các hang Soi Nhụ, Tiên Ông, Bồ Quốc nhưng niên đại của chúng cần nghiên cứu thêm.

Các nhà khảo cổ đánh giá Văn hóa Soi Nhụ là nguồn gốc trực tiếp con đường Cái Bèo - Hạ Long:

Lâu nay trong tiền sử Việt Nam, hai nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn là hai cội nguồn trực tiếp duy nhất của các nền văn hóa đá mới, cuộc cách mạng nông nghiệp trên đất nước ta.

Đó là con đường Văn hóa Đa Bút ở Thanh Hóa; con đường Văn hóa Quỳnh Văn ở Nghệ Tĩnh; con đường Bàu Dũ ở Quảng Nam - Đà Nẵng và đường Cái Bèo ở Hải Phòng, Quảng Ninh.

Nhưng với xác lập Văn hóa Soi Nhụ bổ sung vào bức tranh tiền sử Việt Nam là điểm nhấn, cơ sở pháp lý để lý giải phát triển các con đường văn hóa khác.

Mặt khác, con đường Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long tạo dựng phương thức sống phức hợp theo định hướng khai thác biển trong tiền sử Việt Nam:

Nếu như trước đó định hướng nông nghiệp được coi con đường phát triển duy nhất thì với Văn hóa Soi Nhụ còn thấy mô hình phát triển phức hợp, nông nghiệp chỉ là một yếu tố.

Định hướng chính con đường Cái Bèo - Hạ Long là khai thác biển, trong đó có cả đánh bắt hải sản và trao đổi, thương mại và một số nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, đồ trang sức, đặc biệt đóng thuyền mà bằng chứng còn lại là những búa đá to khỏe, không thấy ở đâu khác ngoài khu vực Văn hóa Hạ Long. Chính môi trường biển tạo cho hậu duệ Văn hóa Soi Nhụ phương thức phức hợp như vậy.

Văn hóa Soi Nhụ là cội nguồn và tổng hòa các yếu tố văn hóa biển trong khu vực. Sau này khi các nhà khảo cổ Việt phát hiện các hiện vật bằng đá tại hang Eo Bùa, Soi Nhụ, người ta lập tức liên hệ chúng với các yếu tố Hòa Bình - Bắc Sơn.

Nhưng Soi Nhụ không chỉ có các yếu tố đó và chưa phải đặc trưng của bộ công cụ văn hóa này. Tại đây còn thấy các công cụ bằng đá vôi, các công cụ cuội không định hình.

So các nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, các điểm Soi Nhụ rất hiếm công cụ đá, tích tụ tầng văn hóa bằng vỏ nhuyễn thể rất dày, bao gồm ốc biển, ốc suối và nhuyễn thể biển.

Và nó tồn tại độc lập, có mối liên hệ các nền văn hóa khu vực, tạo truyền thống riêng, truyền thống văn hóa biển trong tiền sử Việt Nam.

Hải Lăng

Nguồn baophapluat

Còn tiếp
 
Chỉnh sửa cuối:
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70579812_1220060581527525_111963208926887936_n.jpg


Hòa Bình là một trong những nơi mà các nhà khảo cổ học chứng minh có người Việt cổ sinh sống cách đây hàng vạn năm.

Văn hóa Hòa Bình được khảo cổ học chính thức công nhận từ:

30-1-1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua.

Khởi thủy, cụm từ này dùng để nói đến nền văn hóa cuội ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội[1] để tạo những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới.

Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này được đề nghị mang những tên khác và có những ý nghĩa khác nhau.

Thời gian gần đây, hoạt động các nhà khảo cổ suốt từ 1975 lại đây cho thấy hướng mới về quan niệm khác về thời đại cũng như không gian Văn hóa Hòa Bình.

Cơ sở tổng quát

Văn hóa Hòa Bình[2] thuộc thời đồ đá cũ sang thời đồ đá mới (cách nay 15.000 năm kéo dài đến 2.000 năm TCN), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ 3 sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.

Dựa các di chỉ tìm thấy và niên đại chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành 3 thời kỳ nối tiếp nhau: [3]

Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khương (32.100 ± 150 TCN), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngườm (23.100 ± 300 TCN).

Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).

Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).

Lịch sử khám phá

1923, bà Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ đá trong hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình.

Mấy năm liền sau đó, bà liên tục khám phá thêm 12 hang động trong vùng Hòa Bình, khai quật được một số lượng di vật hiếm thấy.

Sau khi phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá tìm thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề nghị xem toàn thể những di vật đặc biệt bằng đá cuội, đặc điểm là chỉ được đẽo ở lưỡi hay rìa là của cùng một nền văn hóa, Văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien[4]

Từ khi phát hiện các dụng cụ đá và bằng xương tại di chỉ thuộc tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện rất nhiều địa điểm khắp các nước trong vùng như:

Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra.. cũng có những di tích có các công cụ cùng một kỹ thuật chế tác.

Tìm thấy các dụng cụ đá cùng một văn hóa sinh sống ở những nơi xa hơn như Nhật Bản, Đài Loan, Australia..

Tại hội nghị "60 năm sau Hoabinhian" tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình được xem như khái niệm để chỉ nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc.

Các di vật Văn hóa Hòa Bình

Việt Nam có trên 130 điểm thuộc Văn hóa Hòa Bình, trên một nửa do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện từ 1966-1980.

Riêng tỉnh Hòa Bình có 72 di chỉ phát hiện và nghiên cứu[5] . Nơi đây từng tìm thấy 47 trống đồng cổ, trong đó có trống đồng sông Đà và trống đồng Miếu Môn thuộc loại đẹp và cổ.

Thời đầu TK. 20, các nhà khảo cổ học thực sự chưa khám phá đủ số lượng cần thiết và nhiều điểm chưa khám phá, dựa các dụng cụ thô sơ chỉ đẽo một mặt nên việc đánh giá các di vật này chưa chính xác với tầm quan trọng của Văn hóa Hòa Bình.

Nhưng đến thập niên 1960, các khám phá khảo cổ gây chú ý cho các nhà khảo cổ học tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, các đảo Nam Thái Bình Dương khiến các nhà tiền sử học đặt lại vấn đề người tiền sử tại Đông Nam Á.

Trước hết, nhà khảo cổ người Úc là Gorman tìm thấy tại hang Ma (Spirit Cave) ở Thái Lan những dấu hiệu cho thấy người thuộc Văn hóa Hòa Bình bắt đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, từ cỡ hơn 11.000 năm trước.

Những năm gần đây, các nhà khảo cổ có những khám phá mang tính đột phá khi quan niệm mới về tiện dụng trong Đông Nam Á nhiệt đới cổ xưa không cần hoàn toàn dựa các công cụ sinh hoạt và kiếm ăn bằng đá cuội, khi quan sát các bộ lạc còn sót và bị biệt lập tại các đảo trong quần đảo Indonesia và tập quán dùng:

Đồ tre, nứa, và các loại mũi tên tẩm độc để săn bắn các con thú lớn, cũng như tập tục ăn sò, ốc biển, ốc nước ngọt, các loại cá sẵn có trong các làn nước ấm[6] .

Luận điểm so sánh với các dụng cụ khác ở phương Tây đang được nhiều nhà khoa học xem xét lại.

Các di vật chính của Văn hóa Hòa Bình chính (niên đại sớm 12.000 năm trước) tại tỉnh Hòa Bình và các tỉnh từ Quảng Bình đến Thái Nguyên là các dụng cụ đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi.

Các mảnh gốm không có hình thù do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của cư dân Văn hóa Hòa Bình[7] đến nay tìm thấy.

Các dụng cụ đào bới có cán tra, các vòng trang sức bằng vỏ ốc. Thời này các nhà khảo cổ học thấy di cốt người ở vài địa điểm.

Di chỉ muộn Văn hóa Hòa Bình tìm thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000 năm TCN, thuộc Lạng Sơn). Các dụng cụ đá ở đây có trình độ chế tác cao hơn nhiều, lưỡi đá mài sắc, khảo cổ học gọi "rìu Bắc Sơn."

Đồ gốm có tiến bộ, kỹ thuật làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, cuộn tròn từ đáy lên miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi.

Các di tích Văn hóa Hòa Bình thường phân bố thành từng cụm trong các thung lũng hẹp, mỗi cụm có từ 5 đến 7 di tích và có diện tích từ 50m đến 150m, độ cao trung bình so mặt ruộng từ 10m đến 20m. Huyện Tân Lạc có cụm:

Hang Muối, Mái đá Triềng Xến I, Mái đá Triềng Xến II, Hang Triềng Xến II; Huyện Lương Sơn có cụm:

Hang Tằm, Hang Rổng Tằm, Hang Trâu, Hang Chổ.

Huyện Lạc Sơn có cụm:

Hang Xóm Trại, Mái đá Làng Vành, Hang Dúng..

Các di vật chính thời Văn hóa Hòa Bình tại tỉnh Hòa Bình là các dụng cụ bằng đá cuội ghè đẽo tương đối thô sơ một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi.

Đến thời cuối Văn hóa Hòa Bình, các hiện vật sử dụng đến kỹ thuật mài:

Mài lưỡi, mài một mặt, mài toàn thân. Cuội nhặt từ sông suối mang về hang để chế tác công cụ.

Các nhà khảo cổ thử nghiệm đẽo cuội nhằm tìm hiểu kỹ thuật người xưa. Kỹ thuật đẽo đá kết hợp tổng hòa của các thủ pháp chẻ, bổ, đập, bẻ, ghè - đẽo, mài - cưa.

Về loại hình, cư dân Văn hóa Hòa Bình tạo nhiều loại công cụ rất phong phú đa dạng như công cụ hình đĩa, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ hình hạnh nhân, nạo lưỡi dài, nạo lưỡi ngắn, rìu dài, rìu ngắn, bôn, rìu mài lưỡi..

Ngoài công cụ đá, người Hòa Bình biết chế tác và dùng một số công cụ bằng xương, sừng và vỏ trai:

Rìu xương, đục xương, mũi nhọn và nạo vỏ trai.

Đặc điểm dễ biết nhất của các di tích Văn hóa Hòa Bình là vết tích vỏ ốc suối trong hang. Đây là thức ăn chủ yếu thời Văn hóa Hòa Bình.

Vỏ ốc cùng các dấu tích vật chất khi người tiền sử Văn hóa Hòa Bình sống trong hang để lại trên nền hang tạo tầng văn hóa trong hang.

Thành phần cấu tạo chủ yếu tầng văn hóa:

Đất sét vôi xen các vỏ nhuyễn thể chủ yếu là ốc suối và ốc núi, xương cốt động vật, vỏ và hạt một số loài thảo mộc, dấu tích than tro, di cốt người và mộ táng, công cụ chủ yếu là công cụ đá, các phế liệu chế tác và mảnh gốm.

Tuỳ thuộc thời gian cư trú mà tầng văn hóa có độ dày mỏng khác nhau. Tầng văn hóa ở các hang có độ dày mỏng khác nhau trung bình từ 0, 5m đến 4m.

Tiêu biểu có di tích Hang Xóm Trại ở huyện Lạc Sơn tầng văn hóa dày tới hơn 4m. Đây là minh chứng cho thấy thời gian người tiền sử Văn hóa Hòa Bình cư trú sinh sống trong hang rất dài.

Cư dân Văn hóa Hòa Bình thường chôn người chết ngay trong nơi cư trú. Mộ có thể đặt ngay trong góc hang hoặc gần bếp lửa.

Điều này phản ánh tâm lý người nguyên thuỷ muốn người chết ở gần mình hơn, nghỉ ngơi ở chỗ sinh hoạt thường ngày để tạo đầm ấm, tránh thú dữ ăn thịt.

Hầu hết thi hài người chết được rắc thổ hoàng sau khi chôn và chủ yếu được chôn theo tư thế nằm co bó gối. Đáy mộ có lót than tro, thổ hoàng, đá răm.

Đa số quanh mộ ghè đá làm hộp mộ và người chết thường chôn theo những công cụ bằng đá, đồ trang sức. Tại di tích Mái Đá Đú Sáng, xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi; di tích Hang Xóm Trại xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn và di tích Hang Chổ, xã Cao Răm, huyện Lương Sơn.. dấu tích mộ gần bếp lửa tìm thấy rất rõ.

Các di tích Văn hóa Hòa Bình tại tỉnh Hòa Bình, Hang Xóm Trại là di tích quan trọng bậc nhất, không chỉ trong Hòa Bình mà còn với cả Việt Nam và ĐNA.

8 lần điều tra, thám sát và khai quật phát hiện khối tư liệu khổng lồ bao gồm vỏ nhuyễn thể, xương răng thú, di cốt người, gốm và đặt biệt là di vật đá lên đến hàng nghìn hiện vật.

Cân đối về hình thái, có mặt và kết hợp các hình thức kỹ thuật chế tác công cụ tinh xảo khiến nhiều học giả trong và ngoài nước ngày càng quan tâm Hang Xóm Trại và đánh giá sưu tập đá nơi đây là tiêu biểu cho Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam và ĐNA.

Các di tích Văn hóa Hòa Bình nhiều lớp phức tạp, các lớp đó ít nhiều phản ánh tính chất, giai đoạn hoặc mức độ sớm muộn Văn hóa Hòa Bình.

Từ 1991 trở về trước, cả tỉnh Hòa Bình chỉ có di tích khảo cổ Văn hóa Hòa Bình xếp hạng quốc gia là di tích Động Tiên, xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy do Bảo tàng Hà Sơn Bình lập hồ sơ xếp hạng 1989.

Sau khi tái lập tỉnh Hòa Bình, 1995 Bảo tàng tỉnh Hòa Bình tổng kiểm kê di tích toàn tỉnh. Quá trình kiểm kê phát hiện thay đổi trong số lượng các địa điểm Văn hóa Hòa Bình.

Một số di tích mất, không tìm thấy, một số di tích trong vùng đất quốc phòng. Thêm một số di tích mới phát hiện. Nay tổng số điểm di tích Văn hóa Hòa Bình là 76. Trong đó:

- Số di tích đã mất, không tìm thấy: 20 địa điểm

- Số di tích nằm trong vùng đất quốc phòng do quân đội quản lý: 21 địa điểm

- Số di tích hiện còn để bảo tồn và phát huy tác dụng: 35 địa điểm

- Số di tích xếp hạng cấp quốc gia: 10 địa điểm

Lý giải số các điểm di tích Văn hóa Hòa Bình bị mất có thể do vô tình bị dân cải tạo làm nhà, làm các công trình xây dựng, làm ruộng vườn canh tác, hoặc một số di tích bị mất tên (xưa gọi tên khác, nay điều tra, mọi người không ai nhớ tên đó nữa).

76 địa điểm Văn hóa Hòa Bình được phân bố như sau:

1. Kim Bôi: 20 di tích

2. Lương Sơn: 14 di tích

3. Tân Lạc: 10 di tích

4. Lạc Thủy: 9 di tích

5. Lạc Sơn: 7 di tích

6. Yên Thủy: 6 di tích

7. Đà Bắc: 4 di tích

8. Mai Châu: 4 di tích

9. Kỳ Sơn: 2 di tích

Văn hóa Hòa Bình rất tiêu biểu và có vị trí quan trọng thời đồ đá ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Ý nghĩa và tầm quan trọng xuất hiện Văn hóa Hòa Bình tại tỉnh Hòa Bình là minh chứng khẳng định Hòa Bình là một trong những chiếc nôi loài người.

Văn hóa hòa Bình tại tỉnh Hòa Bình cung cấp cho các nhà khảo cổ, các nhà khoa học, các nhà nhân chủng học.. trong nước và quốc tế những cứ liệu khoa học quá trình chuyển hóa từ người vượn tiền sử tiến lên người hiện đại, về phương thức kiếm sống, canh tác, về tổ chức xã hội.

Các di tích Văn hóa Hòa Bình là tài sản vô cùng quý báu; đóng góp cho nền khoa học nước nhà cũng như nền khoa học thế giới tư liệu cực kỳ quý.

Qua các kết quả từ thám sát, khảo sát, khai quật các điểm Văn hóa Hòa Bình tại tỉnh Hòa Bình, các nhà khoa học có thêm những lượng thông tin cần thiết để tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu nền Văn hóa Hòa Bình và nghiên cứu tìm hiểu quá khứ ở Việt Nam và ĐNA.

Tìm hiểu văn hóa hiện đại khu vực này, trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa con người với thiên nhiên.

Đánh giá

Các bằng chứng ngày càng nhiều về nền văn minh Đông Nam Á làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20.

Người tiên phong trong đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư Đại học Hawaii.

Năm 1967, Solheim II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về ra đời sớm của trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau..

Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương là cái nôi văn minh Nam Á - Nam Đảo.

Và mới đây, Stephen Oppenheimer[8] còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết văn minh Đông Nam Á là cội nguồn văn minh phương Tây, khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đến vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy[9]

Những đánh giá này chưa cập nhật những thành tựu mới từ cuối TK. 20 đến nay, trong đó có nghiên cứu sinh học phân tử cho bằng chứng mới xác định loài người hình thành từ Châu Phi và phát tán khắp thế giới (Out-of-Africa).

Tham khảo

1. Đặc trưng chính Văn hóa Hòa Bình khi phân biệt với các cư dân đồ đá dùng đá lửa, dễ ghè đẽo và dễ tạo hơn.

2. Các nhà khảo cổ học gần đây xem Văn hóa Hòa Bình như thuật ngữ chỉ văn hóa chung có cùng nguồn gốc, nhưng không khẳng định địa điểm.

3. Đông Nam Á và tiền sử học thế giới, Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970.

4. Tiếng Anh là Hoabinhian.

5. "Văn hóa Hòa Bình" : Nền văn hóa tiền sử độc đáo

6. Các di vật khai quật gần đây cho thấy người tiền sử Văn hóa Hòa Bình sử dụng lượng lớn sò, ốc, động vật..

7. Cung Đình Thanh, Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử, Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001.

8. Oppenheimer tốt nghiệp bác sĩ Đại học Oxford bên Anh năm 1971, một người đưa ra luận điểm về bệnh học theo vùng miền, rất yêu khảo cổ học.

9. Stephen Oppenheimer, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999.

Xem thêm

Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng, Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam. 1961

Tạp chí khảo cổ học Việt Nam, NXB. KHXH, Hà Nội. (1974-2006)

·

Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chung, Văn hóa Sơn Vi, NXB, KHXH, Hà Nội, 1999.

Hà Văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ, NXB. KHXH, Hà Nội, 1998

Oppenheimer S, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999

Nguồn

Wikipedia

Sovanhoahoabinh

Hòa Bình – nền văn hóa tiêu biểu thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá mới

Mái đá làng Vành xã Yên Phú (Lạc Sơn), Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia thuộc nền Văn hóa Hòa Bình.

Nền "Văn hóa Hòa Bình" là tên gọi nền văn hóa thời tiền sử – nền văn hóa đặc trưng cho các nước Đông Nam Á lục địa và phía Nam Trung Quốc, tỉnh Hòa Bình là địa điểm đầu tiên được phát hiện.

Từ khai quật các điểm di tích hang động tại vùng đá vôi Hòa Bình, năm 1927, nhà khảo cổ Pháp Madelene Colani đề xuất khái niệm "Văn hóa Hòa Bình."

1932, Hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội thừa nhận thuật ngữ "Văn hóa Hòa Bình" để chỉ nền văn hóa cổ đại xuất hiện và tồn tại trên địa phận nước Việt tiền sử.

Cách đây vài ba vạn năm; khẳng định Hòa Bình là một trong những trung tâm của người nguyên thủy ở Việt Nam.

"Văn hóa Hòa Bình" có phạm vi phân bố rất rộng trên địa bàn Hà Nội, Hòa Bình, Thanh Hóa, Lai Châu, Sơn La, Thái Nguyên, Hà Nam, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh; từ Nam Trung Quốc đến Đông Sumatra (Indonesia) và hầu khắp các nước Đông Nam Á lục địa. Ở Việt Nam, "Văn hóa Hòa Bình" tập trung đậm đặc nhất ở tỉnh Hòa Bình và tỉnh Thanh Hóa.

Do độ đậm đặc di chỉ tầng văn hóa này ở tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ học lấy tên tỉnh đặt cho nền văn hóa ấy. Niên đại "Văn hóa Hòa Bình" khoảng 18.000 năm kéo dài đến 7.500 năm trước, thuộc thời đồ đá cũ.

Theo M. Colani, cư dân Văn hóa Hòa Bình sống thành từng bầy đàn trong hang động. Họ săn bắn, hái lượm kiếm sống là chủ yếu.

Con người thời đó biết dùng công cụ cuội với kỹ thuật chế tác ghè, đẽo tạo các loại công cụ có hình hạnh nhân, hình đĩa, sau là công cụ hình rìu ngắn.

Theo các nhà khảo cổ, đến nay, chúng ta phát hiện 72 di tích thuộc Văn hóa Hòa Bình, chủ yếu nằm trong các hang động và mái đá. Tiêu biểu như các di tích:

Động Can, Hang Xóm Trại, Mái Đá Làng Vành, Mái Đá Tôm, Mái Đá Chiềng Khến, Hang Làng Đồi, Hang Muối.. là nơi cư trú của người nguyên thủy thời gian dài. Hay như tại di tích hang Khoài - niên đại kỹ nghệ cuội Việt Nam, nơi cư trú của người nguyên thủy cách đây 17.000 năm đến 11.000 năm.

Những di vật thường gặp trong Văn hóa Hòa Bình là bếp, mộ táng, tàn tích sau bữa ăn, công cụ lao động và các chế tác khác của người nguyên thủy.

Những vết tích vỏ trai, ốc, xương răng động vật và vỏ hạt một số loài thảo mộc còn giữ lại trong tầng Văn hóa Hòa Bình. Đến nay tìm được trên 130 điểm Văn hóa Hòa Bình và thu khối lượng lớn di vật, xương động vật và di cốt người.

30.120 di vật thống kê ở 65 địa điểm Văn hóa Hòa Bình đã khai quật, đồ đá chiếm gần 28.000 tiêu bản, đồ xương, sừng, nhuyễn thể có 250 tiêu bản..

Có thể thấy đồ đá chiếm ưu thế nổi bật trong Văn hóa Hòa Bình. Kỹ thuật chế tác đá trong Văn hóa Hòa Bình được các nhà nghiên cứu Hòa Bình gọi "kỹ thuật Hòa Bình."

Hiện diện nền Văn hóa Hòa Bình không chỉ là minh chứng khẳng định Việt Nam là địa điểm nằm trong khu vực xác định là chiếc nôi loài người mà còn cung cấp cho các nhà khảo cổ, các nhà khoa học, các nhà nhân chủng học.. trong nước và quốc tế những cứ liệu khoa học về quá trình chuyển hóa từ người vượn tiền sử tiến lên người hiện đại, phương thức kiếm sống và canh tác, về tổ chức xã hội.

Những di vật tại các di chỉ khảo cổ thời gian qua phần nào vén bức màn thời gian tìm hiểu sự sống và những nét căn bản phát triển xã hội Tổ tiên tiền sử người Việt tồn tại và lưu giữ nền văn hóa nguyên thủy:

Văn hóa Hòa Bình.

Các di vật tiêu biểu tìm thấy trên Hòa Bình phản ánh đời sống xã hội và các phương thức sinh sống của người tiền sử Hòa Bình:

Con người Hòa Bình thời đá mới cư trú chủ yếu hang động, các thung lũng nhỏ, gần như khép kín. Lịch sử lâu đời Hòa Bình để lại dấu ấn trong dãy núi đá vôi trùng điệp chạy dài từ Tây Bắc qua các huyện trong tỉnh đến các huyện ven đồng bằng.

Bề dày lịch sử của Hòa Bình nằm trong các hang động đá vôi và mái đá có di tích cư trú và sinh sống của người nguyên thủy như các hang:

Muối (Tân Lạc), Sào Đông (Kim Bôi), Tằm (Lương Sơn), Mái Đá Làng Vành (Lạc Sơn), Đồng Nội, Hào (Lạc Thủy)..

Kỹ thuật chế tác công cụ phát triển của người Việt cổ ở nền Văn hóa Hòa Bình còn được chứng minh qua phát hiện tại di chỉ Lạc Thủy.

Từ lâu đời đây là một trong những địa điểm quần cư của con người.

Nhiều hiện vật như trống đồng được tìm thấy ở đây thuộc thời đại kim khí, cách nay 4.000 năm.

Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy ở Lạc Thủy nhiều công cụ bằng đá, hình khắc trên các vách đá - người Hòa Bình tiền sử chưa có chữ viết nhưng họ có một loạt ký hiệu và hình vẽ trên đá để ghi lại những ký ức, miêu tả hiện thực, thế giới xung quanh..

Đáng chú ý tại di tích Hang Chùa, còn có tên "Văn Quan Động" khắc trên vách đá, dưới khắc thơ, bài văn TK. 18-19.

Từ các di chỉ được phát hiện, các nhà khảo cổ học chứng minh người Hòa Bình thời tiền sử không giam mình trong vùng núi sâu mà bắt đầu tiến ra dọc theo những thung lũng, sông, suối, hướng tới vùng đồng bằng thấp, những di vật như vỏ ốc biển trong hang, mộ phần nào nói lên điều này. Đó là một trong những đặc trưng về loại hình di tích Văn hóa Hòa Bình.

Từ các hiện vật tìm được cho thấy người Việt cổ cư ngụ tại đây đã bắt ốc núi, ốc suối về ăn rồi vứt vỏ tạo thành lớp trầm tích dày trong các hang.

Ngoài ra, người ta còn tìm thấy chày nghiền, mảnh tước bằng mai rùa và một số công cụ khác. Nó chứng minh Văn hóa Lạc Thủy kế thừa di sản Văn hóa Sơn Vi.

Đặc biệt các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu tích ban đầu của nền nông nghiệp sơ kỳ người nguyên thủy sinh sống ở Lạc Thủy như ở Hang Mái Đá (xã Phú Lão), Hang Thẻ Bạc (xã Khoan Dụ).

Trong sinh hoạt kinh tế của cư dân Hòa Bình, tuy săn bắn, hái lượm không giữ vị trí độc tôn, song vẫn là ngành kinh tế chủ đạo và trồng trọt mới nảy sinh.

Ốc núi, ốc suối, trai, trùng trục.. là các loại thức ăn tự nhiên, thường xuyên của cư dân Hòa Bình thời đó. Loại thức ăn này khai thác từ các suối và dãy núi đá vôi là chủ yếu.

Cư dân thời đó còn săn bắt thú rừng. Nhiều di cốt động vật hóa thạch thấy ở Hang Xóm Trại, động Can, Mái Đá Đa Phúc.. là minh chứng khoa học.

Về cách thức săn bắt thú rừng, cư dân nơi đây biết dùng các dụng cụ chủ yếu bằng tre, gỗ, xương.

Môi trường sống đa dạng và phức tạp ấy, cư dân biết khai thác thức ăn từ nguồn thực vật. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa thuộc các hang động cho thấy có 22 loài bào tử, trên 40 loài phấn hoa.

Hệ thống hang động phong phú ở Hòa Bình từng là nơi sinh sống của người Hòa Bình thời tiền sử.

Cư dân cổ ở Hòa Bình hiểu biết về môi trường tự nhiên và lựa chọn nơi cư trú thích hợp, đồng thời có thể triển khai hiệu quả hoạt động săn bắn, hái lượm.

72 di chỉ hang động, 60% di chỉ nằm ở độ cao từ 10 đến 20m so mặt bằng thung lũng, gần sông suối.

Nơi sinh hoạt là phần thoáng đãng nhất gần cửa hang. Các hang này phân bố thành từng cụm từ 3, 4 đến 10 hang vây quanh 1 thung lũng, có sông suối uốn lượn qua lòng thung lũng.

Như cụm 5 di tích Hang Làng Gạo, Hang Đồng Giẽ, Mái Đá Đồng Giẽ, Làng Vôi, Làng Đồi. Về hướng hang, phần lớn có cửa hướng Đông Nam hoặc Tây Bắc:

Tránh được gió mùa Đông Bắc về mùa lạnh, nhận tối đa nhiệt và ánh sáng từ các mùa trong năm.. Chỉ có một số nhỏ cư dân sống ở ngoài trời, bên các thềm sông.

Ở mỗi cụm này, các di tích Hòa Bình khá đồng nhất về văn hóa, ổn định về kỹ thuật chế tác công cụ và tương đồng về phong tục mai táng.

Sinh hoạt kinh tế của cư dân Hòa Bình, tuy săn bắn, hái lượm không giữ vị trí độc tôn, song vẫn là ngành kinh tế chủ đạo và trồng trọt mới nảy sinh. Mức độ nào đó, kinh tế sản xuất của cư dân thời tiền sử vẫn sơ khai, nguyên thủy nhất.

Một số di tích như Hang Xóm Trại phát hiện dấu vết những hạt thóc, vỏ trấu, hạt gạo cháy, cho thấy:

Cách nay trên 1 vạn năm, cư dân Hòa Bình là một trong những cư dân đầu tiên phát minh nông nghiệp và Việt Nam – Hòa Bình là một trong những trung tâm phát minh nông nghiệp sớm nhất thế giới.

Về công cụ sản xuất, người cổ Hòa Bình biết dùng nguyên liệu tại chỗ là các cuội sông, suối để chế tác công cụ. Kỹ thuật phổ biến là bổ cuội, ghè đẽo, đập bẻ – chặt ngang, ngoài ra còn có kỹ thuật mài. Cư dân Hòa Bình cổ biết tạo chuỗi công cụ (công cụ đá, xương, đồ dùng bằng tre, gỗ)..

Về tổ chức xã hội, người Hòa Bình thời tiền sử tiến từ giai đoạn bầy người đến bộ lạc. Mỗi hang động là đơn vị cư trú. Mỗi đơn vị cư trú có một số gia đình. Hang có di tích bếp lửa hoặc vài đống tro phân bố ở trung tâm hoặc chếch về phía cửa hang.

Khuynh hướng phát triển các bếp lửa nhỏ dần về kích thước và tăng số lượng.

Nếu coi những bếp lửa lớn chiếm gần hết diện tích hang ở tầng Văn hóa Sơn Vi là gia đình lớn gồm nhiều thế hệ thì những bếp nhỏ trong các di chỉ Hòa Bình là dấu hiệu gia đình nhỏ.

Đặc điểm phân bố theo từng nhóm di tích và mỗi nhóm chiếm vài ba thung lũng là tập hợp cư dân dựa quan hệ huyết tộc và quan hệ địa vực, thứ "làng xã" cổ xưa nhất được biết hiện nay trong thời tiền sử Việt Nam, nó hoàn toàn phù hợp trình độ cư dân vốn khai thác hệ sinh thái phổ tạp.

Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy vết tích mộ táng cuối thời Trần đầu thời Lê gần như còn nguyên vẹn.

Người nguyên thủy ở Văn hóa Hòa Bình biết chèn đá hộc, rải đá răm quanh mộ để bảo vệ.

Qua các di cốt trong các di chỉ mộ táng, theo các nhà khảo cổ học, có thể hình dung con người Hòa Bình thời tiền sử có đặc điểm:

Tầm vóc to, khỏe mạnh; sọ thuộc loại dài và cao; mặt thuộc loại rộng, hốc mắt trung bình, hốc mũi rộng; độ mòn răng thấp; có người thọ tới 70 tuổi.

Cư dân Hòa Bình có các hình thức mai táng với nhiều tập tục khác nhau.

Đối với người Hòa Bình cổ, người chết không có nghĩa là hết tất cả mà là chuyển từ thế giới này sang thế giới khác.

Vì thế, mộ táng gặp những đồ tùy táng như công cụ đá, trang sức bằng vỏ trai, vỏ ốc hoặc xương răng thú.

Khu mộ cổ Đống Thếch có hàng trăm mộ xung quanh được chôn nhiều hòn mộ, có mộ cao tới 3m, trên khắc chữ Hán ghi tên người đã chết. Người Mường ở Hòa Bình quan niệm rằng người chết vẫn có linh hồn trú ngụ, gửi gắm vào đá.

Hang Xóm Trại, các nhà khảo cổ còn tìm thấy rìu đá, xương thú, vỏ trấu, vỏ quả óc chó và nhiều hóa thạch của vỏ ốc. Đây được xem là thức ăn thường dùng của người Việt cổ.

Cách thức ăn ốc của người Việt cổ được cho kế thừa đến ngày nay. Đồng bào Mường ở Hòa Bình vẫn ăn ốc bằng cách chặt đuôi để hút thịt.

Nguồn:

Baohoabinh

Baophapluat

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71059045_1220076018192648_1813869344568901632_n.jpg


Cổ vật Văn hóa Hòa Bình

Văn hóa Hòa Bình sau 85 năm được thế giới công nhận

Văn hóa Hòa Bình là nền văn hóa tiền sử nổi tiếng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Từ 1932, khi Văn hóa Hòa Bình lần đầu được công nhận trên diễn đàn khoa học thế giới, đến nay gần 200 di tích Hòa Bình phát hiện ở nhiều nước Đông Nam Á, song chưa ở đâu di tích Hòa Bình phân bố dày đặc và phong phú như ở Việt Nam (hơn 150 địa điểm).

Việt Nam được nhiều nhà khoa học nước ngoài xem là quê hương Văn hóa Hòa Bình.

Các di tích Hòa Bình ở Việt Nam được phát hiện và nghiên cứu trong nhiều thời khác nhau, do nhiều tổ chức và cá nhân tiến hành.

Giới khoa học đề xuất nhiều ý kiến khác nhau, từ những vấn đề lý luận đến khái niệm và những vấn đề cơ bản nền văn hóa này.

Do nội dung phong phú và phức tạp nền Văn hóa Hòa Bình, nên đến nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề đang thảo luận và nghiên cứu.

1. Giới thiệu

Năm đầu TK. XX (1901), người Pháp lập Viện Viễn Đông Bác Cổ (École française d'Extrême - Orient) tại Hà Nội.

Đây là trung tâm nghiên cứu duy nhất của người phương Tây nghiên cứu chủ yếu về lịch sử và văn hóa 3 nước Đông Dương.

Phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình là một trong những thành tựu quan trọng nhất của khảo cổ học tiền sử Đông Dương đầu TK. XX.

Công lao phát hiện và xác lập Văn hóa Hòa Bình thuộc về nữ học giả người Pháp Madeleine Colani.

Những nỗ lực nhằm làm sáng tỏ mọi khía cạnh nền văn hóa này thuộc về nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á, trong đó có đóng góp quan trọng các nhà khảo cổ Việt.

1926 đến 1932, M. Colani phát hiện và khai quật trên 50 di tích Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam.

Đầu 1932, tại Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội, thuật ngữ "Văn hóa Hòa Bình" do M. Colani đưa ra được thừa nhận, phổ biến rộng rãi.

Có thể nói, M. Colani đặt nền móng phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam.

Dẫu còn những hạn chế tất yếu nào đó, nhưng trên 20 công trình nghiên cứu về Văn hóa Hòa Bình của bà để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa khảo cổ học Việt nói riêng, Đông Dương nói chung.

Tiếp sau những phát hiện của các học giả Pháp trên lãnh thổ Việt Nam, các nhà nghiên cứu tiền sử học trong Đông Nam Á lần lượt phát hiện di tích Văn hóa Hòa Bình ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia.

Nhiều học giả trên thế giới đều công nhận Văn hóa Hòa Bình là hiện tượng Đông Nam Á lục địa, đến nay nơi tìm được nhiều di tích nhất Văn hóa Hòa Bình là Việt Nam.

Ngay sau khi hình thành, ngành khảo cổ học non trẻ Việt nghiên cứu nền văn hóa nổi tiếng này. Bên cạnh chỉnh lý phân loại các bộ sưu tập Văn hóa Hòa Bình ở kho Viện Bảo tàng Lịch sử, các nhà khảo cổ Việt điều tra, khảo sát, khai quật nhiều di tích Hòa Bình ở các vùng khác nhau.

Nay Việt Nam phát hiện trên 150 di chỉ Hòa Bình. Số di tích tăng nhiều mà phạm vi phân bố trải rộng hơn.

Ngoài Hòa Bình, Thanh Hóa tập trung nhiều nhất (106 địa điểm), di tích Hòa Bình có mặt ở vùng núi các tỉnh phía Bắc như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây (cũ).

Phía Nam trải rộng đến Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị.

Phía Đông đến Quảng Ninh.

Những bộ sưu tập hiện vật đá, tàn tích động thực vật thu qua các khai quật được xử lý rất khoa học.

Đáng chú ý các nhà khảo cổ học Việt áp dụng nhiều phương pháp khai quật mới và ứng dụng các khoa học tự nhiên trong nghiên cứu, điều đó khiến nhận thức về nền văn hóa này ngày càng hệ thống, toàn diện hơn và các nhận định thuyết phục hơn.

Nay hơn 20 di tích Hòa Bình xác định niên đại bằng phương pháp C14, một số định niên đại bằng phương pháp AMS [28, tr. 86-90] . Nhiều địa điểm phân tích mẫu bào tử phấn hoa.

Chúng ta phát hiện và khai quật nhiều di tích Hòa Bình, nhiều di tích tiền Hòa Bình và hậu Hòa Bình. Điều này giúp tìm hiểu phát triển trước, sau của Văn hóa Hòa Bình.

Những thành tựu to lớn đó phản ánh qua nhiều ấn phẩm sách, báo chuyên ngành (như tạp chí khảo cổ học, hay kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học của Viện Khảo cổ học, hoặc trong những ấn phẩm Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).

Đáng chú ý những công trình nghiên cứu "Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam" (1989) và "Khảo cổ học Việt Nam, tập I: Thời đại Đá Việt Nam" (1998) phản ánh phần lớn những kết quả nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình đến cuối thập kỷ 90 thế kỷ trước.

Hai mốc lớn đáng ghi nhớ trong chặng đường nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình.

Thứ nhất, Hội nghị khoa học cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình tổ chức tại Hà Nội cuối 1982.

Hầu hết các báo cáo khoa học đăng trong tạp chí Khảo cổ học số 1, 2 năm 1984 và số 2 năm 1986.

Thứ 2, Hội nghị Quốc tế kỷ niệm 60 năm Văn hóa Hòa Bình tổ chức ở Hà Nội 1993 thu kết quả rực rỡ.

Ngoài các nhà khảo cổ Việt, hội nghị đón hàng chục học giả nuớc ngoài từ Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc và Châu Phi.

Phần lớn bài tham gia hội nghị công bố trên tạp chí khảo cổ học số 3, số 4 năm 1994 và tạp chí Vietnam Social Sciences số 5 năm 1994.

Tài liệu về Văn hóa Hòa Bình dần được các học giả Việt và nước ngoài giới thiệu rộng rãi trên thế giới.

Nay, các nhà khảo cổ vẫn phát hiện và khai quật mới nhiều di tích Hòa Bình ở nhiều vùng trên nước ta. Gần đây, các học giả Vân Nam, Trung Quốc quan tâm đặc biệt văn hóa này.

Bài viết này đề cập những nhận thức cơ bản và những nhận thức mới về Văn hóa Hòa Bình; những vấn đề tồn tại cần nghiên cứu về khái niệm, phức hợp kỹ thuật, cấu trúc xã hội, văn hóa phi vật thể Hòa Bình.

2. Nhận thức cơ bản Văn hóa Hòa Bình

Thứ nhất, từ 1960 đến nay, ra đời ngành khảo cổ Việt, công tác nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình vào giai đoạn mới, cùng kiểm tra, khảo sát lại di tích, di vật người Pháp khai quật để lại.

Hơn 150 di tích, di tích Hòa Bình chủ yếu tập trung ở những vùng núi đá vôi tại các thung lũng hoặc trong hang động, mái đá; số ít di tích ở ngoài trời và thềm sông.

Quy luật phân bố cư trú rất dễ thấy của cư dân Hòa Bình là phân bố từng cụm, mỗi cụm từ 3 đến 10 di chỉ liền khoảnh và chiếm cứ vài ba thung lũng đá vôi.

Trong các thung lũng là những cánh rừng nhiệt đới nhiều tầng xanh tốt quanh năm với nhiều suối nhỏ chảy qua. Quanh các thung lũng là những dãy núi đá vôi bao bọc, ở đó chứa nhiều hang động lớn nhỏ, nơi cư trú lý tưởng của những chủ nhân Văn hóa Hòa Bình.

Thứ 2, các hang động thuộc Văn hóa Hòa Bình thường có tầng văn hóa dày trung bình trên 1m, điểm như Hang Làng Đồi tầng văn hóa dày 4, 5m.

Chứa vỏ các loài nhuyễn thể, tàn tích xương răng động vật. Đó là tàn tích thức ăn để lại của người tiền sử, cùng các di vật đá, than tro, di cốt người.

Các tích tụ này thường nằm trực tiếp trên nền hang đá vôi, hoặc trong lớp đất sét vôi màu vàng, thường có kết cấu bở rời, có tuổi sau Canh Tân.

Các di tích động vật trong các di chỉ Văn hóa Hòa Bình gồm các loài nhuyễn thể, chủ yếu là ốc núi, ốc suối và xương cốt động vật có xương sống.

Tất cả di cốt động vật trong các di tích Hòa Bình là động vật hoang dã nay vẫn tồn tại, động vật nhỏ chiếm đa số so động vật lớn. Đó là những đối tượng săn bắn của người Hòa Bình.

Các nhà nghiên cứu cho rằng nhuyễn thể là đối tượng chủ yếu trong hoạt động thu lượm của cư dân Văn hóa Hòa Bình.

Khối lượng vỏ các loại trai ốc trong các hang động Hòa Bình rất lớn, một số di chỉ đạt tới hàng trăm mét khối như ở Hang Làng Đồi, hay Hang Muối (Hòa Bình).

Điều này khiến một số nhà nghiên cứu xem đặc trưng Văn hóa Hòa Bình như là văn hóa cư dân "ăn ốc."

Những tàn tích còn lại trong các hang động Hòa Bình phản ánh phần nào kết quả hoạt động tìm thức ăn của chủ nhân văn hóa này, cho thấy vai trò săn bắt thú rừng và thu lượm các loài trai ốc là phương thức sống chủ yếu cư dân Hòa Bình.

Vết tích thực vật trong Văn hóa Hòa Bình phát hiện chưa nhiều, hầu như chưa thấy giống loài được thuần hóa.

Các hang động tiền sử Hòa Bình, dấu tích bếp lửa thường giữa hang, đôi khi cửa hang.

Thứ 3, đặc trưng nổi bật Văn hóa Hòa Bình là tổ hợp di vật gồm đồ đá, đồ xương. Đồ đá chủ yếu.

Người Hòa Bình cổ dùng đá cuội sông, suối để chế tác công cụ với kỹ thuật ghè đẽo thô sơ. Người Hòa Bình biết kỹ thuật mài mức sơ khai.

Loại hình công cụ đá Hòa Bình phong phú và ổn định trong một số loại hình đặc trưng như công cụ có hình hạnh nhân, hình tam giác, hình đĩa, hình ô van cùng rìu ngắn, rìu dài làm từ cuội nguyên hoặc cuội bổ và chủ yếu ghè một mặt.

Công cụ xương, công cụ bằng vỏ trai trong Văn hóa Hòa Bình rất ít. Bước đầu xác nhận ở đây có mặt rìu xương, đục xương, mũi nhọn xương, nạo vỏ trai.

Phần lớn công cụ xương trong Văn hóa Hòa Bình mài và chuốt nhẵn cẩn thận. Vài rìu xương khắc vạch.

Đó là những đặc trưng mang tính thống nhất trong tổ hợp di vật nền Văn hóa Hòa Bình.

Thứ 4, người Hòa Bình thường chôn người chết nơi cư trú.

Điều này phản ánh tâm lý người tiền sử không muốn xa rời người thân, mong muốn người chết được "yên nghỉ" ở chỗ sinh hoạt thường ngày của cộng đồng như bếp lửa, hoặc nơi nghỉ ngơi.

Qua tư liệu khai quật khảo cổ học cho thấy, phương thức chôn nằm co, hoặc nằm nghiêng bó gối là hình thức chôn phổ biến của người tiền sử Hòa Bình, thứ đến là chôn ngửa, chân tay duỗi thẳng.

Phần lớn là những mộ chôn đơn, có hiện tượng chôn tập thể như hang Làng Gạo (tỉnh Hòa Bình).

