
Hùng Vương (chữ Hán: 雄王, chữ Nôm:
Theo Ngô Sĩ Liên, kinh đô nước Văn Lang là Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, quốc hiệu Văn Lang. Văn Lang tương ứng thời Vua Hùng, gọi chung là thời đại Hồng Bàng. Nguồn gốc dân tộc ta là Lạc Việt, sau này có thành ngữ "con Lạc cháu Hồng", "dòng giống Lạc Hồng."
Nguồn gốc
Cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông vị thần trông coi nghề nông ở trên trời là Đế Minh sinh Đế Nghi. Minh đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy con gái bà Vụ Tiên, sinh Lộc Tục.
Lộc Tục là thánh trí thông minh, Minh rất yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục không dám vâng mệnh, cố nhường cho anh.
Minh lập Đế Nghi (anh của Lộc Tục) nối ngôi cai quản phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản phương Nam gọi là nước Xích Quỷ[2] .
Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, lấy con gái của Động Đình Quân sinh Sùng Lãm. Sùng Lãm rất khỏe, một tay nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm, đi lại dưới nước như đi trên cạn giống cha. Sùng Lãm lấy hiệu Lạc Long Quân thay cha trị nước.
Diệt Ngư Tinh còn gọi Ngư Tinh Xà
Lĩnh Nam Chích Quái ghi Biển Đông có Tinh Ngư Xà (còn gọi Ngư Tinh) dài hơn 50 trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, đi ầm ầm như mưa, ăn thịt người nên ai cũng sợ.
Đời thượng cổ có cá dung mạo như người, tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói, dần lớn lên, sinh nhiều con trai con gái, bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn.
Lại có giống Đản Nhân sống ở gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau biến thành người, giao dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải.
Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở đó. Sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở đường khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền dân đi qua chỗ này thường bị Ngư Tinh hại.
Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để hành nhân qua lại. Ngư Tinh hóa gà trắng gáy trên núi. Quần tiên nghe tiếng, ngỡ rạng đông bèn bay lên trời. Nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (Ngõ Phật Đào).
Long Quân hóa phép thành thuyền dân, lệnh cho Quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, song giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá.
Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên núi, nay chỗ đó gọi Bạch Long Vĩ. Đầu trôi ra ngoài bể biến thành chó. Long Quân lấy đá ngăn bể rồi chém. Nó biến thành đầu chó, nay gọi Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, nay gọi Mạn Cầu Thủy (còn gọi Cẩu Đầu Thủy).
Diệt Hồ Tinh
Truyền thuyết ghi:
Trừ xong nạn Ngư Tinh, ngài đến Long Biên có cáo chín đuôi sống hơn nghìn năm, thành tinh, trú trong hang sâu dưới chân núi đá phía Tây Long Biên.
Cáo thường hóa thành người trà trộn trong dân dụ bắt con gái về hang hãm hại. Từ Long Biên đến núi Tản Viên bị Hồ Tinh hại. Dân hai miền rất sợ, nhiều người bỏ ruộng đồng, nương rẫy, đi nơi khác làm ăn.
Long Quân một mình một gươm đến sào huyệt Hồ Tinh. Ngài đến cửa hang, cáo thấy bóng người liền xông ra, ngài làm mưa gió, sấm sét vây chặt cáo.
Đánh ba ngày ba đêm, cáo dần yếu sức, tìm đường chạy, ngài đuổi theo chém đứt đầu. Nó hiện nguyên hình là cáo khổng lồ chín đuôi.
Ngài vào hang cứu những người còn sống, sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái xoáy hang cáo thành vực sâu, đương thời gọi Đầm Xác Cáo, đời sau gọi Tây Hồ.
Dân quanh vùng về cày cấy trên đồng ven hồ, dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi làng Hồ, nay vẫn còn.
Lĩnh Nam Chích Quái chép:
Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Sau này Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai rồng dẫn thuyền đi, nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy. Xưa ở phía Tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía Đông gối lên sông Lô Giang.
Trong hang, dưới chân núi có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà.
Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc nên gọi là Bạch Y Man (Mán Áo Trắng).
Cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở.
Long Quân bèn lệnh cho lục bộ Thủy Phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân Thủy Phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn.
Nơi này thành một cái vũng sâu gọi là "Đầm Xác Cáo" (tức Tây Hồ nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái.
Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Động (Hang Cáo).
Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà ở nay gọi là Hồ Thôn (Thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.
Vậy Hồ Tây là lăng mộ chôn xác cáo chín đuôi? Mang huyền thoại này đi hỏi những người dân sống lâu năm ở khu vực xung quanh hồ thì được bác Văn (ở phố Trần Vũ) cho biết:
"Gia đình tôi có 3 đời sống ở nơi này. Truyền thuyết về Hồ Tây có rất nhiều, nào là Hồ Trâu Vàng, Đầm Xác cáo, Hồ Dâm Đàm.