Đặc biệt tại Hang Lam Gan II (huyện Lương Sơn), các nhà khoa học phát hiện một chỏm sọ người lớn, bên trong chứa vài nhánh xương sườn một đứa trẻ.

Hiện tượng này được các nhà khảo cổ lý giải:

Người Lam Gan II lấy chỏm sọ người lớn để đựng một bộ phận xương cốt trẻ con. Bằng chứng tục cải táng.

Hầu hết mộ táng đều chôn theo đồ tùy táng là dụng cụ lao động, sinh hoạt hàng ngày như công cụ đá, đồ trang sức. Phần lớn những người chết được rắc thổ hoàng.

Thứ 5, nay trên cơ sở những cứ liệu khoa học mới phát hiện, cùng hỗ trợ phương tiện khoa học hiện đại, các nhà khảo cổ Việt khá thống nhất đưa ra phác đồ khung niên đại Văn hóa Hòa Bình tại Việt Nam:

Niên đại mở đầu Văn hóa Hòa Bình từ 18.420 ± 50 năm trước (di chỉ Hang Xóm Trại) đến 16.470 ± 80 năm (di chỉ Làng Vành) ; niên đại kết thúc Văn hóa Hòa Bình trên 7.000 năm trước (di chỉ Hang Đắng).

Nhiều điều cần thảo luận, cơ bản Văn hóa Hòa Bình là văn hóa sơ kỳ đá mới ở Việt Nam.

Thứ 6, nghiên cứu kinh tế, xã hội cư dân Văn hóa Hòa Bình thực chất là tìm hiểu phương thức kiếm thức ăn, giải quyết vấn đề lương thực các tập đoàn người cổ Hòa Bình.

Phần đông các nhà khoa học thừa nhận, săn bắn, hái lượm là phương thức tìm kiếm thức ăn chủ đạo cư dân Văn hóa Hòa Bình.

Nghiên cứu thành phần các giống loài động vật trong các di chỉ Hòa Bình cho thấy người Hòa Bình là những cư dân săn bắn đa tạp, không nhằm vào vài giống loài động vật nào cụ thể, điều kiện cổ khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, tức săn bắt theo phổ rộng.

Đối tượng hoạt động hái lượm của cư dân Hòa Bình khá phong phú, gồm các động vật nhỏ, trứng chim, nấm, hoa quả, đặc biệt các loài thủy sinh thân mềm sống dưới sông, suối.

Cơ cấu tổ chức xã hội người Hòa Bình, nhiều ý kiến cho người Hòa Bình thuộc chế độ mẫu hệ. Đời sống tinh thần người Hòa Bình khá phong phú thể hiện qua tri thức sơ khai về tự nhiên, con người.

3. Nhận thức mới về Văn hóa Hòa Bình

Thứ nhất, về niên đại, từ lúc mới phát hiện, M. Colani nói Văn hóa Hòa Bình có 3 giai đoạn phát triển từ hậu kỳ đá cũ đến đá giữa và sang đá mới Bắc Sơn.

Tiếp theo M. Colani, giới học giả tranh luận sôi nổi về tuổi Văn hóa Hòa Bình.

Một số ý kiến xem Hòa Bình như văn hóa đá giữa với ý nghĩa là thời đại văn hóa trung gian giữa đá cũ và đá mới, một số người cho Văn hóa Hòa Bình hoàn toàn thuộc thời đá mới.

Sau những khai quật ở Hang Xóm Trại và Mái Đá Điều, tình hình đổi khác. Một loạt những niên đại C14 ở các tầng vị khác nhau của hai di chỉ trên cho thấy niên đại giai đoạn sớm Văn hóa Hòa Bình lùi sâu vào thế Pleistocene.

Nay, quan điểm thừa nhận phổ biến là Văn hóa Hòa Bình bắt đầu trong thế Pleistocene và tồn tại lâu dài ở thế Holocene, chuyển tiếp từ thời đá cũ sang thời đá mới. Một bộ phận Hòa Bình thuộc hậu kỳ đá cũ.

Liên quan vấn đề niên đại là nguồn gốc Văn hóa Hòa Bình, trước đây quan điểm phổ biến cho Văn hóa Sơn Vi là nguồn gốc Văn hóa Hòa Bình.

Niên đại Văn hóa Sơn Vi xác định từ 30.000 năm đến 11.000 năm cách nay. Trước đây, di chỉ hang Thẩm Khương (Lai Châu) xác định thuộc Văn hóa Hòa Bình có niên đại lên 32.100 ± 150 năm cách nay (BP).

Khai quật di chỉ hang Con Moong ở xã Thành Yên (huyện Thạch Bàn, Thanh Hóa) 2012-2013 đem nhiều nhận thức mới. Ðịa tầng hang Con Moong dày 9, 5m, hang rộng, nền hang cao hơn 40m so chân núi, rộng hơn 300m2.

Chia 4 giai đoạn văn hóa. Giai đoạn văn hóa III (độ sâu 6, 8m) từ 30.000-40.0000 năm trước, xuất hiện kỹ nghệ Hòa Bình trên công cụ đá vôi và đá quartz.

Người nguyên thủy cư trú ở đây liên tục từ Văn hóa Sơn Vi đến Hòa Bình, Bắc Sơn. Bằng chứng thấy nhiều vỏ nhuyễn thể, mùn thực vật.

Cư dân Văn hóa Hòa Bình ở đây dùng đá cuội chế tác công cụ, kỹ thuật rất phát triển, công cụ hình bầu dục hoặc hình hạnh nhân, lưỡi hòn cuội chế tác bằng thủ pháp ghè tỉa để có độ sắc bén hơn, chức năng đa dạng hơn như chặt, cắt, nạo..

Các công cụ, rìu ngắn chiếm số lượng nhiều, chức năng rất đa dạng, có thể dùng như cuốc đá. Mảnh tước số lượng không nhiều nhưng phần lớn gia công để tạo công cụ nạo, dao đá.

Cư dân Con Moong có kỹ thuật tạo dụng cụ từ xương thú khá cao, họ chỉ chọn xương ống động vật có vú để chế tác, xương này nhiều sợi nên bền chắc hơn.

Những tư liệu mới, liệu có cần xem lại quan điểm Văn hóa Sơn Vi là cội nguồn Văn hóa Hòa Bình? Vấn đề mới cần nghiên cứu.

2015, tạp chí Quaternary International, các nhà khoa học Trung Quốc công bố phát hiện phức hợp Văn hóa Hòa Bình ở hang Tiêu (Xiao dong - 硝 洞), vùng Vân Nam 43.000 năm trước.

Họ cho Vân Nam là quê hương Văn hóa Hòa Bình và từ Vân Nam, phức hợp kỹ thuật Hòa Bình lan tỏa xuống Đông Nam Á.

Đây là vấn đề lớn, thách thức quan điểm truyền thống coi khu vực Bắc Việt Nam là quê hương đầu Văn hóa Hòa Bình.

Bối cảnh nghiên cứu khu vực, chúng ta nhận thức vấn đề này thế nào?

Việt Nam có những điểm tiền sử như hang Con Moong ở đấy kỹ nghệ Hòa Bình xuất hiện trong tầng văn hóa từ 30.000 - 40.000 năm trước.

Nay, nghiên cứu và công bố kết quả cuối cùng về hang Con Moong vẫn đang hoàn thiện. Cần nhiều kết quả nghiên cứu và khai quật giống hang Con Moong.

Một mặt cần đổi mới phương pháp khai quật, áp dụng khai quật mà đoàn khảo cổ Việt-Nga thực hiện ở hang Con Moong.

Mặt khác, tăng phân tích niên đại bằng cách khác nhau ở các nơi Văn hóa Hòa Bình đã và đang nghiên cứu.

Nay hơn 20 trên 150 điểm Hòa Bình phân tích niên đại tuyệt đối, tỷ lệ này vẫn thấp.

Những di tích Hòa Bình quan trọng như Hang Làng Đồi (Hòa Bình), Mái Đá Làng Bon (Thanh Hóa), Hang Đán Cúm (Hà Giang), Hang Phia Vài (Tuyên Quang).. vẫn chưa có kết quả niên đại tuyệt đối.

Nếu làm tốt sẽ nâng chất lượng nghiên cứu lên tầm cao mới, góp phần khách quan, khoa học giải quyết vấn đề nguồn gốc quê hương Văn hóa Hòa Bình.

Thứ 2, nhận thức chung các nhà nghiên cứu khảo cổ:

Các di tích Hòa Bình chủ yếu là loại hình di tích hang động. Có người gọi Văn hóa Hòa Bình là văn hóa hang động.

Mấy chục năm qua, ngoài di tích Sập Việt tìm thấy thập kỷ 70 TK. XX, phát hiện thêm hàng chục điểm Hòa Bình ngoài trời, hơn 10 điểm Hòa Bình trên thềm cổ sông Hồng thuộc các huyện Bảo Thắng, Bảo Yên tỉnh Lào Cai; địa điểm Bến Mậu A cũng ven sông Hồng thuộc tỉnh Yên Bái; và Khuổi Bốc, Nà Thìn, Bắc Giòn, Nà Đứa, Pá Van trên thềm Sông Gâm thuộc tỉnh Tuyên Quang.

Các hệ sinh thái Văn hóa Hòa Bình.

Nguồn tư liệu mới cho phép nhận thức mới về các định hướng sinh thái khác nhau của người Hòa Bình:

Môi trường sinh thái thung lũng Karst chủ yếu của cư dân Hòa Bình.

Môi trường sinh thái đồi, gò có nguồn gốc thềm sông cổ (hệ sinh thái khá phổ biến của người Hòa Bình vùng núi Đông Bắc).

Môi trường sinh thái vùng núi cận biển (Trường An, Ninh Bình), thềm thấp ven biển (Giáp Khẩu, Quảng Ninh).

Thứ 3, Văn hóa Hòa Bình là tiêu biểu trong truyền thống công cụ cuội ở Việt Nam và ĐNA.

Hầu hết công trình nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình xác nhận cư dân Hòa Bình chủ yếu dùng cuội sông suối để chế tác công cụ.

Trước đây cho rằng người Hòa Bình mới chỉ biết chế tác công cụ đá bằng kỹ thuật ghè đẽo truyền thống.

Kỹ thuật chế tác công cụ Hòa Bình kết hợp các thủ pháp ghè đẽo, chặt, đập, bổ, bẻ; kỹ thuật ghè đẽo trực tiếp đóng vai trò chủ đạo.

Kỹ thuật mài xuất hiện rất muộn trong Văn hóa Hòa Bình. Kỹ thuật cưa, khoan vắng mặt.

Một thời rất nhiều người phản đối giả thuyết của W. Solheim II về kỹ thuật mài xuất hiện trong Văn hóa Hòa Bình từ 20.000 năm trước. Giả thuyết của W. Solheim II bị coi phán đoán thiếu cơ sở khoa học.

Nay kết quả nghiên cứu từ Hang Xóm Trại và Mái Đá Điều cho thấy kỹ thuật mài với những rìu mài lưỡi xuất hiện khá phổ biến từ hơn 16.000 năm trước, sớm hơn nhiều so các nhận định trước, cho thấy kỹ thuật chế tác đá điêu luyện người Việt cổ.

Di chỉ Mái Đá Điều chứa nhiều lớp văn hóa thuộc các thời đồ đá khác nhau, niên đại di chỉ này khoảng 8.200 năm.

Tầng văn hóa ở Mái Đá Điều dày khoảng 4m, chứng tỏ cư trú lâu dài con người. Các nhà khảo cổ thu được tại đây nhiều công cụ đá đặc trưng Văn hóa Hòa Bình, nhất rìu ngắn, chày nghiền, bàn nghiền, công cụ đá xuất hiện kỹ thuật mài đá.

Nhiều nhà nghiên cứu đưa các cách phân loại công cụ Hòa Bình khác nhau. Theo Hà Văn Tấn, dù bằng cách phân loại nào thì công cụ kiểu Sumatra hay Sumatralith ghè đẽo một mặt vẫn là loại hình trung tâm của chú ý.

Sumatralith là công cụ điển hình Văn hóa Hòa Bình, biểu hiện kỹ thuật chế tác đặc biệt, có thể gọi kỹ thuật Sumatralith.

Không thể gọi là di tích Hòa Bình nếu không có Sumatralith. Không phải nơi nào có Sumatralith, ở đó có Hòa Bình chân chính. Đây là nhận thức mới về kỹ nghệ Hòa Bình.

Thứ 4, dù gốm thấy ở khá nhiều di chỉ Hòa Bình, phần lớn phân bố ở các lớp đất trên, nhiều người cho đồ gốm không xuất hiện trong Văn hóa Hòa Bình, mới đây có người còn giữ quan điểm đó.

Trước đây, M. Colani cho đồ gốm xuất hiện ở tầng II - tầng giữa, tầng Văn hóa Hòa Bình điển hình với rìu mài lưỡi sơ khai.

Đáng tiếc phần lớn di tích Hòa Bình do Colani khai quật, di vật gốm chưa coi trọng đúng mức. Sau này, các nhà khảo cổ Việt khắc phục phần nào khiếm khuyết đó.

1975, Hang Sũng Sàm, trong lớp văn hóa sớm nhất, sát đáy hang có niên đại 11.365 ± 80 BP và 10.770 ± 75 BP, các nhà khảo cổ thấy gốm.

Gốm Sũng Sàm dày, xương đỏ nâu pha cát thô và bã nhuyễn thể, bên ngoài màu nâu đen, văn thừng. Gốm bở, nặn bằng tay, làm bằng đất sét lấy tại chỗ do người Hòa Bình ở Sũng Sàm khai thác.

1998, hố đào khảo sát Hang Đán Cúm, di chỉ Hòa Bình sớm trên đất Hà Giang, các nhà khảo cổ thu một số mảnh gốm thô dày, văn thừng thô, xương màu xám, pha nhiều cát ở độ sâu 1, 7m cùng những công cụ Hòa Bình điển hình.

Mới đây, khu Tràng An, Ninh Bình tìm thấy đồ gốm tuổi 8.720 ± 235 năm BP tại di tích Mái Đá Vàng [16, tr. 79-92] .

Dựa có mặt gốm tìm thấy ở di chỉ Hang Đắng có niên đại C14 là 7.665± 100 BP và 7.508 ± 100 BP, một số ý kiến cho gốm có mặt vào giai đoạn muộn Văn hóa Hòa Bình.

Phát hiện ra những mảnh gốm thô tại Sũng Sàm, Đán Cúm, Mái Đá Vàng khiến phải nhìn lại vấn đề gốm trong Văn hóa Hòa Bình.

Gần đây, nói về xuất hiện gốm sớm vùng Nam Trung Quốc, các nhà khảo cổ Trung Quốc cho xuất hiện đồ gốm trong văn hóa tiền sử nói chung không nhất thiết phải gắn kinh tế sản xuất với lối sống định cư, mà là nhu cầu bức thiết kinh tế hái lượm, đánh bắt những loại thuỷ sinh như ốc, cua, cá..

Chúng tôi tán đồng luận điểm này và xem nó thích ứng với trường hợp Văn hóa Hòa Bình. Hiện diện các tầng ốc dày trong các di chỉ Hòa Bình thể hiện lối sống định hướng ven sông, ven suối, ven biển.

Làm chín thức ăn từ nguồn thuỷ sinh đó, họ không thể duy trì cách nướng từng con ốc, con cua, con cá. Ra đời đồ gốm với chức năng là đồ nấu dường như là hệ quả tất yếu của những cư dân Hòa Bình chuyên "ăn ốc."

Nhiều khả năng đồ gốm xuất hiện đầu giai đoạn phát triển Văn hóa Hòa Bình mà không phải đến giai đoạn muộn Hòa Bình như có người chủ trương.

Thứ 5, thời gian dài vẫn đinh ninh cư dân Văn hóa Hòa Bình sống trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa và khí hậu khá ổn định vài nghìn năm. Từ 2005 đến nay, quan điểm trên dần thay đổi.

Dựa kết quả khai quật và nghiên cứu độ tự cảm ở một số di tích hang động như hang Con Moong (Thanh Hóa), hang Chổ (Hòa Bình), hang Mòi, hang Thung Bình và Mái Đá Ông Hay (Ninh Bình), các nhà nghiên cứu cho khí hậu Việt Nam từ 17.000 đến 9.000 BP có một số pha nóng, lạnh và mát xen kẽ nhau.

Đặc biệt xuất hiện pha lạnh đột ngột (Younger Dryas) tuổi khoảng 11.400 năm trước. Sau 11.000 năm, khí hậu chuyển sang nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều với nhiều pha nóng, lạnh, mát xen kẽ.

Đáng chú ý nghiên cứu độ từ cảm Hang Chổ (Hòa Bình) cho thấy từ 11.400 đến 8.800 năm cách ngày nay, tốc độ hình thành trầm tích trong hang này tăng gấp 10 lần so giai đoạn 20.500 - 11.400 năm trước.

Hiện tượng tăng trầm tích tạo hang động đột biến cũng thấy ở các Hang Con Moong, Hang Mòi, Hang Thung Bình vào giai đoạn Toàn tân sớm.

Cho thấy lượng mưa giai đoạn này lớn hơn nhiều lần so các giai đoạn trước. Thời mưa nhiều tương ứng giai đoạn lạnh đột ngột.

Kết quả nghiên cứu trên đem những hiểu biết mới về điều kiện tự nhiên cư dân Văn hóa Hòa Bình.

Thứ 6, trước 2004, toàn bộ số sọ cổ thời đại đá, chưa bao giờ phát hiện sọ mà nhìn theo đỉnh chuẩn có dạng tròn và thuộc loại sọ ngắn mang đặc điểm Mongoloid.

2004, các nhà khảo cổ phát hiện sọ Đú Sáng (sọ tròn và rất ngắn). 2005, phát hiện bộ xương chôn nằm co ở Phia Vài (Tuyên Quang) với hộp sọ nhìn theo chuẩn đỉnh rất tròn và ngắn.

Cả hai sọ trên đều thuộc cư dân Văn hóa Hòa Bình. Từ khi phát hiện sọ cổ Đú Sáng và Phia Vài, ngành cổ nhân học Việt Nam bước ngoặt đáng ghi nhớ.

Theo nhà nhân chủng học Nguyễn Lân Cường, đây là bằng chứng đầu tiên về xuất hiện những sọ Mongoloid đầu tròn và ngắn.

Dựa phát hiện di cốt người cổ ở Phia Vài và Đú Sáng, các nhà nhân chủng học Việt Nam đưa nhận định:

"Miền Bắc Việt Nam có khả năng diễn ra quá trình hỗn chủng giữa Australoid và Mongoloid cuối hậu kỳ thời đá cũ.

Đây là những nhận thức hoàn toàn mới về cư dân văn hóa tiền sử Việt Nam, trong đó có chủ nhân Văn hóa Hòa Bình.

3. Một số vấn đề tồn tại

Chuyên khảo bàn về" Hòa Bình ở Đông Nam Á:

"Văn hóa, những văn hóa hay phức hợp kỹ thuật" công bố 1994, Hà Văn Tấn lưu ý tính đa dạng, phức tạp khái niệm Văn hóa Hòa Bình.

Đây là vấn đề lý thuyết công cụ rất cơ bản vì nó liên quan hướng nghiên cứu và phương pháp tiếp cận vấn đề Hòa Bình.

Không ít người trong giới nghiên cứu tiền sử ĐNA băn khoăn khi đứng trước thực trạng với thời gian tồn tại hơn 10.000 năm, phân bố trên một khu rất rộng lớn ở ĐNA, liệu khái niệm "Văn hóa khảo cổ Hòa Bình" có chuyển tải nổi khúc chuyển giữa hai thời đại văn hóa tiền sử?

Từ những nghiên cứu tài liệu khai quật Hang Ma ở Thái Lan, nhà khảo cổ học Mỹ C. F. Gorman nhiều lần chối bỏ khái niệm Văn hóa Hòa Bình, thay vào là thuật ngữ "Phức hệ kỹ thuật Hòa Bình" (Hoabinhian Technocomplex).

Tinh thần quan điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến những học giả thuộc thế hệ sau C. F. Gorman, trong đó bà Rasmi Shoocongdej nhà khảo cổ học người Thái Lan là minh chứng điển hình.

Sau những khai quật ở Hang Lang Kamnan thuộc miền Tây Thái Lan, nhà khảo cổ học này khuyến cáo các nhà khảo cổ từ bỏ khái niệm "Hoabinhian" vì nó không thích ứng với khung cảnh ĐNA.

Giống như C. F. Gorman, nhà khảo cổ học Danny Tân gắn phức hợp kỹ thuật Hòa Bình vào một số sưu tập cuội ở Australia và New Guinea.

Hay như W. Solheim II không quan niệm Hòa Bình như là văn hóa mà xem nó như phức hợp kỹ thuật khi xem xét một số di tích đá cuội ở Nhật.

Nay, giới khảo cổ học Việt vẫn kiên trì khái niệm văn hóa khảo cổ để chuyển tải những nội dung tập hợp di tích như Hòa Bình ở Việt Nam và ĐNA.

Các nhà tiền sử học Việt Nam vắng bóng trên lĩnh vực khảo cổ học lý thuyết. Chưa quan tâm đủ các vấn đề chung cho tiền sử ĐNA, đến lúc cần đẩy mạnh nghiên cứu khảo cổ học lý thuyết; trước hết cần làm rõ Hòa Bình là văn hóa, hay những văn hóa hoặc phức hợp kỹ thuật.

Thu rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình. Những vấn đề cấu trúc xã hội cư dân Hòa Bình chưa được làm rõ. Có chăng chỉ là thử nghiệm, nặng tính suy đoán, và thiếu cơ sở vững chắc.

Có những nghiên cứu thành công về phát triển kinh tế và tổ chức xã hội cư dân cổ Cúc Phương.

Từ việc nghiên cứu hệ thống sinh thái nhân văn vùng Đông Bắc, Hà Hữu Nga đã gắng dựng lên các cấu trúc xã hội tiền nhà nước vùng Đông Bắc.

Mới đây, bằng phương pháp nghiên cứu "vi khảo cổ học" (Micro studies of archaeology), Nguyễn Việt cho biết phần nào tổ chức kinh tế xã hội tiền sử thể hiện rõ nét qua chiến lược lương thực của người Hòa Bình. Rõ ràng cần nhiều hơn những công trình như vậy.

Về văn hóa phi vật thể của người Hòa Bình, chúng ta còn hiểu biết rất ít. Một số viên cuội hoặc tảng đá có những vết khắc trên bề mặt tìm thấy ở di chỉ Lam Gan, Làng My, Làng Bon, Kim Bảng, Yên Lạc, Xóm Trại.

Vết khắc đó là ký hiệu ghi chép hay những biểu tượng nghệ thuật? Là ẩn số chưa giải mã. Những mầm mống nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ trên vách Hang Đồng Nội đến nay chưa được chứng minh chắc chắn là sáng tạo của người Hòa Bình.

Cảm thụ thế giới xung quanh của người Hòa Bình rất nhạy bén, con người là trung tâm, vĩnh hằng, linh thiêng, vô cùng cao quý. Nhận thức vậy về con người được cư dân Hòa Bình thể hiện sinh động qua cư xử người chết.

Những năm gần đây, số lượng mộ táng Hòa Bình phát hiện nhiều hơn, xử lý có kết quả hơn. Nguồn tài liệu quý giúp nghiên cứu về thành phần nhân chủng và lễ nghi táng thức.

2005, tài liệu mộ táng phát hiện ở hang Phia Vài, Tuyên Quang đem nhận thức mới về táng thức người Hòa Bình. Đó là khâm liệm đặt vỏ ốc vào hốc mắt người chết.

Hành vi này là tư duy thẩm mỹ hay táng tục đặc biệt? Có ý cho là biểu hiện tôn giáo nguyên thủy, có ý cho đây thuần túy là tư duy thẩm mỹ làm người chết đẹp hơn, sống động hơn.

Rất nhiều những biểu hiện đời sống tinh thần cư dân Hòa Bình, còn rất nhiều việc cần tiếp tục nghiên cứu thời gian tới.

Kết luận

Từ khi giới khảo cổ học thế giới vinh danh Văn hóa Hòa Bình cách đây 85 năm trước, ngành khảo cổ học Việt đạt rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu văn hóa này.

Nhiều vấn đề sáng tỏ. Từ những kết quả nghiên cứu mới, nhiều nhận thức mới được hình thành, nhưng không ít vấn đề mới nảy sinh.

Với khảo cổ học, rất nhiều việc phải làm với Văn hóa Hòa Bình.

Với những giá trị lịch sử văn hóa nổi bật, Văn hóa Hòa Bình là di sản văn hóa quý hiếm của dân tộc có giá trị quốc tế cao.

Sau gần 100 năm phát hiện và nghiên cứu, Văn hóa Hòa Bình vẫn luôn là nền văn hóa tiền sử độc đáo, đầy cuốn hút với nhiều thế hệ khảo cổ học nói riêng và khoa học xã hội nhân văn nói chung.

Điều kiện khoa học phát triển như hiện nay, công cuộc nghiên cứu tiếp tục về Văn hóa Hòa Bình sẽ hứa hẹn khai mở nhiều điều bí ẩn nền văn hóa khảo cổ xa xưa rất nổi tiếng này.

Nguồn: KHXH Việt Nam, số 1 - 2018

Tác giả: Trình Năng Chung

Nguồn tapchikhxh

Văn hóa Hòa Bình: Nền văn hóa tiền sử độc đáo

Sau 85 năm thế giới công nhận (1932-2017), Văn hóa Hòa Bình vẫn luôn là nền văn hóa tiền sử độc đáo đầy cuốn hút với nhiều thế hệ các nhà khảo cổ học, khoa học xã hội nhân văn trong nước và quốc tế.

Công cụ sản xuất của cư dân Văn hóa Hòa Bình thời đá mới được lưu tại bảo tàng tỉnh.

17-10, tỉnh Hòa Bình tổ chức hội thảo khoa học "85 năm thế giới công nhận nền Văn hóa Hòa Bình" (1932-2017).

Các di chỉ tìm thấy và khai quật ở tỉnh Hòa Bình có khung niên đại cách nay từ 11.000-12.000 năm.

Văn hóa Hòa Bình là gạch nối thời đá cũ (Văn hóa Sơn Vi - Phú Thọ) và thời đá mới (Văn hóa Bắc Sơn - Lạng Sơn).

Ý nghĩa và tầm quan trọng Văn hóa Hòa Bình minh chứng khẳng định Việt Nam là một trong những chiếc nôi loài người và còn cung cấp cho các nhà khảo cổ.

Các nhà khoa học trong nước và quốc tế những cứ liệu khoa học về quá trình chuyển hóa từ người vượn tiền sử tiến lên người hiện đại, về phương thức kiếm sống, canh tác, tổ chức xã hội.

Việt Nam trên 130 điểm thuộc Văn hóa Hòa Bình, trên một nửa do các nhà khảo cổ học Việt phát hiện từ 1966-1980. Riêng tỉnh Hòa Bình có 72 di chỉ phát hiện và nghiên cứu.

Các di chỉ chủ yếu tập trung vùng núi đá vôi tại các thung lũng hoặc hang động, núi đá.

Phát hiện nền "Văn hóa Hòa Bình"

Khoảng những năm 20 - 30 TK. XX, khai thác thuộc địa tạo điều kiện cho các nhà địa chất, khảo cổ Pháp phát hiện hàng loạt di tích tiền sử, tiêu biểu nhất là Văn hóa Hòa Bình gắn tên tuổi nữ Tiến sĩ khảo cổ người Pháp Madelain Colani (1866-1943).

Từ 1927, bà Colani điều tra thăm dò khảo cổ học vùng hang động đá vôi kéo dài từ Hòa Bình qua Thanh Hóa đến Quảng Bình.

Từ đầu, phát hiện tàn tích tiền sử dày đặc trong tỉnh Hòa Bình giúp bà nhận ra tồn tại nền văn hóa săn bắt, hái lượm với tầng văn hóa ken dày vỏ ốc suối, ốc núi, xương răng động vật, tầng bếp cháy và công cụ ghè đẽo từ cuội suối basalt rất phổ biến trong vùng.

Từ đó, bà mở rộng nghiên cứu sang vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Lào và hình thành ý tưởng khoa học về nền văn hóa khảo cổ tiền sử quan trọng có tính bao trùm cả khu vực mà cái lõi chính là các thung lũng quanh sơn khối Kim Bôi, nơi có đỉnh Cốt Ca, coi như nguồn nguyên liệu basalt sừng hóa vô tận của người tiền sử Hòa Bình.

1932, bà chính thức công bố tồn tại nền văn hóa tiền sử quan trọng loài người có tính phổ cập vùng rộng lớn khắp vùng Bắc Đông Dương và ngoại vi - đó là "Văn hóa Hòa Bình."

Đề xuất của bà được toàn thể hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông tán thưởng.

Từ đó, thuật ngữ "Hoabinhien" (Hoabinhian) xuất hiện trên báo chí, công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, từ điển.. song hành với các nền văn hóa tiền sử nổi tiếng khác trên thế giới.

Một số kết quả nghiên cứu nổi bật

Theo kết quả nghiên cứu, cư dân Văn hóa Hòa Bình có vóc dáng xương to, thô mang đặc trưng Australoid (gần với thổ dân Châu Úc) có trộn lẫn một số yếu tố Mongoloid (đặc tính người Mông Cổ), chôn nằm co nghiêng như đang ngủ, kè chặn đá và rắc thổ hoàng..

Cư dân sống chủ yếu dựa các mái đá hay cửa hang động và để lại những bếp lửa liên tục hàng ngàn năm và những vệt mòn đi lại ở cửa hang.

Thời thịnh đạt nền văn hóa này trùng thời kỳ băng hà cuối cùng trên thế giới, tạo dạng khí hậu ở ĐNA với nhiệt độ trung bình thấp hơn ngày nay 5 – 7 độ C, mưa nhiều, thảm thực vật sồi, dẻ chiếm ưu thế khiến dân cư Hòa Bình có điều kiện tăng trưởng, mở rộng sang các vùng rừng núi phụ cận.

Từ 1932, 85 năm trôi qua, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp tục đi sâu khám phá nền văn hóa nổi tiếng này.

1992, tại Hà Nội, Văn hóa Hòa Bình được kỷ niệm trọng thể nhân dịp 60 năm xác nhận toàn cầu.

Từ đó, Văn hóa Hòa Bình tiếp tục nghiên cứu với chương trình mang tên Further Studies on Hoabinhian (nghiên cứu sâu hơn về Văn hóa Hòa Bình) của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Việt Nam, chương trình nghiên cứu về hai lớp nhân chủng học trong Văn hóa Hòa Bình của các chuyên gia nhân học Nhật, Australia.

Chương trình điều tra khai quật toàn diện vùng núi đá vôi Mea Hong Son của Đại học Bangkok (Thái Lan), chương trình nghiên cứu người Hòa Bình ở Pesak (Malaysia) và một số cuộc khai quật ở Lào.

Kết quả phân tích xương cốt người khai quật cho phép xác nhận hai lớp dân cư đan xen trong quá trình phát triển Văn hóa Hòa Bình với lớp nền Australoid và lớp phủ Mongoloid..

Các di tích tại tỉnh Hòa Bình, đặc biệt phát hiện mới nhất về lối mòn cổ cách đây 22.000 năm tại Hang Xóm Trại, xã Tân Lập, thuộc Mường Vang, Lạc Sơn (Hòa Bình).

Hang Xóm Trại rộng cửa hang trung bình 7m, dài 22m, sâu 7-10m qua hàng ngàn năm vùi lấp chủ yếu là vỏ óc ken đặc cho thấy phải qua hàng chục ngàn năm mới tích tụ lớp vỏ thức ăn dày như vậy.

Một số nhà khảo cổ đánh giá hang đá này là nơi cư trú lâu dài của người nguyên thủy trong văn hóa Hòa Bình.

Lối đi cổ mới phát hiện ở ngách phía Bắc hang 22.000 năm trước, lối đi đầu tiên của người nguyên thủy ra vào hang.

Nơi đây vừa là công xưởng chế tác công cụ Văn hóa Hòa Bình. Tới nay hơn 4.000 hiện vật khai quật tại đây.

Ngoài lối đi cổ, các nhà khảo cổ phát hiện dấu hiệu tro bếp và bộ hài cốt trên 14.000 năm đến 17.000 năm.

Khai quật những năm 80 thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu thấy những hạt thóc của người xưa rơi vãi, xác định thời Trần.

Hang Xóm Trại (thuộc huyện Lạc Sơn) là di tích quan trọng bậc nhất, tiêu biểu cho Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam và ĐNA.

Phát hiện 1980, 8 lần điều tra, thám sát, khai quật, các nhà khoa học phát hiện khối tư liệu hàng nghìn hiện vật, gồm vỏ nhuyễn thể, xương răng thú, di cốt người, gốm, di vật đá..

Di tích hang đá Xóm Trại, ngoài các hiện vật bằng đá, xương, sừng, gốm, các nhà khảo cổ thu khá nhiều tàn tích các vỏ nhuyễn thể và thực vật. Thấy tại đây một mộ ở địa tầng trên 17.000 năm trước.

Hang Xóm Trại (huyện Lạc Sơn) đánh giá là di tích quan trọng bậc nhất, tiêu biểu cho Văn hóa Hòa Bình.

Có thể khẳng định nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình cung cấp cho nhà khoa học trong nước và quốc tế cứ liệu khoa học về quá trình chuyển hóa từ người vượn tiền sử tiến lên người hiện đại, phương thức kiếm sống và canh tác, tổ chức xã hội người tiền sử.

(Nguồn: Báo Hòa Bình)

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Người tiền sử Bắc Sơn ở Hang Dơi, xã Vũ Lễ

80659729_1504820433007560_4348539582724177920_n.jpg


Văn hóa Bắc Sơn là tên gọi nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đồ đá mới có niên đại sau nền Văn hóa Hòa Bình, cách nay từ 1 vạn đến 8000 năm.

Bắc Sơn đặt theo tên huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), nơi đầu tiên phát hiện những di vật nền văn hóa này. Các bộ lạc chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình đã tạo Văn hóa Bắc Sơn.

Phân bố

Không gian Văn hóa Bắc Sơn là các miền đất thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An.. nay.

Tính đến 1997, có 51 điểm Văn hóa Bắc Sơn tìm thấy và khai quật. Trong đó có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người.

Người nguyên thủy trong nền Văn hóa Bắc Sơn trú trong hang động, mái đá gần sông suối. Họ sống bằng săn bắn, hái lượm, bắt đầu canh tác nông nghiệp ở mức độ rất sơ khai.

Công cụ lao động của họ bằng đá đẽo hoặc mài và từ tre, gỗ. Các công cụ này tỏ ra tinh vi hơn so với công cụ của người nguyên thủy thời Văn hóa Hòa Bình.

Đặc biệt, người nguyên thủy thời Văn hóa Bắc Sơn biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hơn so với người thời Văn hóa Hòa Bình và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn.

Nguồn wikipedia

Bắc Sơn – nối tiếp Văn hóa Hòa Bình

1. Niên đại và địa bàn phân bố Văn hóa Bắc Sơn

Từ khoảng trên dưới 1 vạn năm về trước, chủ nhân các bộ lạc Bắc Sơn nối tiếp quá trình phát triển của cư dân Văn hóa Hòa Bình. Nhiều hiện vật Văn hóa Bắc Sơn được phát hiện tạo thành lớp trên của Văn hóa Hòa Bình trong cùng một di tích cho thấy điều đó.

Tuy ra đời muộn nhưng Văn hóa Bắc Sơn có quan hệ gần gũi với Văn hóa Hòa Bình và cùng kết thúc thời gian cách ngày nay khoảng 7000 năm.

Cư dân Bắc Sơn sống rải rác trong các hang động, mái đá vùng núi đá vôi gần sông, suối.

Thuộc vùng trung, thượng du các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình..

Nhưng chủ yếu ở Lạng Sơn, Thái Nguyên. Tính đến 1997, các nhà khảo cổ học phát hiện 50 di chỉ khác nhau thuộc Văn hóa Bắc Sơn.

Căn cứ vào phân bố các di tích, có thể khẳng định địa bàn cư trú của các bộ lạc người Bắc Sơn mở rộng hơn.

2. Kỹ thuật chế tác công cụ trong Văn hóa Bắc Sơn

Giống người Hòa Bình, cư dân Bắc Sơn sử dụng cuội để chế tác công cụ, song kỹ thuật chế tác đạt trình độ cao hơn. Họ không chỉ biết ghè, đẽo công cụ mà còn biết mài đá.

Trong nhiều hang động thuộc Văn hóa Bắc Sơn, các nhà nghiên cứu tìm thấy nhiều rìu đá cuội được mài ở lưỡi, bên cạnh những công cụ được ghè đẽo một mặt kiểu Hòa Bình.

Rìu mài lưỡi khá phổ biến trong các di tích Văn hóa Bắc Sơn và là công cụ đặc trưng cho nền văn hóa này, các nhà khảo cổ học thường gọi là rìu Bắc Sơn (hay rìu mài lưỡi Bắc Sơn).

Trong kỹ thuật mài, người Bắc Sơn thường chọn những hòn cuội dẹt, dài, đẽo qua loa trên hai cạnh và lưỡi rồi đem mài trên một bàn sa thạch, tạo mặt lưỡi phẳng và sắc.

Những bàn mài của người Bắc Sơn thường có hình lòng chảo lõm.

Có những bàn mài làm từ phiến đá có những rãnh song song, giữa hai rãnh là phần cong nổi lên.

Những bàn đá mài như vậy giúp chủ nhân của Văn hóa Bắc Sơn tạo rìu đá khá sắc bén, với nhiều kiểu dáng khác nhau (như: Rìu có vai, rìu có chuôi tra cán, rìu tứ diện được mài cả hai mặt).

Ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa), người ta phát hiện một số rìu mài nhẵn toàn bộ hai mặt lưỡi.

Rìu mài lưỡi ở Bắc Sơn ra đời cách nay trên dưới 1 vạn năm, có thể xếp vào loại rìu đá mài sớm nhất thế giới.

Nhờ có kỹ thuật mài, những chiếc rìu Bắc Sơn sắc hơn rìu Hòa Bình, năng suất lao động được nâng cao hơn trước[1] .

Chủ nhân Văn hóa Bắc Sơn không chỉ có kỹ thuật đá mài trong chế tạo công cụ mà họ còn biết đến kỹ thuật làm đồ gốm.

Đặc điểm đồ gốm Bắc Sơn là có những đồ đựng, đồ nấu có cả miệng loe, đáy tròn.

Con người bấy giờ lấy đất sét nhào cát để khi nung đồ gốm không bị rạn nứt.

Độ nung gốm thời này chưa cao, hình dáng đồ gốm còn thô, số lượng đồ gốm còn ít. Đồ gốm trong Văn hóa Bắc Sơn chưa nhiều, kỹ thuật gốm chưa phát triển.

Việc xuất hiện đồ gốm trong Văn hóa Bắc Sơn đánh dấu bước tiến mới về loại hình công cụ buổi đầu thời đại đá mới.

Các nhà khảo cổ học thường gọi Văn hóa Bắc Sơn là văn hóa đá mới có gốm sơ kỳ. Việc tạo kỹ thuật làm gốm là một trong những dấu hiệu cho thấy Văn hóa Bắc Sơn có phát triển cao hơn Văn hóa Hòa Bình.

3. Trạng thái kinh tế, đời sống xã hội và đời sống tinh thần trong Văn hóa Bắc Sơn:

Về đời sống kinh tế

Kỹ thuật chế tác công cụ của cư dân Bắc Sơn nhiều tiến bộ so với trước (đặc biệt kỹ thuật mài).

Điều tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân Bắc Sơn chế tạo nhiều loại hình công cụ khác nhau từ đá, tre, gỗ, xương, sừng..

Đó là điều kiện tiên quyết để nâng cao hơn nữa năng suất lao động thời này lên một bước.

Ở các di chỉ thuộc Văn hóa Bắc Sơn tìm thấy nhiều chày đá và bàn nghiền hạt; một số bàn nghiền hạt có dấu hiệu bị lõm ở mặt, có thể đây là những bàn nghiền hạt các loại cây trồng của cư dân thời bấy giờ[2] .

Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp vẫn chưa giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế – xã hội của con người Bắc Sơn.

Hái lượm, săn bắn vẫn là những hoạt động kinh tế chủ yếu của con người thời này.

Tìm thấy trong các hang động cư trú của người Bắc Sơn (như hang Cườm – Lạng Sơn) những đống vỏ ốc, xương thú chất thành lớp dày 3m là minh chứng cho điều đó.

Tất nhiên, với hoạt động kinh tế khá đa dạng bên cạnh hái lượm, săn bắn còn làm nông nghiệp, đánh bắt cá.. khiến nguồn thức ăn của người Bắc Sơn có phần đa dạng hơn trước. Nguồn thức ăn phong phú là cơ sở để con người bấy giờ sống định cư khá lâu dài ở một địa điểm.

Về tổ chức xã hội Bắc Sơn

Giống như giai đoạn Văn hóa Hòa Bình, người Bắc Sơn về cơ bản vẫn chưa vượt khỏi tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ.

Đời sống tinh thần của cư dân Bắc Sơn có bước nâng cao hơn đời sống người Hòa Bình.

Chủ nhân Văn hóa Bắc Sơn tạo nhiều loại đồ trang sức để làm đẹp cho mình, như các loại đồ trang sức bằng đá phiến có lỗ đeo.

Các chuỗi hạt bằng đất nung hình trụ hay hình thoi ở giữa có xuyên lỗ, các loại vỏ ốc biển, vỏ trai, vỏ trùng trục được mài, có xuyên lỗ làm dây đeo..

Ở di chỉ mái đá phố Bình Gia (Lạng Sơn), người ta phát hiện 28 vỏ ốc biển có xuyên lỗ – một bằng chứng về đồ trang sức của con người thời này.

Một số hang động ở Bắc Sơn, các nhà khảo cổ học phát hiện những mảnh đá phiến nhỏ.

Trên đó người nguyên thủy khắc lên những đường rẻ quạt, đường tròn hay hình vuông, hình chữ nhật gần nhau.

Đó là những điều kiện cho thấy những vật bằng đá phiến hoặc đất sét mà ở trên rìa cạnh của chúng có nhiều đường thẳng được vạch song song tạo thành từng nhóm.

Phải chăng đây là những dấu hiệu được đánh dấu hay là những số đếm của con người thời bấy giờ[3] .

Cách táng thức, người Bắc Sơn cũng như người Hòa Bình đều có cách chôn người chết khác nhau (như trói chặt người chết, chôn người chết theo tư thế nằm co) và thường chôn theo người chết công cụ lao động kèm theo đồ trang sức.

Hang làng Cườm (Lạng Sơn) là khu mộ tập thể cho nhiều hiểu biết về cách mai táng người Bắc Sơn.

Có thể, cư dân Bắc Sơn đã có ý niệm rõ ràng về thế giới bên kia – thế giới của người chết và mối quan hệ giữa người sống và người chết (người chết cũng cần sử dụng công cụ lao động và đồ trang sức giống người sống).

Tóm lại, Văn hóa Bắc Sơn với những đặc điểm cho thấy liên hệ nối tiếp và phát triển hơn một bước so văn hóa Hòa Bình: Đều sử dụng những viên cuội để chế tác công cụ lao động, đều có nền nông nghiệp sơ khai..

Nhưng Văn hóa Bắc Sơn với công cụ phổ biến là rìu mài lưỡi và đồ gốm tạo những nét đặc trưng riêng so với Văn hóa Hòa Bình, tạo nền văn hóa đá mới có gốm ở vùng núi khá độc đáo.

[1] Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến 1858 (Đại cương), NXB ĐHQG, Hà Nội, tr 14.

[2] Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến 1858 (Đại cương), NXB ĐHQG, Hà Nội, tr16.

[3] Phan Lê Huy, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Minh: Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr 33.

Nguồn:

Web bachkhoatrithuc

Web covatvietnam

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Hiện vật khảo cổ được khai quật ở Bắc Sơn như rìu đá, mảnh gốm, đồ trang sức, công cụ ghè đẽo..

71515698_1220098651523718_6098862261923741696_n.jpg


Công cụ bằng đá Văn hóa Bắc Sơn

Văn hóa Bắc Sơn thuộc sơ kỳ thời đại đá mới của người nguyên thủy nảy sinh từ trong lòng Văn hóa Hòa Bình.

Các di tích thuộc Văn hóa Bắc Sơn phát hiện trong các núi đá vôi Bắc Sơn (thuộc tỉnh Lạng Sơn) và tỉnh Bắc Cạn.

Các di tích này tìm thấy trong vùng phân bố của Văn hóa Hòa Bình như Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình..

Cư dân Bắc Sơn dù biết đến nông nghiệp nhưng nguồn sống chính vẫn là nhờ săn bắt và hái lượm.

Một thành tựu kỹ thuật mới của cư dân Bắc Sơn là biết chế tác đồ gốm. Đồ gốm Bắc Sơn thường có miệng loe và đáy tròn.

Độ nung của gốm chưa cao. Mặc dù Văn hóa Bắc Sơn đạt trình độ cao hơn Văn hóa Hòa Bình, đã là văn hóa mới có gốm sơ kỳ, nhưng cấu trúc xã hội của cư dân Bắc Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ công xã thị tộc mẫu hệ.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 8.

Nguồn:

Web lichsuvietnam

"Dấu Bắc Sơn" là tên gọi bàn mài phát hiện đầu tiên trong các di tích hang động thuộc thời đại đá ở dải núi đá vôi thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

Tên gọi này do hai nhà khảo cổ học người Pháp là H. Mansuy và M. Colani xác định khi họ nghiên cứu các di tích thuộc Văn hóa Bắc Sơn - một văn hóa khảo cổ có niên đại cách nay ước chừng 11.000-7.000 năm. Tên gọi "Văn hóa Bắc Sơn" và "Dấu Bắc Sơn" là do họ xác lập.

Về niên đại, Văn hóa Bắc Sơn có thời gian cuối ở sơ kỳ thời đại đá mới khoảng 7.000 năm với xuất hiện công cụ cuội mài lưỡi là có thể tin được, song với những chiếc "Dấu Bắc Sơn" đến nay vẫn là tồn nghi chưa có lời giải đáp đầy đủ.

Giới khảo cổ học vẫn coi "Dấu Bắc Sơn" là tiêu chí chỉ thị tính chất văn hóa và nếu di tích khảo cổ học nào tìm thấy loại di vật này thường được họ xếp ngay vào Văn hóa Bắc Sơn. Vậy có đích thực là những chiếc "Dấu Bắc Sơn" là tiêu chí xác định những di chỉ khảo cổ chứa đựng chúng thuộc thời đại đồ đá.

Khai quật hang Ngườm Vài (Thông Nông, Cao Bằng), một di chỉ được xếp vào Văn hóa Bắc Sơn tìm thấy loại di vật này tuy số lượng so với tổng số di vật đá không nhiều (53/2.040).

Cùng "Dấu Bắc Sơn", tại đây còn tìm được khá nhiều mảnh gốm vỡ thuộc thời kim khí, mảnh vỡ của công cụ đá mài, chì lưới đánh cá (chế tạo bằng cách khoan - mài), đá có vết và nhiều viên cuội nhỏ có vết mài.

Quan sát "Dấu Bắc Sơn", ta sẽ thấy chúng là bàn mài dùng chế tác hay làm sắc rìa lưỡi của một loại công cụ khác có độ cứng cao hơn chúng.

Về chất liệu, các "Dấu Bắc Sơn" thường là những viên cuội mỏng dẹt, dài chủ yếu là cuội sét kết hay cát kết mịn có độ cứng không cao lắm, tuy nhiên cũng có những chiếc làm bằng cuội silic hoặc bán quartz có độ cứng cao.

Vết mài trên các "Dấu Bắc Sơn" có hình cong khum, một số ít có hình chữ V ngược.

Điều đó cho biết loại công cụ mài có rìa lưỡi vũm với kích thước nhỏ bởi các vết mài chỉ rộng từ 0, 5cm đến xấp xỉ 1, 0cm, thông thường chỉ trong khoảng 0, 5-0, 7cm.

Vết mài trên di vật này thẳng, nhẵn bóng, rìa cạnh của vết mài (kể cả ở hai đầu) sắc gọn.

Chất liệu và dấu vết kỹ thuật trên di vật cho hay chúng là những chiếc bàn mài đánh bóng hay "lấy lưỡi" của vật được mài, tức là chúng chỉ dùng làm tăng độ sắc bén của rìa lưỡi công cụ và loại công cụ được mài có độ cứng cao hơn những chiếc "Dấu Bắc Sơn" rất nhiều.

Đến nay chưa có loại di vật nào tìm thấy trong các hang động thuộc Văn hóa Bắc Sơn có rìa lưỡi vũm tương đương với những chiếc "Dấu Bắc Sơn" phát hiện.

Một số người cho những chiếc bàn mài này dùng để mài công cụ xương bởi chỉ có công cụ làm bằng xương mới có hình cong khum.

Song loại xương có thể sử dụng làm công cụ lại thường là xương ống của động vật lớn như trâu bò hay hươu nai nên vết mài vũm nếu có cũng lớn hơn vết mài trên các:

"Dấu Bắc Sơn" nhiều lần (chỉ có xương ống chân chim hoặc gà mới có kích thước gần tương đương với vết mài của "Dấu Bắc Sơn"). Nên, theo chúng tôi, ý kiến trên khó đứng vững được.

Từ dấu vết kỹ thuật còn lưu lại trên các "Dấu Bắc Sơn", chúng tôi cho rằng chúng được dùng để mài công cụ kim loại.

Bởi chỉ có kim loại mới để lại vết mài sắc gọn, nhẵn bóng trên loại di vật này được.

Và, những chiếc "Dấu Bắc Sơn" ở Ngườm Vài cũng như trong các di chỉ chứa chúng khác không phải loại công cụ không gia công của thời đại đá mà là sản phẩm thời kim khí.

Do vậy, "Dấu Bắc Sơn", cuội nhỏ có vết mài là những tiêu chí có thể sử dụng để xếp những di tích khảo cổ chứa chúng vào thời kim khí.

(Tác giả: Đào Quý Cảnh)

(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)

Web khaocohoc

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
ĐỒ ÁN VĂN KHẮC VẠCH CHÂN ĐẾ GỐM MAI PHA.

71145743_1226325944234322_1327536689970675712_n.jpg


Mai Pha (Lạng Sơn) – nền văn hóa mang đậm giá trị nghệ thuật đặc sắc

Kế thừa Văn hóa Bắc Sơn là Văn hóa Mai Pha; cư dân Văn hóa Mai Pha thuộc hậu kỳ đá mới và tồn tại trong khung niên đại từ 5000 đến 3500 năm cách ngày nay.

Văn hóa Mai Pha gọi theo tên di chỉ hang Mai Pha, nằm trong núi đá nhỏ đơn độc giữa thung lũng ở phía Nam xã Mai Pha, tên ngọn núi chứa di chỉ hang Mai Pha theo tiếng địa phương là núi Phia Nùn có nghĩa Núi Tuyết.

Di chỉ này có mối liên hệ mật thiết với núi Phia Điểm (di chỉ khảo cổ học (KCH) phía Nam thành phố Lạng Sơn đã khai quật 1998).

Di chỉ KCH Mai Pha được nhiều nhà KCH, sử học tới đây khảo sát nhiều lần.

Lần đầu do ông Retíp (một chủ đồn điền trồng chè của Pháp tại Lạng Sơn những năm 1920 do di chỉ nằm trong khu vực đồn điền chè của ông) khảo sát nhẹ lớp mặt hang và thu thập một số di vật bằng gốm (bát bồng chân đế cao, âu gốm) cùng một số công cụ bằng đá (rìu đá, mảnh tước).

Đến những năm sau này (1921; 1923) có hai nhà sử học và nhà địa chất học người Pháp là H. Mansuy và M. Colani cũng tới đây khảo sát và đào thám nhỏ lại tại hang này và cũng thu thập một số công cụ đá, gốm (giống như di vật của ông Retip khảo sát và thu thập trước đó).

1995 Bảo tàng Tổng hợp tỉnh tiếp tục khảo sát và đào thám sát hang này kết quả thu được rất khả quan.

1996 địa chỉ di chỉ hang Mai Pha chính thức khai quật KCH. Hơn 1 tháng khai quật, kết quả thu được rất tốt gồm:

123 hiện vật đá, trong đó có 70 rìu, bôn, đục, bàn mài bằng đá và 12 đồ trang sức bằng đá:

Vòng tay, khuyên tai và 23 hiện vật bằng xương cùng các đồ trang sức khác.

Tại đây phát hiện dấu tích mộ kè đá; mộ vò (loại mộ xếp chèn xung quanh bằng những bát gốm) cùng xương bị đốt cháy, quanh khu vực di chỉ phát hiện 5 bếp cùng nhiều mẫu tro, than, xương, vỏ ốc bị đốt cháy..

Qua dấu tích bếp lửa thể hiện rõ cư dân Mai Pha biết ăn chín, uống sôi (thông qua các loại đồ đựng bằng gốm: Bát bồng, nồi miệng loe) cùng rất nhiều các mảnh vỡ gốm vương vãi khắp di chỉ, điều đó cho thấy lúc này có xuất hiện tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hóa.

Cư dân Văn hóa Mai Pha về kỹ thuật chế tác lúc này phát triển và kế thừa từ cư dân Văn hóa Bắc Sơn, cuộc sống của họ còn rất khó khăn và nơi cư trú chủ yếu vẫn trong các hang động và mái đá.

Về cộng đồng xã hội lúc này chưa phát triển, họ sống quần cư tạo thành nhóm người hoặc tập thể hay bộ lạc, cuộc sống còn ăn hang ở hốc nhưng họ biết cảm thụ về nghệ thuật và có cảm nhận nhất định về nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật trang trí.

Về nghệ thuật tạo hình cư dân Mai Pha làm thay đổi hình dáng vật thể từ những hòn đá đơn thuần qua chế tác tạo thành những rìu rất đẹp như: Rìu mài lưỡi, rìu tứ giác, rìu có vai..

Cư dân Mai Pha còn biết tạo vật thể mới từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên đó là đồ gốm:

Nồi, âu, bình, bát.. (đặc biệt bát bồng chân đế cao).

Chất liệu chủ yếu của gốm Văn hóa Mai Pha khá phổ biến và phong phú, hầu hết đều làm từ đất sét.

Đa số gốm Văn hóa Mai Pha có màu gạch đỏ, một số có màu đen (do ám khói khi nung hoặc đun nấu) cũng có một số mảnh đen bóng có lẽ do tạo bởi một loại nhựa từ vỏ cây hoặc chất keo nào đó.

Phần lớn chân đế của gốm Mai Pha trang trí nhiều nhất, phần thân chỉ được trang trí nhẹ như vặn thừng trải, vặn thừng mịn và vặn thừng thô, có loại để trơn không trang trí.

Gốm khắc vạch kết hợp chỗ lỗ thủng ở chân đế bát bồng là nét nổi bật nhất trong nghệ thuật chạm khắc và trang trí gốm Mai Pha.

Ngoài việc trang trí hoa văn trên gốm Mai Pha, cư dân Văn hóa Mai Pha biết chế tác các đồ dùng, đồ trang sức, công cụ lao động sản xuất và vũ khí từ nhiều chất liệu khác nhau: Đá, xương, mảnh vỏ trai..

Thông qua nền Văn hóa Mai Pha và những hiện vật, di vật thu thập được tại di chỉ Mai Pha có thể khẳng định người tiền sử Mai Pha có những cảm nhận về mỹ thuật từ rất sớm, từ mỹ thuật chạm khắc đến mỹ thuật tạo hình.

Họ biết tạo tác ra các loại công cụ sản xuất, đồ trang sức.. bằng đủ mọi chất liệu đạt trình độ cao.

Đồng thời họ biết bảo lưu và sáng tạo những họa tiết, hoa văn trên đồ dùng và chế tác ra những công cụ, đồ trang sức đẹp hơn, thẩm mỹ hơn.

Nguồn:

Web covatvietnam

Di chỉ khảo cổ học Mai Pha đang bị lãng quên

Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc với nhiều di tích, thắng cảnh nổi tiếng như các hang động:

Nhất, Nhị, Tam Thanh, nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc, núi Mẫu Sơn; các di chỉ khảo cổ:

Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Bình Gia), Phai Vệ & hellip; có thể nói di chỉ khảo cổ học Mai Pha là một trong những điểm dừng chân thú vị.

Nếu có lối vào sẽ thu hút không ít du khách vì nằm ngay cửa ngõ vào thành phố, rất thuận tiện giao thông.

Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh xác định:

Ưu tiên phát triển du lịch dịch vụ. Tiếc rằng một điểm di tích nổi tiếng như di chỉ khảo cổ học Mai Pha lại đang bị bỏ phí.

Theo phản ánh của một số cử tri thôn Mai Thành, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn:

Địa bàn thôn có một Di tích Lịch sử Quốc gia đã xếp hạng, đó là di chỉ khảo cổ học Mai Pha.

Nhiều năm nay di chỉ không có lối vào, các du khách trong và ngoài tỉnh không thể đến tham quan, tìm hiểu.

Người dân ở đây nhiều lần kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền với mong muốn mở lối vào di chỉ để giới thiệu, quảng bá thêm địa điểm du lịch của Lạng Sơn với du khách thập phương nhưng chưa thấy hồi âm.

Trước phản ánh của các cử tri, phóng viên Báo Lạng Sơn tìm hiểu và được biết:

Vấn đề mà dân thôn Mai Thành kiến nghị là có thật, Báo Lạng Sơn phản ánh cánh đây hơn 2 năm qua bài viết:

"Nỗi buồn di chỉ."

Nhưng từ đó đến nay vẫn chưa thấy hồi âm hoặc phương án giải quyết từ các ngành chức năng.

Để bạn đọc tiện theo dõi và phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng của bà con, chúng tôi xin tiếp cận lại vấn đề.

Theo tìm hiểu và những tài liệu chúng tôi có được:

Di chỉ khảo cổ học Mai Pha phát hiện năm 1945 ở ngọn núi đá vôi nhỏ, thuộc xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn.

1996, các nhà khảo cổ học khai quật trong diện tích rộng khoảng 80m2 phát hiện, thu giữ 29.500 mảnh gốm, 123 công cụ đá, trong đó có:

Rìu, bôn, đục bằng đá mài, vòng tay, khuyên tai, 23 đồ xương như:

Đục vũm, dùi xương, đặc biệt có 7 rìu bôn có vai làm bằng vỏ trai, ốc biển Cypreac được mài thủng xâu lỗ làm đồ trang sức cùng rất nhiều xương, răng động vật; phát hiện dấu tích mộ kè đá, mộ vò với xương răng bị đốt cháy.

Có thể khẳng định di chỉ khảo cổ học Mai Pha từng là nơi sinh sống của người tiền sử cách nay khoảng 3.500 năm.

Là điểm quan trọng nhất Văn hóa Mai Pha được tiếp nối Văn hóa Bắc Sơn và có liên hệ chặt chẽ với Văn hóa Phùng Nguyên, Văn hóa Hạ Long, và là một trong những hợp nguồn tạo dựng văn hóa Việt cổ sau này.

Với những giá trị văn hóa, lịch sử, di chỉ khảo cổ học Mai Pha xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia 1990.

Chị Hồng nhà ngay đối diện khu di chỉ cho biết:

"Chị rất tự hào khi trong thôn có một di tích được xếp hạng quốc gia như di chỉ khảo cổ học Mai Pha.

Là người trong thôn nên chị từng chứng kiến cảnh nhiều đoàn khách du lịch dừng xe khu vực này, tìm cách lên núi, vào hang động tham quan, tìm hiểu" nơi ăn chốn ở "của người xưa nhưng không lên được đành nuối tiếc quay đi.

Thấy cảnh đó chị rất buồn, xen lẫn một chút áy náy, thất vọng vì sự thiếu quan tâm của các ngành chức năng.

Áy náy vì mình là dân ở đây, trước những mong muốn chính đáng của du khách mà không giúp gì được do không có đường vào, trước mặt bị nhà dân chắn lối, xung quanh ruộng ao ngập nước vây kín."

Ông Nông Văn Hoàn, người thôn Mai Thành kể lại:

"Cách đây hơn 10 năm, ở khu vực này có phong trào khai thác đá để nung vôi, làm vật liệu xây dựng rất rầm rộ, ngọn núi nơi có di chỉ khảo cổ học Mai Pha từng bị dân đập phá nham nhở.

Rất may sau đó chính quyền các cấp can thiệp kịp thời nên cứu được ngọn núi này khỏi bị xâm hại.

Sau đợt khai quật năm 1996, các ngành chức năng xây dựng bảng biển di tích trên đỉnh núi và làm đường dẫn từ chân núi lên cửa hang.

Tuy nhiên, phần quan trọng nhất là lối vào lại không có, dù từ đường Hùng Vương kéo dài đến chân núi chỉ chưa đầy 30m.

Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc với nhiều di tích, thắng cảnh nổi tiếng như các hang động:

Nhất, Nhị, Tam Thanh, nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc, núi Mẫu Sơn; các di chỉ khảo cổ:

Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Bình Gia), Phai Vệ & hellip; và có thể nói di chỉ khảo cổ học Mai Pha là một trong những điểm dừng chân thú vị.

Nếu có lối vào sẽ thu hút không ít du khách vì nằm ngay cửa ngõ vào thành phố, rất thuận tiện giao thông.

Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh xác định:

Ưu tiên phát triển du lịch dịch vụ. Tiếc rằng điểm di tích nổi tiếng như di chỉ khảo cổ học Mai Pha lại đang bị bỏ phí.

Hoàng Huy

Nguồn:

Web baolangson

Nét đặc sắc của gốm tiền sử ở Mai Pha (Lạng Sơn)

5 -1996, khai quật có quy mô lớn tại di chỉ Mai Pha (thị xã Lạng Sơn) trong khuôn khổ của chương trình hợp tác nghiên cứu đầu tiên giữa Bảo tàng Lạng Sơn và Viện Khảo cổ Hà Nội.

Bên cạnh những di vật về đồ đá, đồ xương, mộ táng và di cốt người, ở đây còn thu 28.248 mảnh gốm.

Với khối lượng lớn về di vật gốm này, Mai Pha vượt lên tất cả các địa điểm tiền sử đã biết ở Lạng Sơn nói riêng và các tỉnh vùng núi phía Bắc nói chung về đồ gốm.

Trước hết gốm Mai Pha mang đầy đủ những đặc điểm và tính chất chung của đồ gốm thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí ở nước ta.

Chất liệu chủ yếu là sét và cát, xương gốm mỏng, cứng và có độ nung cao, chế tạo chủ yếu bằng bàn xoay.

Đại bộ phận trang trí vặn thừng và một số hoa văn khắc vạch, trổ lỗ thủng, miếng lát, phần lớn phủ màu đỏ thổ hoàng, xuất hiện loại hình đồ đựng mang tính nghệ thuật cao (bát bồng).

Tuy nhiên so với các vùng đồng bằng và ven biển, gốm Mai Pha cũng bộc lộ nhiều nét riêng biệt.

Toàn bộ gốm Mai Pha đều thuộc loại gốm cứng chắc, màu đỏ gạch, một số ít gốm đen hoặc có dấu vết ám khói, chủ yếu là nồi, bát và bát bồng, kích thước đồ đựng nhỏ, không thấy loại hình vò, chậu hay bình.

Về hoa văn, ở Mai Pha chỉ có 3 loại:

Thừng, khắc vạch và trổ lỗ thủng, không có hoa văn kiểu in dấu vải hay chấm dải như trong Văn hóa Phùng Nguyên hay văn đắp nổi hoặc in mép vỏ sò thường thấy trong các Văn hóa Hạ Long hay Hoa Lộc.

Văn chải cũng hoàn toàn vắng mặt. Nhưng điều đó không phản ảnh trình độ thấp hay nghèo nàn của nghệ thuật trang trí Mai Pha.

Trái lại trình độ kỹ thuật tạo văn và tư duy mỹ cảm của người thợ gốm ở đây khá cao.

Hoa văn vặn thừng trên gốm Mai Pha rất tinh xảo, mịn và đẹp do tạo bằng kỹ thuật trục lăn có quấn dây nhỏ, săn.

Các đường nét dấu thừng trên gốm Mai Pha đều rất dài, thẳng chạy dọc theo trục đứng đồ đựng.

Đó là một trong những đặc điểm để phân biệt gốm vặn thừng Mai Pha với các văn hóa khác.

Có thể nói hoa văn vặn thừng Mai Pha không chỉ ý nghĩa về kỹ thuật mà thực sự nó thành loại hoa văn có tính trang trí cao.

Riêng về nghệ thuật trang trí bằng kỹ thuật khắc vạch và trổ lỗ thủng, người thợ gốm Mai Pha biết kết hợp rất hài hòa để tạo ra những mô típ hoa văn đẹp và gây ấn tượng mạnh mẽ.

Nổi bật nhất là hoa văn hình" hoa thị "và các biểu hiện của nó, bố trí liên hoàn quanh vành chân đế bát bồng.

Với cách bố trí các mô típ" hoa thị"nối nhau chạy quanh vành chân đế sẽ có một dải hoa văn rất đẹp và sinh động.

Các biến thể của loại hoa văn này tạo bằng cách phân tách chúng thành các dạng hoa văn hình 2 cánh lá, 1 cánh lá hoặc nửa cánh lá, cổ trổ lỗ ở giữa tạo những đường vạch thẳng dạng hình học.

Một số là hình chữ V kép, hoặc những đường thẳng song song cắt chéo nhau thành hình chữ thập.

Giữa đầu nhọn chữ V hay ở điểm cắt nhau của chữ thập đều được trổ lỗ thủng.

Vì vậy chúng tôi cho rằng chúng cũng là những biến thể của phong cách mô típ hình hoa thị.

Có thể nói đây là hoa văn chủ đạo mang tính biểu tượng đặc sắc nhất trong nghệ thuật trang trí trên gốm Mai Pha. Nó chưa hề tìm thấy trong bất cứ nền văn hóa nào đã biết ở nước ta.

Về loại hình đồ đựng, bên cạnh phổ biến loại nồi có miệng loe gần gãy ở cổ, thân đáy tròn và bát đồng có chân đế được trang trí hoa văn hình hoa thị nói trên.

Mai Pha còn xuất hiện một số đồ đựng có gắn quai từ mép miệng loe xuống vai đồ đựng và loại đồ đựng có gắn núm gốm ở thân được dùi lỗ dọc từ trên xuống dùng để xỏ dây mang.

Ngoài ra còn có loại đồ đựng gắn 2 tai ngay mép miệng giống chảo hoặc chiếc sanh hiện đại. Đây là loại hình đồ đựng đầu tiên được tìm thấy ở nước ta.

Các vấn đề đặt ra từ khối tài liệu đồ gốm ở Mai Pha tất nhiên chưa được khẳng định, vẫn cần phải được nghiên cứu và phát hiện.

Tuy nhiên, giá trị phản ánh tính riêng biệt và độc đáo đồ gốm Mai Pha là điều không còn nghi ngờ gì nữa.

Đó là khối tài liệu quan trọng và có tính đặc thù nổi bật nhất trong di tồn văn hóa của cư dân tiền sử ở Mai Pha.

Thanh Nhàn (biên tập)

Nguồn:

Web baotanglichsu

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Mảnh đồ gốm đáy nhọn Văn hóa Quỳnh Văn

70936804_1220103428189907_6533933030145261568_n.jpg


Văn hóa Quỳnh Văn (thời đại đồ đá mới, khoảng 6.000 – 3.500 năm cách ngày nay) phát hiện từ những năm 1930 bởi các học giả người Pháp.

Đến nay hơn 70 năm nghiên cứu với 21 di tích, phân bố ven biển Nghệ An và Hà Tĩnh, chủ yếu tập trung quanh vịnh biển cổ Quỳnh Lưu.

Xương cốt động vật, di vật đá, gốm, bếp lửa.

Công cụ đá Quỳnh Văn ít về số lượng, nghèo nàn về loại hình, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ, chủ yếu tạo từ đá gốc.

Loại hình thường thấy là các công cụ không xác định, công cụ hình đĩa, công cụ hình múi bưởi, công cụ hình rìu dài và công cụ hình rìu ngắn.

Đồ gốm thô, hầu hết là đồ đun nấu với kích thước lớn, tạo hình bằng tay kết hợp bàn đập hòn kê. Đồ gốm 4 loại chủ yếu:

Gốm đáy tròn văn in đập, gốm đáy tròn vặn thừng, gốm đáy tròn vặn thừng ở mặt ngoài và văn chải ở mặt trong, gốm đáy nhọn văn chải 2 mặt.

Gốm đáy nhọn, văn chải 2 mặt là đặc trưng tiêu biểu nhất Văn hóa Quỳnh Văn. Các loại hình hiện vật khác như xương, đồ trang sức có số lượng ít[1] .

Tổng quan

Tại Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) con người đánh bắt sò điệp về ăn và vứt vỏ lại nơi cư trú, lâu ngày vỏ tích lại thành những đồi lớn.

Người Quỳnh Văn biết làm đồ gốm. Gốm nặn bằng tay, chưa biết dùng bàn xoay, nhưng có độ dày khá đều.

Người Quỳnh Văn sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, săn bắt và bước đầu biết đến nông nghiệp.

Các nhà khảo cổ học xếp di chỉ Quỳnh Văn là loại tiêu biểu nhất văn hóa đồ đá mới có gốm ở ven biển Nghệ Tĩnh.

Di tích

Tại đồi vỏ hến Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) tìm nhiều rìu bằng đá cuội, chỉ mài ở lưỡi và khá nhiều mảnh gốm còn thô vụng, độ nung thấp. Đồ gốm ở đây phát triển hơn đồ gốm trong Văn hóa Bắc Sơn.

Chủ nhân di chỉ Đa Bút là những người săn bắt, đánh cá và biết thuần dưỡng súc vật như bò, chó..

Khảo cổ học xếp di chỉ này giai đoạn "đồ đá mới cuối Bắc Sơn."

Chú thích

1. Văn hóa Quỳnh Văn Bảo tàng Nhân học

Nguồn:

Wikipedia

Văn hóa Bắc Sơn – Quỳnh Văn - Đa Bút

TRẦN KIÊM ĐẠT

Văn hóa Bắc Sơn

Nối tiếp Văn hóa Hòa Bình là Văn hóa Bắc Sơn và Văn hóa Quỳnh Văn thuộc thời đại sơ kỳ đồ đá mới.

Những di tích thuộc Văn hóa Bắc Sơn phát hiện đầu tiên trong những hang động vùng núi đá vôi Bắc Sơn và phụ cận.

Những di tích thuộc văn hóa này phát hiện ở khu tìm thấy Văn hóa Hòa Bình như Hòa Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình. Một số ở miền Trung Việt Nam.

Tương tự những vùng núi đá vôi khác ở Việt Nam, vùng đá vôi Bắc Sơn có nhiều loại hang động thuận lợi làm chỗ cư trú cho bầy người nguyên thủy.

Hang Bó Man ở Kéo Phầy (Lạng Sơn) là loại hang đẹp, rộng khoảng 15m, ăn sâu vào núi 11m, cửa hang cao khoảng 6, 50m.

Hang Thẩm Khoách ở huyện Bình Gia là di chỉ nổi tiếng của Văn hóa Bắc Sơn, rộng 60m, dài 100m, cao 40m.

Qua khảo sát, tầng văn hóa trong những loại hang động Bắc Sơn là lớp đất xốp, đa phần là 1 lớp đá vôi lẫn nhiều vỏ nhuyễn thể, xen lẫn lớp tro xám.

Dưới tầng văn hóa này là lớp đất sét trắng hay vàng, nâu. Tìm thấy trong tầng văn hóa này những công cụ đá của chủ nhân Bắc Sơn.

Kỹ thuật chế tác:

Văn hóa Bắc Sơn, kỹ thuật mài khá phổ biến. Bên cạnh những công cụ mài, một số địa điểm văn hóa Bắc Sơn vẫn còn thấy những công cụ đẽo theo kiểu Văn hóa Hòa Bình trước đó.

Đó là những công cụ bằng đá cuội ghè đẽo 1 mặt, mặt kia để nguyên. Đa phần đều hình bầu dục, hạnh nhân hay hình đĩa.

Người nguyên thủy dùng những công cụ này để chặt. Ngoài ra còn những công cụ bằng cuội đẽo, hình bán viên, lưỡi tròn đốc dày và thẳng ngang, dùng làm lao hay nạo.

Công cụ:

Những công cụ tiêu biểu nhất Văn hóa Bắc Sơn là rìu chỉ mài ở lưỡi thường thấy ở mọi di chỉ văn hóa này; khác hẳn loại rìu ngắn Văn hóa Hòa Bình. Rìu chiều ngang hẹp hơn, chiều dài dài hơn loại rìu ngắn Văn hóa Hòa Bình.

Người nguyên thủy chế tác rìu Bắc Sơn bằng cách chọn những viên cuội dài dẹp, đẽo qua loa 2 mặt và rìa cạnh, làm sao cho viên cuội cân xứng.

Một số rìu làm bằng những hòn cuội để nguyên, đem mài một đầu làm lưỡi. Những phần khác không sửa. Rìu Bắc Sơn lắp bằng cán tre hay cán gỗ, nhưng hỏng vì thời gian.

Rìu Bắc Sơn thường có lưỡi mài cân ở giữa, không mài vẹt một bên.

Những lưỡi rìu này chạy dọc song song cán như rìu chặt hiện nay. Đốc rìu để đẽo và tu sửa cho thon, tra cán dễ.

Những công cụ ghè đẽo thường chế tác bằng loại đá Riolit; công cụ mài lưỡi thường làm bằng loại đá Flanit hay đá xanh thường thấy nay.

Những loại đá này rất dẻo và rắn chắc, bước tiến quan trọng trong cách chế tác dụng cụ, so với các văn hóa trước đó.

Phiến thạch:

Hầu hết các hang động Bắc Sơn có rất nhiều viên cuội phiến thạch nhỏ, có những dấu mài 2 rãnh song song. Những phiến thạch này rất nhiều đến nỗi xem là dấu hiệu Văn hóa Bắc Sơn.

Đó là loại bàn mài nhỏ mài công cụ nhỏ. Những dụng cụ nhỏ không tìm thấy, chỉ còn vết tích những viên cuội phiến thạch.

Vết tích Bình Long phát hiện thỏi xương tròn có lưỡi vụm. Đó là đục nhỏ, để lại những dấu mài có 2 rãnh trên những viên phiến thạch.

Trong những di tích thuộc Văn hóa Bắc Sơn còn tìm thấy một số công cụ bằng xương như: Rìu, mũi dùi, đục. Có những rìu xương rất lớn, dài 18cm.

Đồ gốm:

Đồ gốm chế tác giai đoạn này. Hang động Bắc Sơn tìm thấy những mảnh gốm. Một số mảnh còn dấu vết đan. Căn cứ dấu đan trên gốm, cho thấy kỹ thuật đan giai đoạn này khá phát triển.

Người nguyên thủy thời Bắc Sơn có thể đan những đồ đựng dày và đều. Họ biết cách nặn những đồ gốm mà không cần khuôn đan. Hoa văn trên những đồ gốm này thường đơn giản, như vạch chéo, răng lược, văn sóng nước.

Xem xét những hoa văn này cho biết ngườỉ nguyên thủy tạo hoa văn khi đồ gốm còn ướt. Một số hoa văn khác cho thấy người nguyên thủy dùng đến bàn rập để in hoa văn lên bề mặt gốm. Một số hoa văn khác do người nguyên thủy dùng que nhọn để điểm xuyết thêm trên gốm ướt.

Đồ gốm Bắc Sơn thường có miệng loe và đáy hình tròn. Một số hòn đá trong hang động có dấu vết khói đen, đó là những hòn đá kê lên để nấu những thức ăn.

Về kỹ thuât nung của những loại gốm này vẫn chưa cao. Người nguyên thủy biết cách nhào đất sét lẫn cát và tro để khi nung đồ vật không vỡ hay rạn nứt.

Xem như thế, đồ gốm trong Văn hóa Bắc Sơn đánh dấu bước tiến lớn trong đời sống cư dân nguyên thủy. Số lượng những mảnh gốm tìm thấy vẫn còn ít; chứng tỏ chế tác đồ gốm chưa phát triển mạnh giai đoạn Văn hóa Bắc Sơn.

Bên cạnh đồ gốm nấu nướng, thấy vết tích những vỏ cây, ống tre để nấu nướng hay để đựng. Các hang động Văn hóa Bắc Sơn thấy xương và răng thú trong tầng văn hóa.

Một số hang động thấy xương gấu, xương cầy cáo, xương nhím và xương khỉ, thấy xương và răng tê ngưu. Nghề săn khá phát triển.

Những xương thú này vỡ từng mảnh. Người nguyên thủy ăn thịt, vứt xương hay đập nát xương hút tủy. Như thế tuy tạo đồ gốm nhưng họ vẫn thích nấu nướng như giai đoạn trước.

Hái lượm

Ngành hái lượm vẫn tiếp tục phát triển và đóng vai trò quan trọng tìm thực phẩm nuôi sống. Họ đi bắt ốc ở sông suối về ăn.

Vỏ trai ốc chất lại thành từng đống lớp dày trong các hang động có người ở.

Trong số ốc vặn tìm thấy nhiều nhất là loài ốc nước ngọt sống ở các sông suối, ốc đất và các loài trai ốc khác.

Hang Làng Cườm (Lạng Sơn) lóp vỏ ốc này chất cao 3m.

Họ dùng vỏ trai làm công cụ thường dùng. Những vỏ trai lớn và cứng dùng làm dao, nạo thay thìa.

Ở di tích Đồng Lầy còn tìm thấy mảnh vỏ trai hình tam giác, 1 đầu mài vẹt thành lưỡi sắc. Những hang động này không tìm thấy các công cụ liên quan nghề đánh cá. Xương cá không thấy. Như vậy nghề đánh cá không phát triển trong thời Văn hóa Bắc Sơn.

Chủ nhân Bắc Sơn sống chính yếu là săn bắt, hái lượm.

Vũ khí dùng săn bắt bằng tre gỗ; các công cụ đá thì dùng để chặt, chế tác đồ tre gỗ. Những mầm mống nông nghiệp phát sinh thời Văn hóa Hòa Bình trước đó được phát triển thêm một bước. Tìm thấy rìu mài lưỡi chắc để phát rừng làm rẫy.

Con người thời Văn hóa Bắc Sơn sống trong các hang động và mái đá. Những nơi này che mưa nắng và tránh thú dữ. Họ làm các đồ nạo, dũa, vỏ trai dùng trong việc chế tác da thú.

Chưa tìm thấy những mũi kim có lỗ khoan, nhưng thấy những mũi dùi nhỏ bằng xương, khá tinh tế.

Có thể người thời này chế tác áo quần bằng da thú. Họ dùng vỏ cây làm quần áo che thân. Đồ đan thấy phát triển, chưa có dấu vết chứng tỏ nghề dệt phát sinh.

Đồ trang sức

Các di tích Bắc Sơn tìm thấy những đồ trang sức. Mái đá Bình Gia tìm thấy nhiều loại vỏ ốc biển Cypraea. Họ khoét một lỗ lớn trên lưng vỏ ốc, xâu sợi dây qua miệng ốc làm đồ trang sức.

Những vỏ ốc khoét lỗ nằm gần nhau trong tầng văn hóa này có thể đoán định là xâu chuỗi dùng làm vật trang sức đeo ở cổ.

Một số địa điểm khác tìm thấy đồ trang sức bằng phiến thạch mỏng, có lỗ đeo và những hạt chuỗi bằng đất nung, hình trụ hay hình thoi, khoen lỗ ở chính giữa.

Qua những đồ trang sức cho thấy khả năng mỹ thuật của con người thời này phát triển hơn các giai đoạn trước.

Một số hang động Văn hóa Bắc Sơn, phát hiện những vật bằng đất sét hay bằng phiến thạch, trên đó có vạch những đoạn thẳng song song ở rìa cạnh làm thành từng nhóm.

Có những mảnh phiến thạch khắc hình rẻ quạt, đường tròn, sóng nước. Đây là những biểu thị siêu linh.

Những nghệ phẩm này mang tính huyền bí, khiến người ta nghĩ đến tín ngưỡng tôn giáo của họ.

Về niên đại

Nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định niên đại Văn hóa Bắc Sơn.

2 mẫu vỏ ốc trong hang Bó Nam (Kéo Phẩy) định niên đại bằng phương pháp C. 14 khoảng 7900 năm cách ngày nay.

2 mẫu vỏ ốc khác ở hang Thẩm Hai có niên đại C. 14 là 9700 năm cách ngày nay, mẫu ốc trong hang Bó Lùm (Còn Khẻ) có niên đại C. 12 là 8010 năm cách ngày nay. Nhìn chung, tính niên đại tổng quát, Văn hòa Bắc Sơn cách nay khoảng từ 1 vạn năm đến 8000 năm.

Như thế Văn hóa Bắc Sơn tiếp nối kế thừa của Văn hóa Hòa Bình; phát triển đó mang tính liên tục, liên hệ, dồi dào hơn. Những di tích Văn hóa Bắc Sơn tìm thấy được nhiều nơi vùng Đông Nam Á:

Lào, Thái Lan, Malaysia, Indonesia.

Văn hóa Quỳnh Văn

Đại cương

Cùng Văn hóa Bắc Sơn, Văn hóa Quỳnh Văn cũng thuộc sơ kỳ thời đồ đá mới, nhưng phân bố ở vùng ven biển.

Tiêu biểu cho văn hóa này là di chỉ Quỳnh Văn ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn là những người hầu như chủ yếu sống bằng kinh tế khai thác nhuyễn thể và các hải sản biển.

Hơn 20 di chỉ cồn sò điệp ven biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) và Thanh Hà (Hà Tĩnh) không chỉ phản ánh định hướng khai thác biển toàn diện, mà còn chứng tỏ Văn hóa Quỳnh Văn có quy mô lớn nhất vùng duyên hải, độc đáo trong bình tuyến trung tâm văn hóa đá mới ven biển Việt Nam sau thời Văn hóa Hòa Bình.

Văn hóa cồn sò điệp Quỳnh Văn đến nay được các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước phát hiện, nghiên cứu.

Quá trình và thành tựu nghiên cứu trong hơn nửa thế kỷ được nhiều nhà khảo cổ học triển khai qua những luận chứng khác nhau.

Qua đặc điểm môi trường phân bố các di chỉ, khảo cổ, cấu tạo tầng văn hóa, các dấu tích hoạt động của chủ nhân văn hóa này, các mộ táng, nơi cư trú, qua đặc trưng tổ hợp di vật bằng đá, xương răng, động vật, vỏ nhuyễn thể, cơ cấu khai thác kinh tế biển, nguồn gốc và quá trình phát triển.. cho chúng ta thấy:

Chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn là một trong số những đại diện tiêu biểu cho trình độ khai thác biển của Việt Nam thời đồ đá mới.

Di chỉ Quỳnh Văn

Đặc điểm phân bố các di chỉ cồn sò điệp Văn hóa Quỳnh Văn là phân bố tập trung chung quanh đồng bằng Quỳnh Lưu. Hình thái phân bố chia thành hai tuyến:

Phía bờ Đông và phía bờ Tây của sông Quèn. Tuyến bờ Tây:

8 địa điểm:

Cồn Hang Thờ, Cồn Lẹp, Cồn Rườn, Rú Cửa Gan, Quỳnh Văn, Cồn Đề, Đông Hà Nam, Đông Hà Bắc.

Những vùng này sò điệp phân bố tản mạn, hầu hết là sò điệp bám dựa chân núi. Tuyến bờ Đông gồm:

Cồm Trạm Xá, Cồn Lò Ngói, Cồn Đất, Cồn Nghĩa Trang, Gò Lạp Nam, Gò Tùng Điệp, Gò Lạp Bắc, Gò Ong Lựu, Gò Mới, Gò Lăng và Gò Trạm Máy Kéo.

Sò điệp tập trung dần từ trung lưu sông Quèn ăn ra biển. Phía trên tầng văn hóa này là lớp vỏ nhuyễn thể bị mủn nát.

Thành phần chủ yếu:

Vỏ điệp (placuna placenta lin), sò nhẵn (areasabinze lin), sò gai (arccagranaca lin) ốc đinh (tuvitellabacillum kienner), ốc sắt (cerilicat), ốc gai (murex), vỏ ngao (keretix)..

Bên cạnh những vỏ nhuyễn thể còn có các loại:

Vụn cua bể (eriocheir), xương cá, mai rùa, ba ba, mực.. xương răng động vật gồm:

Voi, trâu bò rừng, hươu, nai, tê giác.

Công cụ:

Trong tầng văn hóa và các mộ táng thấy nhiều công cụ đá người nguyên thủy.

Ngoài một số ít chày đá, hòn ghè, hầu hết công cụ chế bằng "đá gốc." Loại đá này dùng làm công cụ Keratophia - thạch anh.

Tìm thấy những loại nạo bằng đá. Nạo làm bằng hạch đá hay mảnh tước, có loại thô cũng có loại khá tinh tế. Người thời đó cũng dùng những rìu to nhỏ khác nhau. Tất cả loại rìu đều ghè 2 mặt.

Kỹ thuật chế tác đá duy nhất ở đây là cách ghè đẽo. Những mảnh tước tìm thấy ở đây, bên cạnh các mảnh tước có đặc trưng Clacton còn có loại mảnh tước có mặt ghè hẹp. Có các hạch đá kiểu Levaloa.

Không có kỹ thuật mài và không tìm thấy bàn mài. Ngoài ra người nguyên thủy Quỳnh Văn dùng xương để kiến tạo công cụ.

Ở Quỳnh Văn thấy đoạn xương ống, một đầu vót nhọn khá sắc và một răng động vật có dấu gọt ở đầu nhọn răng. Đây là những mũi dùi.

Các mộ táng thấy những đục bằng xương, có lưỡi mài sắc và xinh xắn. Hầu hết công cụ ở đây chế tác bằng cách ghè đẽo, chưa thấy cách mài đá, nhưng khẳng định là văn hóa này ở thời đồ đá mới.

Người Quỳnh Văn biết làm đồ gốm. Gốm Quỳnh Văn là gốm thô. Đất làm gốm còn trộn nhiều hạt cát to bề ngoài có phủ lớp đất mịn. Độ nung còn thấp nên gốm thường bị nứt vỡ.

Họ làm gốm bằng tay, chưa có bàn xoay, nhưng gốm có độ dày đều. Mặt ngoài gốm trang trí hoa văn thô sơ. Một số mảnh gốm bị ám khói, chứng tỏ dùng để đun nấu.

Tầng văn hóa này tìm thấy các bếp người nguyên thủy. Đó là những đám tro than, có những hòn đá ám khói.

Một số bị nứt có thể do lửa nung. Tro than thường lẫn lộn xương cá và xương thú. Đó là những thức ăn được nấu nướng.

Sinh hoạt:

Những dấu vết hoạt động của người cổ Quỳnh Văn còn lưu lại đến nay theo 3 dạng thức:

Các dấu vết bếp lửa - các hố đất đào - các mộ táng.

Loại dấu vết hố đào và mộ táng mới chỉ phát hiện ở những địa điểm Quỳnh Văn, còn dấu vết bếp lửa là hiện tượng phổ biến ở mọi địa điểm văn hóa này. Di chỉ Quỳnh Văn phát hiện 11 hố đất ở lớp thứ 2 và lớp thứ 9.

Một số hố đất phát hiện những thể loại công cụ đá và những mảnh gốm. Các dấu vết bếp đun nấu là hiện tượng phổ biến nhất.

Phát hiện hàng trăm bếp lửa ở 4 địa điểm khai quật. Những bếp này có diện tích rộng hẹp khác nhau, đống than tro dày mỏng khác nhau, nhưng không có cấu trúc tiêu chuẩn nào.

Hầu hết bếp là những vùng than tro với vỏ sò điệp, xương răng, than củi bị đốt cháy, cùng những hòn cuội làm đá kê bắc bếp bị ám khói, bên cạnh những mảnh gốm và những công cụ đá.

Tìm thấy những thể loại đồ đá có đáy nhọn. Trừ một số ít có lớp than tro dày, phần lớn các bếp cho thấy việc sử dụng chúng trong khoảng thời gian không lâu dài lắm.