Về huyền thoại cáo chín đuôi, tôi được nghe trước đây, vùng đất này là rừng núi hoang vu, ít người qua lại.
Lúc đó, trên một ngọn núi giữa vùng có một con cáo chín đuôi. Nhờ hàng ngàn năm tu luyện, cáo đã thành tinh, phép thuật lợi hại.."
Và có vẻ như khơi đúng mạch, bác Văn ngược về quá khứ, cứ kể như mình là người chứng kiến sự việc:
"Con cáo chín đuôi lúc biến thành cô gái xinh đẹp, lôi dụ các chàng trai; lúc lại thành chàng thanh niên tuấn tú đi tán tỉnh thôn nữ; khi lại là quỷ dữ dọa người đến khiếp sợ.. Nó làm thế vì muốn bắt được nhiều người đưa về hang sâu để ăn thịt dần."
Sách viết về Hồ Tây cũng như trên nhiều phương tiện truyền thông, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nhận xét:
"Hồ Tây là hồ thuộc loại linh thiêng nhất Việt Nam. Không chỉ tôi mà trong tâm thức nhiều người Hà Nội, Hồ Tây đã và đang được tin như là long mạch lớn nhất của Thủ đô cổ kính.
Cái tên xưa nhất của Hồ Tây là Đầm Xác Cáo và truyền thuyết gắn liền với công đức của Lạc Long Quân giúp dân có cuộc sống yên bình, không bị loài yêu tinh quấy phá. Thần đã truy đuổi con cáo vào tận hang và sau đó, cho nước ngập hang làm chết cáo."
Diệt Mộc Tinh
Lĩnh Nam Chích Quái chép:
"Mộc Tinh trải không biết bao năm, khô héo rồi biến thành yêu tinh, rất dũng mãnh, giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng thuật thần đánh thắng nó.
Nó hơi chịu khuất phục nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ.
Hàng năm 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, nó mới cho yên ổn. Dân thường gọi Quỷ Xương Cuồng.
Biên giới Tây Nam giáp nước Mi Hầu, vua nước này sai dân mọi ở Bà Lộ (nay phủ Diễn Châu) bắt giống mọi sống ở Sơn Nguyên tới nạp, thành lệ thường mọi năm.
Tần Thủy Hoàng cho Nhâm Ngao làm quan lệnh Long Xuyên, Ngao muốn bỏ lệ đó, cấm nạp lễ người sống, Xương Cuồng tức giận vật chết Ngao. Sau phải phụng thờ nhiều hơn.
Đời Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Du Văn Tường người phương Bắc, đức hạnh thanh cao, khoảng 40 tuổi qua nhiều nước, biết tiếng các dân mọi, học thuật làm mình vàng và răng đồng, sang nước Nam lúc hơn 80 tuổi.
Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư dạy pháp thuật làm trò vui cho Xương Cuồng xem để giết y.
Người biết pháp thuật này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Hiểm Can, thường làm người cưỡi ngựa hoặc làm bọn con hát.
Hàng năm tháng 11 dựng lầu cầu vồng cao 20 trượng, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây thừng dài 136 thước, đường kính rộng 3 tấc, lấy dây mây quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, ở giữa gác lên cây.
Thượng Kỵ đứng lên dây chạy nhanh 3, 4 lần, đi lại không ngã. Kỵ đội khăn đen, mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba.
Hai người (mỗi người cầm một cán cờ) đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì tránh, lên xuống không ngã.
Khi thì Thượng Đát lấy tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên cây cao 17 thước, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 lần, tiến tiến lùi lùi.
Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng giống cái lờ bắt cá, dài 3 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà không ngã.
Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, miệng la hét kêu gào, chuyển động chân tay, rờ xương vỗ bụng, tiến lên lùi xuống, hoặc làm người cưỡi ngựa phi nhảy, cúi xuống nhặt vật dưới đất mà không rơi khỏi lưng ngựa.
Khi thì Thượng Hiểm Can ngả mình nằm ngửa, lấy thân đỡ một gậy dài cho đứa trẻ trèo lên. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Giết súc vật mà tế.
Xương Cuồng tới xem, pháp sư đọc mật chú, lấy kiếm chém. Xương Cuồng cùng bộ hạ chết hết. Lệ làm lễ nạp dâng người sống hàng năm bèn bỏ, dân sống yên lành như xưa."