Tài liệu còn cho thấy:

Chủ nhăn Văn hóa Quỳnh Văn sử dụng nguồn thức ăn nhuyễn thể, hải sản tại chỗ là chính yếu; bên cạnh có một số lượng nhỏ thịt rừng. Các nhà khảo cổ học gọi là "đống rác bếp" (Kjokkenmbding).

Mộ táng:

Địa điểm Quỳnh Văn trong khai quật 1963 phát hiện 31 mộ, các huyệt mộ đều hình tròn hay gần tròn, đường kính khoảng 70cm. Đất xây mộ màu nâu lẫn vỏ sò điệp.

Những đồ tùy táng khá phổ biến trong những mộ này:

Công cụ đá, dao, đục xũm bằng xương, ngà voi, vỏ ốc xuyên lỗ, căn cứ huyệt mộ, vào vị trí xương cốt còn lưu, người chết được chôn với táng nằm co hay ngồi bó gối. Có những khu chôn tập thể tìm thấy ở địa điểm Quỳnh Văn.

Táng tục chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn nhiều nét tương tự táng tục chủ nhân Văn hóa Đa Bút. Tính chất táng tục thấy ở Văn hóa Hòa Bình trong các địa điểm khảo cổ:

Hang Đắng, Mộc Long, Con Moong (Ninh Bình) Mái Đá Điều (Thanh Hóa), Hang Muối (Hòa Bình), Hang Chùa (Nghệ An)..

Điều này cho thấy có những liên hệ giữa Văn hóa Hòa Bình trước đó với Văn hóa Quỳnh Văn về sau.

Do đó có thể xác định thành phần nhân chủng của chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn thuộc đại chủng Australo - Negroid.

Di vật

Di vật của chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn còn lại ở di chỉ sò điệp Quỳnh Lưu:

Các công cụ đá, bằng xương răng động vật, bằng vỏ nhuyễn thể, đồ gốm.

Đồ đá

Phân loại, nghiên cứu cho thấy:

Bộ sưu tập đồ đá Quỳnh Văn:

Mảnh tước, các loại hình công cụ đá ghè từ đá gốc, đá cuội, đá lăn, công cụ mài, các loại công cụ không gia công hay cuội nguyên chày, hòn ghè, hòn kê, bàn nghiền, bàn mài.

Chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn chế tác và sử dụng những loại hình công cụ vừa mang những yếu tố truyền thống Sơn Vi - Hòa Bình trước đó, vừa mang những đặc điểm riêng Quỳnh Văn.

Những công cụ này có hình bầu dục, hình dĩa, hình khối tam giác, hình mai rùa, hình quả trám, hình rìu dài, hình rìu ngắn, công cụ không định hình, công cụ từ mảnh tước tu chỉnh, hầu hết công cụ ghè đẽo Quỳnh Văn đều có 1 mặt phẳng, 1 mặt kum hay gần nhọn. Ở Quỳnh Văn chỉ thu được hơn 100 mảnh gốm, các điểm khác thu khoảng 5, 000 mảnh gốm.

Những hiện tượng kể trên cho thấy nền kinh tế khai thác hải sản, chủ yếu nhuyễn thể sò, điệp, ốc; công cụ đá không giữ vai trò quan trọng như chủ nhân Văn hóa Đa Bút.

Công cụ bằng xương răng động vật

Cư dân Văn hóa Quỳnh Văn gia công một số xương răng, sừng động vật làm đục, làm mũi nhọn, nhưng số lượng không nhiều.

Những công trình khai quật của bà Madeleine Colani tìm hàng chục đồ dùng bằng vỏ sò, vỏ ốc, vỏ hà.

Việc dùng vỏ nhuyễn thể như trai, trục, ốc, sò làm công cụ và đồ trang sức cũng là hiện tượng khá phổ biến trong những di chỉ hang động Văn hóa Quỳnh Văn.

Đồ gốm

Đồ gốm là thành tố quan trọng và cơ bản trong cơ cấu nền văn hóa vật chất ở Quỳnh Văn. Quỳnh Văn là 1 trong 3 trung tâm gốm sớm nhất, không những tại Việt Nam mà của cả Đông Nam Á lục địa và hải đảo.

Đồ gốm tập trung Quỳnh Văn phía Nam, Gò Lạp Bắc, Cồn Đất, tính ra có 17.000 mảnh gốm. Có 4 loại gốm:

Gốm văn chải đáy nhọn, gốm văn in rập kiểu nan rá có đáy trò, gốm văn chải mặt trong, vặn thừng mặt ngoài, gốm vặn thừng đáy tròn.

2 loại gốm kiểu văn chải đấy nhọn và văn in rập kiểu nan rá xuất hiện sớm nhất tại Quỳnh Văn.

Từ khi mới đặt chân đến bờ biển Quỳnh Lưu, chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn đã tạo đồ gốm để dùng.

Hầu hết những mảnh gốm khai quật tại Quỳnh Văn là mảnh vỏ nồi đun nấu; có vết ám khói hay tro đen ở thân gốm và đáy gốm, tức dùng dụng cụ nấu nướng.

Những mảnh gốm khai quật thường bị vỡ thành từng bộ phận, có chỗ lẫn lộn với đồ đá, than tro, xác hải sản. Gốm đáy nhọn rất phổ biến trong vùng này.

Thân gốm cấu trúc theo hình nón hay hình phễu; chất liệu pha nhiều cát sạn, vỏ nhuyễn thể và xương gốm tán vụn tạo thành độ cứng chắc, diện tích tiếp xúc với lửa nhiều hơn so với gốm đáy tròn.

Các loại gốm Quỳnh Văn để chế tác chủ yếu bằng phương pháp nặn bằng tay, dải cuộn, kết hợp thủ pháp kê, đập, chải. Điều này khác gốm Đa Bút.

Trên cổ và miệng của các loại gốm được khoét những chiếc lỗ nhỏ chừng 3mm.

Lỗ này dùng để luồn dây buộc cho vững khi đun hay di chuyển. Như thế, xuất hiện loại gốm có văn in rập kiểu nan rá đáy tròn, văn chải 2 mặt, đáy nhọn, vặn thừng cổ thắt.. đều là nét tiêu biểu nhất của Văn hóa Quỳnh Văn.

Sinh hoạt kinh tế

Qua những dấu tích thức ăn, có thể biết hoạt động kinh tế của họ.

Người nguyên thủy Quỳnh Văn sống bằng cách bắt điệp, sò, ốc ven sông biển. Người nguyên thủy Quỳnh Văn sống bằng nghề bắt cá.

Tầng văn hóa, tìm thấy các đốt xương sống cá và vây cá khá lớn. Tất nhiên họ dùng thuyền và có thể ra biển.

Nghiên cứu môi trường, đặc điểm phân bố các di chỉ cồn sò điệp, đặc biệt là tầng văn hóa, loại di tích này cấu cạo bởi chính vỏ, xác và tàn tích các loại nhuyễn thể.

Hầu hết là điệp, ở môi trường vịnh Quỳnh Lưu. Hơn nữa, các di tích sò điệp phong phú số lượng, còn có quy mô rất lớn, lớn hơn nhiều nếu đem so mật độ và tổng số di vật trong đơn vị diện tích khai quật.

Tuy nhiên trong khảo sát vẫn thấy một số lượng rất nhiều những con sò điệp vẫn còn ngậm miệng.

Nghĩa là không phải dùng làm thức ăn. Từ thực tế cho thấy, khối lượng những di vật sò điệp này tập trung do 2 nguồn gốc:

Do hoạt động con người.

Do ảnh hưởng thủy triều, sóng gió.

Căn cứ dấu vết tác động những nhuyễn thể, đặc điểm phân bố di tích và di vật cho thấy:

Chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn thu lượm, đánh bắt nhuyễn thể và hải sản ở những giai đoạn, những điều kiện thuận lợi nhất định.

Theo vòng sinh trưởng các giống hải sản, theo diễn biến môi trường chịu ảnh hưởng các đợt biển tiến và biển lùi. Đó là cách khai thác theo từng mùa.

Người nguyên thủy Quỳnh Văn làm nghề săn bắt. Tại di chỉ, thấy xương và răng hươu nai, trâu bò, chó và nhím. Đó là những thú rừng săn bắt được.

Thấy có ngà voi. Như thế, người Quỳnh Văn còn săn bắt các thú lớn.

Nhưng xương thú rất ít, có lẽ nghề săn bắt không đóng vai trò lớn bằng nghề sông biển.

Niên đại Văn hóa Quỳnh Văn

Niên đại:

Văn hóa Quỳnh Văn thuộc thời đại sơ kỳ đá mới để dần chuyển sang thời đại kim khí. Giai đoạn này liên hệ với sự thành lập đồng bằng.

Nguồn:

Web invalid

Nguy cơ xóa sổ di tích khảo cổ Quỳnh Văn?

Nằm ven QL. 1A, di chỉ khảo cổ Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An phát hiện năm 1963, khảo sát và khai quật lần thứ nhất 1963-1964, lần 2 năm 1976 và đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong các trường phổ thông. Vậy mà nó nguy cơ bị xóa sổ.

Theo lịch sử ghi chép di chỉ chia 3 khu:

Thông Linh 6.300m2,

Tha Ma Bắc 3.400m2

Tha Ma Đông 1.500m2.

Tầng văn hóa dày đến 5, 6m.

Đợt khai quật 1963-1964 có 197 hiện vật đồ đá (nạo thô, nạo nhỏ, hòn ghè, hòn kê, chày đá, bàn nghiền, hạch đá, mảnh tước, rìu mài lưỡi.) và 173 mẫu gốm thô không có hoa văn. Một mộ sâu 0, 9m có nhiều đồ quý táng.

Di chỉ Quỳnh Văn là di chỉ cư trú, mộ táng, theo sơ kỳ thời đồ đá mới.

Các nhà khảo cổ học xếp di chỉ Quỳnh Văn là tiêu biểu nhất văn hóa đá mới có gốm ở ven biển Nghệ Tĩnh.

Di chỉ Văn hóa Quỳnh Văn đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong trường phổ thông.

"Nhiều hang động ở Bắc Sơn, nhiều địa điểm ở Quỳnh Văn, Hạ Long, người ta phát hiện những bộ xương người được chôn.

Thậm chí như ở Quỳnh Văn, bên xương người chết có 1, 2 lưỡi cuốc đá được chôn cất theo" (Lịch sử 6).

Giáo viên dạy môn Lịch sử mới ra trường, đầu 10-2011, tôi háo hức về Quỳnh Văn tìm hiểu di chỉ khảo cổ hy vọng bổ sung kiến thức thực tế cho mình để truyền đạt cho học sinh.

Thật không tin nổi, di tích bây giờ là cái chợ Vân, bẩn thỉu, đầy rác thải.

Bà Lý bán hàng 30 năm ở chợ Vân quê Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu cho biết trước đây khi đào móng làm nhà đào được 6 hài cốt cổ và sau mới biết là di chỉ khảo cổ Văn hóa Quỳnh Văn.

"Vẫn biết ngồi bán hàng ở đây rất có tội với Tổ tông nhưng biết làm sao khi người ta không dời chợ đi chỗ khác."

12-4-1997, UBND tỉnh Nghệ An ký quyết định 1306/QĐ-UB giao Sở Văn hóa Thông tin và UBND huyện Quỳnh Lưu đồng quản lý di chỉ khảo cổ Quỳnh Văn.

Đầu 3-2006, UBND xã Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, đột nhiên cho xây chợ Vân trên khu di chỉ Quỳnh Văn (thay chợ cũ xây từ 1976). UBND huyện Quỳnh Lưu có 2 công văn (8-3-2006 và 17-3-2006) yêu cầu UBND xã Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu) đình chỉ xây chợ Vân.

"Phép vua thua lệ làng", chợ Vân không được chuyển đến địa điểm khác, hàng ngày vẫn họp trên di chỉ khảo cổ Quỳnh Văn. Thật thương cho số phận "sách giáo khoa sống." (như nhiều giáo viên thường nói về di chỉ khảo cổ Quỳnh Văn).

Nhật có di chỉ tương tự Quỳnh Văn về mặt đặc trưng cồn sò và niên đại, nằm ven biển Thái Bình Dương. Đó là di tích Chi Ba nằm ngay Vịnh Tokyo thành khu du lịch nổi tiếng nhờ di chỉ khảo cổ.

Tại sao chúng ta không học Nhật Bản? Riêng di chỉ khảo cổ Quỳnh Văn, ngoài những giá trị trên, ở đây còn là pho sách "giáo khoa sống" để hàng vạn giáo viên và học sinh cả nước học tập.

Mong những người có trách nhiệm ở huyện Quỳnh Lưu vào cuộc quyết liệt cứu di chỉ Văn hóa Quỳnh Văn.

Hà Thanh (Báo Công an Nghệ An)

Nguồn:

Web baotanglichsu

Di tích khảo cổ Quỳnh Văn được xếp hạng quốc gia

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa xếp hạng Di tích Quốc gia đối với 3 di tích thuộc địa bàn các tỉnh/ thành phố:

Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng và Cần Thơ.

Các di tích xếp hạng lần này có một di tích lịch sử, một di tích kiến trúc nghệ thuật và một di tích khảo cổ học.

Cụ thể, các di tích được xếp hạng Di tích Quốc gia lần này:

1. Di tích lịch sử Hải Vân Quan (thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế; phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng).

2. Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Hiệp Thiên Cung (phường Lê Bình, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ).

3. Di tích khảo cổ Quỳnh Văn (xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An).

Thông tin trên nêu rõ tại các Quyết định số 1531, 1532, 1533/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc xếp hạng Di tích Quốc gia.

Các văn bản này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị UBND các cấp nơi có di tích xếp hạng thực hiện quản lý nhà nước với di tích theo quy định pháp luật về DSVH trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

Nguồn:

Web truyenhinhnghean

Khoảng 6000 năm trước:

Phát hiện di chỉ Đa Bút – Quỳnh Văn.

Đồi vỏ hến Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) tìm nhiều rìu bằng đá cuội, chỉ mài ở lưỡi và khá nhiều mảnh gốm còn thô vụng, độ nung thấp. Đồ gốm ở đây phát triển hơn đồ gốm trong Văn hóa Bắc Sơn.

Chủ nhân di chỉ Đa Bút là những người săn bắt, đánh cá và biết đến thuần dưỡng súc vật như bò, chó.. Khảo cổ học xếp di chỉ này vào giai đoạn "đá mới cuối Bắc Sơn."

Tại Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) con người đánh bắt sò điệp về ăn và vứt vỏ nơi cư trú của họ, lâu ngày vỏ tích lại thành những đồi lớn.

Người Quỳnh Văn biết làm đồ gốm. Gốm nặn bằng tay, chưa biết dùng bàn xoay, nhưng có độ dày khá đều.

Người Quỳnh Văn sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, săn bắt và bước đầu biết đến nông nghiệp.

Các nhà khảo cổ học xếp di chỉ Quỳnh Văn là loại tiêu biểu nhất của văn hóa đá mới có gốm ở ven biển Nghệ Tĩnh.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 8.

Nguồn:

Web lichsuvietnam

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70327762_1220113988188851_6554688974999257088_n.jpg


Văn hóa Cái Bèo có niên đại trước nền Văn hóa Hạ Long. Di chỉ Cái Bèo phát hiện năm 1938 trong lần thám sát khảo cổ học ven biển khu vực liên quan thuộc vùng Vịnh Hạ Long nay.

Di chỉ Cái Bèo khai quật hơn 479 công cụ như chày, bàn nghiền, bàn mài, hòn kê, rìu bôn, đục, chì lưới.. bằng đá cuội. Đồ gốm thô cứng làm từ đất sét và cát hạt khô, bếp, di cốt người; các xương răng động vật, xương thú như lợn rừng, nai, dê núi.

Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Cái Bèo thuộc nền Văn hóa Hạ Long, bởi phân tích rõ ra là cư dân Cái Bèo cùng thời gian và xu hướng chuyển cư của người Hòa Bình – Bắc Sơn từ vùng núi xuống biển.

Sau đợt biển tiến Haloxen Trung làm nảy sinh các hoạt động kinh tế riêng biệt của từng vùng. Riêng cư dân đảo Cát Bà, trong đó có người cổ Cái Bèo làm nghề đánh cá là chủ yếu.

Nguồn:

Wikipedia

Khám phá Cái Bèo

Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.

Các vết tích văn hóa cho thấy đây là làng chài ven biển cổ nhất được biết hiện nay ở Việt Nam. Cái Bèo là điểm đến hấp dẫn trong chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà, Hải Phòng thành trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế.

Di chỉ Cái Bèo nằm cách trung tâm thị trấn Cát Bà 1, 5km về phía Đông Nam. Đây là thung lũng bằng phẳng, 3 mặt núi đá vôi bao bọc, mặt Đông quay ra biển. Khu di chỉ rộng 800m2, dốc thoải từ Nam ra Bắc, cao 3, 5m so với mặt biển.

Cách di chỉ 200m là dãy núi Áng Thảm và Bù Nâu chạy vòng cung ôm lấy Cái Bèo, làm nơi đây kín gió, biển không ồn ào, phong cảnh hữu tình, thuận cho sinh sống và khai thác thủy sản.

Có lẽ vẻ đẹp thiên nhiên quy tụ về đây, cùng thuận lợi về địa thế, phong phú về sản vật nên dân cư cổ Cái Bèo quần tụ lâu dài tại đây, tạo nền văn hóa đặc sắc.

Theo tài liệu và nghiên cứu khảo cổ học vùng ven biển, hải đảo Đông Bắc Việt Nam của PGS. TS Nguyễn Khắc Sử - Viện Khảo cổ học Việt Nam, năm 1938 nữ khảo cổ học người Pháp M. Colani có công phát hiện và tiến hành thám sát vịnh Cá trên đảo Cát Bà, đó là di chỉ Cái Bèo hiện nay.

4-1972, cán bộ khảo cổ học Nguyễn Văn Hảo tiếp tục đào 2 hố thám sát và lấy tên là di chỉ Cát Bà. Kết quả thám sát cho thấy địa tầng mang dấu tích của người Việt cổ dày 0, 5 - 0, 9m, đất màu nâu pha nhiều sỏi.

Hiện vật thu gồm 2 rìu đá, 7 bàn mài rãnh hình ống máng, 1 chì lưới và nhiều mảnh gốm xốp. Theo kết luận của các nhà khảo cổ học, hiện vật thuộc Văn hóa Hạ Long.

Từ đó đến nay, di chỉ Cái Bèo được Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức khai quật thám sát di chỉ 4 lần các năm 1973, 1981, 1986, 2006, lấy tên di chỉ Cái Bèo.

Qua khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều lớp đất cấu tạo khác nhau, nằm theo trật tự nhất định hợp thành tầng văn hóa khá dày, khoảng 2, 6m và có thể phân biệt 3 lớp sớm, muộn.

Lớp 1 thuộc sơ kỳ thời đồ đá mới, cách nay khoảng 7000 năm.

Lớp 2 thuộc hậu thời đại đá mới, cách nay 3.000 năm và lớp 3 thuộc Văn hóa Hạ Long, cách đây 4000 năm. Hơn 479 hiện vật gồm:

Chày, bàn nghiền, bàn mài, hòn kê, rìu bôn, đục, chì lưới, nồi gốm, dụng cụ ghè đẽo, chặt thô, mũi nhọn, đòn kê, chày; quanh bếp nấu và hố rác bếp là những xương, răng cá và thú. Những hiện vật này thuộc các niên đại khác nhau từ 4000 - 7000 năm.

Kết quả thám sát cho thấy Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển quy mô lớn, địa tầng dày, tổ hợp di tích và di vật phong phú.

Những vết tích văn hóa ở đây phản ánh phát triển kế tiếp từ trung kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Cái Bèo, sang hậu kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long.

Theo PGS. TS Nguyễn Khắc Sử, di chỉ khảo cổ Cái Bèo là một trong những di tích quý hiếm nhất vùng duyên hải Bắc Bộ.

Đây là làng chài ven biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam.

Di chỉ Cái Bèo xếp hạng Di tích Quốc gia 2009. Đây là DSVH biển tiêu biểu, đặc sắc Việt Nam, bảo tàng địa chất tuyệt vời về dao động mực nước biển đại dương.

Tiếp nhận và thích ứng của con người trước hiện tượng biển tiến, biển thoái là bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ xâm thực nước biển do biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài giúp Cái Bèo hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.

Chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà thành trung tâm du lịch cấp quốc gia và quốc tế, một trong những địa chỉ được huyện Cát Hải quan tâm là quản lý khai thác và phát huy giá trị văn hóa di chỉ Cái Bèo.

Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin Cát Hải Vũ Tiến Lập cho biết, Phòng Văn hóa - Thông tin tăng quản lý để dân không làm ảnh hưởng khu di chỉ.

Phòng tham mưu cho UBND huyện xây dựng văn bản trình Sở VH, TT và DL bố trí ngân sách trong chương trình mục tiêu của thành phố đầu tư xây dựng và cải tạo di chỉ Cái Bèo thành điểm tham quan.

2013, UBND huyện Cát Hải, Hải Phòng quyết định đầu tư 1 tỷ đồng từ ngân sách huyện để xây dựng tường rào bảo vệ khu di chỉ.

Minh Anh

Nguồn:

Web daibieunhandan

Di chỉ Cái Bèo qua khai quật

Địa điểm khảo cổ học Cái Bèo thuộc địa phận xã Đông Hải, đảo Cát Bà (Hải Phòng), cách thị trấn Cát Bà khoảng 1, 5km phía Đông Nam, tọa độ: 20o43'8' vĩ Bắc và 107o03'2' kinh Đông.

Di chỉ nằm giữa thung lũng đá vôi, chạy dài theo hướng Bắc – Nam, độ cao trung bình 4m so mặt nước biển. Theo khảo cứu của Viện Khảo cổ học Việt Nam, Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có giá trị quan trọng nhất hiện nay ở vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt Nam.

1938, nữ khảo cổ học người Pháp là M. Colani phát hiện ra di chỉ ngoài trời là Vịnh Làng Chài (Cái Bèo), trên đảo Cát Bà. Từ đó đến nay, 4 lần khai quật tại đây.

4-1972, đoàn cán bộ Viện Khảo cổ học do ông Hoàng Xuân Chinh (trưởng đoàn), Nguyễn Văn Hảo (cán bộ Viện Khảo cổ học) đào 2 hố thám sát trên di chỉ này, đặt tên di chỉ Cái Bèo.

Kết quả thám sát cho thấy:

Tầng văn hóa dày từ 0, 5 – 0, 9m đất có màu nâu pha nhiều sỏi. Hiện vật:

Rìu đá, bài mài rãnh hình ống máng, chì lưới và nhiều mảnh gốm xốp, giống M. Colani thám sát được. Những hiện vật khai quật lần này xếp vào Văn hóa Hạ Long, niên đại hậu kỳ thời đại đá mới.

Đóng góp thêm tư liệu nghiên cứu Văn hóa Hạ Long, một trong những nền văn hóa hậu kỳ đá mới ở vùng biển Đông Bắc Việt Nam, 16-8-1973, Viện Khảo cổ học phối hợp Sở VHTT Hải Phòng khai quật địa điểm Cái Bèo. Cán bộ khai quật:

Hoàng Xuân Chinh (trưởng đoàn), Nguyễn Khắc Sử, Phạm Lý Hương, Võ Quý, Phan Tiến Ba (cán bộ nghiên cứu Viện Khảo cổ học), Nguyễn Duyên Bằng (cán bộ nghiệp vụ Sở VHTT Hải Phòng). Đợt khai quật kết thúc 30-9-1973.

Kết quả khai quật:

Cấu tạo tầng văn hóa:

Lớp văn hóa đầu nằm trên lớp sinh thổ, ở độ sâu 2, 5 – 3, 2m, hiện vật là công cụ cuội ghè đẽo tạo loại rìu ngắn, mũi nhọn, chày nghiền, bàn nghiền; đồ gốm có gốm dày thô; xương động vật và vỏ sò lớn.

Lớp văn hóa thứ 2 ở độ sâu 1, 2 – 2, 4m, hiện vật chủ yếu trong lớp này là công cụ ghè đẽo, công cụ mài; đồ gốm cứng thành mỏng; lớp này tập trung nhiều xương cá và xương thú.

Lớp văn hóa thứ 3 ở độ sâu 0, 2 – 1, 2m, hiện vật chủ yếu là gốm xốp, gốm cứng mỏng và công cụ đá được mài toàn thân, vắng mặt xương cốt động vật.

Hiện vật khai quật lần này là 484 hiện vật đá trong đó có 2 vòng tay đều bị gãy tìm thấy ở độ sâu 0, 6m, hai đầu mảnh vòng có khoan hai lỗ thủng để nối ghép hay buộc dây, tinh thể thạch anh tìm thấy ở độ sâu 0, 65m có hình lăng trụ lục giác không đều, một đầu nhọn và một đầu bị gãy thuộc loại đá cứng màu trong suốt; 19.282 mảnh gốm, 2 chạc gốm còn tương đối nguyên vẹn; nhiều xương răng thú và cá.

Qua khai quật này các nhà nghiên cứu phát hiện lớp văn hóa đầu thuộc sơ kỳ thời đá mới, lớp tiếp theo thuộc hậu kỳ thời đá mới, lớp cuối thuộc Văn hóa Hạ Long.

Nói chung tầng văn hóa Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có địa tầng nguyên vẹn là cơ sở đáng tin cậy cho nghiên cứu diễn biến văn hóa tiền sử khu vực cũng như giải quyết vấn đề nguồn gốc bản địa.

1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) và Bảo tàng Hải Phòng khai quật. Hố khai quật mở gần biển hơn lần khai quật trước.

Mục đích khai quật để hiểu thêm địa tầng của di chỉ và yêu cầu khảo sát lại, đồng thời xây lại khu DTLS Hải Phòng. Kết quả khai quật công bố trên Thông báo khoa học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 1 – 1983.

Cấu tạo tầng văn hóa:

Địa tầng di chỉ có 15 lớp đất đào, hai tầng văn hóa khảo cổ. Tầng văn hóa lớp I ở dưới thuộc Văn hóa tiền Hạ Long; tầng văn hóa II ở trên thuộc Văn hóa Hạ Long. Giữa hai tầng văn hóa có một lớp cát và sỏi biển dày 20cm ngăn cách.

Từ lớp ngăn cách này trở lên, các lớp đất có cấu tạo phức tạp với nhiều màu sắc hơn; còn từ lớp ngăn cách đó trở xuống, đất có cấu tạo đơn giản và đồng nhất hơn.

Lần khai quật này phát hiện 2 dấu tích bếp và 1 mộ táng.

Dấu tích bếp lửa thứ nhất là vùng đất cháy hình tròn có đường kính 30cm, xung quanh bếp thường gặp hiện vật đá và gốm nhiều hơn những vùng khác.

Ở độ sâu 310cm phát hiện di tích bếp lửa thứ 2 là khu đất cháy hình bầu dục dài 110cm, rộng 60cm, quanh khu vực nhiều xương thú, xương cá. Dưới độ sâu 2, 6m, phát hiện 1 bộ xương người.

Căn cứ những vết xương còn lại có thể biết thi thể chôn nằm co, lưng quay phía tảng đá rất to gần vách Đông hố khai quật, đầu quay về Tây, không thấy huyệt mộ và đồ tùy táng.

Dựa những đặc tính trên sọ, trên xương hàm, khi nghiên cứu về giới tính và tuổi, ông Nguyễn Lân Cường cho là di cốt cá thể nam, dựa vào độ mòn răng, gắn liền các khớp sọ ở mặt trong có thể đoán 50 - 60 tuổi.

Hiện vật đợt khai quật này:

Hiện vật đá có chày nghiền, bàn nghiền, hòn kê, bàn mài (bàn mài diện rộng, mài rãnh), rìu (rìu mài lưỡi, mài toàn thân, rìu có vai), đục..

Hiện vật gốm chủ yếu là những mảnh gốm (gốm xốp, gốm mịn thuộc lớp văn hóa trên), gốm thô dày, chất liệu làm từ đất sét pha cát và bã thực vật, gốm màu đen xám và nâu xám, thành gốm dày, gốm tạo hình chủ yếu nặn bằng tay, độ nung không cao và không chín đều (thuộc lớp văn hóa dưới)

Qua nghiên cứu tầng văn hóa, di tích, di cốt và hiện vật cho thấy:

Đồ đá:

Chày nghiền rất phổ biến ở lớp văn hóa dưới làm bằng những hòn cuội dẹt hình bầu dục; bàn mài có bàn mài diện rộng và bàn mài rãnh ở lớp văn hóa trên; rìu ghè đẽo chỉ tồn tại ở lớp văn hóa cuối cùng.

Rìu mài lưỡi tiết diện hình bầu dục, rìu có vai và rìu tứ giác mài toàn thân tìm thấy ở lớp trên phù hợp có mặt của bàn mài rãnh. Các kỹ thuật ghè đẽo, mài, cưa, khoan.

Đồ gốm:

Có thể chia 3 nhóm, gốm xốp, gốm mịn và gốm thô dày. Nhóm xương gốm mịn và mỏng tạo bằng bàn xoay, miệng loe cong đột ngột chiếm phần lớn.

Phần miệng ít trang trí, phần cổ để trơn, phần đáy chủ yếu là đáy tròn, cũng có loại đáy bằng và có chân đế nhưng rất ít.

Nhóm gốm thô chia 2 loại:

Thô dày cứng và thô dày mềm. Gốm thô dày cứng có độ nung cao, xương gốm ít cát hạt và bã thực vật.

Gốm thô dày mềm, xương gốm bằng đất sét có pha nhiều hạt cát thô và bã thực vật, độ nung thấp, miệng hơi thẳng, toàn thân đều trang trí hoa văn in (hoa văn tổ ong, hoa văn thang dây).

Tất cả đều đáy tròn, không có chân đế, bề mặt đều ám khói. Đặc trưng đồ đá và đồ gốm, có thể xếp lớp văn hóa phía trên của di chỉ Cái Bèo vào Văn hóa Hạ Long và lớp văn hóa dưới vào Văn hóa tiền Hạ Long.

Bên cạnh hiện vật đá và gốm, di cốt người có trong hố khai quật cung cấp thêm những tài liệu mới để tìm hiểu về tục mai táng "kiểu chôn nằm co."

Chủ nhân có khả năng thuộc nhóm Australo – Melanesien của cư dân tiền Hạ Long. Xương răng động vật nói nên hình thái kinh tế.

12-1986, Viện Khảo cổ học khai quật do ông Nguyễn Văn Hảo (trưởng đoàn). Hố khai quật mở vào góc phía Tây Bắc của di chỉ, sát về phía chân núi.

Đáng chú ý khai quật này là tỷ lệ công cụ cuội ghè đẽo rất cao, công cụ mài toàn thân rất hạn chế, không thấy bôn có vai, có nấc như các lần khai quật trước. Tỷ lệ gốm xốp kiểu Hạ Long rất thấp, không thật điển hình.

12-2006, Viện Khảo cổ học do PGS. TS Nguyễn Khắc Sử làm trưởng đoàn cùng Bảo tàng Hải Phòng và Phòng Văn hóa huyện Cát Hả lại khai quật nhằm xác định phạm vi phân bố di chỉ Cái Bèo và mức độ bảo tồn giá trị di tích làm cơ sở để xếp hạng Di tích Quốc gia, bổ sung hiện vật trưng bày cho Bảo tàng Hải Phòng.

Kết quả khảo sát xác định di chỉ Cái Bèo có độ dốc thoải khoảng 8o, từ Tây sang Đông cao trung bình 4m so mặt nước biển hiện tại.

Dựa phân tích tổng hợp các lần khai quật có thể đoán niên đại các lớp văn hóa trong di chỉ Cái Bèo.

Lớp văn hóa trên cùng thuộc Văn hóa Hạ Long, hiện vật rìu, bôn đá tạo với kỹ thuật mài hoàn thiện, đồ gốm làm bằng bàn xoay, nhưng chưa xuất hiện kim loại đồng, nên thuộc hậu kỳ thời đồ đá mới.

Trong lớp văn hóa này có mặt đa số rìu tứ giác, như gốm mỏng trang trí văn chấm dải, đặc biệt là chạc gốm cho thấy mối quan hệ rất gần gũi với các di vật thuộc:

Văn hóa Phùng Nguyên, như vậy lớp văn hóa trên của di chỉ Cái Bèo có thể có tuổi 4.000 đến 4.500 năm trước.

Lớp giữa di chỉ Cái Bèo với kỹ thuật mài đá phát triển, song chưa đến mức hoàn thiện bên cạnh gốm bàn xoay, có gốm nặn tay có thể thuộc giai đoạn đầu hậu kỳ đá mới cách nay trên dưới 5.000 năm.

Lớp cuối di chỉ Cái Bèo chỉ có công cụ ghè đẽo, vắng kỹ thuật mài, đồ gốm nặn bằng tay còn thô sơ, trang trí văn đan, có thể thuộc trung kỳ đá mới khoảng 6.000 – 7.000 năm trước.

Qua quan sát vị trí cảnh quan nơi cư trú, tổng thể di vật ở các lớp Văn hóa di chỉ Cái Bèo, có thể hình dung hình thức hoạt động kinh tế bấy giờ.

Tầng lớp văn hóa dày, nhiều lớp chứng tỏ cư dân thời cổ ở đây sống định cư lâu dài qua nhiều thời đại.

Xuất hiện xương răng động vật hoang dã và xương cá biển cho thấy trước đây cư dân Cái Bèo chuyên săn bắt, hái lượm và đánh cá.

Bước sang giai đoạn Văn hóa Hạ Long cư dân phát triển trồng trọt, tạo thuyền mảng ra khơi. Ít vòng tay và tinh thể thạch anh chứng tỏ cư dân Cái Bèo có ý thức về cái đẹp.

Rõ ràng, Cái Bèo là di chỉ khảo cổ học có ý nghĩa lớn với nghiên cứu Văn hóa Hạ Long mà còn là tư liệu quý để tìm hiểu văn hóa và lịch sử của cư dân miền Đông Bắc nước ta thời xa xưa.

Lê Thị Huệ (tổng hợp)

Nguồn tham khảo:

- Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Khắc Sử. Báo cáo khai quật di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng, 1973.

- Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn. Khai quật di chỉ Cái Bèo (Hải Phòng). Thông báo khoa học, số 1/1983. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

- Nguyễn Khắc Sử. Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. NXB. KHXH 2005.

- Nguyễn Khắc Sử. Di chỉ tiền sử Cái Bèo, đảo Cát Bà. NXB. KHXH, 2009.

Nguồn:

Web baotanglichsu

Di chỉ Cái Bèo - điểm nhấn văn hóa, du lịch Cát Bà

Phó Chủ tịch UBND huyện Cát Hải Vũ Thị Kim Bích cho biết, Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.

Từ các vết tích văn hóa cho thấy, đây là làng chài ven biển cổ nhất được biết hiện nay ở Việt Nam. Cái Bèo là điểm đến hấp dẫn trong chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà,

Hải Phòng thành trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế, mang đậm dấu ấn lịch thuở sơ khai của dân huyện đảo.

Di chỉ Cái Bèo cách trung tâm thị trấn Cát Bà chừng 1, 5km về phía Đông Nam. Đây là thung lũng bằng phẳng, 3 mặt núi đá vôi bao bọc, mặt Đông quay ra biển.

Khu di chỉ rộng khoảng 800m2, dốc thoải từ Nam ra Bắc, cao 3, 5m so với mặt biển.

Cách di chỉ 200m là dãy núi Áng Thảm và Bù Nâu chạy vòng cung ôm lấy Cái Bèo, làm nơi đây kín gió, biển không ồn ào, phong cảnh hữu tình, thuận sinh sống và khai thác thủy sản.

Có lẽ vẻ đẹp thiên nhiên quy tụ cùng thuận lợi về địa thế, phong phú về sản vật nên dân cư cổ Cái Bèo quần tụ lâu dài tại đây, tạo nền văn hóa đặc sắc.

Theo tài liệu của PGS. TS Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học Việt Nam), trưởng đoàn khảo cứu, khai quật di chỉ Cái Bèo, đến nay có 4 khảo sát, khai quật di chỉ này.

Lần đầu tiên 1938, nhà khảo cổ học M. Colani người Pháp phát hiện Cái Bèo là nôi văn hóa cổ của Việt Nam.

Trên cơ sở đó, Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát và manh nha phát hiện nôi văn hóa biển.

1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật lần 2 tại đây. Phạm vi khai quật chỉ với diện tích 78m2, song tìm được nhiều hiện vật đá ở giai đoạn phát triển kế tiếp nhau là tiền Hạ Long và Hạ Long. 1986, lần khai quật thứ 3.

Làng chài Cái Bèo, thị trấn Cát Bà

Các nhà khảo cổ tìm được gần 180 công cụ đá:

Công cụ ghè đẽo, công cụ mài không qua chế tác của 6 chày và hòn ghè, 9 mảnh gốm xốp, 18 mảnh gốm cứng mỏng, 93 mảnh gốm thô dày, 11 đốt sống cá biển, 88 đầu cá biển, 6 mảnh xương thú..

Lần khai quật thứ tư 5-12-2006 với tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín, kết thúc khai quật đầu 1-2007 thu được từ 10 hố có 137 hiện vật đá, 1.424 mảnh gốm tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể biển.

Phân tích cho thấy, những tổ hợp di vật đều làm từ đá granít và gốm vặn thừng dập thô, không se, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu biển kích thước lớn..

Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ hợp di tích và di vật phong phú.

Những vết tích văn hóa ở đây phản ánh phát triển kế tiếp từ trung kỳ đá mới - đặc trưng cho nền Văn hóa Cái Bèo, sang hậu kỳ đá mới - đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long. PGS. TS Nguyễn Khắc Sử:

"Di chỉ khảo cổ Cái Bèo là một trong những di tích quý hiếm nhất vùng duyên hải Bắc Bộ. Làng chài ven biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam."

7.000 năm trước, người Cái Bèo sống chủ yếu nhờ đánh cá biển và bắt sò, hàu.

Họ duy trì cuộc sống ấy đến 4.500 năm trước. Phân bố làng chài Cái Bèo rất rộng, khoảng 18.000m2.

Cư dân định cư ở Cái Bèo phát triển qua nhiều thời đại, từ trung kỳ đá mới đến sơ kỳ đồ đồng.

Từ săn bắt, hái lượm, đánh cá sang định cư nông nghiệp được coi quá trình phát triển Văn hóa Cái Bèo sang Văn hóa Hạ Long.

Những cư dân đầu tiên ở Cái Bèo có nguồn gốc bản địa, nhiều khả năng là con cháu người cổ Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn.

Văn hóa Cái Bèo vận động, phát triển sang Văn hóa Hạ Long thời đồ đồng đặc sắc ở vùng duyên hải Đông Bắc.

Di chỉ Cái Bèo xếp hạng DTQG 2009. Đây là DSVH biển tiêu biểu, đặc sắc Việt Nam mà còn là bảo tàng địa chất tuyệt vời về dao động mực nước biển đại dương.

Tiếp nhận và thích ứng của con người trước hiện tượng biển tiến, biển thoái là bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ xâm thực nước biển do biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, vẻ thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài giúp Cái Bèo hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.

"Chiến lược xây dựng và phát triển Cát Bà thành trung tâm du lịch cấp quốc gia và quốc tế, một trong những địa chỉ được huyện Cát Hải quan tâm là quản lý, khai thác và phát huy giá trị Văn hóa di chỉ Cái Bèo, bởi thật hiếm nơi nào cảnh quan thiên nhiên gắn hài hòa với di tích văn hóa như Cái Bèo.

Thiên nhiên ưu đãi nơi này có vùng biển đảo đẹp như tranh, hơn hết nơi đây còn là di chỉ của người Việt cổ rất có giá trị.

Vì thế, huyện Cát Hải sẽ cùng các ngành chức năng của thành phố nỗ lực hết sức mình bảo tồn khu di tích này.." - bà Vũ Thị Kim Bích khẳng định.

PĐT

Nguồn:

Web baohaiphong

Trầm tích Cái Bèo..

QĐND - Di chỉ Cái Bèo là bằng chứng khẳng định Tổ tiên người Việt ở đây từ 7.000 năm trước trong công cuộc chinh phục biển khơi..

Dấu tích 7.000 năm

Nay Cát Bà (Cát Hải, Hải Phòng) vẫn giữ hồn cốt tính nguyên sơ với địa hình núi đá vôi, nhiều hang động. Khung cảnh đầy vẻ bí ẩn thấp thoáng bóng dáng người xưa.

Trước mặt là biển lớn, sau lưng có núi được phủ bởi những vạt rừng thưa có suối nước ngọt. Người Việt cổ cư trú tại đây cũng chính bởi những điều kiện lý tưởng đó.

Các bản đồ cũ, tên đảo Cát Bà đều ghi là đảo Các Bà, bên ngoài có đảo nhỏ mang tên Các Ông. Tương truyền, thuở bình minh lịch sử nước ta, các bà bám giữ đảo, làm hậu tuyến cho các ông chống giặc trên các đảo tiền phương.

1938, nhà khảo cổ người Pháp bà M. Colani phát hiện di chỉ vịnh Làng Chài phía Nam đảo Cát Bà. Bà khẳng định, nơi đây là di chỉ khảo cổ học sau khi tìm thấy những hiện vật như hòn ghè, hòn mài. 1973, nhà nước mới có điều kiện tổ chức khai quật. Nay, di chỉ này mang tên mới - di chỉ Cái Bèo.

Ông Vũ Tiến Bảy, Nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện Cát Hải, hơn 30 năm công tác văn hóa trên đảo Cát Bà vẫn nhớ như in những lần các nhà khoa học về khảo sát, khai quật những di chỉ khảo cổ trên đảo Cát Bà, trong đó có Cái Bèo.

Ông kể:

"Cái Bèo nhiều lần khai quật, mỗi lần lại có những phát hiện mới mà các nhà khảo cổ bất ngờ. Tôi thật may mắn vì lần nào khai quật cũng tham gia cùng các nhà khoa học.

Lần đầu khai quật 1973, có những hiện vật lộ thiên ở trên như hòn ghè, hòn kê, bàn mài, giúp khẳng định chắc chắn có người Việt cổ sống ở đây. Những lần khai quật tiếp theo, các nhà khoa học xác định niên đại những di vật này khoảng 4.500 năm, thuộc Văn hóa Hạ Long.

Sau này, đến đợt khai quật 2009, ông Bảy tiếp tục tham gia cùng đoàn khảo cổ của GS Nguyễn Khắc Sử và Bảo tàng Hải Phòng.

Lần này, các nhà khoa học phát hiện ở độ sâu 2, 6m, ngoài các công cụ ghè đẽo không qua chế tác, xương thú.. còn có bếp người Việt cổ và những nồi gốm.

" Đặc biệt là cốt bên trong những nồi bằng gốm là than. Các nhà khoa học nói người Việt cổ đan khung bằng tre, sau đó phết đất xung quanh. Khi đốt, phần tre bên trong cháy, chỉ còn lớp gốm bên ngoài "- ông Bảy nói.

Đặc biệt dùng phương pháp mới để kiểm tra, các nhà khoa học phát hiện Văn hóa Cái Bèo không muộn như Văn hóa Hạ Long mà sớm hơn, khoảng 7.000 năm trước..

Bảo tàng Hải Phòng lưu các hiện vật di chỉ Cái Bèo sau khi được khai quật, các tư liệu ở đây cho thấy:

Đảo Cát Bà có hơn 100 điểm có dấu vết người Việt cổ. Cái Bèo là di chỉ khai quật nhiều nhất.

Các tầng văn hóa Cái Bèo thể hiện rất rõ ở mỗi độ sâu, mỗi lớp sạn tương ứng với một thời gian, từng lớp từng lớp, từng tầng văn hóa.

Cái Bèo bị lãng quên?

Hiện tại, Hải Phòng có 2 dự án lớn sắp hoàn thành, dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện) và Cầu vượt biển Tân Vũ-Lạch Huyện.

Dự án Cầu vượt biển Tân Vũ-Lạch Huyện là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam, một trong những cây cầu lớn nhất khu vực Đông Nam Á, nối quận Hải An và huyện Cát Hải, kết nối với đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng.

Không lâu nữa, sau khi dự án này hoàn thành, cuối tuyến sẽ là cảng nước sâu Lạch Huyện, khu cảng hiện đại với khả năng đón tàu cỡ lớn đến 100 nghìn tấn, đáp ứng vai trò là cảng cửa ngõ quốc tế, kết hợp phục vụ mục tiêu trung chuyển quốc tế, góp phần thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.

2 dự án trên hoạt động giúp du khách tới thăm đảo rất thuận lợi, thời gian di chuyển rút ngắn. Cát Bà sẽ thành điểm đón hàng vạn du khách trong và ngoài nước.

Để có thể là điểm đến ấn tượng, Cát Bà phải tạo cho được dấu ấn riêng mình.

" Toàn đảo Cát Bà là bảo tàng văn hóa biển Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử thuở sơ khai, chúng ta phải tận dụng lợi thế này ", ông Bảy khẳng định.

Chuyện về Cái Bèo, ông Bảy không khỏi ngậm ngùi. Hơn 30 năm công tác trong ngành văn hóa, giờ nghỉ hưu nhưng tình yêu với huyện đảo, với người Cát Bà vẫn cháy trong ông.

Nỗi day dứt về việc bảo tồn, phát huy thế mạnh văn hóa huyện đảo đeo bám ông mãi.

Ông Bảy nhớ lại, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha có lần ra thăm đảo, nói với ông:

- Cát Bà đúng là Hồng Kông thu nhỏ!

Ông gạt đi:

- Không! Cát Bà phải là Cát Bà. Cát Bà phát triển du lịch sinh thái và du lịch khảo cổ học sẽ có giá trị rất lớn.

Giọng trầm xuống, ông Bảy nói tiếp, Cát Bà giờ xây nhiều nhà cao tầng quá. Nhà ống dần lấn sâu vào trong, san biển, phá núi.

Vịnh Tùng Dinh xưa là những nếp nhà rất đẹp, nhà sàn cắm cột xuống mặt biển, thuyền đưa mũi vào trong, giờ bê tông hóa tất cả, thành ra na ná những nơi khác.

Làng chài cổ Việt Hải xưa là những nếp nhà cổ với kiến trúc đặc thù, nay dần hiện đại hóa. Đó là kiểu làm du lịch ăn xổi.

Ông kể thêm:

Có lần mấy chuyên gia nước ngoài đến thăm đảo. Một người trong số đó đưa ảnh chụp nhà cao" ngất ngưởng "trong làng cổ và nói:

" Các bạn đang đánh mất mình! "

Đến nay, ông Bảy vẫn luôn hy vọng, Cát Bà sẽ dựng lại hiện trường, cảnh sinh hoạt người Việt cổ tại di chỉ Cái Bèo.

Ở đó giữ nguyên những tầng văn hóa. Khách du lịch có thể xuống tham quan những tầng văn hóa ấy kèm theo các hiện vật minh chứng cho sự tồn tại của người Việt cổ ở Cát Bà.

Từ di chỉ Cái Bèo này có thể vươn ra toàn bộ các điểm khác trên đảo. Đây sẽ là nhịp cầu nối thế hệ sau với thế hệ trước, nơi giao lưu, tìm hiểu của các nhà khoa học, người dân, bạn bè quốc tế.

Tìm đến vị trí di chỉ, chúng tôi không khỏi bất ngờ.

" Bác cho hỏi di chỉ Cái Bèo ở chỗ nào? "

" Cái Bèo đây, còn di chỉ thì không biết. "

4 người được hỏi (nhà cách vị trí di chỉ chưa đầy 100m) đều cùng có câu trả lời. Phải đến người thứ 5, chúng tôi mới nhận được câu trả lời:

" Ở dốc trên kia kìa. "

" Đấy, có cái bia thôi chứ có gì đâu. Ngày trước họ tới đào bới gì đó rồi đi. "- Gia đình ở đối diện nơi đặt tấm bia" Di tích khảo cổ học Cái Bèo "nói.

Bia nhỏ nằm nép bên vệ đường, bụi mờ phủ kín. Không được chỉ tận mắt, chúng tôi không thể biết đó là vị trí di chỉ, càng không nghĩ đó là di chỉ có ý nghĩa lịch sử giá trị nếu chưa tìm hiểu từ trước. Men theo lối nhỏ vào bên trong là mấy chuồng gà bỏ hoang, cây cối mọc um tùm.

Ông Bảy quan niệm làm du lịch bền vững phải đặc biệt quan tâm di chỉ văn hóa, đầu tư phải bài bản, sâu sắc. Hiện sản phẩm du lịch Cái Bèo đều là những tua, những món hàng rất mờ nhạt, có thể tìm thấy ở bất kỳ đâu, bất kỳ nơi nào.

Thử hỏi, ai có thể dửng dưng trước một làng chài cổ, nơi các nhà khoa học trong nước, quốc tế đều tìm thấy ở đây dấu ấn người Việt từ 7.000 năm trước?

Nỗi niềm ông Bảy chưa thể có câu trả lời thỏa đáng lúc này. Điều đọng lại mãi trong tôi khi rời Cái Bèo là vẻ cuốn hút bí ẩn làng chài đang mang trong mình tầng tầng, lớp lớp trầm tích văn hóa, một sự lôi cuốn kỳ lạ!

Bài và ảnh: HOÀNG LIÊN VIỆT

Nguồn:

Web qdnd

Hải Phòng: Làng chài Cái Bèo bảo tàng văn hóa biển

Làng chài nhỏ có di chỉ niên đại cách đây hàng nghìn năm, nay thành địa chỉ du lịch khá nổi tiếng, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đó là làng chài Cái Bèo..

Làng chài Cái Bèo (còn gọi làng chài Vụng O, thuộc quần đảo Cát Bà, huyện đảo Cát Hải, TP. Hải Phòng) là một trong những làng nổi cổ lớn nhất cả nước ở thời tiền sử.

Đây là làng chài có khoảng 300 hộ dân. Cuộc sống cư dân làng chài Cái Bèo gắn liền với hoạt động đánh bắt thủy sản và nuôi cá lồng trong vịnh.

Không sôi động như bến tàu ra vịnh Lan Hạ nhưng Bến Bèo khá đa dạng các loại tàu, thuyền, đò sẵn sàng đưa khách đi khám phá vẻ đẹp thanh bình làng chài cổ nhất Việt Nam-Cái Bèo.

Nhìn từ xa, vịnh Cái Bèo hiện ra thật đẹp với làn nước màu xanh lục, núi đá nhấp nhô hòa lẫn với màu trời trong xanh. Vẻ thơ mộng thiên nhiên và cuộc sống nhộn nhịp làng chài tạo vẻ đẹp hiếm thấy.

Trên mặt nước bồng bềnh, làng chài gồm nhiều nhà thuyền kết liền với nhau thành nhóm. Không chỉ có những con thuyền, trên vịnh Cái Bèo còn có những nhà nổi kết lại san sát với nhau bằng những lồng bè nuôi cá. Từ nhà này có thể dễ sang nhà kia trên cầu nhỏ bắc ngang hay trên những thanh lồng.

Cái Bèo đánh giá là một di chỉ khảo cổ học có giá trị quan trọng nhất hiện nay của vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt Nam với 4 lần khảo sát và khai quật của các đoàn khảo cứu.

Lần đầu tiên 1938, nhà khảo cổ học M. Colani người Pháp phát hiện Cái Bèo là cái nôi văn hóa cổ Việt Nam.

Trên cơ sở đó, Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát và manh nha phát hiện nôi văn hóa biển.

1981, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật lần 2. Tuy phạm vi khai quật chỉ với diện tích 78m2 song tìm được nhiều hiện vật đá ở 2 giai đoạn phát triển kế tiếp nhau là tiền Hạ Long và Hạ Long.

Năm 1986, lần khai quật thứ 3 tiếp tục tiến hành.

Các nhà khảo cổ tìm được gần 180 công cụ đá gồm công cụ ghè đẽo, công cụ mài không qua chế tác của 6 chày và hòn ghè, 9 mảnh gốm xốp, 18 mảnh gốm cứng mỏng, 93 mảnh gốm thô dày, 11 đốt sống cá biển, 88 đầu cá biển, 6 mảnh xương thú.

Phân tích các mẫu hiện vật phát hiện có cơ sở kết luận di chỉ Cái Bèo gồm 2 giai đoạn văn hóa:

Giai đoạn tiền Hạ Long và Văn hóa Hạ Long.

Lần khai quật thứ 4 vào 5-12-2006 có nhiều nhà khoa học uy tín, khi kết thúc khai quật đầu 1-2007 thu từ 10 hố có 137 hiện vật đá, 1.424 mảnh gốm tiền sử, 568 tiêu bản di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể biển.

Phân tích cho thấy những tổ hợp di vật thu được đều làm từ đá granít và gốm vặn thừng dập thô không se, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu biển kích thước lớn..

Đến với làng chài Cái Bèo, du khách trải nghiệm khá thú vị là thuê tàu tham quan giữa các hộ gia đình nuôi cá bè, tìm hiểu cuộc sống của người dân làng chài.

Không chỉ thế, du khách còn có thể thoải mái ngắm nhìn khung cảnh nên thơ của vịnh và thưởng thức những món ăn đặc sản chế biến từ cá, tu hài, tôm trên các nhà hàng nổi do dân làng chài đánh bắt hay nuôi trồng.

Sinh hoạt ở làng chài là những sinh hoạt độc đáo, thú vị và hiếm gặp. Có hàng trăm bè cá lớn nhỏ cùng trong khu vực vịnh rộng lớn.

Mỗi buổi sáng, khi mặt trời lên trên biển Cát Bà, lũ cá quẫy mình đòi ăn làm xao động vùng nước, hòa cùng tiếng í ới gọi nhau đi học của trẻ em làng chài.. sẽ là trải nghiệm thú vị với du khách.

Cái Bèo xếp hạng DTQG 2009. Rất hiếm nơi nào cảnh quan thiên nhiên lại gắn liền và hài hòa với di tích văn hóa như ở đây. Cùng cuộc sống tấp nập nhộn nhịp.

Cái Bèo luôn cuốn hút du khách với vẻ đẹp hòa quyện giữa mộng mơ và thực tế.

Hoàng Việt

Nguồn:

Web vietnamtourism

Làng chài cổ nhất Việt Nam

Cái Bèo một trong những di chỉ khảo cổ được quan tâm nhất nhiều năm qua.

6 lần khảo sát, dần mở cánh cửa di chỉ, để nay có thể tìm lại làng chài cổ xưa nhất Việt Nam, nhìn thấy quá trình người Việt làm chủ Vịnh Bắc Bộ thế nào.

Di tích văn hóa biển

Di chỉ Cái Bèo phía Đông Nam đảo Cát Bà, độ cao trung bình 4m so mặt biển. Di chỉ này được M. Colani phát hiện và khảo sát lần đầu 1938, lúc đó mang tên Làng Chài.

4-1972 Viện Khảo cổ học tiến hành đào 2 hố thám sát và đặt tên di chỉ Cái Bèo.

Lần khai quật này thu di vật đá và gốm đặc trưng cho Văn hóa Hạ Long. 1973 khai quật trên diện tích 221m2.

Địa tầng di chỉ dày 3, 5m có 3 lớp văn hóa, ngăn cách bởi 2 lớp vô sinh.

2 lớp dưới đặc trưng cho thời kỳ đá mới hay tiền Hạ Long, lớp trên cùng thuộc Văn hóa Hạ Long.

Khai quật này thấy 2 bếp nguyên thủy, thu 488 hiện vật đá và 14.976 mảnh gốm, 105, 85kg xương thú và cá tập trung ở trung tâm di chỉ, nơi có bếp.

1981 di chỉ được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Hải Phòng khai quật diện tích 78m2.

Lần này thấy 2 bếp lửa, 1 mộ chôn nằm co của đàn ông chừng 50 - 60 tuổi, còn cốt sọ.

Hiện vật nhiều chày, bàn nghiền, bàn mài, công cụ ghè đẽo, mảnh phế liệu. Riêng đồ gốm có 5.261 mảnh.

Năm 1986, di chỉ khai quật diện tích gần 90m2, tầng văn hóa dày 2, 2m, 100 công cụ ghè đẽo (chiếm 56.7%), 66 công cụ không qua chế tác (37%), 11.300 mảnh gốm.

Theo các tác giả Bùi Vinh và Nguyễn Xuân Ngọc (Tạp chí Khảo cổ học số 2/ 2004) :

" Cư dân Cái Bèo là những người định cư ven biển, theo kiểu một làng chài, sử dụng lưới vó, vận hành bằng thuyền mảng, đánh bắt xa bờ lẫn gần bờ, gia công thực phẩm tại nơi cư trú.

Mô thức vận hành đó khác căn bản những cư dân cùng bình tuyến trung kỳ đá mới ở Việt Nam như Đa Bút, Quỳnh Văn. "

Theo nhà nghiên cứu Hà Hữu Nga, di chỉ Cái Bèo là một trong những di chỉ khảo cổ quan trọng nhất trong khu vực ven biển hải đảo miền Đông Bắc Việt Nam.

Khai quật mới nhất 12-2006 – 1-2007, hiện đang chỉnh lý tư liệu.

Đây là khai quật" khẩn "vì hiện trên mặt di chỉ Cái Bèo xuất hiện khu dân cư và một số công ty," một trong những tác nhân cơ bản xâm hại di tích và phá hủy cảnh quan môi trường di tích Cái Bèo.. "

Lần khai quật này tìm thấy bếp rộng 50cm, than chất thành đống dày 10cm. 2 nồi gốm nguyên. Bếp còn có các di vật đầu cá, vỏ hàu, viên cuội, hòn ghè, hòn nghiền, những tảng đá vôi ám khói, đánh giá" đích thực là bếp nguyên thủy. "

Nhóm khảo cổ phát hiện nhiều hiện vật đá như bàn mài, chày, hòn kê, gốm cứng, đặc trưng cho giai đoạn tiền Hạ Long.

Xây bảo tàng cho làng chài cổ?

Hiện các cơ quan khảo cổ quyết định dừng lại, không khai quật tiếp nhằm tìm cách giữ lại các địa tầng văn hóa còn nguyên thủy rất quý hiếm, để làm bảo tàng ngoài trời.

Theo đánh giá của Viện Khảo cổ:

" Cái Bèo là làng chài biển cổ có quy mô lớn nhất hiện biết ở Việt Nam.

Trước người Cái Bèo là cư dân Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn chuyên khai thác hệ động vật và thực vật nước ngọt trong các khối đá vôi sâu trong lục địa.

Những cư dân sống trong hang động trên đảo Cát Bà và vùng biển Hạ Long cũng vậy, vì lúc đó biển còn ở rất xa.

Cùng bình tuyến với Cái Bèo có nhóm cư dân Đa Bút, giai đoạn đầu họ khai thác hến nước ngọt, khai thác biển cách đây 5.000 năm.

Cư dân Văn hóa Quỳnh Văn khai thác sò và điệp biển là chính, di chỉ cổ nhất khoảng 6.000 năm.

Người Cái Bèo khoảng 7.000 năm trước đánh bắt cá biển và bắt sò, hàu biển, tiếp tục cho đến 4.500 năm trước.

Phạm vi phân bố làng chài rất rộng, khoảng 18.000m2. Cái Bèo vẫn là đơn vị cư trú, hay làng chài cổ có quy mô lớn nhất."

Phát hiện làng chài cổ Cái Bèo cho thấy người Việt sớm có mặt trên Biển Đông và bắt đầu nghề đánh bắt hải sản quy mô.

Một mặt, cư dân Cái Bèo vẫn tiếp tục phát triển văn hóa truyền thống Hòa Bình - Bắc Sơn, những người dân ở đây hướng ra chinh phục biển cả.

Theo ông Đỗ Xuân Trung, chuyên viên khảo cổ Bảo tàng Hải Phòng, các cơ quan khoa học khẩn trương làm thủ tục hồ sơ đề xuất xếp hạng cấp quốc gia di chỉ Cái Bèo.

Đề xuất phương án bảo vệ trưng bày phát huy giá trị lịch sử di chỉ. Một trong những phương án Hải Phòng nghiên cứu là lập bảo tàng ngoài trời quy mô phù hợp.

Cát Bà hiện là điểm đảo thu hút khách du lịch. 2006, Cát Bà đón 500.000 khách, gần 20% là khách quốc tế. Xây bảo tàng tại Cái Bèo, cửa ngõ của Cát Bà, hy vọng sẽ mở ra những tour du lịch văn hóa thú vị và kéo dài thời gian lưu trú của du khách.

Theo giám đốc Sở VHTT Quảng Ninh, khó nhất vẫn là kinh phí đầu tư dự án này. Nếu xã hội hóa, với nhiều nguồn lực đầu tư, có thể triển khai sớm hơn.

Nguồn:

Web sggp

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70394502_1220125294854387_2864790431072256000_n.jpg


Văn hóa Đa Bút là tên gọi nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đồ đá mới có niên đại sau các nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, cách đây từ 5000 đến 6000 năm.

Không gian Văn hóa Đa Bút là dải đất nằm từ hữu ngạn sông Đáy đến lưu vực sông Mã thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa nay.

Tính đến 2010, hơn 10 điểm Văn hóa Đa Bút phát hiện và khai quật. Các bộ lạc chủ nhân Văn hóa Đa Bút tạo ra Văn hóa Đông Sơn[1]

Đặc điểm

Đa Bút đặt theo tên thôn ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa - nơi đầu tiên tìm được những di vật của văn hóa này.

Sau những phát hiện và khai quật Cồn Cổ Ngựa, Cồn Trũng, Bản Thủy, Làng Còng (Thanh Hóa) và Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình).

Nhận thức về địa bàn phân bố và môi trường Văn hóa Đa Bút trải rộng trên mặt không gian từ vùng núi đến vùng đồng bằng ven biển với nhiều loại hình di tích khác nhau cho thấy môi trường văn hóa đa dạng của Văn hóa Đa Bút.

Thành tựu quan trọng 80 năm phát hiện và nghiên cứu nhận ra những đặc trưng cơ bản Văn hóa Đa Bút:

"Sự nảy sinh đồ gốm đồng thời với hoàn thiện kỹ thuật mài là hai nét đặc trưng quan trọng nhất tạo bộ mặt Văn hóa Đa Bút" (Trần Quốc Vượng).

Nghiên cứu đồ gốm Đa Bút buổi đầu mới phát hiện và khai quật di tích này E. Patte cho rằng:

"Người Đa Bút dùng khuôn đan để tạo đồ gốm. Các thực nghiệm của Viện Khảo cổ học cho biết:

Đồ gốm Đa Bút tạo bằng kỹ thuật nặn khối, sử dụng hòn kê, bàn đập.

Đồ gốm Đa Bút đến giai đoạn cuối có phát triển về thể loại hình kỹ thuật, hoa văn, độ nung gốm cao hơn, các loại văn hoa và kiểu dáng.

Sự có mặt các loại đồ gốm mỏng, văn hoa đa dạng, xương gốm mịn hơn được xem là phát triển kỹ thuật tạo đồ gốm.

Đồ gốm Đa Bút là yếu tố văn hóa nổi trội mang tính riêng biệt chủ nhân Văn hóa Đa Bút.

Đặt đồ gốm Đa Bút trong nền cảnh thời đại mới ở Việt Nam có thể xem gốm Đa Bút là tập hợp sớm nhất. Địa bàn phân bố Đa Bút là trung tâm văn hóa đồ gốm sớm ở Việt Nam.

Những năm sau 2010, khi khai quật các di chỉ khảo cổ học ở Quần thể Di sản Thế giới Tràng An, các nhà khảo cổ tìm thấy trong các hang động nhiều vật dụng gốm, xác định ra đời sớm nhất Việt Nam, có niên đại khoảng 9000 năm, thuộc nền Văn hóa Tràng An[2]

Kỹ thuật chế tác công cụ đá của chủ nhân Văn hóa Đa Bút có phát triển và hướng tới hoàn chỉnh.

Từ hai loại nguyên liệu khai thác tại chỗ: Đá cuội và đá phiến, chủ nhân Văn hóa Đa Bút áp dụng kỹ thuật mài cưa để tạo những công cụ thích hợp, đem lại hiệu quả cao.

Phát triển kỹ thuật mài của đá cho phép cưa đá người Đa Bút chế tác được các loại rìu tứ giác khá hoàn chỉnh. Sưu tập đá của Văn hóa Đa Bút với các loại di vật tiêu biểu từ rìu mài lưới, mài toàn thân đến rìu tứ giác, rìu hình thanh được mài nhẵn, các loại cước đá to mài nhẵn cho ta thấy phát triển vượt trội kỹ thuật chế tác các công cụ đá.

Kiến thức ngày nay với hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật mới giúp các nhà khảo cổ học nhận thức đúng hơn về môi trường, đời sống của cư dân Đa Bút qua các tư liệu mới về văn hóa này.

Từ di tích khảo cổ học Đa Bút, đến nay Văn hóa Đa Bút được phân thành các giai đoạn phát triển khác nhau:

Văn hóa Đa Bút có thể gọi là phức hệ phát triển văn hóa lâu dài từ sau Văn hóa Hòa Bình đến cuối đá mới – mà thực chất là quá trình:

" Đá mới "thực hiện trong chuyển đổi môi trường từ các thung lũng đá vôi Hòa Bình đã và đang tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển tiền sử Việt Nam.

Các di chỉ khảo cổ

Di tích khảo cổ học Đa Bút (Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) phát hiện đầu tiên 1926.

Kết quả khai quật đầu tiên cho biết đây là dạng di tích Cồn vỏ nhuyễn thể – Cồn Hến như kiểu" đống rác bếp. "Những di vật phát hiện đầu tiên:

Rìu đá, cuốc đá, bàn nghiền, chày nghiến, đồ gốm cho biết di tích này có niên đại đá mới.

Di tích núi Hang Sáo (Quang Sơn, Tam Điệp, Ninh Bình) với nhiều hang động và mái đá có dấu ấn cư dân Văn hóa Hòa Bình và cư dân Văn hóa Đa Bút sống cách nay từ 5.000 đến 10.000 năm.

Di tích Đồng Vườn (Yên Thành - Yên Mô, Ninh Bình) là di chỉ thuộc thời Văn hóa Đa Bút. Đây là di chỉ cư trú ngoài trời ở Ninh Bình.

Di tích khảo cổ học Cồn Cổ Ngựa (Hà Lĩnh, Hà Trung, Thanh Hóa) khai quật những năm 1979 - 1980 trên diện tích 235m2 xuất hiện nhiều di vật Văn hóa Đa Bút[3]

Cụm di tích hang ốc; Núi Ốp (Yên Sơn, Tam Điệp, Ninh Bình) xuất lộ dấu ấn cư dân Văn hóa Đa Bút và cư dân Văn hóa Đông Sơn.

Di chỉ khảo cổ học Cồn Trũng (Phú Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa) có niên đại thuộc giai đoạn từ sơ kỳ đá mới chuyển sang hậu kỳ đá mới thuộc Văn hóa Đa Bút.

Cụm di tích hang Mo; hang Cò; hang Trâu; hang Hũ Ngoài; hang Hũ Trong; mái đá Thung Bình thuộc khu du lịch Tràng An ở Ninh Bình có dấu ấn Văn hóa Tràng An, Văn hóa Hòa Bình và Đa Bút.

Di tích hang Khỉ (Đông Sơn - Tam Điệp, Ninh Bình) xuất lộ một số mảnh gốm cùng vỏ nhuyễn thể trên bề mặt, nơi đây có dấu ấn Văn hóa Đa Bút.

Tham khảo

1. Văn hóa Đa Bút, những giá trị bảo tồn và phát huy

2. Danh thắng Tràng An thành di sản nhân loại

Nguồn:

Wikipedia

Văn hóa Đa Bút - hơn 90 năm phát hiện và nghiên cứu

Văn hóa Đa Bút mang tên di tích khảo cổ học Đa Bút thuộc thôn Đa Bút, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa - một trong những nền văn hóa khảo cổ học tiêu biểu xứ Thanh cũng như cả nước.

Từ khi khai quật lần đầu 1926 đến nay, nền văn hóa này trải hơn 9 thập kỷ phát hiện và nghiên cứu.

Từ đợt khai quật lần đầu, di chỉ Đa Bút dần định danh, đó là dạng di tích Cồn vỏ nhuyễn thể - Cồn Hến (Kjokkenmodings) như kiểu" đống rác bếp. "Hệ thống di vật:

Rìu đá, cuốc đá, bàn nghiền, chày nghiến, đồ gốm cho biết di tích có niên đại đá mới.

Khoảng 5 thập kỷ sau, thông qua một loạt khai quật khảo cổ học - bắt đầu bằng đợt khai quật 1977 tại di chỉ Gò Trũng, hiện vật gốm tại đây cho thấy nhiều nét tương đồng với" gốm Đa Bút "..."

Một cây cầu nối Đa Bút với Gò Trũng được xác lập. "

2 năm sau (1979) di chỉ Cồn Cổ Ngựa khai quật. Những kết quả thu đủ để các nhà khảo cổ học hình dung văn hóa riêng biệt, khái niệm" Văn hóa Đa Bút "đề xuất và nhanh được chấp thuận.

Sau các phát hiện này, một loạt di chỉ khảo cổ học thuộc Văn hóa Đa Bút phát lộ qua các đợt khai quật khảo cổ học ở:

Bản Thủy, Làng Còng (Thanh Hóa), Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình).

Gần đây nhất là khai quật di tích Cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, Hà Trung) 2013 do Viện Khảo cổ học phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa cùng một số nhà khoa học thuộc Đại học Quốc gia Australia tiến hành.

Qua đó, tính chất, đặc trưng văn hóa và vị trí Văn hóa Đa Bút trong lịch sử dân tộc đã tương đối sáng tỏ.

Văn hóa Đa Bút có nguồn gốc từ Văn hóa Hòa Bình, bằng chứng là bảo lưu yếu tố:

Hòa Bình trong Văn hóa Đa Bút qua tổ hợp công cụ đá, phương thức mai táng (chôn người nằm co, ngồi xổm bó gối) và thành phần chủng tộc kiểu Hòa Bình còn bảo lưu trong Đa Bút.

Kể cả truyền thống khai thác nhuyễn thể từ ốc núi, ốc suối sang các loài hến trong sông, rồi nhuyễn thể biển. Văn hóa Đa Bút xuất hiện các yếu tố mới:

Rìu hình bầu dục, rìu tứ giác, mài lan thân, mài toàn thân, đặc biệt đồ gốm.

Tất cả điểm nói trên cho thấy Văn hóa Đa Bút có nguồn gốc từ Văn hóa Hòa Bình, song cách tân khác Hòa Bình và tiến bộ hơn Hòa Bình.

Quá trình chuyển biến từ Văn hóa Hòa Bình đến Văn hóa Đa Bút thực chất là quá trình" đá mới hóa "một bộ phận cư dân:

Văn hóa Hòa Bình cư trú ở vùng núi phía Tây Thanh Hóa - Ninh Bình, chính họ là chủ nhân tiên phong tách khỏi hang động, thung lũng tiến xuống chinh phục và khai phá đồng bằng kế cận.

Thời gian đầu, nhận thức chưa đầy đủ, các học giả phương Tây cho rằng Đa Bút là loại hình di tích ngoài trời thuộc Văn hóa Bắc Sơn.

Sau các phát hiện tại Cồn Cổ Ngựa, Gò Trũng, Bản Thủy, Làng Còng (Thanh Hóa) và Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình).

Địa bàn cư trú và môi trường văn hóa của cư dân cổ Đa Bút được nhận thức lại và làm sáng tỏ.

Qua đó Văn hóa Đa Bút phân bố trên địa bàn từ châu thổ sông Mã đến phía Nam sông Đáy tiến ra biển, trên vùng thuộc Thanh Hóa và Ninh Bình nay.

Phát hiện Văn hóa Đa Bút, các học giả Phương Tây cho đây là di tích ngoài trời thuộc Văn hóa Bắc Sơn.

Thuở đầu, người Đa Bút sống ổn định ở các gò đất vùng đồng bằng (tương đương vùng thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa nay) rồi dịch dần ra đồng bằng ven biển mà vết tích còn lại là 2 di tích:

Cồn Cổ Ngựa và Bản Thủy.

Những di tích này, các nhà khoa học phát hiện một số mẫu tảo nước mặn và nước lợ.

Thời gian này, châu thổ Ninh Bình - Thanh Hóa ghi nhận đợt biển tiến Holocenee trung.

Quá trình biển tiến diễn ra hàng trăm năm, theo các nhà nghiên cứu, đây là nguyên nhân cư dân Đa Bút phải di chuyển, dời địa bàn cư trú lên các địa điểm cao hơn. Dấu tích thích nghi này chính là 2 di chỉ:

Làng Còng (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) và Hang Sáo (vùng núi Tam Điệp, Ninh Bình). Tại đây, người Đa Bút quay lại truyền thống chế tác công cụ ghè đẽo kiểu Văn hóa Hòa Bình.

Cách nay khoảng 4.000 năm, người Đa Bút tại các di tích Làng Còng, Hang Sáo bắt đầu vươn ra biển, minh chứng rõ nhất là những phát hiện tại các di chỉ Gò Trũng (Hậu Lộc - Thanh Hóa), Đồng Vườn (Yên Mô - Ninh Bình).

Những tàn tích chứng tỏ công cuộc chinh phục đồng bằng ven biển của cư dân Đa Bút cổ là khối lượng vỏ nhuyễn thể, xương cá biển cùng rất nhiều chì lưới thu nhặt tại các di chỉ nói trên.

Sinh thời, Giáo sư Trần Quốc Vượng từng khẳng định:

" Sự nảy sinh đồ gốm đồng thời với hoàn thiện kỹ thuật mài là hai nét đặc trưng quan trọng nhất tạo bộ mặt Văn hóa Đa Bút. "

Từ những phát hiện đầu tiên về đồ gốm, E. Patte cho rằng:

" Gốm Đa Bút "được tạo bởi khuôn đan. Về sau, Viện Khảo cổ học thực nghiệm và cho biết đồ gốm Đa Bút tạo bằng kỹ thuật nặn khối, sử dụng hòn kê, bàn đập.

Càng về giai đoạn sau, gốm Đa Bút càng phát triển về loại hình kỹ thuật, hoa văn, độ nung cũng cao hơn.

Giai đoạn Gò Trũng xuất hiện gốm văn thừng se, văn ấn lõm quanh bò mép miệng, đồ đựng có miệng hơi bóp vào hoặc hơi loe.

Phát triển gốm Đa Bút còn biểu hiện ở xuất hiện các loại đồ gốm mỏng, hoa văn đa dạng, xương gốm mịn hơn.

Bên cạnh chế tác gốm, cư dân Đa Bút cổ từng bước hoàn thiện kỹ thuật chế tác công cụ. Từ nguồn nguyên liệu tại chỗ, như:

Đá cuội, đá phiến, người Đa Bút áp dụng các thao tác cưa, mài đá để tạo những công cụ có tính năng, công suất vượt trội mà điển hình là loại" rìu tứ giác. "

Nhận thức về kỹ thuật mài cũng được nâng lên, từ chỗ chỉ" mài lưỡi ", công cụ của chủ nhân Văn hóa Đa Bút được" mài toàn thân. "

Loại hình công cụ cũng nhờ đó mà phong phú hơn. Bên cạnh" rìu tứ giác ", trong tầng Văn hóa Đa Bút còn có một số lượng không nhỏ" rìu hình thang "được mài nhẵn.

Cư dân cổ Đa Bút thoát ly khỏi khu vực hang động đá vôi sống trong hệ sinh thái trước núi cận đồng bằng, ven sông nhiều đầm lầy rồi khai phá đồng bằng ven biển.

Họ cư trú ở ngoài trời, trên các gò, đồi cao.. Hoạt động kinh tế chủ yếu vẫn là săn bắt hái lượm, đối tượng khai thác là nhuyễn thể nước ngọt, ngoài ra còn thêm cua, cá và săn bắt một số loài thú nhỏ.

Nguồn chất bột được cung cấp từ các loài cây có củ, quả như khoai nước (taro), củ ấu.. Cư dân Đa Bút bên cạnh nông nghiệp sơ khai thì khai thác sản vật tự nhiên vẫn là chủ yếu, đi từ cuộc sống" bán định cư "đến định cư, từ kinh tế khai thác tự nhiên đến nông nghiệp.

Trước đây, khi Văn hóa Đa Bút mới bước đầu tiếp cận và giải mã, vấn đề nhân chủng Đa Bút chưa được làm sáng tỏ mà chỉ được" nêu ra như một thuyết về người Melanésien ở di chỉ Đa Bút. "

Tuy nhiên, sau nhiều khai quật tại các di chỉ thuộc Văn hóa Đa Bút, đặc biệt là xuất hiện di cốt người tại di chỉ Cồn Cổ Ngựa, các nhà khoa học bước đầu chứng minh sự" gần gũi về nhân chủng "giữa chủ nhân Văn hóa Đa Bút với chủ nhân các nền văn hóa khảo cổ:

Hòa Bình, Đông Sơn.

Đáng nói hơn, kết quả thu được từ khai quật năm 2013 bổ sung thêm những nhận thức mới.

Từ những dấu vết còn lại, theo các nhà khảo cổ học, chủ nhân di chỉ Cồn Cổ Ngựa có hình thể lớn, to khỏe, đặc biệt là đàn ông.

Căn cứ vào số lượng chì lưới khá lớn và vết tích dây thừng để lại trên đồ gốm, có thể những cư dân này đã biết ra khơi xa đánh bắt cá.

Tóm lại, những nghiên cứu, tìm hiểu về Văn hóa Đa Bút trong hơn 90 năm qua góp phần tôn vinh những giá trị của lịch sử, đồng thời giúp cho thế hệ trẻ thêm hiểu biết và tự hào về nền văn hóa này.

Nguồn:

Web baothanhhoa

Văn hóa Đa Bút 90 năm phát hiện và nghiên cứu

Khu vực sông Mã là quê hương của nhiều nền văn hóa khảo cổ học có vị thế quan trọng trong dòng chảy của lịch sử dân tộc.

Trong những văn hóa khảo cổ hình thành, phát triển và tỏa sáng trên đôi bờ sông Mã.

Văn hóa Đa Bút là một trong những văn hóa khảo cổ có vị thế quan trọng trong thời đại đá mới ở Việt Nam và khu vực.

Văn hóa Đa Bút mang tên di tích khảo cổ học Đa Bút thuộc thôn Đa Bút, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

E. Patte là người đầu tiên phát hiện và khai quật di tích này năm 1926.

Kết quả khai quật đầu tiên cho biết đây là dạng di tích Cồn vỏ nhuyễn thể - Cồn Hến (Kjoken - modding) như kiểu" đống rác bếp. "

Những di vật phát hiện đầu tiên như:

Rìu đá, cuốc đá, bàn nghiền, chày nghiến, đồ gốm cho biết di tích này có niên đại đá mới.

Từ những năm 80 TK. XX, với một loạt các di tích kiểu Đa Bút được phát hiện, nghiên cứu thuật ngữ Văn hóa Đa Bút mới được xác lập.

Khi phát hiện Văn hóa Đa Bút, các học giả Phương Tây cho đây là di tích ngoài trời thuộc Văn hóa Bắc Sơn.

Sau đó với những phát hiện mới về hậu kỳ đá mới ở Việt Nam, di tích này được xem như giai đoạn nối giữa sơ kỳ và hậu kỳ đá mới.

Sau những phát hiện và khai quật Cồn Cổ Ngựa, Gò Trũng, Bản Thủy làng Còng (Thanh Hóa) và các phát hiện ở Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình).

Nhận thức về địa bàn phân bố và môi trường của Văn hóa Đa Bút được nhận thức lại.

Đến nay có thể khẳng định được địa bàn hoạt động của chủ nhân Văn hóa Đa Bút không chỉ giới hạn ở châu thổ sông Mã thuộc tỉnh Thanh Hóa mà còn mở rộng đến phía Nam sông Đáy thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình và tiến ra biển.

Di tích Văn hóa Đa Bút trước đây chỉ được biết đến với kiểu di tích Cồn vỏ nhuyễn thể nước ngọt (Cồn Hến) khác dạng Cồn nước mặn.

Đến nay biết đến các loại di tích Cồn cát ven biển (Gò Trũng), Cồn đất (Cồn Cổ Ngựa) và cả dạng hang động mái đá (Hang Sáo).

Sự phân bổ trên mặt không gian rộng từ vùng núi đến vùng đồng bằng, ven biển với nhiều loại hình di tích khác nhau cho thấy môi trường văn hóa đa dạng của Văn hóa Đa Bút.

Thành tựu quan trọng của 90 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đa Bút không chỉ phát hiện thêm các di tích.

Xác định nội dung bước phát triển văn hóa này mà quan trọng ở chỗ đã nhận ra những đặc trưng cơ bản Văn hóa Đa Bút.

" Sự nảy sinh của đồ gốm đồng thời với sự hoàn thiện kỹ thuật mài là hai nét đặc trưng quan trọng nhất tạo nên bộ mặt của văn hóa Đa Bút "(Trần Quốc Vượng).

Nghiên cứu đồ gốm Đa Bút buổi đầu mới phát hiện và khai quật di tích này E. Patte đã cho rằng:

Người Đa Bút dùng khuôn đan để tạo đồ gốm. Các thực nghiệm của Viện Khảo cổ học cho biết:

Đồ gốm Đa Bút được tạo bằng kỹ thuật nặn khối, sử dụng hòn kê, bàn đập.

Đồ gốm Đa Bút đến giai đoạn cuối có phát triển về loại hình kỹ thuật, độ nung gốm cao hơn, các loại hoa văn và kiểu dáng phong phú hơn.

Sự có mặt các loại đồ gốm mỏng, hoa văn đa dạng, xương gốm mịn hơn được xem là phát triển của kỹ thuật chế tạo đồ gốm.

Từ hai loại nguyên liệu được khai thác tại chỗ:

Đá cuội và đá phiến, chủ nhân Văn hóa Đa Bút áp dụng kỹ thuật mài, cưa để tạo ra những loại công cụ thích hợp, đem lại hiệu quả cao.

Giai đoạn đầu, từ các hang động thung lũng tiến ra chiếm lĩnh vùng đồng bằng trước núi.

Lúc đầu săn bắt và hái lượm còn chiếm vai trò chủ đạo nhưng đến giai đoạn cuối với việc chiếm lĩnh vùng ven biển, người Đa Bút có chuyển biến lớn trong đời sống.

Kinh tế sản xuất nông nghiệp, thuần dưỡng động vật và khai thác biển khơi tạo nên bước chuyển, quá trình đổi mới trên chặng đường phát triển của Văn hóa Đa Bút.

Đó là quá trình tiến tới xác lập nền kinh tế khác hẳn thời kỳ Văn hóa Hòa Bình. Đa Bút là văn hóa đá mới thuộc châu thổ trồng lúa nước mang sắc thái văn hóa biển.

" Những biểu hiện đích thực tính chất đá mới trong Văn hóa Đa Bút rõ rệt nhất với trồng trọt và chăn nuôi - là hai thành phần cơ bản của văn hóa sản xuất nhân loại.

Hơn nữa tính chất "đích thực" của nó còn ở chỗ tại đây tiến hành nền nông nghiệp lúa nước với trâu bò - đặt cơ sở đầu tiên cho văn minh nông nghiệp, văn minh lúa nước Việt Nam.

Đó chính là thành tựu cách mạng riêng biệt cho Việt Nam và Đông Nam Á "(Trần Quốc Vượng).

Phát triển của Văn hóa Đa Bút phức tạp đa tuyến, nhiều chiều. Đến nay nhận ra một trục chính theo hướng Tây - Đông, phản ánh quá trình mở rộng địa bàn cư trú vùng đồng bằng trước núi phía Tây đến tận sát bờ biển phía Đông - theo dòng chảy của sông Mã.

Từ một di tích khảo cổ học, đến nay Văn hóa Đa Bút phân thành các giai đoạn phát triển khác nhau.

Văn hóa Đa Bút có thể gọi là một phức hệ phát triển lâu dài từ sau Văn hóa Hòa Bình đến cuối thời đại đá mới - mà thực chất là quá trình" đá mới hóa "thực hiện trong chuyển đổi môi trường từ các thung lũng đá vôi Hòa Bình và tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của tiền sử Việt Nam.

Trước đây, khi khai quật di chỉ Đa Bút, tài liệu nhân chủng ít nên vấn đề nhân chủng chỉ được nêu ra như một thuyết về người Malanesien ở di chỉ này.

Sau những phát hiện di cốt người ở các di tích thuộc Văn hóa Đa Bút, nhất là sau phát hiện một loạt di cốt người ở di tích Cồn Cổ Ngựa, vấn đề nhân chủng văn hóa này có thêm những tư liệu khoa học. Tài liệu mới đã cho biết:

Chủ nhân Văn hóa Đa Bút xưa rất gần với chủ nhân Văn hóa Đông Sơn.

Nghiên cứu quá trình chiếm lĩnh châu thổ sông Mã của cư dân Đa Bút trong mối liên hệ giữa con người và môi trường có thể nhận ra mối liên hệ giữa Văn hóa Đa Bút với quá trình kiến tạo châu thổ sông Mã và sự dao động của mực nước biển.

Tài liệu địa chất và tài liệu khảo cổ học cho thấy biến đổi môi trường trước biển tiến Holoceme trung và sự trở lại của cư dân Đa Bút khi biển lùi.

Mạnh Hà

Nguồn:

Web vanhoadoisong

Phát hiện 70 mộ táng niên đại 6.000 năm

Dưới lớp đất dày 30-60cm, các nhà khảo cổ tìm 70 mộ táng cùng nhiều hiện vật bằng đá như rìu, bàn nghiền, hòn kê và đồ gốm thuộc Văn hóa Đa Bút, tồn tại khoảng 5.000-6.000 năm trước.

31-3, Viện Khảo cổ học phối hợp Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, một số nhà khoa học thuộc ĐH Quốc gia Australia, báo cáo sơ bộ kết quả khai quật tại di tích Cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, Hà Trung, Thanh Hóa).

Tiến sĩ Trịnh Hoàng Hiệp (Viện Khảo cổ học), chỉ huy công trường khai quật cho biết gần 1 tháng qua, các nhà khoa học khai quật trên diện tích 84m2 tại cánh đồng lúa.

" Cách mặt đất chừng 30-60cm, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều xương, răng động vật như rùa, trâu nước, nai, hươu, xương cá, vỏ điệp, ngao, sò và số lượng lớn hiện vật bằng đá như rìu, bàn nghiền, hòn kê, bàn mài, chì lưới và đồ gốm thuộc Văn hóa Đa Bút.

Đặc biệt, chúng tôi phát hiện khoảng 70 mộ táng cổ với trên 70 cá thể, mỗi mộ có diện tích trung bình 1m2 ", Tiến sĩ Hiệp thông báo.

Người chết đều được chôn theo tư thế nằm nghiêng chân tay co, hoặc duỗi thẳng. Phương thức mai táng chủ yếu là đơn táng, có song táng, tam táng theo hình thức mai táng một lần và hai lần.

Bước đầu, Tiến sĩ Hiệp nhận định những phát hiện mộ táng cổ ở Cồn Cổ Ngựa thuộc phạm vi phân bố của Văn hóa Đa Bút, tại Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam.

Đây là nền văn hóa thuộc trung kỳ thời đại đá mới, tồn tại 5.000-6.000 năm trước.

Nền Văn hóa Đa Bút có vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn hóa thời tiền sử Việt Nam.

Đây là trung tâm chế tác gốm sớm; phát triển kỹ thuật chế tác đá tới đỉnh cao; tổ chức thuần hóa, nuôi trồng động, thực vật..

Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn, trưởng ban quản lý di tích và danh thắng (Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa) cho biết thêm:

" Di chỉ Cồn Cổ Ngựa có nhiều khai quật khảo cổ nhưng đợt này có quy mô lớn nhất.

Những phát hiện mới có ý nghĩa quan trọng trong chặng đường phát triển của nền văn hóa nguyên thủy ở lưu vực sông Mã ", Tiến sĩ Tuấn nói và cho biết đợt khai quật sẽ kéo dài thêm 15 ngày, sau đó các nhà khoa học sẽ đưa ra đánh giá tổng kết cuối cùng.

Lê Hoàng

Nguồn:

Vnexpress

Kỳ bí những chứng tích lịch sử trên vùng khảo cổ

Những chứng tích khảo cổ như" Cồn Vỏ Hến ", khu lăng mộ Bà Chúa, những tượng đá cổ, 3 cặp rồng đá xanh..

Phát lộ tại vùng Đa Bút (xã Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) là những chứng tích lịch sử quan trọng mang dấu tích của hành cung nhà Trịnh xưa.

Từ bí ẩn về" Cồn Vỏ Hến "

Từ QL. 217, chúng tôi rẽ vào khu Đa Bút khoảng hơn 2km.

Theo cán bộ văn hóa xã thì nơi đây thuộc vùng di chỉ khảo cổ" Cồn Vỏ Hến. "

Do tác động của thời gian và không được đầu tư trùng tu bảo vệ nên khu di chỉ không còn nguyên trạng như xưa.

Khu di chỉ khảo cổ học Đa Bút phát hiện đầu tiên năm 1926, kết quả khai quật lần đầu phát hiện tồn tại của" Cồn Vỏ Hến "với địa tầng sâu 16m, cùng nhiều những vật liệu:

Rìu đá, bàn nghền, cuốc đá, chày, đồ gốm.. minh chứng rõ niên đại đá mới của di tích.

Theo cán bộ văn hóa xã này, tới giờ vẫn chưa có lý giải chuẩn xác nào về xuất hiện kỳ lạ của" Cồn Vỏ Hến. "

Có người cho rằng người dân thời kỳ đồ đá ngụ cư bên dòng sông Mã, xuống sông cào hến về ăn rồi đổ ra đó, lâu năm tạo thành cồn hến đến nay.

Lý giải khác khẳng định nơi đây xưa là vùng nước mênh mông, trải qua nhiều thế kỷ thì địa tầng được nâng lên, Cồn Hến do sóng nước đẩy dồn mà thành.

Song nhiều người phản bác vì địa tầng nơi đây rất cao, khu di chỉ thuộc xã vùng cao 135 với nhiều đồi núi, thì nước ở đâu mà dồn lên?

Trong khi đó, lão làng Đa Bút là Hà Đức Thiệu (75 tuổi) cũng khẳng định:

" Cồn Hến nằm ở ven sông dài tới 50m, rộng 32m, dày 15 đến 16m, nay không còn nguyên vẹn như xưa, dù nhiều đoàn khoa học khi về khảo sát, khai quật nhưng không đưa ra lý giải cuối.

Tất cả dẫn giải, truyền miệng trong dân gian tới nay vẫn chỉ là suy đoán, nhận định. "

Đến những pho tượng đá cổ và dấu tích hành cung xưa

Cùng nằm trong quần thể di tích khảo cổ Đa Bút, cách khu" Cồn Vỏ Hến "không xa là khu lăng mộ Bà Chúa (thờ Thái Phi Nguyễn Thị Ngọc Diệm) với những tượng đá cổ.

Cụ Hà Đức Thiệu (người dân Đa Bút) cho biết khu lăng mộ Bà Chúa - tức khu lăng mộ Nguyễn Thị Ngọc Diệm một trong những nữ phi được suy tôn Thánh Mẫu.

Khi bà mất, nơi an nghỉ cuối cùng được chọn là khu vực núi Mông Cù (ngọn núi cao nhất trong các dãy núi nơi đây).

Tránh kẻ gian ác, tiểu nhân, khu lăng mộ bí mật lập ở 3 nơi khác nhau trên núi.

Tuy nhiên 1998, một số người từ những địa phương khác đến, sau khi nắm bắt gia phả cổ có dấu tích xác định được khu mộ Bà Chúa nằm lưng chừng núi Mông Cù, có nhiều vàng bạc châu báu, chúng đã bàn tính và tiến hành đào trộm lúc về đêm.

Sau đó, dân làng đóng góp tiền của cùng các cấp, ngành chức năng đầu tư kinh phí tôn tạo và trùng tu lại khu lăng mộ ngay vị trí cũ.

Chiếc quan tài bị đào trộm được mang về khu đền thờ bà, tạo điều kiện cho dân làng dâng hương, bái lễ những ngày rằm, ngày lễ để tỏ lòng thành.

Tại đây còn 12 tượng đá, nhiều người cho là những người trực tiếp xây dựng khu lăng mộ cho bà, sau khi hoàn thành để giữ bí mật đều phải chết; theo tài liệu của Sở VHTT Thanh Hóa (nay là Sở VH, TT&DL) bấy giờ thì đây là 12 ượng vũ sĩ, chia thành 2 hàng bảo vệ, nhìn từ 4 phía đều có có bố cục khác nhau.

Cách đền Thánh Mẫu không xa là khu hành cung nhà Trịnh xưa, xây trên khu đồi thoải nhưng bằng phẳng dưới chân núi Mông Cù với nhiều loại vật liệu cổ như gạch kích thước lớn, ngói mũi hài to bản.. hiện vẫn chưa được khai quật.

Điều đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ quần thể 6 con rồng đá xanh với kiến trúc được đánh giá là tinh xảo nhất còn lại cho tới giờ.

Ông Đỗ Quyết Thắng, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Tân cho biết:

" Mặc dù được các nhà nghiên cứu đánh giá là vùng đất với những giá trị về khảo cổ, lịch sử quan trọng nhưng đến nay vẫn chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.

Sau nhiều năm kiến nghị, vừa rồi khu di tích được UBND tỉnh phê duyệt kinh phí hỗ trợ 450 triệu đồng từ nguồn kinh phí tu bổ, chống xuống cấp để tu sửa, bảo tồn. "

Với những giá trị về lịch sử, khảo cổ, kiến trúc trên, bà Đỗ Thị Loan, Trưởng phòng Văn hóa huyện Vĩnh Lộc cho rằng:

" Khu đền Bà Chúa và khu hành cung nhà Trịnh được chấp nhận di tích cấp tỉnh, một trong những di tích trọng điểm của huyện và nằm trong chiến lược phát triển du lịch thuộc vùng phụ cận Di sản Thế giới Thành Nhà Hồ.

Sở dĩ khu di tích đền Bà Chúa, khu hành cung nhà Trịnh còn gặp khó trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản là do khó khăn về nguồn kinh phí."

Bình Minh

Nguồn:

Dantri

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71015855_1220136428186607_9138388352192479232_n.jpg


Văn hóa Hạ Long - Văn hóa biển tiền sử Việt Nam

Rìu, vòng đeo tay, hạt chuỗi bằng đá ngọc và tàn tích thức ăn của người cổ Hạ Long được các nhà khảo cổ tìm thấy tại hang Đông Trong (Vân Đồn), 4-2009.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học về Văn hóa Hạ Long, khoảng 5.000-3.000 năm trước, người cổ Hạ Long cư trú chủ yếu trên các cồn cát, đượng cát, bãi triều cửa sông, ven biển, chỉ một số ít sống trong các hang động đá vôi.

Họ sống thành những "làng" nhỏ, nhỏ hơn làng cư dân cùng thời ở trung du và châu thổ Bắc Bộ. Phần lớn người cổ Hạ Long sống sát bờ biển, trên các đượng cát không cao lắm.

Nét văn hóa đặc trưng của người cổ Hạ Long là công cụ đá và đồ gốm. Đó là những rìu, bôn bằng đá có vai, có nấc độc đáo với nhiều chất liệu, kích cỡ.

Đặc biệt là nghề gốm và đồ gốm, trong đó gốm xốp thể hiện đặc trưng miền biển Hạ Long.

Các đồ gốm gia dụng đều chế tác từ nguyên liệu là vỏ nhuyễn thể đập nát trộn cùng cát, đất; bên ngoài trang trí hoa văn hình sóng nước - mang đậm ảnh hưởng của biển.

Các nhà khảo cổ cho rằng với phát triển đỉnh cao kỹ thuật chế tác công cụ đá, làm gốm, trồng cây lấy sợi và bằng tích luỹ kinh nghiệm sống trên biển, chắc hẳn người Hạ Long xưa sáng tạo nhiều phương tiện vận tải thuỷ để đánh bắt hải sản, trao đổi sản vật với các vùng miền khác.

Bằng chứng là tại Hà Giang, các nhà khảo cổ tìm thấy rìu, bôn có vai, có nấc kiểu Hạ Long. Gốm xốp Hạ Long và cả những rìu có vai, có nấc và bàn mài rãnh "dấu Hạ Long" tìm thấy trong di tích:

Mả Đống - Gò Con Lợn (Phú Thọ) ; ở núi Hổ, núi Dê (Nam Định), ở Mán Bạc (Ninh Bình), ở Hoa Lộc (Thanh Hóa) ; xa xôi hơn là tận ven biển Phúc Kiến (Trung Quốc)..

Điều này cho thấy tầm hoạt động, mối giao lưu văn hóa rộng mở, hấp dẫn và năng động của người cổ Hạ Long.

Thời đại Hùng Vương (khoảng 2500-2000 năm trước), dấu ấn Văn hóa Hạ Long tiếp tục ảnh hưởng tới các nền văn hóa cùng thời ở các vùng miền trung du Bắc Bộ, ven biển Thanh Hóa.

Ngược lại, các nền văn hóa này tác động không nhỏ đến Văn hóa Hạ Long, thể hiện qua các công cụ, đồ gốm phát hiện ở hang Bồ Chuyến (Đại Yên, TP. Hạ Long), Đầu Rằm (Hoàng Tân, Quảng Yên).

Có được những giao lưu, trao đổi ngang dọc với các trung tâm văn hóa lớn lúc đó - theo các nhà khảo cổ là nhờ cư dân cổ Văn hóa Hạ Long phát huy nội lực, đứng vững trên cơ tầng văn hóa biển.

Phát huy thế mạnh của cư dân sông nước và tranh thủ thành tựu của cư dân đồng bằng, cùng đóng góp xây dựng cho văn minh Việt cổ.

Văn hóa Hạ Long - theo các nhà khảo cổ - về bản chất là văn hóa biển, tồn tại và phát triển bao giờ cũng rất năng động trong các mối giao lưu, hội nhập và thích ứng văn hóa.

Văn hóa Hạ Long là 1 trong 4 nền văn hóa biển tiền sử Việt Nam gồm:

Hạ Long (Quảng Ninh), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Bàu Tró (Quảng Bình), Xóm Cồn (Khánh Hòa), có vị trí hết sức quan trọng trong nền cảnh văn hóa tiền sử Việt Nam.

Đại Dương

Nguồn:

Web baoquangninh

Khám phá nét đẹp văn hóa của người Hạ Long

Hạ Long nổi danh bởi vẻ đẹp huyền bí thiên nhiên, lưu giữ những nét đẹp văn hóa người Hạ Long từ lâu đời nay.

Từ những di tích lịch sử văn hóa mang đậm chất truyền thống cho tới những phong tục tập quán của ngư dân Hạ Long.

Những nét đẹp văn hóa của người Hạ Long

Hình thành và phát triển từ lâu đời, Hạ Long cũng như bao vùng đất Việt Nam, có những nét đẹp văn hóa của người Hạ Long rất riêng, rất truyền thống.

Tới nay, những nét đẹp văn hóa đó vẫn còn lưu giữ và phát triển. Đó là Văn hóa Soi Nhụ, Văn hóa Cái Bèo, Văn hóa các làng chài Hạ Long.

Văn hóa những làng chài Hạ Long

Nơi nổi tiếng với sông, nước và những dãy núi, hang động, Hạ Long cũng có những làng chài nhỏ của những ngư dân sinh sống.

Những làng chài ấy, không chỉ lâu đời về hình thành, lâu đời cả về những nét đẹp trong văn hóa. Mặc cho dòng thời gian không ngừng trôi và xã hội ngày một phát triển. Phải kể các làng chài nổi tiếng:

Làng chài Cửa Vạn, làng chài Vung Viêng..

Làng chài Cửa Vạn

Một trong số những điểm du lịch Hạ Long hấp dẫn, rất nhiều du khách biết.

Chỉ cách Bãi Cháy khoảng 20km, có thể tới bằng thuyền gỗ hoặc thuyền cao tốc. Nơi đây là trung tâm văn hóa nổi của Hạ Long.

Nhắc làng chài Cửa Vạn hẳn không còn xa lạ. Nhưng tới đây du khách chỉ được ngắm nhìn quan cảnh làng chài, và trải nghiệm cuộc sống của người dân nơi đây.

Rất ít khi được giới thiệu về những nét văn hóa của người Hạ Long.

Sống chủ yếu trên sông nước, dân nơi đây mưu sinh bằng nghề đánh cá.

Nên gắn liền với những lễ hội, những phong tục như thờ cúng thủy thần, tục thờ Cá Ông.. Nếu bạn muốn được hòa mình và tham dự vào các nghi lễ văn hóa nơi đây, hãy tới vào mùa lễ hội.

Bắc Ninh có hát quan họ, hát đối đáp, Hạ Long có hát giao duyên, hò biển..

Đó là nét đẹp văn hóa làng chài Hạ Long rất nổi tiếng. Nếu tới Hạ Long bắt gặp những người đang hát đối đáp thì bạn thật may mắn.

Có thể đó là đám cưới đang hát giao duyên giữa nhà trai với nhà gái.

Những lời hát, nhịp điệu thắm thiết, đi vào lòng người làm du khách muốn nghe mãi không thôi.

Văn hóa Soi Nhụ

Nhắc tới Văn hóa Soi Nhụ là nhắc nền văn hóa truyền thống của Hạ Long có từ hàng nghìn năm trước.

Người nơi đây từ xa xưa sinh sống trong những hang đá vôi. Hình thành nên lối sống chủ yếu là thu lượm ốc, sò và hái hoa quả,

Những di tích văn hóa tồn tại tới nay không nhiều, nhưng với những gì còn sót lại, có thể thấy so cùng thời kỳ, cuộc sống và nền văn hóa con người nơi đây có những bước phát triển hơn, xuất hiện yếu tố biển. Mang đa dạng trong nền văn hóa. Mà tới nay vẫn được bảo tồn và phát huy.

Văn hóa Cái Bèo

Kết nối giữa Văn hóa Soi Nhụ và Văn hóa Hạ Long, Văn hóa Cái Bèo đã có nhiều đổi mới.

Con người ngày càng tiến xa ra biển khơi, để đánh bắt thủy hải sản, phục vụ nhu cầu sinh sống của mình, của gia đình.

Khám phá những nét văn hóa truyền thống của Cái Bèo, tưởng như bạn đang hòa mình vào cuộc sống sinh hoạt con người nơi đây.

Còn tồn tại tới nay là những di tích, những đồ dùng sinh hoạt. Và mô hình cuộc sống hàng ngày tái hiện, nhằm giúp du khách hình dung cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng ấm áp, gần gũi của người xưa.

Văn hóa Hạ Long

Văn hóa Hạ Long chia thành hai giai đoạn, thể hiện bước phát triển rõ rệt trong văn hóa nơi đây.

Giai đoạn đầu tiên là khi nước biển xâm lấn, những người Cái Bèo phải di chuyển lên cao hơn để sinh sống. Do đó có những thay đổi để thích nghi với cuộc sống mới.

Để sinh sống, người dân canh tác, phát triển nông nghiệp song song với đánh bắt ngoài khơi. Do đó nền Văn hóa Hạ Long ngày càng thêm phong phú.

Giai đoạn tiếp theo là khi nước biển xâm lấn cực đại rồi rút.

Những ngư dân không thể quên cuộc sống gắn biển khơi trước đây của họ. Nên di cư lại ra biển, tiếp tục phát triển đời sống sinh hoạt.

Và con người ngoài canh tác, đánh bắt cá còn biết phát triển những nghề thủ công như làm gốm, sản xuất công cụ..

Không chỉ bảo tồn những nét văn hóa truyền thống, Hạ Long còn là chứng tích lịch sử những cuộc chiến đấu oai hùng dân tộc ta thời xưa. Minh chứng cho cuộc chiến đấu oai hùng trên sông Bạch Đằng.

Nguồn:

Web onetour

Nhắc Vịnh Hạ Long, nhiều người biết ngay đây là danh thắng UNESCO hai lần công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới.

Nhưng có lẽ ít người biết nơi đây còn là cái nôi người tiền sử mà những dấu tích để lại được các nhà nghiên cứu định danh thành văn hóa cổ là Văn hóa Hạ Long.

Những dấu tích đầu tiên của người tiền sử ở Vịnh Hạ Long phát hiện 1937 tại đảo Ngọc Vừng, nhà khảo cổ học người Thụy Điển J. Andecxen khảo cứu.

Trên cơ sở kết quả thu được, chính Andecxen đưa khái niệm Văn hóa Đanh Đô La, lấy theo tên gọi của đảo Ngọc Vừng do người Pháp đặt.

Sau đó không lâu, nhà khảo cổ M. Colani nghiên cứu các dấu tích người nguyên thủy ở Vịnh Hạ Long.

Nhưng phải hơn 20 năm sau, các phát hiện về khảo cổ học ở khu vực này mới có tính đột phá.

1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khảo sát các dấu tích người nguyên thủy ở Vịnh Hạ Long và thu được nhiều kết quả quan trọng.

Từ đó, các nhà nghiên cứu cho rằng cần có tên gọi mới để thể hiện đầy đủ hơn nội dung các phát hiện, và đề xuất tên gọi mới là Văn hóa Hạ Long.

Nay gần 40 di tích thuộc Văn hóa Hạ Long phát hiện, địa bàn phân bố chủ yếu dọc bờ biển và một số hang động trong khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.

Những hiện vật thu được qua các khai quật khảo cổ tại các di tích từng bước làm sáng tỏ cuộc sống người nguyên thuỷ ở Hạ Long. Đó là những cư dân sinh sống bằng bằng nghề săn bắt và hái lượm.

Trong đó, với môi trường biển đảo ở khu vực Hạ Long, đánh bắt thủy sản đóng vai trò quan trọng.

Dấu tích vỏ nhuyễn thể biển phong phú cũng như các loại chì lưới tìm thấy tại các di tích thể hiện rõ điều này.

Ngoài việc duy trì cuộc sống bằng hình thức khai thác các thứ có sẵn trong tự nhiên, cư dân cổ ở Hạ Long biết sản xuất nông nghiệp với trồng các loại cây lấy củ và quả.

Đây là những tiền đề quan trọng phát triển nông nghiệp sau này.

Một số hiện vật bằng đá tìm thấy trong di tích cho thấy nghề chế tác đá đạt đến đỉnh cao, nhiều loại công cụ như rìu, bôn chế tác bằng các kỹ thuật như mài, cưa, khoan, đánh bóng, vừa tiện dụng trong lao động sản xuất vừa thẩm mỹ, tinh tế.

Việc chế tác này không chỉ đòi hỏi bàn tay khéo léo mà cần tích lũy kinh nghiệm trong quá trình lâu dài. Vì thế những công cụ bằng đá là những hiện vật tiêu biểu Văn hóa Hạ Long.

Người nguyên thủy ở Hạ Long biết nghề làm gốm với chế tác các loại đồ đựng, đồ đun nấu, chủ yếu là nồi, vò.

Tuy các loại đồ gốm còn thô, độ nung thấp, dễ vỡ nhưng phần lớn đều trang trí hoa văn theo hình thức đắp nổi hoặc trổ lỗ.

Cùng phát hiện được vòng trang sức bằng vỏ ốc, những hoa văn trang trí trên đồ gốm là những bằng chứng cho thấy người tiền sử ở Hạ Long có thẩm mỹ tinh tế, họ biết làm đẹp bằng nhiều cách khác nhau.

Hiện nay, một số hiện vật tiêu biểu thuộc Văn hóa Hạ Long còn phát hiện ngoài địa bàn phân bố Văn hóa Hạ Long.

Cho thấy mối giao lưu cư dân cổ ở Hạ Long không chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng ra một số nước ở Đông Nam Á.

Khung niên đại tồn tại của Văn hóa Hạ Long từ 4.000 năm đến khoảng 3.000 năm trước và thuộc hậu thời đại đồ đá mới.

Thời tồn tại Văn hóa Hạ Long cũng là thời mực nước biển dâng cao so nay từ 2-3m. Thời này được các nhà khoa học gọi thời kỳ biển tiến Holoxen muộn.

Đây là yếu tố gây nhiều ảnh hưởng về môi trường, tác động rất lớn đời sống người tiền sử ở Hạ Long, nhất là trong điều kiện địa bàn sinh sống sát biển.

Cuối thời kỳ Văn hóa Hạ Long, tức cách nay khoảng 3.000 năm, mực nước biển rút nhanh rồi ổn định như nay. Đây là lúc bắt đầu hình thành châu thổ sông Hồng.

Các nhóm cư dân thời đồ đá mới, trong đó có cư dân thuộc Văn hóa Hạ Long bắt đầu chuyển sang giai đoạn phát triển mới với việc tiến vào khai phá vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ.

Hình thành nên các nền văn hóa cổ thuộc thời đại kim khí, góp phần thúc đẩy ra đời nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Nguồn:

Web halongbay

Khu vực Vịnh Hạ Long là một trong những cái nôi cư trú của người Việt cổ

Dựa các tài liệu khảo cổ học, dấu tích sớm nhất con người có mặt trong khu vực Vịnh Hạ Long thuộc về chủ nhân nền Văn hóa Soi Nhụ.

Kế tiếp là chủ nhân Văn hóa Cái Bèo với mối liên hệ với biển đầu tiên và sau cùng là Văn hóa Hạ Long.

Văn hóa Hạ Long có vai trò rất quan trọng trong nền văn minh Việt cổ, đánh dấu tiếp xúc khá phổ biến của cư dân Việt cổ với nền kinh tế biển, tạo nền văn hóa biển đặc sắc ở Việt Nam.

Văn hóa Soi Nhụ:

Cách nay 18.000 – 7.000 năm. Cư dân thời này cư trú chủ yếu trên các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và các hang động ven bờ.

Phương thức kiếm sống của họ là săn bắt, hái lượm và khai thác nhuyễn thể nước ngọt với công cụ lao động bằng đá có hình dáng không ổn định, kỹ thuật chế tác đơn giản bằng phương pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa.

Văn hóa Cái Bèo:

Cách nay 7000 - 5000 năm. Cư dân thời này cư trú chủ yếu trên bờ vũng vịnh kín gió, tựa lưng vào núi, chủ yếu là núi đá vôi. Độ cao các di chỉ này so mực nước biển hiện khoảng 2-6m.

Phương thức kiếm sống trước hết định hướng khai thác biển ven bờ và kết hợp các phương thức kiếm sống truyền thống như săn bắt thú rừng, thu lượm rau củ, hoa quả trong thiên nhiên.

Công cụ lao động rất đơn giản, chủ yếu các công cụ mũi nhọn.

Kỹ thuật ghè đẽo chủ yếu ghè một mặt và có thể ghè những nhát cách quãng ở mặt đối diện tạo rìa lưỡi. Gốm Cái Bèo ở giai đoạn đầu thì thô, dày, nặng và loại hình đơn giản.

Giai đoạn sau là gốm mịn, văn thừng, loại hình phong phú hơn. Gốm xốp bắt đầu xuất hiện với số lượng ít thể hiện bước phát triển mạnh mẽ của người tiền sử.

Văn hóa Hạ Long:

4500 - 3500 năm cách nay, chia 2 giai đoạn: Sớm và muộn.

Giai đoạn sớm:

Do biển tiến Holoxen trung (khoảng 6000 - 5000 năm trước), đợt biển tiến này làm mất đi môi trường sống quen thuộc của cư dân Văn hóa Cái Bèo khiến một bộ phận cư dân phải di chuyển lên phía Đông Bắc và những vùng đất cao hơn, tại đây, họ tạo giai đoạn sớm Văn hóa Hạ Long.

Phương thức kiếm sống cư dân giai đoạn này chủ yếu săn bắt, hái lượm, canh tác, trồng cây lấy sợi, rau củ quả, tăng cường khai thác biển.

Giai đoạn muộn:

Do mực nước biển dâng cực đại rồi rút dần (khoảng 4000 - 3000 năm trước). Biển lùi, các cư dân Văn hóa Hạ Long giai đoạn sớm chuyển cư ngược lại.

Theo nước thủy triều, họ tiến dần ra biển. Địa bàn cư trú của cư dân văn hóa giai đoạn muộn tương đối phong phú, bao gồm:

Hang động, chân núi ven biển, doi cát, các bậc thềm và mặt đồng bằng cổ.

Phương thức kiếm sống của cư dân Văn hóa Hạ Long giai đoạn muộn cơ bản gắn môi trường biển, kết hợp duy trì phương thức kiếm sống trên cạn.

Công cụ lao động chủ yếu bằng đá, loại hình độc đáo, thể hiện kỹ thuật chế tác ở trình độ cao.

Thời này phát triển nghề thủ công làm gốm với trợ giúp kỹ thuật bàn xoay, hoa văn trang trí chủ yếu văn thừng, các dải hoa văn đắp nổi, văn khắc vạch, gắn đắp chân đế. Đồ gốm phát triển mạnh mẽ, nhiều loại hoa văn trang trí tạo đặc trưng riêng của Văn hóa Hạ Long.

Hiện trên Vịnh Hạ Long có một số hang động đang lưu các vết tích văn hóa của người tiền sử:

Hang Tiên Ông, hang Trống, hang Trinh Nữ, hang Bồ Nâu, động Mê Cung, động Thiên Long..

Ngoài ra, hang Tiên Ông đang lưu giữ, bảo tồn những hố thám sát, hố khai quật khảo cổ với những trầm tích là vỏ ốc suối (Melania), ốc núi (Cyclophorus).

Một trong những bằng chứng sinh động về phương thức cư trú, sinh sống trong hang động của người tiền sử Hạ Long thuộc Văn hóa Soi Nhụ.

Khu vực Vịnh Hạ Long là nơi ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc trong các thời đại quân chủ phong kiến

Vị trí chiến lược quan trọng, từ thế kỷ XII (1149) dưới triều Lý Anh Tông, trong Vịnh Hạ Long, thương cảng Vân Đồn lập.

Đây là bến cảng, hệ thống gồm nhiều bến thuyền thương mại trên các đảo quây quần trên vùng Bái Tử Long.

Nay những dấu tích về những bến thuyền cổ còn tìm thấy khá dày đặc, phong phú tại các khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây, Vân Hải, Quan Lạn..

Hàng vạn mảnh gốm sứ đặc trưng cho các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Mạc cùng nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.

Bên cạnh những dấu tích đồ sộ của các thuyền cổ nay còn phát hiện nhiều dấu tích của các công trình văn hóa:

Đình, chùa, đền, miếu, tháp:

Chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát và cụm di tích đình, đền, chùa Quan Lạn.

Lịch sử dựng nước và giữ nước, Vịnh Hạ Long ghi dấu những chiến công hào hùng của dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XX:

Ngô Quyền thắng quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàn thắng quân Tống (năm 981), Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên (1288). Hiện nay, khu vực Vịnh Hạ Long còn nhiều di tích lịch sử và di chỉ văn hóa:

Đình Quan Lạn, chùa Lấm, đền Bà Men.. Đặc biệt dân vùng biển Hạ Long vẫn lưu những nét văn hóa truyền thống độc đáo, phong phú từ bao đời.

Nó thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ, lễ hội, kinh nghiệm, phản ánh tâm tư, tình cảm được truyền từ đời này qua đời khác.

Đó là các giá trị văn hóa phi vật thể mang đặc trưng vùng biển như:

Hò, vè, hát đám cưới, hát giao duyên, hò biển và nhiều lễ tục truyền thống:

Lễ giở mũi thuyền, tục trồng cây nêu..

Những giá trị văn hóa này hiện vẫn là "cửa ngỏ", "mảnh đất đầy hứa hẹn" cho các nhà nghiên cứu, những người yêu quý, tôn vinh truyền thống văn hóa dân tộc.

Khu vực Vịnh Hạ Long ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước thời lịch sử cận, hiện đại.

Chống Pháp:

+Hang Đúc Tiền:

Phía Đông Nam đảo Vạn Gió (bản đồ có ký hiệu hòn 376, dân gian gọi núi Cánh Quít). Đây là căn cứ nghĩa quân Đề Hồng, Cai Thái, nghĩa quân lập xưởng đúc súng, đúc tiền chuẩn bị chống Pháp.

+1-5-1930, lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên đỉnh núi Bài Thơ, đánh dấu giai đoạn mới phong trào đấu tranh Cách mạng của giai cấp công nhân vùng mỏ, góp phần đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp.

+24-3-1946, Hồ Chủ tịch hội đàm với Cao uỷ Pháp Đác-Giăng-Liơ trên chiến hạm Emin-bec-tanh trên Vịnh Hạ Long.

+Đầu những năm 60 thế kỷ 20, những chuyến tàu không số xuất phát từ khu vực Hạ Long vào miền Nam mang theo vũ khí, đạn dược..

Góp phần chiến thắng vẻ vang của dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (Tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển). Trong thời kỳ chống Mỹ:

+Vịnh Hạ Long chứng kiến lần tập kích và thất bại đầu tiên bằng không quân của không lực Hoa Kỳ khi chúng mở đầu chiến tranh phá hoại miền Bắc 5-8-1964 cùng sự kiện bắt sống giặc lái Mỹ đầu tiên:

Phi công An-Va-Ret.

Nguồn:

Web halongbay

Văn hóa Hạ Long và những nét độc đáo mà bạn chưa biết?

Vịnh Hạ Long, thiên nhiên ban vẻ đẹp hùng vĩ, ghi dấu những giá trị văn hóa từ thời tiền sử và hiện nay nét Văn hóa Hạ Long vẫn còn lưu giữ và được giữ gìn, bảo tồn thành một trong những vẻ đẹp đặc trưng mà nhiều du khách khi đến du lịch Hạ Long khám phá và tìm hiểu.

Nét độc đáo trong Văn hóa Hạ Long

Cách nay 18.000 năm đến 7.000 năm, Văn hóa Soi Nhụ là văn hóa cổ lâu đời tập trung tại các đảo đá vôi Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và các hang động, tiêu biểu di tích văn hóa hang Mê Cung, Thiên Long, Tiên Ông..

Cuộc sống sinh hoạt của cư dân thời đó chủ yếu là thu lượm hoa quả, sò, ốc..

Văn hóa của người Soi Nhụ là mô hình văn hóa đa dạng, có yếu tố mới về phương thức kiếm sống khi có thêm yếu tố biển tạo nên cuộc sống tốt hơn cho cư dân.

Kết nối giữa Văn hóa Soi Nhụ và Văn hóa Hạ Long, Văn hóa Cái Bèo cách nay từ 7.000 năm đến 5.000 năm mang văn hóa đa dạng sở hữu các di tích tiêu biểu làng chài Cái Bèo, Giáp Khẩu, Hà Giát:

Phân bổ tại các vùng vịnh, núi đá vôi và phương thức kiếm sống là khai thác động vật thủy sinh như cua, cá, động vật nhuyễn thể, cùng săn bắn động thực vật, hái lượm hoa quả.

Và di chỉ Cái Bèo thành điểm du lịch được rất nhiều du khách khám phá trong các chuyến du lịch Hạ Long 1 ngày giá rẻ.

Đối với Văn hóa Hạ Long cách nay 4500- 3500 năm, chia:

Giai đoạn sớm:

Giai đoạn ảnh hưởng của đợt biển tiến Holoxen, làm mất môi trường sống của dân Cái Bèo, làm nhiều cư dân di chuyển lên Đông Bắc và vùng đất cao với phương thức sống là hái lượm, săn bắt, trồng cây, canh tác, khai thác biển, phát triển thủ công, chế tác công cụ đá..

Giai đoạn muộn:

Giai đoạn ảnh hưởng của đợt nước biển dâng cực đại. Sau khi biển rút dần thì cư dân Văn hóa Hạ Long ở giai đoạn sớm chuyển cư ngược lại và phân bổ phong phú tại nhiều nơi như các hang động Hạ Long, đồi cát, đồng bằng cổ, ven biển, chân núi với các di tích tiêu biểu:

Hang Soi Nhụ, đảo Ngọc Vừng, hang Bái Tử Long.. với phương thức sinh sống của cư dân Văn hóa Hạ Long gắn với môi trường biển và chế tác công cụ.

Nay, khu vực Vịnh Hạ Long nhiều di tích lịch sử, văn hóa quan trọng, lâu đời mà du khách có thể khám phá, tìm hiểu tại các làng chài cổ trên Vịnh với nét văn hóa độc đáo, cổ truyền đặc trưng là câu hát giao duyên, hò, vè, và các lễ tục truyền thống.

Nguồn:

Web dulichhalongquangninh

Khám Phá Văn Hóa Làng Chài Ở Hạ Long

Hạ Long có nền văn hóa từ lâu đời, ẩn sâu trong từng di tích, từng phong tục tập quán, từng lễ hội truyền thống và từng thế hệ con người.

Dòng thời gian cứ thế lững lờ trôi qua bao tháng năm vậy mà Văn hóa Hạ Long vẫn luôn còn đó, dẫu chẳng thể vẹn nguyên nét nguyên sơ như thuở ban đầu.

Trong số đó, nét đẹp văn hóa làng chài ở Hạ Long để lại ấn tượng sâu sắc cho nhiều du khách, khiến những ai từng khám phá nét văn hóa ấy đều nhớ mãi chẳng quên.

Hạ Long đâu chỉ đẹp diệu kỳ bởi danh thăm thắng cảnh thiên nhiên mà còn đẹp biết bao bởi những giá trị văn hóa ấy!

Văn hóa Hạ Long gắn liền lịch sử, thắng cảnh thiên nhiên và con người từ thuở sơ khai cách đây vài thiên nhiên kỷ.

Văn hóa làng chài cũng là một trong số đó và những nét đẹp, những giá trị quý báu của văn hóa làng chài vẫn được các thế hệ con cháu nối tiếp bảo tồn, lưu giữ đến nay.

Chuyến du lịch Hạ Long, nếu bạn muốn khám phá văn hóa làng chài đặc trưng đừng quên ghé thăm những làng chài xinh đẹp của vùng vịnh nơi đây như làng chài Cửa Vạn, làng chài Vung Viêng, làng chài Ba Hang..

Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng và yên bình của làng chài làm lòng người nao nao. Cửa Vạn - nơi lưu giữ những nét văn hóa đặc trưng của làng chài Hạ Long.

Đặt chân đến một trong những làng chài đẹp xinh nhất thế giới ngay trong vùng Vịnh Hạ Long, bạn sẽ có cơ hội khám phá vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ và những giá trị văn hóa quý báu ở đây.

Làng chài Cửa Vạn như một kỳ quan độc đáo do con người tạo ra, hội tụ vẻ đẹp cổ kính, duyên dáng và lưu giữ văn hóa truyền thống đặc trưng.

Làng chài sở hữu nét đẹp văn hóa đặc trưng ở Hạ Long. Văn hóa làng chài để lại ấn tượng sâu sắc cho nhiều khách khi lần đầu đặt chân đến.

Dạo thăm những làng chài Cửa Vạn và những làng chài khác ở Hạ Long, bạn sẽ thấy được nhịp sống mộc mạc, giản dị và êm đềm của ngư dân nơi đây.

Cuộc sống của họ êm ả, thanh bình và an yên biết nhường nào!

Dẫu cho cuộc sống đó vẫn còn những vất vả, khó khăn và thiếu thốn nhưng nét văn hóa đặc trưng truyền thống của cư dân làng chài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống thường nhật với đời sống vật chất và phương thức kiếm sống của họ.

Bên cạnh vẻ đẹp văn hóa ấy còn có cả trong tâm linh, cuộc sống tinh thần và cả những khi kết bạn, dựng vợ gả chồng, tổ chức lễ hội, những trò chơi dân gian của bọn trẻ..

Ngư dân làng chài gắn liền nghề đánh cá suốt mấy mươi năm cuộc đời. Con người làng chài gắn liền với sóng nước ngược xuôi suốt cả đời người.

Nghề đánh cá là nét văn hóa đặc trưng ở Hạ Long và của nhiều mảnh đất có biển gần kề.

Nghề cá cũng gắn liền với những lễ hội, những nghi thức mang giá trị truyền thống như tục thờ Cá Ông, thờ cúng thủy thần.

Tiếp tục khám phá văn hóa đặc trưng của ngư dân vùng biển Hạ Long, bạn sẽ được khám phá những thuyền buồm trôi lững lờ trên vùng vịnh, vẽ nên bức tranh sơn thủy hữu tình, tô điểm cho cảnh sắc thêm phần tươi đẹp.

Ngoài ra, bạn cũng sẽ được tham quan nhà bè dập dềnh trên sóng nước vùng vịnh.

Những nhà bè dập dềnh, lênh đênh giữa vùng Vịnh Hạ Long.

Những ngôi nhà đơn sơ có thể nổi trên mặt nước.

Những ngư dân luôn giữ cho riêng mình những cung bậc cảm xúc phong phú, làm đa dạng cuộc sống tinh thần ở nơi sóng nước mênh mang vùng Vịnh Hạ Long.

Họ có thể trải lòng mình, thả hồn phiêu lãng theo những làn điệu hát giao duyên, hát đúm, hò biển, hát đám cưới trên thuyền thể hiện nét đẹp văn hóa làng chài độc đáo.

Hòa nhịp theo những giai điệu trữ tình ấy, bạn cũng sẽ thấy lòng mình yên vui biết mấy, lâng lâng dòng chảy cảm xúc khó tả, cứ thế nghe hoài nghe mãi mà chẳng thấy chán.

Hát đám cưới trên thuyền - một trong những nét văn hóa làng chài độc đáo. Cuộc sống sinh hoạt bình dị của con người làng chài.

Bạn còn có thể làm quen với những ngư dân, cùng họ trò chuyện, sẻ chia những câu chuyện trong đời sống, cùng thưởng thức những bữa cơm giản dị và bạn còn được dân làng chài chỉ cách chèo thuyền, giăng lưới đánh cá, câu mực ban đêm!

Vẻ đẹp huyền bí, mơ màng ở làng chài trên vịnh Hạ Long

Văn hóa làng chài Hạ Long không chỉ tô vẻ đẹp cho riêng vùng Vịnh Hạ Long mà góp phần điểm tô cho văn hóa dân tộc.

Các giá trị văn hóa không chỉ được bảo tồn, lưu giữ qua năm tháng mà còn được phát triển gắn liền du lịch, làm đa dạng, phong phú các sản phẩm, loại hình du lịch nhằm thu hút, hấp dẫn đông đảo du khách.

Du lịch Hạ Long, bạn đừng quên khám phá văn hóa làng chài để có thêm kiến thức, thêm tự hào, trân trọng và cùng chung tay bảo vệ nét đẹp, những giá trị thiêng liêng của nền văn hóa đó!

Mỹ Phượng

Nguồn:

Web mytour

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Văn hóa Hoa Lộc

70621532_1223664447833805_6182904657258479616_n.jpg


Tên xã Hoa Lộc đặt cho văn hóa khảo cổ sơ kỳ thời đại đồ đồng:

Văn hóa Hoa Lộc. Cuối 1973, tại xã Hoa Lộc phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình cho văn hóa này.

Các di chỉ Văn hóa Hoa Lộc phân bố trên các đồi cát cao chạy dài ven biển Bắc Thanh Hóa, từ huyện Hậu Lộc đến huyện Nga Sơn.

Văn hóa Hoa Lộc xuất hiện cách đây khoảng trên dưới 4.000 năm.

Văn hóa Hoa Lộc nằm cùng bình tuyến và có mối quan hệ giao lưu văn hóa với các văn hóa sơ kỳ đồ đồng khác ở vùng Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam là Văn hóa Phùng Nguyên, Văn hóa Hạ Long và nhóm di tích Văn hóa Cồn Chân Tiên, Mả Đống.

Con dấu Hoa Lộc dùng để làm gì?

(2000 TCN đến 1200 TCN)

Họa sĩ Đức Hòa

Đương thời với Phùng Nguyên còn có văn hóa khảo cổ ở nơi mà nay người ta gọi là xứ Thanh: Văn hóa Hoa Lộc – lấy theo tên nơi có di chỉ:

Xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Phát hiện từ 1973, di chỉ Hoa Lộc đến nay khai quật nhiều lần, đào rất nhiều hiện vật đá, xương, gốm và vài mảnh đồng. Đáng chú ý là những con dấu bằng đất nung.

Nhiều giả thiết đưa ra về cách mà người xưa sử dụng chúng nhưng đến nay giả thiết vẫn chỉ là giả thiết.. Xét về mỹ thuật, các hoa văn con dấu ấy đầy mỹ cảm!

Một số con dấu Hoa Lộc hình vuông và chữ nhật. Những chỗ khác màu, rất nét, hơi bóng là "tút" lại thời hiện đại. Hoa văn hình học với cấu trúc rất chặt chẽ.

1 – Vài nét về Văn hóa Hoa Lộc

Đó là văn hóa khảo cổ có niên đại tương đương Phùng Nguyên, nghĩa là khởi đầu khoảng 2.000 năm TCN và chấm dứt khoảng 1.200 TCN.

Các nhà khảo cổ xác định Văn hóa Hoa Lộc kéo dài từ hậu kỳ đá mới đến sơ kỳ đồng thau.

Chủ nhân văn hóa này là cư dân cư trú trên các cồn cát cao ven bờ biển cổ, chuyên khai thác hải sản, có các nghề trồng trọt, chăn nuôi, làm gốm, dệt và bắt đầu luyện kim đồng.

Nếu Văn hóa Phùng Nguyên được coi như khởi đầu cho hình thành dân tộc và quốc gia của người Việt cổ ở lưu vực sông Hồng thì Văn hóa Hoa Lộc được coi như sự khởi đầu ấy hiện diện ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Các Văn hóa Phùng Nguyên và Hoa Lộc có mối quan hệ rõ nét bởi những di vật ảnh hưởng qua lại với nhau.

2. Những di vật khai quật được đầy ấn tượng vì hoa văn giàu chất lượng nghệ thuật

Theo thống kê của Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Văn hóa Hoa Lộc và vị trí của nó trong thời đại đồng thau Bắc Việt Nam ", 1995, Thư viện Quốc gia Việt Nam) thì sau 4 lần khai quật:

1974, 1975, 1976 và 1983, các nhà khảo cổ đào 3296 di vật đá, 7 di vật xương, 1.996.903 mảnh gốm, 3 di vật đồng, 90 đồ gốm gần như nguyên vẹn – đặc biệt trong đó có 53 con dấu gốm đúc hoa văn hình học.

Gốm Hoa Lộc làm bằng bàn xoay, nung nhiệt độ khá cao nên cứng chắc.

Hoa văn trang trí trên gốm được vẽ nét lõm theo các motif hình bọ gậy, giọt nước, sóng nước, khuông nhạc, chữ S, răng sói, cánh chim..

Kết cấu các đường nét, vạch và chấm phóng khoáng, khá nhiều biến thể, hấp dẫn.

Nếu hoa văn gốm Phùng Nguyên có kết cấu hình học chặt chẽ thì hoa văn Hoa Lộc thoáng hơn, nhiều đường cong lượn hơn.

Nhất là rất phong phú các nét phẩy - được một số nhà khảo cổ coi là dạng giọt nước - gợi ra âm hưởng của nước và biển.

3 con dấu gốm Hoa Lộc có chuôi để cầm phía sau và 1 con dấu lăn có trục hai bên.

Phùng Nguyên và Hoa Lộc đều xứng đáng được coi kho hoa văn tiền sử đầy chất lượng của Tổ tiên mà hậu thế thời hiện đại là giới họa sĩ hầu như chưa biết đến để sử dụng.

Xét nguyên nhân sâu xa thì đây còn là vấn đề" đứt gãy văn hóa. "

Các họa sĩ hiện đại Việt Nam quen với vốn cổ thời phong kiến Lý, Trần, Lê.. hơn và hầu như chưa" cảm "được với kiểu cách hoa văn nguyên thủy.

Dù ở đó có những giá trị về mỹ thuật và tín hiệu tuyệt vời. Vì khuôn khổ bài báo nên xin hẹn bàn kĩ chuyện này vào một dịp khác.

3. Những con dấu gốm và nghiên mực kỳ lạ

Nổi bật trong số 90 di vật gốm gần như nguyên vẹn là 53 con dấu (nay đã tìm thấy con dấu thứ 54) nung cứng, chắc.

Chúng đều có núm cầm phía sau, riêng 1 con lăn có 2 núm trục ở 2 đầu. Bề mặt con dấu khá phẳng - hơi phồng lên với các hoa văn hình học cấu trúc chặt chẽ.

Chắc là khi chế tạo, người nghệ nhân Hoa Lộc kỳ công thiết kế hoa văn tinh xảo, khoét lõm cũng như đắp nổi cân xứng một cách đầy mỹ cảm.

Nếu chỉ đánh giá về đường nét thì từng họa tiết hình học là các vạch thẳng, cong hay chấm, phẩy.. chưa có gì gọi là gợi cảm cả.

Nhưng khi được khuôn vào mặt con dấu với kết cấu chặt chẽ và độ nông sâu rõ nét thì chúng trở nên hấp dẫn với chất lượng hoa văn nghiêm chỉnh.

Bản thân mỗi con dấu đã là một công trình mỹ nghệ mini, tinh tế.

Hình giải trình các con dấu gốm Hoa Lộc bằng cách đồ họa hóa mặt in và chu vi của mặt cắt.

Được nung già lửa, các con dấu 4000 năm vẫn còn giữ màu vàng ốc đậm hay nâu sậm ửng đỏ, khỏe khoắn thô mộc trong khi kết cấu hoa văn trong khuôn vuông, chữ nhật hay oval lại cho thấy tính toán đầy trí xảo của các nghệ nhân nghìn xưa vĩnh viễn vô danh..

Dù tàn phá của thời gian 4 thiên niên kỷ đã khiến chúng không còn hoàn hảo nhưng vẫn xứng đáng được đánh giá rất cao trong buổi đầu sơ khởi của mỹ thuật Việt cổ.

Đáng chú ý hơn nữa là đã khai quật được" nghiên mực "Hoa Lộc cỡ khá to (hiện bày trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).

Rất có thể người ta đã dùng để mài những cục khoáng chất (đá non hoặc thổ hoàng) màu nâu đỏ rồi trộn với một loại nhựa cây làm chất kết dính (hồi đó mực Tàu chưa ra đời).

4. Những giả thiết về cách sử dụng con dấu của người Hoa Lộc xưa

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi phát hiện và khai quật di chỉ Hoa Lộc, những con dấu gốm kỳ lạ vẫn thách thức các nhà nghiên cứu.

Chúng được chế tạo rất kỳ công và quá đặc biệt nên khó có thể làm ngơ một khi ta đã nhìn thấy. Con dấu nguyên thủy này được chế tạo ra để làm gì?

Vẫn là câu hỏi hóc búa. Một số giả thiết được đưa ra để lý giải:

In hoa văn trên vải, trên đồ gốm, trên tường nhà, trên cơ thể, thậm chí trên giấy.

Các nhà khoa học loại bỏ ngay giả thiết" giấy "vì thời đó làm gì đã có giấy! In trên gốm cũng chưa chắc bởi chưa có bằng chứng:

Chả thấy mảnh gốm nào có dấu in từ các con dấu nọ. In trên vải cũng có thể.

Nhưng sau 4 thiên niên kỷ đằng đẵng thì chẳng thể tồn tại loại vải sơ khai nào trong khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt.

In trên thân thể được lý giải như tiền đề của thuật xăm mình của Tổ tiên ta – lý sự vậy thôi, bằng chứng chẳng còn.

In trên tường nhà ư? Chưa ai khai quật được vết tích nhà cổ ở di chỉ Hoa Lộc!

Mới đây nhất, trong cuộc tọa đàm" Con dấu trong Văn hóa Hoa Lộc "ngày 27-2-015 tại Hội trường Viện Khảo Cổ học Việt Nam, nữ Tiến sĩ Judith Cameron của Đại học Quốc gia Úc đưa ra giả thiết mới:

" Đó là vật dùng của các thương nhân để đóng thương hiệu vào hàng hóa!"

Cách đây 4000 năm mà thương nghiệp Việt cổ đã phát triển vậy ư? Tự hào quá!

Nếu vậy thì văn minh Việt cổ thời ấy hẳn đã phải hùng mạnh lắm. Thật chưa thể tin nổi và cũng chả có gì để chứng minh..

5. Gợi ý đầy hiệu quả của Bảo tàng Redpath thuộc Đại học McGill

Trên tầng 3 của Bảo tàng Redpath[1] có trưng bày những kết quả khảo sát dân tộc học đầy ấn tượng của các giáo sư và sinh viên thuộc Đại học McGill[2] từng tỏa đi khắp thế giới.

Chúng ta có thể thấy ở đây các xác ướp Ai Cập cổ đại (mumie), các bảng đất nung khắc chữ hình nêm của Lưỡng Hà cổ đại.

Những đôi giày tí hon bởi tục bó chân của Trung Hoa trung – cận đại, các ống nghiền trầu kỳ quặc của cư dân hải đảo thuộc châu Đại Dương xa xôi..

Và đập vào mắt tôi là những con dấu và con lăn gốm của các thổ dân Colombia Nam Mỹ. Họ in dấu trên cơ thể như một tín ngưỡng kỳ bí của các bộ tộc bán khai.

Con lăn của người da đỏ Quimbaya có núm ở 2 đầu. Khoảng từ năm 1000 – 1500 SCN (trước khi Colombia bị thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm).

Bên dưới là hình mà thầy trò trường McGill vẽ mô phỏng hình in – họ không dám lăn mực, sợ hỏng con lăn (là cổ vật đặc biệt).

Các con lăn gốm của người da đỏ Colombia có lỗ tròn được đúc thông ngang để có thể xuyên que qua mà lăn khi lấy mực và in.

Các con lăn Narino (không rõ niên đại), Tumaco (300 TCN – 200 SCN), Quimbaya (1.000-1.500 SCN) và Tumaco (300 TCN – 200 SCN)

Các con dấu mặt phẳng của người da đỏ Colombia và giải trình hình in ra của chúng (hình vẽ mô phỏng chứ không phải hình in thật).

Cả 2 con dấu đều của văn hóa khảo cổ Tumaco (300 TCN – 200 SCN). Giữa là 2 ảnh chụp để thấy chuôi tay cầm của các con dấu này.

Bản đồ các văn hóa khảo cổ của thổ dân da đỏ ở ven biển và vùng núi nước Colombia (Nam Mỹ). Các con dấu được đặt theo những tên này:

Narino (màu cỏ úa đậm), Quimbaya (tím hoa cà nhạt), Tumaco (xanh ngọc nhạt). Các tên Calima, Hạ Magdalena, Musica, Tairona để chú thích cho các hiện vật khác, ngoài phạm vi bài này.

Giải trình dân tộc học của Bảo tàng McGill rất mạch lạc và sáng tỏ.

Xin đưa ra mấy tấm hình mà tôi chụp được và sau đó là bản vẽ thử nghiệm của tôi về hình ảnh cụ thể của người Hoa Lộc in dấu hoa văn như tín ngưỡng cách đây 4 thiên niên kỷ.

Bản vẽ giải trình các vị trí trên cơ thể mà thổ dân da đỏ in và lăn mực.

Số 1 là con dấu Tumaco (300 TCN – 200 SCN) ; 2 – con lăn Narino; 3 – con lăn Tumaco (300 TCN – 200 SCN) ; 4 và 5 – con lăn Quimbaya (1.000-1.500 SCN) ; 6 – con lăn Narino.

Giả thiết của họa sĩ Đức Hòa vẽ người cổ Hoa Lộc in và lăn con dấu gốm lên cơ thể trong ngày lễ hội. Mực in được mài từ đá non màu nâu đỏ trộn nhựa cây.

Giả thiết của họa sĩ Đức Hòa vẽ cô gái Hoa Lộc in con dấu gốm lên lưng một chàng trai Hoa Lộc trong ngày lễ hội của bộ tộc.

Trong trình độ bán khai của người Hoa Lộc, buổi đầu sơ khởi quá trình hình thành dân tộc và quốc gia sơ kỳ của người Việt.

Cộng với tục xăm mình tất yếu nhưng đã thất truyền của Tổ tiên ta thì khả năng in và lăn con dấu hoa văn lên cơ thể cách đây 4000 năm là khả dĩ nhất.

Họ chắc chắn có mê tín, viện đến tâm linh như tất yếu thuở văn minh sơ khai, cũng là cách làm đẹp thời nguyên thủy khi vải vóc còn chật vật mới sản xuất ra được một cách ít ỏi.

Rất có thể đó là tiền đề của tục xăm mình của người Việt mà sử sách còn ghi lại đến cả các vua Trần cũng bắt buộc phải xăm cho đến tận Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314) mới chấm dứt[3] .

Chú thích:

1. Bảo tàng Redpath (Redpath museum) trực thuộc Đại học McGill, trong khuôn viên của trường, gần trung tâm thành phố Montreal.

Nơi đây trưng bày nhiều mẫu khoáng vật, hóa thạch cổ, thực - động vật thời tiền sử, đặc biệt là các công trình nghiên cứu khoáng vật học, cổ sinh học, khảo cổ học, dân tộc học.. của trường.

2. Trường Đại học McGill (McGill University) ở thành phố Montreal là Đại học loại lớn ở Canada và Bắc Mỹ, xếp hạng 21 thế giới (theo tổ chức QS World University Rankings 2014).

Xếp thứ 2 Canada sau Đại học Toronto, xếp nhất Canada về đào tạo Y học, hiện có tới 300 ngành học.

Về lịch sử, trường có 12 giải Nobel khoa học, một trong những Đại học có nhiều giải Nobel khoa học nhất thế giới (theo Wikipedia).

3. Lịch sử cho biết các vua Trần theo tục lệ đều bắt buộc phải xăm mình, nhất là hình rồng ở hai đùi.

Nhưng đến Trần Anh Tông, lúc đó mới lên ngôi, thấy đau quá, đạp thợ xăm ra, không cho xăm nữa – không ai dám bắt ép vua khi ngài lên ngôi. Trước đó các vua thường bị bắt buộc xăm mình khi còn là hoàng tử.

Thượng hoàng Trần Nhân Tông sai thợ xăm đến xăm cho Anh Tông, nhưng Anh Tông lừa lúc thượng hoàng không để ý, bèn lẻn trốn mất.

Thượng hoàng bèn thôi, không bắt vua xăm nữa. Từ đó tục xăm mình bị bỏ.

Nguồn:

Web trithucvn

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71823043_1224478637752386_5789534460953231360_n.jpg


Kết quả khai quật thăm dò di tích Hoa Lộc (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa)

Năm 2017, thực hiện Quyết định số 2245/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc cho phép Sở VHTT&DL tỉnh Thanh Hóa phối hợp Viện Khảo cổ học Việt Nam và PGS. TS. Judith Cameron, Đại học Quốc gia Australia tiến hành công tác khai quật thăm dò tại di tích Hoa Lộc với diện tích 12m2, từ 6-7-2017 đến 17-7-2017.

Sáng 27-7-2017, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Viện Khảo cổ học tổ chức buổi báo cáo sơ bộ kết quả khai quật thăm dò di tich Hoa Lộc.

Tham dự báo cáo có đồng chí Nguyễn Xuân Thanh – Phó GĐ Sở VHTTDL, đồng chí Bùi Thị Tuyết – Phụ trách phòng Quản lý Di sản.

PGS. TS. Bùi Văn Liêm – Phó Viện trưởng Viện KCH.

PGS. TS. Judith Cameron - Đại học Quốc gia Australia.

Phòng PA 83 Công an tỉnh.

Đoàn Mỏ địa chất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường.

Đại diện Trung tâm Bảo tồn Di sản TH.

Sở ngoại vụ.

Báo Văn hóa Đời sống.

Đài Phát thanh và Truyền hình TH..

Cùng toàn thể đoàn khai quật di tích Hoa Lộc, các chuyên viên Viện Khảo cổ học và cán bộ Bảo tàng tỉnh.

Di chỉ khảo cổ học Hoa Lộc (Cồn Sau Chợ) phát hiện cuối 11-1973, khai quật lần thứ nhất 1974 (200m2), khai quật lần 2 năm 1975 (200m2), khai quật lần 3 năm 1982 (48m2) (Phạm Văn Đấu 1995).

Nghiên cứu di chỉ Hoa Lộc cùng di tích Phú Lộc (Gò Mả Hờ/Cồn Nghè), đầu tiên các nhà nghiên cứu cho rằng Văn hóa Hoa Lộc thuộc hậu kỳ đá mới (Phạm Văn Kỉnh, Quang Văn Cậy 1977).

Sau này khi phát hiện những mảnh công cụ đồng, xỉ đồng.. nhiều nhà nghiên cứu nhận định Hoa Lộc thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau ở lưu vực đồng bằng sông Mã với niên đại khoảng 4.000 năm cách ngày nay (Phạm Văn Đấu 1999).

Đoàn nghiên cứu mở 3 hố thăm dò với tổng diện tích 11m2 trong đó hố TD1 có diện tích 8m2 mở ở phần trung tâm bãi đất được giao thầu cho gia đình bà Mai Thị Loan (thôn 6).

Hố TD2 diện tích 2m2 mở trên đường đất từ khu dân cư ra cồn cát, hố TD3 diện tích 1m2 được mở ở phía Đông nơi tiếp giáp phần cao và thấp của cồn cát.

Hội nghị được nghe PGS. TS. Bùi Văn Liêm – trưởng đoàn khai quật giới thiệu và công bố những kết quả thu trong khai quật, và nghe những nhận định ban đầu của PGS. TS. Judith Cameron về diễn biến lịch sử và con người ở mảnh đất Hoa Lộc.

Đ/c Nguyễn Xuân Thanh - Phó Giám đốc Sở VHTTDLTH đánh giá cao giá trị mà cuộc khai quật thu được đồng thời gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bà PGS. TS. Judith Cameron, Viện Khảo cổ học đã tập trung triển khai có hiệu quả công tác khai quật và nghiên cứu di tích Hoa Lộc.

Cuộc thăm dò 2017 thu những kết quả rất đáng ghi nhận, có độ tin cậy khi tất cả hiện vật đều phát hiện trong địa tầng di chỉ.

Việc thực hiện sàng bằng lưới sắt mắt nhỏ tất cả đất trong di chỉ khi lên khỏi hố đã giúp các nhà chuyên môn thu được những tư liệu quý, đặc biệt là các mũi khoan, mảnh tước rất nhỏ.

Các phát hiện và nghiên cứu về đồ gốm, công cụ đá về cơ bản thống nhất với những nhận định của các nhà nghiên cứu trước đây về Văn hóa Hoa Lộc.

Một trong những nhận thức mới mà cuộc khai quật thăm dò 2017 mang lại chính là phát hiện sưu tập mũi khoan đá, đá nguyên liệu, hòn ghè, con kê, số lượng lớn mảnh tước, mảm tách.. tạo nên quy trình trong chế tạo mũi khoan tại di chỉ Hoa Lộc.

Điều này gợi mở cho nhận định mới:

Hoa Lộc là di chỉ xưởng, đây là vấn đề khoa học mới cần được đầu tư nghiên cứu sâu hơn.

Về chức năng của con dấu Hoa Lộc.. quy trình/quy chuẩn trong chế tác mũi khoan đá Hoa Lộc, công năng của mũi khoán đá Hoa Lộc?

Đó là những gợi mở khoa học lý thú cần được đi sâu nghiên cứu trong tương lai.

Từ tư liệu thăm dò đã gợi mở ra nhiều vấn đề lý thú cần đi sâu nghiên cứu về Văn hóa Hoa Lộc như vấn đề di chỉ xưởng, quy trình chế tác đá và làm gốm tại Hoa Lộc..

Những vấn đề này cần được các nhà quản lý, các nhà khoa học lưu tâm nghiên cứu để làm sâu sắc thêm nhận thức cũng như góp phần vào việc tuyên truyền phát huy giá trị di tích.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thanh - Phó Giám đốc Sở VHTTDLTH đánh giá cao giá trị mà khai quật thu được đồng thời gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bà PGS. TS. Judith Cameron, Viện Khảo cổ học tập trung triển khai có hiệu quả công tác khai quật và nghiên cứu di tích Hoa Lộc.

Nguồn

Web baotang. Thanhhoa

Văn hóa biển Hoa Lộc và mối liên hệ với các văn hóa biển Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia lập quốc sớm bên Biển Đông.

Hình thành, phát triển, mối quan hệ và tính thống nhất của các văn hóa cổ trên vùng biển, đảo với các nền văn hóa vùng ven biển với vùng trung du, đồng bằng châu thổ góp phần vào quá trình tạo dựng văn minh dân tộc và sự đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Cùng với châu thổ sông Hồng, nơi quê hương của buổi đầu lịch sử dân tộc, châu thổ sông Mã với Văn hóa Hoa Lộc, Văn hóa Đông Sơn góp phần quan trọng vào quá trình tạo dựng văn hóa, kiến tạo văn minh, hình thành nhà nước Văn Lang.

Dấu ấn biển trong Văn hóa Hoa Lộc

Văn hóa Hoa Lộc phân bố ở vùng ven biển phía Bắc tỉnh Thanh Hóa, trung tâm là các xã ven biển Hoa Lộc, Phú Lộc, Hòa Lộc thuộc huyện Hậu Lộc.

Đây là văn hóa khảo cổ được nhiều cơ quan nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam quan tâm.

Khai quật với diện tích lớn nhất và có đồng nhất trong khẳng định vị thế của nó trong dòng chảy các văn hóa cổ trên đất nước ta.

Thành tựu gần nửa thế kỷ nghiên cứu khẳng định Văn hóa Hoa Lộc là văn hóa khảo cổ tiêu biểu thời đại kim khí ở miền Bắc Việt Nam.

Mối liên hệ giữa Văn hóa Hoa Lộc và các văn hóa đồng đại ở miền Bắc nước ta:

Phùng Nguyên, Hạ Long, Bàu Tró.. được khẳng định là chìa khóa tìm hiểu con đường phát triển văn hóa và lịch sử tộc người ở buổi đầu dựng nước của dân tộc.

Thành tựu quan trọng nhất của Văn hóa Hoa Lộc thể hiện trong kỹ thuật luyện kim đồng, sản xuất nông nghiệp, khai thác hải sản và nghề thủ công.

Nét nổi trội văn hóa này là những thành tố mang bản sắc văn hóa biển.

Chính môi trường sinh thái biển để lại những dấu ấn sâu đậm về biển cả trong nội hàm của văn hóa này.

Yếu tố biển của Văn hóa Hoa Lộc trước hết ở môi trường biển văn hóa này.

Căn cứ các vị trí cư trú người Hoa Lộc xưa và dấu vết đường bờ biển, các lạch cận kề, có thể khẳng định chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc tồn tại và phát triển trong môi trường sinh thái ven biển.

Đến nay, sau hàng ngàn năm "dâu bể", môi trường này có biến đổi "sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến" (Tố Hữu) nhưng không gian Văn hóa Hoa Lộc vẫn là môi trường ven biển.

Thành tố văn hóa biển của Văn hóa Hoa Lộc không chỉ là vấn đề môi trường sinh thái mà quan trọng hơn là những yếu tố của biển để lại dấu ấn đậm nét:

Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người cư trú nơi đây mà nổi trội nhất là những mô típ, đồ án, bố cục hoa văn trang trí trên đồ gốm.

Người thợ gốm Hoa Lộc chọn những hình ảnh điển hình biển cả như sóng nước, giọt nước, tôm, cá, hải sâm, sò biển, rong biển, lưới đánh cá.. để thể hiện các mô típ hoa văn.

Phần lớn hoa văn thể hiện môi trường biển đều thể hiện bằng biện pháp tả thực. Một số mô típ dù mang tính ước lệ, cách điệu nhưng không khó nhận diện đối tượng thể hiện.

Các mô típ kết hợp thành các đồ án trang trí bố cục chặt chẽ nhưng thoáng đạt, cởi mở, không gò bó, mang tầm nhìn rộng của cư dân ven biển..

Với nền kinh tế nông nghiệp ổn định, phát triển, làm chủ vùng đất ven biển và việc khai thác có hiệu quả vùng biển tạo điều kiện để chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc có mối liên hệ ngày càng rộng mở với các nền văn hóa ven biển và hải đảo ở miền Bắc nước ta.

Mối liên hệ với các văn hóa ven biển Việt Nam

Thành tựu nghiên cứu về Văn hóa Hoa Lộc trong gần nửa thế kỷ qua khẳng định Văn hóa Hoa Lộc có mối liên hệ với các văn hóa đương đại khác.

Tiêu biểu là các văn hóa vùng ven biển như Văn hóa Bàu Tró ở phía Nam và Văn hóa Hạ Long ở phía Bắc.

Gian trưng bày di vật Văn hóa Hoa Lộc tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Văn hóa Bàu Tró phân bố ở vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An. Đây là văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng.

Chủ nhân văn hóa này làm chủ vùng ven biển, phát triển kinh tế nông nghiệp và có quan hệ đa chiều với các văn hóa ở vùng đồng bằng ven biển thuộc châu thổ sông Mã.

Vùng biển đảo thuộc Vịnh Hạ Long và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thuộc châu thổ sông Hồng.

Mối liên hệ giữa Văn hóa Hoa Lộc và Văn hóa Bàu Tró thể hiện ở nhiều lĩnh vực, trong đó nổi trội về tương đồng ở các lĩnh vực như:

Sử dụng "cuốc có vai" trong sản xuất nông nghiệp, thói quen không mài nhẵn toàn bộ công cụ và sử dụng nhiều công cụ ghè đẽo ở giai đoạn sớm.

Tương đồng này có thể bắt đầu từ đặc điểm môi trường ven biển - thích hợp với việc dùng các loại cuốc đá trong nông nghiệp và thực dụng, chú ý đến hiệu quả hơn là trau chuốt trong chế tạo và sử dụng các công cụ sản xuất bằng đá của cư dân ven biển.

Các loại đồ gốm, chủ nhân hai văn hóa này đều có nét chung trong trang trí trên đồ gốm với những cách tạo hoa văn và mô-típ hoa văn giống nhau.

Trong chế tạo các loại đồ gốm có tai, các đồ đựng có miệng vuông, các loại đồ trang sức bằng đất nung mà tiêu biểu là loại "khuyên tai hình con đỉa" bằng đất nung rất độc đáo, chỉ có cư dân của hai văn hóa ven biển này sử dụng.

Tuy có khác biệt tạo nên những đặc trưng văn hóa riêng nhưng mối quan hệ, tương đồng giữa hai văn hóa này thể hiện khá đậm nét.

Văn hóa Hạ Long phân bố ở vùng đất liền biển đảo phía Bắc, trung tâm là Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau.

Đây là văn hóa mà không gian tồn tại và phát triển gắn liền với vùng biển đảo nhưng có quan hệ chặt chẽ với các văn hóa vùng ven biển và vùng đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, vùng đất Tổ Hùng Vương.

Mối quan hệ giữa Văn hóa Hoa Lộc và Văn hóa Hạ Long thể hiện khá đa dạng:

Tồn tại khá phổ biến của "dấu Hạ Long" - di vật đặc trưng Văn hóa Hạ Long (chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc có "dấu Hoa Lộc).

Sự tương đồng của các loại đồ gốm miệng khum, đồ gốm xốp" kiểu gốm Hạ Long ", đồ gốm có miệng kiểu đa giác cùng hoa văn giọt nước, hình sóng nước.

Hoa văn được tạo bằng cách trổ lỗ ở phần chân đồ gốm, hoa văn hình tam giác, hình ô lưới và văn in chấm miệng sò.

Tuy có nét khác biệt mang đặc trưng riêng mỗi nền văn hóa nhưng sự gần gũi, tương đồng thể hiện rõ nét chứng tỏ có tiếp biến giữa hai nền văn hóa.

Không chỉ các mối liên hệ giữa các văn hóa vùng ven biển và hải đảo với nhau, các văn hóa này còn phát triển liên hệ với văn hóa vùng trung du và châu thổ sông Hồng.

Tiêu biểu là Văn hóa Phùng Nguyên trên địa bàn vùng đất trung châu - nơi" các Vua Hùng có công dựng nước. "

Sự tiếp biến văn hóa này góp phần làm văn hóa dân tộc từ buổi đầu lập quốc thêm đa dạng.

Mối liên hệ, tiếp biến giữa văn hóa vùng ven biển, hải đảo với các văn hóa vùng châu thổ sông Hồng:

Cái nôi của văn hóa dân tộc là cơ sở lịch sử cho hình thành các" trầm tích văn hóa ", các huyền thoại về mối quan hệ giữa vùng biển với vùng trung du, miền núi.

Sự hòa hợp, thống nhất giữa các bộ tộc trên vùng lãnh thổ tộc người có liên quan đến con đường phát triển và lịch sử trong đầu thời kỳ dựng nước của dân tộc.

Nguồn:

Web dongdoshow

Những bàn dập hoa văn gốm cổ Văn hóa Hoa Lộc

Văn hóa Hoa Lộc biết đến đầu tiên là những di tích các bộ lạc sinh tụ trên miền ven biển Bắc Bộ tỉnh Thanh Hóa trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II TCN (4.000 – 3.000 năm cách ngày nay).

Người Hoa Lộc sống trong giai đoạn hậu kỳ đồ đá mới và sơ kỳ kim khí.

Những di tích phát hiện cho thấy cư dân Hoa Lộc là những người làm nông nghiệp, khai thác thủy sản và săn bắn, nhưng chủ yếu và quan trọng nhất trong nền kinh tế của họ là nông nghiệp.

Nghề làm gốm của người Hoa Lộc phát triển với trình độ kỹ thuật cao, có phần trội hơn các nhóm di tích cùng thời và thực sự là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị.

Chất liệu làm gốm là loại đất sét tốt pha cát được nung ở nhiệt độ cao. Số lượng gốm phân bố trong các di chỉ lớn, phong phú về loại hình.

Trong cách tạo dáng, bằng những đường nét độc đáo, sự cân xứng đều đặn và phức tạp, cư dân Hoa Lộc sáng tạo ra những loại bát miệng vuông.

Những loại bình hình mai rùa, bình có miệng nhiều cạnh và hàng loạt những bình với hình dáng phức tạp khác mà hiện nay nhiều tiêu bản còn chưa định danh được.

Để tạo những loại đồ gốm có kiểu dáng tuyệt đẹp như vậy, chắc hẳn người Hoa Lộc xưa phải là những thợ lành nghề, kỹ thuật khéo léo, khiếu thẩm mỹ và tư duy khoa học.

Trang trí trên gốm Hoa Lộc thực sự làm ta phải ngạc nhiên bởi những đường nét độc đáo, chứa đựng tinh hoa văn hóa tinh thần của người Hoa Lộc.

Đó là dùng những nét khắc hình học thể hiện cái đẹp của thiên nhiên đời sống xung quanh, biểu hiện tâm lý tình cảm và những kiến thức khoa học.

Người Hoa Lộc có khả năng khái quát cao và thể hiện bằng những quy luật nhất định. Bằng con đường phát triển này.

Có nhiều giả thiết cho rằng người Hoa Lộc tiến sang bước phát triển quan trọng là tạo tiền đề cho sáng tạo mới, đó là hệ thống tín hiệu thứ 2, hay nói cách khác là họ sáng tạo ra thứ" chữ viết "đơn giản nhất và thô sơ nhất.

Đó là những dạng hoa văn kỷ hà với nhiều mô típ và đồ án tạo ra bằng cách khắc vạch, in, ấn lõm, đập, trổ thủng, khắc chìm, đắp nổi.

Nhưng phổ biến hơn cả là in hình bọ, giọt nước, vẩy cá, khuông nhạc, cánh nhạn, con tôm, vòng tròn chấm giữa, chữ S nằm ngang, bông lúa, sóng nước..

Đặc biệt hơn cả là họ chế tạo ra những con dấu để dập hoa văn bằng đất nung.

Những dấu in này thường có mặt phẳng hoặc hơi cong lồi, có núm để cầm, bề mặt có khắc sâu các loại hình hoa văn. Chúng mang những yếu tố trang trí khác nhau.

Theo một số nhà nghiên cứu, những con dấu này có thể dùng để in màu trên vải hoặc trên người (tiền thân của tục xăm mình).

Những họa tiết không phải chỉ để làm đẹp mà còn mang những ý nghĩa nhất định với nhiều nội dung đầy bí ẩn.

Từ phong phú và độc đáo của đồ gốm Hoa Lộc, chúng ta có thể hình dung phần nào về cuộc sống tinh thần của người Hoa Lộc.

Trong lịch sử phát triển của người Việt cổ, đồ gốm không chỉ là vật dụng trong cuộc sống thường nhật mà chúng còn được sử dụng trong tế lễ và cả trong việc đưa tiễn người chết sang thế giới bên kia.

Những bàn dập hoa văn gốm của Văn hóa Hoa Lộc phản ánh tư duy thẩm mỹ, tinh tế, sáng tạo của cư dân Văn hóa Hoa Lộc, góp phần làm phong phú thêm kho tàng gốm cổ Việt Nam.

Nguồn:

Web baotanglichsu

Nền văn hóa trên dưới 4.000 năm đang bị" lãng quên "

Văn hóa Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc là nền văn hóa khảo cổ học thuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ thời đại đồng thau cách ngày nay khoảng trên dưới 4.000 năm. Nay nền văn hóa này dường như đang bị" lãng quên. "

Văn hóa khảo cổ sơ kỳ thời đại đồng thau được gọi theo tên xã Hoa Lộc, nằm cách thị trấn Hậu Lộc khoảng 6km về phía Đông, cách thành phố Thanh Hóa 22km về phía Đông Bắc.

Nền văn hóa này được các nhà khảo cổ học phát hiện năm 1973.

Từ năm 1976 đến nay, các nhà khảo cổ học đã khai quật 2 lần tại xã Hoa Lộc vào những năm 1974, 1975.

Sau những lần khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện tại đây nhiều di vật, hiện vật có giá trị.

Đặc biệt nhiều vật dụng, công cụ làm bằng gốm như:

Đồ trang sức, vòng tay, rìu, đục, cuốc. Những vật dụng đó được các nhà khảo cổ đánh giá về trình độ kỹ thuật đạt đến mức hoàn thiện.

Dấu tích đồ gốm, đồ đá, kim loại tại di chỉ khảo cổ học Hoa Lộc góp phần khẳng định đây là một vùng đất cổ.

Tồn tại số lượng lớn các loại rìu lưỡi bằng đá và các loại cuốc đá là một trong những đặc trưng riêng của Văn hóa Hoa Lộc.

Những hiện vật, di vật đồ gốm tìm thấy ở đây được chế tạo với kỹ thuật cao, trang trí nhiều hoa văn đặc sắc, tinh xảo cho thấy đầu óc sáng tạo và bàn tay khéo léo, tài hoa của những người thợ gốm Hoa Lộc xưa.

Khu đất đó có tên gọi là cồn sau chợ, nằm trên địa bàn thôn 7, xã Hoa Lộc, Hậu Lộc, là cồn cát khá cao và rất rộng, nơi được coi là tồn tại nền Văn hóa Hoa Lộc 4000 năm.

Chúng tôi không thể ngờ khu vực mà nơi đây nhiều đoàn khảo cổ, các nhà nghiên cứu đồ cổ đã tìm thấy rất nhiều các hiện vật có giá trị.

Giờ đây chỉ là bãi đất trống, chăn thả gia súc, nhiều hộ dân thấy hoang phí đã tận dụng trồng màu.

Ông Phạm Văn Hùng ở thôn 7, xã Hoa Lộc, người từng chứng kiến 2 lần khai quật khảo cổ học trước kia cho biết:

" Sau khi đoàn khảo cổ học khai quật tại Hoa Lộc xong, nhiều đối tượng tìm đến đây dùng máy dò, đào bới và lấy nhiều hiện vật cổ có giá trị.

Mới đây, năm trước còn có một người Trung Quốc qua đây lấy các mẫu gốm vụn về tìm hiểu.

Hiện nay, người dân đi làm vẫn nhặt được những mảnh công cụ thậm chí là những lưỡi rìu, bình hoa làm từ gốm còn tương đối nguyên vẹn. "

Theo ông Hùng thì trước đây cồn sau chợ có diện tích khá rộng lớn nhưng trải qua thời gian đến hiện tại, diện tích cồn sau chợ chỉ còn khoảng gần 1ha.

Tìm đến khu vực cồn sau chợ, thật ngạc nhiên khi chỉ cần cào nhẹ lớp đất xốp cũng thấy vương những mảnh gốm vụn, kết quả của những lần khai quật còn sót lại.

Gom những mảnh gốm này lại mang đi rửa và quan sát, chúng tôi thấy nhiều mảnh gốm có những hoa văn đẹp được các nghệ nhân ngày xưa chạm khắc một cách khéo léo và tinh xảo.

Một người đang làm mầu khu vực trên cho biết:

" Từ khi còn đi học tôi được biết đến di chỉ của quê mình trên sách giáo khoa.

Nhưng không biết tại sao không được các cấp chính quyền quan tâm hay bảo vệ, lâu dần rồi người dân cũng chẳng để ý đây là mảnh đất của một nền văn hóa lâu đời. "

Nằm trong quần thể Văn hóa Hoa Lộc như di chỉ Mã Hờ, thuộc địa phận thôn 5, thôn 6; Nghênh Môn thời Lý, thuộc thôn 7.

Nhưng chỉ duy nhất khu di tích Nghênh Môn thời Lý được chính quyền địa phương gìn giữ và bảo tồn.

Thực tế cho thấy dường như chính quyền địa phương không quan tâm hay có ý kiến gì về việc bảo vệ khu đất được coi là xứ sở của Văn hóa Hoa Lộc này.

Di chỉ Mã Hờ bị dùng làm nơi xây trường học, khu tập thể cho giáo viên ở. Cồn sau chợ làm nơi chăn thả gia súc, nơi người dân trồng màu.

Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, ông Nguyễn Công An, Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc xã Hoa Lộc cho biết:

" Vì địa phương không có kinh phí nên bảo tồn toàn bộ quần thể Văn hóa Hoa Lộc rất khó khăn, trong khi đó một số nơi hiện nay được xây dựng các khu trường học và nhà ở cho các hộ dân cư sinh sống.

Hiện tại, địa phương đang quan tâm bảo tồn và gìn giữ di tích lịch sử Nghênh Môn thời Lý, cũng là di tích nằm trong Văn hóa Hoa Lộc. "

Thiết nghĩ bảo vệ Khu Di tích Khảo cổ Quần thể Văn hóa Hoa Lộc đang là vấn đề cấp bách, nhằm giúp cho việc nghiên cứu về một nền văn hóa đã tồn tại suốt 4000 năm, rất mong các cấp các ngành chức năng quan tâm thực hiện.

Nguyễn Thùy - Duy Tuyên

Nguồn

Dantri

Nghè cổ Yên Trung trên nền Văn hóa Hoa Lộc

(Baothanhhoa.vn) - Nghè cổ Yên Trung tọa lạc tại làng Yên Trung (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc).

Một mảnh đất thấm đẫm giá trị văn hóa – lịch sử, khảo cổ nằm trong không gian Văn hóa Hoa Lộc.

Theo hồ sơ lịch sử nghè Yên Trung do Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa khảo cứu:

" Đầu thời đại kim khí trong lưu vực sông Hồng, Văn hóa Phùng Nguyên phân bố rộng trên địa bàn các tỉnh:

Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Bắc Ninh và TP Hải Phòng. Cùng thời với Văn hóa Phùng Nguyên, con người cũng có mặt ở hầu hết các miền của Thanh Hóa. "

Nếu ở khu vực miền núi xứ Thanh, các nhà khảo cổ thấy trong các hang động Thẩm Hai và Thẩm Tiên thuộc các dãy núi đá vôi:

Huyện Thường Xuân dấu vết định cư lâu dài của con người thời kỳ này với khả năng chế tác đồ gốm và đồ đá giỏi thì ở vùng ven biển, một nhóm cư dân khác tiến vào thời đại đồ đồng và tạo Văn hóa Hoa Lộc nổi tiếng.

Văn hóa Hoa Lộc là văn hóa khảo cổ lấy tên từ địa điểm phát hiện đầu tiên ở xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc.

Trên nền văn hóa đặc sắc ấy, nghè cổ Yên Trung tồn tại và chứng kiến biết bao đổi thay, thăng trầm của lịch sử.

Tuy có những thời điểm, nghè cổ Yên Trung tưởng như không còn hiện diện trong đời sống tâm linh – tinh thần của người dân nơi đây nhưng cùng với chảy trôi của thời gian, nó vẫn tồn tại trong mạch nguồn Văn hóa Hoa Lộc với diện mạo ngày càng khang trang, đẹp đẽ hơn.

Theo sách Thanh Hóa chư thần lục – sách của Bộ Lễ triều Nguyễn biên soạn thời vua Thành Thái thứ 15 (1903) có ghi chép về các vị Dương thần và Âm thần thờ ở địa hạt tỉnh Thanh Hóa cho biết:

Xã Yên Trung, tổng Liên Cừ, huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung (nay là xóm Yên Trường, xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc) là 1 trong 5 nơi thờ tự Lý triều Hoàng Thái Hậu Tôn Thần, còn gọi là Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan. Các tài liệu sưu tầm tại làng Yên Trung:

" Thánh bà Hoàng Cảm Linh Nhân ", sắc phong" Hoàng Thái Hậu Tối Linh Đại Vương "đều có sự thống nhất với nhau về vị thần được thờ tại nghè Yên Trung.

Nhắc tới Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, lịch sử ghi về bà như mẫu nghi tài đức vẹn toàn, có công phò vua, giúp nước, an dân.

Các tư liệu lịch sử (chính sử, thần phả, sắc phong, truyền thuyết dân gian.) kể:

" Lý Thánh tông ở ngôi (1054-1072), "đáng gọi là bậc vua tốt" nhưng ở tuổi 40 vẫn chưa có con trai nối dõi.

Năm Quý Mão (1063), bấy giờ vua xuân thu đã nhiều nên sai Chi Hậu Nội Nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa.

Ít lâu sau, Ỷ Lan có mang, sinh thái tử Càn Đức. Lý Thánh tông mất, Càn Đức lên ngôi vua trước linh cữu Tiên Đế, đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ nhất (1072).

Bấy giờ, vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên Phi làm Hoàng Thái Phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương Thái Hậu làm Hoàng Thái Hậu, cho phép được buông rèm cùng nghe chính sự. Thái Sư Lý Đạo Thành giúp triều chính.

1073, Dương Thái Hậu mất, Hoàng Thái Phi Ỷ Lan chính thức được tôn phong Hoàng Thái Hậu.

Thời gian buông rèm nhiếp chính, Ỷ Lan thi hành nhiều chính sách thân dân, lưu tâm đến thân phận người nghèo, khuyến khích nông nghiệp phát triển.

Năm Long Phù thứ 3 (1103), thái hậu cho phát tiền ở kho Nội Phủ để chuộc những người con gái nhà nghèo phải bán đi ở đem gả cho những người góa vợ.

Thái hậu có công dìu dắt, dạy dỗ Lý Nhân Tông thành vua tốt. Bà từng khuyên vị vua trẻ:

"Gần đây ở kinh thành, hương ấp có nhiều người trốn tránh, lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn, mấy nhà phải chịu cảnh cày chung một con trâu.

Trước đây, ta từng nói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Thế mà nay việc giết trâu lại nhiều hơn trước."

Nghe lời khuyên, năm 1117, Lý Nhân tông xuống chiếu định rõ lệ cấm giết trâu, áp dụng hình phạt nghiêm khắc, nhờ đó mà dân yên ổn làm ăn, kinh tế nông nghiệp phát triển.

Mùa thu năm Hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), ngày 25, Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu băng hà.

Vua cho hỏa táng, tôn dâng tên thụy Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức (nay là đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

Do công đức của bà nên dân trong nước nhiều nơi ngưỡng mộ, tôn bà làm thành hoàng làng với ước mong được bà che chở, bảo ban để cuộc sống được yên bình, no ấm. Bà được dân cả nước tôn làm "Lý đại mẫu nghi" (Mẫu mực đức mẹ đời Lý).

Truyền thuyết tại làng Yên Trung còn cho biết thêm:

25-7-1117, Ỷ Lan đang cùng dân cày cấy ở Ba Đồn thì có 3 ông hàng dầu đi qua nhìn thấy trên đầu bà có lọng che, có long chầu hổ phục liền gọi:

"Bà ơi, trên đầu bà có lọng che, long chầu hổ phục. Bà về mà làm thần đi."

Bà trả lời:

"Tôi đi làm thần, ba ông làm bộ hạ."

Thế là dông gió nổi lên cuồn cuộn, mưa to, sấm nổ vang rền, bà về đền Hoành để lại giỏ đeo bên mình. Chiếc giỏ lập tức biến thành ao to với hình dáng tương tự.

Nơi đó về sau gọi là đầm Giỏ. Bà thổ ba giọt huyết, gió đến rước bà về miếu Nhị (nay thuộc xã Liên Lộc) ; rước bà về nghè làng Quan Trung (nay làng Yên Trung) thì hóa.

12-12-1118 (năm Bính Tuất), Lý Nhân Tông về phủ Thanh Hóa, đến làng Quan Trung cho xây đền thờ bà, chính là nghè cổ Yên Trung linh thiêng đồn khắp các miền.

Nhiều nơi trong nước lập đền thờ bà để tưởng nhớ công lao và tỏ lòng tiếc thương đối với Hoàng Thái Hậu.

Đối với làng Yên Trung, hằng năm, dân làng mở hội tế ngày mất bà, 3 năm lại cho tổ chức một hội lớn có nghi thức rước nước (rước kiệu chở thần vị từ nghè ra sông De chứng giám hội đua thuyền xong lại rước về). Nghè cổ Yên Trung, ngoài thờ chính Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu còn thờ thêm:

Thái Úy Lý Thường Kiệt, Thái Sư Lý Đạo Thành, Đô Đốc Lý Kế Nguyên và nhị vị hoàng tử: Lý Hoằng Chân, Lý Chiêu Văn; nhị vị công chúa: Bình Dương – hiệu Bạch Hoa, Thiên Thành hiệu Đào Hoa.

Trong ký ức dân địa phương, nghè cổ Yên Trung không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, để cháu con tỏ lòng thành kính trước bậc mẫu nghi hiền đức mà trên hết, nơi đây còn là nơi lưu lại những dấu ấn trong sự hình thành và phát triển của làng.

1964, để phục vụ vào mục đích xây dựng các công trình phúc lợi của địa phương như xây:

Trường học, trạm xá và các công trình công cộng khác, người làng Yên Trung phải chấp nhận tháo dỡ nghè cổ này để lấy vật liệu.

Nghè gần như thành phế tích. Các đồ thờ tự như ngai thờ, bài vị, hương án, sắc phong, thần tích cùng những đồ lễ khác không có điều kiện bảo quản nên bị mất mát, thất lạc nhiều.

Tuy nhiên, căn cứ những dấu vết còn lại như chân tảng, đá lăn giai.. cũng như lời kể của các cụ cao niên trong làng, nghè Yên Trung trước đây có quy mô lớn.

Tổng thể công trình có nghi môn nội, ngoại, nghè chính, nhà giải vũ.

Riêng nghè chính có cấu trúc gồm ba cung thờ có hình dáng mái cong, vì kèo làm bằng gỗ lim theo kiểu chồng rường kẻ bẩy.

Bài trí đồ thờ trong nghè quy định theo điển lễ. Gian giữa là nơi thờ Lý triều Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, các gian bên thờ các quan đại thần là Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành, Lý Kế Nguyên, các vị hoàng tử và công chúa.

Trong nghè thờ còn có hệ thống các đồ thờ như bát biểu, ngựa thờ, hệ thống câu đối, đại tự ca ngợi Đức Hoàng Thái Hậu triều Lý..

Một thời gian dài, nghè Yên Trung gần như chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong tiếc nuối và khát khao nghè được khôi phục lại của người dân.

Chính từ những tâm huyết, nhiệt thành mà cháu con từ đời này qua đời khác vẫn luôn ấp ủ; cùng với đi lên về mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần, nghè cổ Yên Trung từ phế tích đã được khôi phục lại khang trang, đẹp đẽ.

Đầu năm 2018, lễ khánh thành được UBND xã Hoa Lộc tổ chức trong niềm vui, niềm phấn khởi xen lẫn tự hào của người dân.

Nghè có tổng diện tích là 2.341m2, xây hoàn toàn bằng nguồn vốn xã hội hóa với tổng giá trị công trình lên tới gần 16 tỷ đồng.

Ông Phạm Thăng Long, Phó Chủ tịch UBND xã Hoa Lộc chia sẻ:

"Công trình nghè Yên Trung hoàn thành góp phần khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống lâu đời tại địa phương.

Tô đẹp thêm ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng gắn với văn hóa tâm linh theo truyền thống.

Thể hiện tinh thần đoàn kết mang tính cố kết cộng đồng vốn thành sức mạnh không dễ gì lay chuyển được của cư dân làng xã Việt.

Đồng thời là cơ sở, nền tảng để tiếp tục" xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"đúng như tinh thần Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) của Đảng đã đề ra.

Nguồn:

Web baothanhhoa

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Bàn đập công cụ làm gốm Hoa Lộc thuộc di chỉ Cồn Chân Tiên.

71081874_1227355267464723_628757218992324608_o.jpg


LỊCH SỬ THANH HÓA

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

1. Thanh Hóa trong thời kỳ các Vua Hùng dựng nước.

Đầu thời đại đồng thau, ở đồng bằng Bắc Bộ, Văn hóa Phùng Nguyên phân bố trên vùng rộng lớn từ các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Nội.

Ở Thanh Hóa, các bộ lạc nguyên thuỷ cũng có mặt trên địa bàn rất rộng:

Từ miền núi đến đồng bằng, ven biển.

Ở miền núi:

Người thời đại đồng thau để lại dấu vết trong các hang động Thẩm Hai và Thẩm Tiên (thuộc huyện Thường Xuân).

Trong tầng văn hóa dày từ 20 - 30cm, các nhà khảo cổ học tìm thấy nhiều rìu, đục bằng đá được mài nhẵn.

Đồ gốm thu được ở đây không nhiều nhưng thể hiện trình độ chế tác rất độc đáo:

Gốm thường có miệng loe dày, vai xuôi, có loại có chân đế.

Hoa văn trang trí rất đa dạng nhưng chủ yếu bằng kỹ thuật khắc vạch với những đường song song hoặc cắt nhau chạy thành từng băng quanh thân.

Trong tầng văn hóa cũng tìm thấy cả vỏ ốc suối. Với phát triển của kỹ thuật chế tác đồ gốm, cư trú trên địa bàn xung quanh các thung lũng bằng phẳng, những cư dân thuộc nhóm di tích Thường Xuân là những người làm nông nghiệp.

Ở miền biển:

Trong khi các bộ lạc miền núi Thường Xuân sản xuất nông nghiệp và phát triển nghề làm gốm, thì ở vùng biển, một nhóm các bộ lạc khác biết đến kim loại.

Di chỉ tiêu biểu là Hoa Lộc (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc) được khai quật lớn năm 1974 và 1975.

Vì vậy nền văn hóa khảo cổ ở đây được đặt tên Văn hóa Hoa Lộc. Cư dân Văn hóa Hoa Lộc sống gần bờ biển.

Tại các di chỉ thuộc văn hóa này phát hiện nhiều chì lưới bên cạnh xương răng các loài cá biển, cá nước ngọt, chứng tỏ đánh cá là nghề quan trọng của họ.

Tìm thấy ở đây xương răng các loài động vật được thuần dưỡng như trâu, bò, chó, lợn, và thú rừng như hươu, nai, hoẵng, lợn rừng, tê giác v. V..

Rõ ràng chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc còn là những người chăn nuôi và săn bắn giỏi.

Nhưng không nghi ngờ gì nữa, các bộ lạc Văn hóa Hoa Lộc có nền nông nghiệp dùng cuốc phát triển.

Di chỉ Hoa Lộc (còn gọi cồn sau chợ) tìm thấy số lượng rất lớn cuốc đá có vai hoặc hình tứ giác (61 chiếc). Ở di chỉ Phú Lộc (còn có tên Cồn Nghè) tìm thấy tới 80 cái.

Rìu và bôn có vai mài nhẵn toàn thân, có hình dáng cân đối cũng là loại nông cụ tìm thấy khá nhiều ở Văn hóa Hoa Lộc.

Nhưng rõ ràng nhất là tại di tích Bái Cù, các nhà khảo cổ học tìm thấy nhiều vết tích vỏ trấu. Đây là trấu giống lúa nước.

Chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc là những người làm gốm giỏi, đồ gốm của họ rất độc đáo cả về hình dáng lẫn hoa văn trang trí.

Họ tạo được những cái bình có vai gãy, miệng gập vào trong.

Có cả loại có miệng hình nhiều cạnh mà các nơi khác rất hiếm gặp. Hoa văn trên đồ gốm Hoa Lộc rất đẹp và phong phú:

Người ta thống kê 18 đồ án hoa văn khác nhau trên đồ gốm Hoa Lộc, đặc trưng và độc đáo nhất là hoa văn hình bọ gậy được tạo bằng cách ẩn miệng vỏ sò biển lên thân gốm khi còn ướt.

Một đặc điểm quan trọng khác của Văn hóa Hoa Lộc là xuất hiện rất nhiều những con dấu bằng đất nung.

Các con dấu này có hình chữ nhật hoặc gần tròn, thường được thợ gốm khắc những chữ "S" hoặc những hoa văn nối tiếp nhau với nét khắc rất sâu.

Các nhà nghiên cứu cho rằng công dụng của những con dấu này có lẽ dùng để in hoa văn lên vải hơn là để tạo hoa văn trên đồ gốm.

Tại Hoa Lộc còn tìm thấy những hộp đất nung hình chữ nhật, có hai ngăn, công dụng đến nay vẫn còn tranh cãi.

Điều quan trọng là phát hiện được dấu vết đồng trong Văn hóa Hoa Lộc, đó có thể là những mẩu dây hoặc dùi đồng bị rỉ nát.

Trong tương quan với các nền văn hóa cùng thời, các nhà nghiên cứu nhận thấy xuất hiện giao lưu giữa các bộ lạc Văn hóa Hoa Lộc với chủ nhân các nền văn hóa khác.

Ở phía Bắc, hoa văn in mép vỏ sò đặc trưng Văn hóa Hoa Lộc tìm thấy ở Sập Việt, Bản Gièm (Sơn La).

Nhiều mảnh gốm kiểu Hoa Lộc tìm thấy ở Gò Mả Đống (Ba Vì - Hà Nội), núi Lê (Ninh Bình), đồi Ghệ, đồi Giạ (Vĩnh Phú cũ).

Ở phía Nam, phong cách trang trí và đồ án hoa văn hình chữ S in bằng miệng vỏ sò thấy xuất hiện ở Pò Cung (Quỳ Hợp - Nghệ An).

Căn cứ những thành tựu trong kỹ thuật chế tác các loại công cụ, trong các ngành kinh tế sản xuất và phân bố các di chỉ trên vùng rộng lớn, có thể thấy mật độ cư dân trong Văn hóa Hoa Lộc đã khá cao.

Chủ nhân Văn hóa Hoa Lộc hẳn có cuộc sống tinh thần khá phong phú:

Chỉ có những bộ óc phóng khoáng với những bàn tay khéo léo mới có thể tạo nên những kiểu dáng và hoa văn trên đồ gốm phong phú đến vậy.

Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đánh cá biển và kỹ thuật chế tác kim loại ra đời có thể góp phần quan trọng xác lập chế độ công xã thị tộc phụ quyền trong đời sống xã hội Văn hóa Hoa Lộc.

Vùng đồng bằng sông Mã:

Khi các bộ lạc ở miền núi, miền biển Thanh Hóa bước vào thời đại đồng thau cách đây khoảng 4.000 năm thì vùng đồng bằng ven đôi bờ sông Mã, cư dân các bộ lạc ở di chỉ Cồn Chân Tiên bước vào sơ kỳ thời đại đồng thau.

Cùng thời di chỉ này, ven đôi bờ sông Mã còn phát hiện các di chỉ núi Chàn (ở sườn tây núi Đọ), khe Tiên Nông (sườn Tây Bắc núi Nuông).

Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ này được nhiều nhà nghiên cứu xác định là giai đoạn sớm nhất thời đại đồng thau ven sông Mã, cốt lõi mở đầu trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.

Những công cụ bằng đá ở Cồn Chân Tiên cho thấy cư dân giai đoạn này đạt tới trình độ kỹ thuật chế tác đá rất cao. Họ sử dụng đá bazan khai thác ở núi Đọ.

Họ sử dụng kỹ thuật ghè để tạo phác vật, sau đó ghè tu chỉnh và tiến hành mài đá. Họ dùng hai loại bàn mài để mài phá và mài trau (loại đá có kết cấu hạt to dùng mài phá, loại mài trau có kết cấu hạt mịn).

Bàn mài của họ đôi khi dùng cả bốn mặt, có loại có rãnh chắc dùng để mài đồ trang sức.

Rìu đá ở Cồn Chân Tiên chủ yếu là rìu lưỡi cân, cạnh đó còn có loại lưỡi mài vát một bên có tiết diện hình chữ V lệch (thường được gọi là bôn).

Đặc biệt ở đây tìm thấy những rìu và bôn có hình dáng nhỏ nhắn và rất xinh bằng đá ngọc, lưỡi rất sắc bén.

Tìm thấy nhiều vòng trang sức bằng đá, cư dân Cồn Chân Tiên chế tác công cụ ngay tại nơi cư trú.

Di chỉ Cồn Chân Tiên có tầng văn hóa tương đối dày, chứng tỏ con người định cư ở đây khá lâu dài. Đồng bằng ven sông Mã là địa bàn khai thác nghề trồng lúa nước của họ.

Địa bàn cư trú ấy với điều kiện trình độ chế tác công cụ phát triển đưa sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế cư dân Cồn Chân Tiên.

Như cư dân Văn hóa Phùng Nguyên, Hoa Lộc, các bộ lạc nguyên thuỷ đôi bờ sông Mã đang dần chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ quyền và điều quan trọng hơn cả, khi đối chiếu, so sánh với kết quả nghiên cứu các giai đoạn phát triển sau này ở các di chỉ khảo cổ học khu vực:

Đồng bằng sông Mã, sông Chu, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cư dân các bộ lạc:

Cồn Chân Tiên là nhóm đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang của các Vua Hùng.

2. Thanh Hóa trong trung kỳ thời đại đồng thau: Giai đoạn Đông Khối

Di chỉ khảo cổ học Đông Khối thuộc làng Đông Khối, xã Đông Cương (Đông Sơn), khai quật năm 1960.

Gần đây, nhờ kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau ven đôi bờ sông Mã.

Các nhà nghiên cứu xác định Đông Khối là di chỉ tiêu biểu cho giai đoạn phát triển tiếp theo giai đoạn Cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, có niên đại trung kỳ thời đại đồng thau tương đương với giai đoạn Đồng Đậu ở đồng bằng Bắc Bộ.

Thuộc giai đoạn này còn có di chỉ Bái Man, lớp dưới di chỉ Cồn Cấu (xã Đông Lĩnh) và lớp dưới di chỉ Đồng Ngầm (xã Đông Tiến) huyện Đông Sơn.

Điểm đáng chú ý đầu tiên là kỹ thuật chế tác công cụ đá của cư dân các bộ lạc giai đoạn này đã không chỉ kế thừa trực tiếp kỹ thuật của cư dân Cồn Chân Tiên.

Họ còn đưa nghề chế tác đá phát triển thành kỹ nghệ, đạt tới đỉnh điểm trong thời tiền sử và sơ sử xứ Thanh.

Tại di chỉ Đông Khối, nay vẫn còn rất nhiều những phác vật, phế vật, mảnh tước v. V.. có chỗ chất đầy, ken dày trên những bờ ruộng, cánh đồng sát chân núi Voi, rộng hàng chục ha.

Điều này cho thấy hẳn xưa kia, khoảng 3.000 năm trước đây, Đông Khối là trung tâm chế tác công cụ đá rất phong phú và nhộn nhịp.

Trong bộ sưu tập công cụ bằng đá ở Đông Khối, rìu và bôn tứ giác có tiết diện hình chữ nhật hoặc vuông chiếm ưu thế tuyệt đối. Hình dáng chúng khá phong phú:

Rìu có loại hình thang vuông, hình chữ nhật.

Bôn cũng có hai loại:

Loại lưỡi mỏng (chỉ độ 1cm) và loại lưỡi rất dày, có mặt cắt hình gần vuông, vì vậy có người gọi là búa rìu (loại này chiếm tỉ lệ 22 - 33% ở các di chỉ).

Nghiên cứu những dấu vết vật chất và bộ di vật, các nhà khảo cổ học cho rằng cư dân các bộ lạc thuộc giai đoạn Đông Khối có trình độ phát triển tương đương giai đoạn Đồng Đậu ở lưu vực sông Hồng.

Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của người Đông Khối có bước phát triển mới:

Bên cạnh trồng trọt các loại cây cho củ, quả, lúa được trồng nhiều hơn, đặc biệt là lúa nếp.

Tại Đồng Ngầm, Bái Man phát hiện được nhiều mẫu trấu của lúa dạng hạt tròn.

Phát triển mạnh các nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, những dấu tích của lúa, gạo v. V.. cho thấy người Đông Khối đạt trình độ khá cao trong đời sống kinh tế, xã hội.

3. Thanh Hóa thời Bắc thuộc

Năm 179 TCN, nước Âu Lạc của vua Thục bị quan lại nhà Tần là Triệu Đà xâm lược.

Lãnh thổ và cư dân quốc gia Văn Lang - Âu Lạc thời các Vua Hùng, vua Thục trong đó có Cửu Chân bị thôn tính, sát nhập vào Nam Việt.

Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt và chia thành 9 quận, trong đó nước Âu Lạc cũ trở thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, vùng đất Thanh Hóa nằm gọn trong quận Cửu Chân.

Trải hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, qua các triều đại Hán - Tam Quốc, Lưỡng Tấn - Tiền Tống - Tề - Lương - Tùy - Đường, địa danh miền đất này cũng bao lần thay đổi theo thăng trầm lịch sử. Cùng số phận chung cả nước, dân Cửu Chân chịu lầm than cơ cực dưới ách đô hộ của ngoại bang.

II. LỊCH SỬ CON NGƯỜI

1. Thời đồ đá cũ

Các dấu vết người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu phát hiện năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hóa.

Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng tồn tại nền văn hóa sơ kỳ thời đại đồ đá cũ:

Văn hóa núi Ðọ. Văn hóa núi Ðọ bao gồm hệ thống các di tích sơ kỳ thời đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hóa: Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.

1.1. Văn hóa núi Đọ

Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hóa (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ðây là hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu.

Người vượn nguyên thuỷ sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ.

Những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay.. đã phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều.

Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây Nam.

1.2. Núi Quan Yên

Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông - Ðông Nam), thuộc xã Ðịnh Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ phát hiện những vết tích con người sơ kỳ thời đồ đá cũ.

So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn.

Nhưng kỹ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kỹ thuật của loài vượn sơ kỳ thời đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là loại hình di chỉ - xưởng.

Căn cứ trình độ kỹ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng:

Người vượn nguyên thuỷ Văn hóa núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 - 30 người.

Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng.

Ðời sống tinh thần của họ khá phong phú: Ngoài giờ kiếm ăn, có thể có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.

1.3. Hậu kỳ thời đại đồ đá cũ - Văn hóa Sơn Vi

Tại Thanh Hóa, các bộ lạc chủ nhân Văn hóa Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh.

Dấu vết của họ đã tìm thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).

- Mái Đá Ðiều:

Ðây là di tích phát hiện năm 1984 (thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá Thước), chỉ trong 4m2 hố thám sát thu được hơn 300 hiện vật thuộc thời đại đồ đá cũ.

1986-1989, do tầm quan trọng di tích này, các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác với các nhà khảo cổ học Bulgaria tiến hành khai quật 3 lần.

Kết quả thu hàng ngàn hiện vật đá gồm công cụ kiểu Văn hóa Sơn Vi, bàn nghiền.. và nhiều nhất là mảnh tước, với bốn công cụ bằng xương thú.

Ðặc biệt, tại đây tìm thấy 10 mộ cổ, trong đó có mộ song táng, có hai bộ xương chớm hóa thạch còn tương đối nguyên vẹn mà chưa nơi nào ở Việt Nam phát hiện được di cốt nguyên vẹn như thế trong Văn hóa Sơn Vi.

Người vượn sinh sống ở Hang Mái Đá Ðiều, các cư dân nguyên thuỷ sống trong các hang:

Thung Khú (thuộc làng Man), hang Ma Xá, mái đá nước hang Anh Rồ, tạo thành cụm di tích có niên đại từ hậu kỳ đá cũ đến Văn hóa Hòa Bình, thuộc xã Hạ Trung huyện Bá Thước.

Năm 1989, các hang Lang Chánh I, II, III, (thuộc xã Lâm Sa, huyện Bá Thước), được các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác với các nhà khoa học Mỹ tiến hành khai quật và nghiên cứu.

Hiện vật phát hiện ở các di chỉ này chủ yếu là công cụ bằng đá gồm các loại:

Mảnh tước đã tu chỉnh, rìu ngắn, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ có rìa lưỡi ngang.. được xác định là công cụ của chủ nhân Văn hóa Sơn Vi muộn, kéo dài đến Văn hóa Hòa Bình.

- Hang Con Moong:

Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong - một di tích nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương - thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành.

Di tích này khai quật 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hóa sinh sống từ hậu kỳ thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới.

Tầng văn hóa ở Con Moong dầy 3, 5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có ngắt quãng.

Tại lớp văn hóa sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ C14 cách ngày nay hơn 12.000 năm) các nhà khảo cổ học thu được nhiều hiện vật.

Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu, công cụ 1/4 viên cuội, tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội.

Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền - những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng máng, dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật, là những công cụ bằng xương có hình mũi nhọn được tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn.

Xương, răng động vật phát hiện khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng..

Giống Mái Đá Ðiều, tầng văn hóa ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối.

Trong lớp Văn hóa Sơn Vi ở Con Moong, tìm thấy dấu vết bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám.

Trong lớp Văn hóa Sơn Vi ở Con Moong, phát hiện 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) xác định 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 - 60 tuổi), 2 trẻ em và 1 người không xác định được giới tính.

Tất cả các hài cốt chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có mộ chôn theo công cụ nạo.

Như vậy, hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng Văn hóa Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân Văn hóa Sơn Vi Thanh Hóa cư trú trên vùng rộng lớn phía Bắc, Tây Bắc của tỉnh và tương đối tập trung.

Theo những phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kỳ thời đại đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh nay.

Trong thời đại đồ đá cũ, cư dân nguyên thuỷ sinh sống trên địa bàn Thanh Hóa.

Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lý, do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hóa núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây - Tây bắc.

Những chủ nhân Văn hóa Sơn Vi ở Thanh Hóa cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để sinh tồn.

Tạo nền văn hóa mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hóa.

2. Thời đại đồ đá mới

Nối tiếp Văn hóa Sơn Vi là Văn hóa Hòa Bình (lấy tên tỉnh Hòa Bình - nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hóa này).

Về niên đại, Văn hóa Hòa Bình cách nay 11.000 năm; trên đất Thanh Hóa, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc..

Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn.

Các nhà khảo cổ học xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân Văn hóa Sơn Vi ở Thanh Hóa và chính họ - cư dân Văn hóa Hòa Bình ở Thanh Hóa, tiếp tục phát triển, làm nên Văn hóa Bắc Sơn sau này.

2.1. Những vết tích của Văn hóa Hòa Bình.

- Hang Con Moong (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành) :

Ðây là hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300m2.

Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời Văn hóa Sơn Vi đến Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn.

Các nhà khảo cổ thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt.

Về công cụ bằng đá:

Cư dân Văn hóa Hòa Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống Văn hóa Sơn Vi:

Dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác.

Công cụ kiểu Xumatơra (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng:

Có thể dùng cắt, chặt, nạo.. từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ.

Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hóa.

Người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng rìu ngắn cũng rất đa dạng.

Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân Văn hóa Hòa Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá.

Mảnh tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc.

Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều.

Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao:

Người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú - loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp - để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu.

Thức ăn rất phong phú, đa dạng:

Trong tầng văn hóa, các nhà khảo cổ học đã thu được 832 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc.. và các loại xương thú rất phong phú.

Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng, chân co như cư dân Văn hóa Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ.

- Di chỉ Mái Đá Ðiều và các di chỉ khác:

Như ở Con Moong, Mái Đá Ðiều là di chỉ chứa nhiều lớp văn hóa thuộc các thời đại đồ đá khác nhau.

Niên đại lớp Văn hóa Hòa Bình của Mái Đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay.

Các nhà khảo cổ học thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hòa Bình.

Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể.

Riêng công cụ bằng mảnh tước, ở một số địa điểm xuất hiện kỹ thuật mài đá.

Ở các di chỉ Mái Đá Bát Mọt, hang Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân Văn hóa Hòa Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú.

Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hóa này, tầng văn hóa đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong:

3, 5m, Mái Đá Ðiều: Gần 4m, Mái Đá Làng Bon: 3, 7m, hang Ðiền Hạ III: 3, 8m, Mái Đá chòm Ðồng Ðông:

3, 5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật.

Cư trú trong các hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hòa Bình ở Thanh Hóa chắc ngoài những công cụ đá đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây..

Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học phát hiện được nhiều mộ táng của người Hòa Bình ở Thanh Hóa.

Tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, Mái Đá Làng Bon, Mái Đá làng chòm Ðồng Ðông.. các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn.

Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), Mái Đá Ðiều (13 mộ), Mái Đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ).

Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hòa Bình.

Chủ nhân Văn hóa Hòa Bình ở Thanh Hóa tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định.

Mỗi hang động là thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái.

Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn.

Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của phụ nữ ngày càng được nâng cao.

Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân Văn hóa Hòa Bình ở Thanh Hóa chuyển từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa.

Ðó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: Người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí.. và thuần dưỡng chó.

Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sinh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải trí.

Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân Văn hóa Hòa Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ thực sự góp phần vào cách mạng đá mới.

Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hóa cho thấy cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hóa thời đại đồ đá mới:

Đó là phát triển liên tục, nội tại từ cư dân Văn hóa núi Ðọ đến Sơn Vi và Văn hóa Hòa Bình.

2.2. Đồ gốm xuất hiện và cư dân Văn hóa Bắc Sơn ở Thanh Hóa:

Tại Thanh Hóa, dấu vết Văn hóa Bắc Sơn được phát hiện trong các lớp văn hóa muộn của các di chỉ:

Mái Đá Thạch Sơn, Mái Đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, Mái Đá Ðiều, hang Mỹ Tế, Mái Đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III..

Đặc biệt rõ ở hang Con Moong - thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách nay.

Chủ nhân Văn hóa Bắc Sơn ở Thanh Hóa cũng như ở nơi khác, đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao:

Họ biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hóa những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền.

Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời góp phần thúc đẩy phát triển nghề nông đã thai nghén từ Văn hóa Hòa Bình.

Nhưng thành tựu kỹ thuật lớn nhất của cư dân Văn hóa Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm.

Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp.

Nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân Văn hóa Bắc Sơn ở Thanh Hóa phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của Văn hóa Hòa Bình.

Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn.

Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ:

Trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hóa vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp Văn hóa Bắc Sơn ở Con Moong - lớp trên cùng - có độ dày từ mặt đất từ 0, 2m - 1, 2m, thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ Văn hóa Bắc Sơn ở Thanh Hóa phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ.

Cùng phát triển nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ Văn hóa Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng.

Ðó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.

2.3. Cư dân Văn hóa Đa Bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.

Hậu kỳ thời đại đồ đá mới, cách nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang kỷ Hôlôxen, đồng bằng sông Mã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên:

Phong phú, đầy hấp dẫn, lôi cuốn chủ nhân văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động - nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi.

Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng dân cư Văn hóa Hạ Long ở phía Bắc, Văn hóa Quỳnh Văn ở phía Nam.

Người nguyên thuỷ ở Thanh Hóa làm nên Văn hóa Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hóa các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.

Văn hóa Ða Bút:

Theo hiểu biết hiện nay, Văn hóa Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc).

Khai quật và nghiên cứu hệ thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học chứng minh chủ nhân Văn hóa Ða Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hóa.

Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ Văn hóa Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển.

Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.

Nguồn:

Web thanhhoa

Về những bàn đập gốm phát hiện trong các di chỉ ở Việt Nam

Bàn đập gốm là loại hình công cụ sản xuất trong nghề làm gốm thủ công thời tiền sử.

Nay số lượng di vật này phát hiện được không nhiều trong các di chỉ Mán Bạc (Ninh Bình), Cồn Chân Tiên (Thanh Hóa), Phù Mỹ (Lâm Đồng), Rạch Bà Giá, Rạch Lá, Suối Linh (Đồng Nai).

1. Di chỉ Mán Bạc (xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình)

- Chất liệu: Làm từ đất á sét có pha nhiều tạp chất như bã thực vật, vỏ nhuyễn thể, cát, sỏi nhỏ.

- Hình dáng: Giống nấm, một đầu tròn loe rộng hình cầu, đỉnh hơi lồi, nhẵn bóng, phần này không trang trí hoa văn.

Đầu kia thuôn nhỏ, thường có dạng hình trụ tròn đối với những hiện vật kích cỡ lớn, trung bình, còn những hiện vật kích thước nhỏ phần chân vuốt nhọn hình chóp nón.

Phần chân này có chiếc đặc, có chiếc rỗng. Hoa văn thường được trang trí ở phần này.

- Màu: Đỏ, xám, vàng.

- Hoa văn trang trí:

Văn chấm que đầu nhỏ, ấn que đầu to hình bầu dục, khắc vạch hình zích zắc, khắc vạch đơn ngắn, khắc vạch hình chữ V nối tiếp nhau kết hợp chấm que.

- Kích thước - trọng lượng:

Có nhiều kích cỡ khác nhau. Chiều cao trung bình 5cm, chiều cao lớn nhất là 8cm, chiều cao nhỏ nhất là 1, 2cm.

Đường kính phần loe rộng trung bình 7, 3cm, lớn nhất: 9, 6cm, nhỏ nhất 1, 8cm.

1. Di chỉ Cồn Chân Tiên (xã Thiệu Vân, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa)

- Chất liệu: Làm từ đất sét pha cát hạt thô hoặc mịn, màu vàng nhạt hoặc màu đỏ.

- Hình dáng: Hình quả cân, hai đầu loe, một đầu loe nhiều hơn. Hai mặt cong vồng, thân hình ống thót ở giữa.

Hoặc hình gần giống con dấu, một đầu loe rất rộng, một đầu không loe, hai mặt phẳng, thân hình trụ.

- Màu sắc: Màu đỏ hoặc vàng nhạt.

- Hoa văn trang trí: Hoa văn in chấm hình tròn hoặc hình bầu dục, hoa văn khắc vạch hình tam giác đối chiều, hoặc văn chải.

- Kích thước - trọng lượng:

Có nhiều kích thước khác nhau, trung bình cao 4 - 8cm, đường kính bàn xoa 5 - 8cm, đường kính tay cầm 3 - 5cm, cao 4 - 8cm.

1. Di chỉ Phù Mỹ (xã Phù Mỹ, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng)

- Chất liệu: Gốm thô, chủ yếu màu đỏ

- Hình dáng: Hình chóp cụt dài, phía dưới bè ra như bánh dày.

Phần tay cầm có lỗ hoặc không xuyên lỗ. Phần xoa có chiếc mặt cong vồng cao, có chiếc cong vồng thấp.

- Hoa văn trang trí: Không hoa văn.

1. Nhận xét

- Đây là loại di vật độc đáo chỉ phát hiện ở một số ít di tích khảo cổ học.

- Về hình dáng các di vật tìm thấy ở các địa điểm tuy có sự khác nhau nhưng điểm chung gồm 2 phần:

Phần tay cầm hình trụ tròn và phần bàn xoa hình tròn dẹt.

- Bàn đập gốm di chỉ Mán Bạc và Cồn Chân Tiên một số có trang trí hoa văn khắc vạch, khắc vạch - chấm que. Bàn dập gốm di chỉ Phù Mỹ không trang trí hoa văn.

- Nhiều cách gọi khác nhau, ở di chỉ Mán Bạc các nhà khảo cổ đặt tên cho chúng là "vật hình nấm" hay "bàn xoa gốm", ở di chỉ Phù Mỹ gọi là "bàn đập gốm", ở di chỉ Rạch Bà Giá, Rạch Lá, Suối Linh gọi là "bàn xoa gốm." Có thể thống nhất gọi tên đây là bàn đập gốm.

- Về công dụng:

Di chỉ Phù Mỹ và Rạch Bà Giá có thể những người khai quật gọi tên di vật theo giả định của họ về công dụng của di vật. Còn ở di chỉ Mán Bạc có nhiều ý kiến khác nhau.

Có người cho rằng đây là vật dùng trong công nghệ tạo hình gốm và đề nghị gọi tên là "quả chuốt gốm."

Có ý kiến cho rằng đây là hiện vật mang tính tôn giáo. So sánh tài liệu dân tộc học ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á chức năng chính của chúng là dụng cụ sản xuất đồ gốm.

Tại một số di chỉ khảo cổ trong khu vực cũng phát hiện loại hình hiện vật này như di chỉ Ban Na Di (Thái Lan) [Brian Vincent 1988] .

Đến nay, một số làng làm gốm tại Campuchia như Damnak Chambak [Chhay Visoth 2010] vẫn sử dụng loại hình hiện vật này vào công việc sản xuất đồ gốm.

Bàn đập gốm Văn hóa Hoa Lộc, di chỉ Cồn Chân Tiên (Thanh Hóa) và bàn đập gốm di chỉ Ban Na Di (Thái Lan)

[Nguồn: Phạm Minh Huyền 1995, Phạm Văn Kỉnh và Quang Văn Cậy 1977, Brian Vincen 1988 - Trích theo Trịnh Hoàng Hiệp 2010.

TS. Bùi Thị Thu Phương

Tài liệu tham khảo:

Brian Vincent, Pottey in Pre - Historic in Northen Thailand (with pottery in Banadi site), BAR International Series \Publication 1988.

Chhay Visoth, The new Perspective on Modern pottery in Cambodia - A case study of Damnak Chambak villige, International Workshop on Southeast Asian Ceramic Archaeology: Directions for Methodology and Collaboration, USA 2010

Trịnh Hoàng Hiệp 2010, Di tích khảo cổ học Mán Bạc (Ninh Bình), Luận án Tiến sĩ, Tư liệu Viện KCH.

Phạm Minh Huyền 1995, Báo cáo khai quật di chỉ Cồn Chân Tiên

Trịnh Sinh, Trần Quý Thịnh, Hoàng Xuân Chinh, Phạm Minh Huyền 1999, Báo cáo khai quật di chỉ Phù Mỹ năm 1998, Tư liệu VKCH

Nguồn:

Web baotanglichsu

Di chỉ Cốn Chân Tiên tại thôn Đại Lý, xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Phát hiện 1981.

Có 1 tầng văn hóa độ sâu nhất trong 3 hố đào là 0, 70m. Hiện vật thu được: Đồ đá gồm rìu mài 45 chiếc, phác vật rìu 133 chiếc và 443 mảnh tước.

Đồ gốm gồm các loại nồi, nồi đựng có chân, hòn kê (chân giò), chân gốm, loại hình ống như chân mâm bồng, bàn xoa gốm.

Các đồ án và văn trang trí trên gốm khá đa dạng. Thuộc văn hóa khảo cổ học Phùng Nguyên.

Nguồn:

Web mobile. Coviet

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
81245017_1516771021812501_3163118953941696512_n.jpg


Văn hóa Phùng Nguyên là nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đồ đồng, cuối thời đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 đến 3.500 năm.

Phùng Nguyên là tên làng ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ nền văn hóa này.

Di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và vài nơi trong lưu vực sông Hồng.

Tính đến 1998, khoảng 55 địa điểm phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ Phùng Nguyên, 3 nơi có di cốt người.

Những nơi đây, trong mọi hiện vật khảo cổ khai quật thuộc văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện chưa thấy bất kỳ công cụ đồng nào. Công cụ đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối.

Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc thấy nhiều, đặc biệt là vòng đá.

Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên biết tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng đến hoa văn trang trí.

Cùng thuộc sơ kỳ thời đồ đồng ở Việt Nam như Văn hóa Phùng Nguyên còn có Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), Văn hóa Đồng Nai (Đông Nam Bộ).

Các di chỉ

Tới nay, hơn 60 di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên được phát hiện, phân bố trong phạm vi rộng khắp châu thổ Bắc Bộ, chủ yếu dọc theo lưu vực các sông lớn:

Như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy.. tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Ninh[1]

Di chỉ Phùng Nguyên lấy làm tên xác lập cho Văn hóa Phùng Nguyên tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Di chỉ Phùng Nguyên được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m2 những năm 1959 đến 1970.

Di chỉ Mán Bạc ở thôn Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô (Ninh Bình), thuộc hệ thống đứt gãy dải núi đá vôi Tam Điệp chạy ra tới biển.

Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Mán Bạc thuộc giai đoạn Văn hóa cuối Phùng Nguyên, đầu Đồng Đậu, niên đại gần 4.000 năm.

Cư dân cổ Mán Bạc sống trên toàn bộ doi đất cao mà dân thường gọi Gò Vụng, dải núi Mán Bạc bao quanh theo thế hình vòng cung tạo nơi rất kín.

Ở đó, cư dân yên tâm sinh sống vì có thể tránh thời tiết xấu.

1999, các nhà khảo cổ Việt Nam khai quật di chỉ Mán Bạc lần thứ nhất, thấy 5 mộ táng và 6 cá thể.

Khai quật lần 2, với diện tích 24m2, các nhà khảo cổ đào được 10 mộ với 11 cá thể. Người chết chôn nằm ngửa, tay chân duỗi thẳng, mặt nghiêng về bên trái.

Các nhà khảo cổ thu 39 rìu, 8 đục, 6 hạt chuỗi, 10 mảnh vòng, 2 bàn đập vải vỏ cây, 3 nồi gốm, 1 bát đồng, 3 hiện vật hình nấm còn khá nguyên vẹn.. và hàng trăm kg vỏ nhuyễn thể.

Đây là di chỉ đầu tiên giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên giữ được di cốt người khá nguyên vẹn.

Đối chứng với mẫu bào thai 8 tháng tuổi ở Viện Giải phẫu, các nhà khảo cổ khẳng định những di cốt tìm thấy ở một số mộ là trẻ sơ sinh (chiếm 50%) [2]

Di chỉ khảo cổ học Văn Điển, Tân Triều (ở Thanh Trì – Hà Nội) và gần đây phát hiện di chỉ Phùng Nguyên muộn tại di tích Đàn Xã Tắc (Đống Đa - Hà Nội).

Các di chỉ khác:

Hồng Đà (Phú Thọ), Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Tự (Bắc Ninh).

Chú thích

1. Đôi nét về đồ đá Văn hóa Phùng Nguyên

2. "Bí mật" của những ngôi mộ 3.500 năm ở Mán Bạc

Nguồn:

Wikipedia

Khu di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên nằm ven sông Thao thuộc làng Phùng Nguyên, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam.

Di chỉ khảo cổ tiêu biểu của nền Văn hóa Phùng Nguyên, mở đầu cho các Văn hóa tiền Đông Sơn[1] trên lưu vực sông Hồng cách nay khoảng 3.500-4.000 năm.

Đặc điểm

Khu di chỉ Phùng Nguyên nằm trên hai gò đất (gò Ếch và gò Nhà Giả), trong cánh đồng Dộc Chầu thuộc làng Phùng Nguyên (tên cũ là Cổ Nhuế, tên Việt cổ là Kẻ Nội), xã Kinh Kệ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ (nay là xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).

1959, khu vực này phát hiện nhiều di chỉ người Việt cổ từ thời tiền sử, từ di chỉ cư trú, mộ táng đến các xưởng sản xuất công cụ lao động và đồ trang sức.

Kết quả thám sát, khai quật trên diện tích khoảng 4000m2, do các nhà khoa học thực hiện 3 lần (1959, 1961, 1968), làm phát lộ hàng nghìn hiện vật, nổi bật là các hiện vật bằng đá và gốm.

Các hiện vật của di chỉ khảo cổ này nằm trong 4 lớp trầm tích văn hóa:

Lớp trầm tích đầu tiên là đất canh tác từ 0, 1m-0, 2m, lớp thứ nhì là đất phù sa trắng mịn dày 0, 05m-0, 1m, lớp thứ 3 là đất phù sa lẫn sỏi và than tro dày 0, 1m-0, 3m và cuối cùng là lớp đất sét mịn màu vàng nhạt dày khoảng 2, 5m.

Niên đại

Các di chỉ tại Phùng Nguyên niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, cuối thời đồ đá mới và sơ kỳ thời đại đồ đồng.

Hiện vật

Các hiện vật bằng đá tại di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên rất phong phú gồm các công cụ lao động, vũ khí đá như rìu có vai, rìu có mấu, rìu tứ giác (1100 chiếc), đục (59 chiếc), dao cưa, mũi lao, mũi giáo, mũi tên, mũi nhọn, chày nghiền, hòn kê, bàn mài, bàn dập.

Đồ trang sức đá gồm hơn 500 mảnh vòng đá đủ kích cỡ, khuyên tai, hạt chuỗi hình ống hoặc hình cườm với lỗ khoan rất nhỏ v. V.

Ngoài ra còn có các loại hình đồ đá khác như lõi vòng, đá hình chữ nhật mài, thỏi đá mài nhẵn, phác vật rìu, mảnh tước, hòn cuội.

Các công cụ, vũ khí, đồ trang sức đá ghè, đẽo, tiện, cưa, mài với trình độ điêu luyện, sử dụng nhiều chất liệu đá khác nhau như đá Bazan, Diabazan, Spilite và đặc biệt là cả các loại đá bán quý Nephrite, Jadiete.

Đồ đá sản xuất mài nhẵn bóng, hình dáng cân đối đều đặn, góc vuông cạnh thẳng hoặc tròn trặn duyên dáng và kích thước nhỏ nhắn[2] .

Về cắt ngang vòng xuyến, đủ loại:

Hình vuông, tròn, bán nguyệt, tam giác, chữ nhật, hình thang, và thêm gờ nổi. Về màu sắc từ trắng ngà, tím nhạt đến gan gà, xám xanh, đủ loại.

Kiểu loại tuy nhiều, vòng mặt cắt hình chữ nhật dẹt chiếm số lượng nhiều hơn cả, thành đặc điểm riêng vòng trang sức Phùng Nguyên[2] và ở phương diện nhất định, các vòng đá dẹt này là đặc điểm dễ nhận biết nhất của Văn hóa Phùng Nguyên.

Di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên cũng phát hiện hơn 10 vạn mảnh gốm và đồ gốm nguyên vẹn của nồi, bình, bát, vật hình nuôi, dọi xe sợi, bi gốm, chạc gốm.

Các hiện vật gốm gồm khoảng 200 vật dụng còn nguyên vẹn và nhiều mảnh vỡ, phần lớn là các dụng cụ sinh hoạt.

Đồ gốm hầu hết thuộc loại gốm đất sét có chất liệu rất mịn, không pha cát, thành gốm mỏng, ngoài phủ một lớp áo gốm đen gần như miết bóng.

Kỹ thuật tạo chất liệu này hầu như không thấy trong các văn hóa trước và sau Phùng Nguyên[3] .

Các hiện vật này làm bằng bàn xoay là chủ yếu nằm trong hai nhóm:

Gốm thô và gốm nung.

Gốm nung qua lửa ở nhiệt độ khoảng 600-7000C.

Các mẫu vật gốm cho thấy không chỉ kỹ thuật pha chế đất sét của cư dân Phùng Nguyên đạt trình độ cao, kiểu dáng đồ gốm cũng thanh thoát nhất trong các hiện vật gốm thời Hùng Vương.

Bên cạnh đó, hoa văn trên hiện vật gốm, thường gặp các dạng dây thừng, văn chải, văn in, văn đắp thêm, văn đan, văn khắc vạch chấm dải. V. V. Chế tác phức tạp, đối xứng sinh động, có bố cục vừa chặt chẽ vừa phóng khoáng lại được trang trí thành các dải băng[3] .

Tất cả công đoạn làm gốm từ làm đất, tạo kiểu dáng đến trang trí hoa văn cho thấy đồ gốm Phùng Nguyên đạt đỉnh cao của hoa văn gốm nguyên thủy ở Việt Nam.

Ngoài các hiện vật gốm, di chỉ Phùng Nguyên còn có một số hiện vật chế tác bằng xương có hình mũi nhọn.

Văn hóa Phùng Nguyên

Tính đến đầu năm 1980, trên 52[4] di chỉ khảo cổ tương tự Phùng Nguyên phát hiện ở nhiều nơi khác tại vùng đồng bằng và trung du phía Bắc Việt Nam, tập trung nhiều tại Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây (cũ), Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, chủ yếu dọc theo lưu vực các sông lớn chảy từ phía Bắc xuống sông Hồng, sông Đà.

Tuy nhiên do tính chất đại biểu di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên và quần tụ đày đặc các di chỉ tương tự trong khu vực không lớn như tỉnh Phú Thọ[5], các di tích phát hiện về sau có cùng tính chất Phùng Nguyên được xếp vào cùng loại hình gọi là Văn hóa Phùng Nguyên.

Chú thích

1. Sau Phùng Nguyên lần lượt là các Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.

2. Cổ vật Phùng Nguyên - văn hóa đá.

3. Dấu ấn văn hóa trên đồ gốm thời Hùng Vương

4. Các tài liệu mới nhất khẳng định trên 60 di chỉ có tính chất Phùng Nguyên phát hiện tại miền Bắc Việt Nam.

5. Tổng số các di chỉ có tính chất Phùng Nguyên được phát hiện trên toàn miền Bắc Việt Nam, tỉnh Phú Thọ có tới 26 di chỉ.

Nguồn:

Wikipedia

10 điều cần biết về Văn hóa Phùng Nguyên

1. Tên gọi và địa điểm

Di chỉ Phùng Nguyên lấy làm tên xác lập cho Văn hóa Phùng Nguyên tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

2. Thời gian phát hiện và khai quật

Di chỉ Phùng Nguyên được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m2 từ 1959 đến 1970.

3. Địa bàn phân bố

Văn hóa Phùng Nguyên phân bố dọc theo lưu vực các sông lớn:

Sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy.. tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh..

4. Niên đại

Văn hóa Phùng Nguyên từ 4000 năm đến khoảng 3500 năm cách nay.

5. Đời sống kinh tế sản xuất

Bên cạnh săn bắn, đánh cá vẫn được duy trì từ giai đoạn trước.

Cùng với trồng trọt cư dân Phùng Nguyên biết chăn nuôi. Nghề sản xuất gốm, chế tác đồ trang sức, xe chỉ, dệt vải khá phát triển

6. Đời sống xã hội – tinh thần

Quan niệm thẩm mỹ của cư dân Phùng Nguyên khá phát triển thể hiện qua chế tác đồ trang sức, đồ đá, đồ gốm.

Táng thức, cư dân Phùng Nguyên chôn người chết nằm ngửa ở các huyệt nông và thường chôn theo công cụ bằng đá, đồ trang sức và một vài đồ gốm.

7. Kỹ thuật chế tác đá

Đạt đến đỉnh cao, hiện vật đá thời kỳ này được chế tác tinh xảo và mang phong cách hiện đại. Các hiện vật tiêu biểu là rìu, bôn, đồ trang sức (vòng tay, khuyên tai).

8. Giao lưu kinh tế

Những quan hệ trao đổi với Nam Trung Quốc. Thấy tại Trung Quốc những chac (cốc) tiêu biểu của Việt Nam, và tại Phùng Nguyên những dao ngắn (qua) tiêu biểu của Trung Quốc cho thấy điều này.

Những di chỉ thời đá mới ở Quảng Đông và Phúc Kiến (Trung Quốc), người ta đã tìm thấy nhiều rìu nhỏ tương tự rìu Văn hóa Phùng Nguyên.

9. Giai đoạn chuyển giao

Giữa thời đại đồ đá và thời đại đồ kim khí. Giữa Văn hóa Bắc Sơn và Văn hóa Đông Sơn.

10. Là cội nguồn nền văn minh sông Hồng

Cơ sở vật chất, tinh thần đầu tiên cho ra đời nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng.

Nguồn:

Web covatvietnam

Còn tiếp
 
Chia sẻ bài viết

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back