Mộc Tinh là "ma mộc" gỗ khô, tức những gì hư hóa, nhất là các thứ dị đoan. Long Quân cũng đuổi đi, sau có người dùng ma thuật cũng chỉ tạm bợ, nên nó còn lưu hành trong dân, nhưng cả ba thứ tinh không còn nhô đầu lên văn đàn được nữa. Hồ Tinh, Ngư Tinh chỉ còn tác hại dưới hình thức du mục võ biền.
Chuyện tả con người chiến đấu yêu ma, thuỷ quái, phản ánh công cuộc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh các vùng miền núi, đồng bằng châu thổ, vùng ven biển.. là khắc phục trở ngại thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống hạn hán, ngập lụt, thú dữ.
Điều này được huyền thoại hóa bằng những kỳ tích chống Thuỷ Tinh (lụt lội), diệt Ngư Tinh (miền sông nước), đánh Mộc Tinh (miền rừng núi), diệt Hồ Tinh (đồng bằng châu thổ)..
Qua đó thể hiện sức mạnh chinh phục, cải tạo thiên nhiên của cư dân Việt cổ để kiến tạo, xây dựng quốc gia phát triển qua hàng ngàn năm đến nay và mãi về sau.
Con Rồng Cháu Tiên
Diệt xong yêu quái, ngài thấy dân vùng này vẫn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm, bèn dạy dân trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn ở, phòng thú dữ.
Dạy dân đạo lý cha con, vợ chồng. Dân cảm tạ, xây tòa cung điện nguy nga trên núi cao. Nhưng ngài không ở, thường về quê mẹ dưới Thủy Phủ, dặn dân:
"Hễ có tai biến gì thì gọi, ta về ngay!"
Đế Lai nhân phương Bắc vô sự, nhớ chuyện Đế Minh tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bảo bề tôi thân cận là Xuy Vưu (còn gọi Xi Vưu) thay mình giữ nước để đi tuần du Xích Quỷ phương Nam.
Đến nơi, Đế Lai thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, nước vô chủ, bèn để ái nữ Âu Cơ và những kẻ hầu ở lại hành tại[3] .
Lai dạo chơi thiên hạ, xem khắp hình thắng. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê tượng đồi mồi, bạc vàng châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn các vị, sơn hào hải vật không thiếu thứ nào.
Bốn mùa khí hậu không lạnh không nóng, Đế Lai yêu thích, quên về, sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài.
Dân nước Nam khổ vì cảnh phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân về, cùng hướng về Biển Ðông gọi to:
"Bố ở nơi nao, mau về cứu chúng con!"
Long Quân thoát nhiên trở về, thấy Âu Cơ dung mạo tuyệt mỹ, Long Quân yêu thích, hóa thành chàng trai đẹp, đông kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến nơi hành tại.
Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng xiêu xiêu. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài trong cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh.
Lai về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân biến hóa trăm hình vạn vẻ, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn hổ voi xé xác chúng làm kẻ đi tìm không dám lục sạo.
Lai đành về phương Bắc, truyền ngôi đến Đế Du Võng thì Xuy Vưu làm loạn. Xuy Vưu mình thú nói tiếng người, sức khỏe dũng mãnh.
Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc.
Đế Du Võng cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, Võng bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Dòng họ Thần Nông tới đây thì hết.
Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ một bọc, cho là bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu, bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở một con trai mới đem về nuôi.
Không phải bú mớm, các con tự lớn, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người kính trọng cho là phi thường.
Hàng chục năm sau, Long Quân sống đầm ấm bên vợ con vẫn nhớ Thủy Phủ. Một hôm từ giã vợ con, hóa rồng vụt lên mây bay về biển.
Vợ con thường muốn về đất Bắc, tới biên giới, Hoàng Đế Hiên Viên nghe nói rất sợ hãi, cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không về được bèn về nước Nam. Âu Cơ đứng trên núi cao hướng về Biển Ðông gọi:
"Bố ở nơi nào để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này."
Long Quân bỗng về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói:
"Thiếp nguyên người đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được trăm đứa con trai không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng; mong chàng đừng ruồng bỏ, làm mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha, chỉ riêng mình đau khổ thôi."
Long Quân nói:
"Ta là giống Rồng, đứng đầu thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được với nhau, tuy khí Âm Dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống tương khắc như nước với lửa, khó bề ở lâu với nhau được.
Nay phải chia ly, ta sẽ mang 50 con trai về Thủy Phủ, chia trị các nơi, còn 50 đứa sẽ theo nàng ở trên đất, chia nước ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống nước có việc cùng gắn bó, đừng bỏ rơi nhau" [3] .
Trăm con vâng theo, từ biệt mà đi. Âu Cơ và 50 con lên ở đất Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, suy phục lẫn nhau, tôn người con cả làm vua, hiệu Hùng Vương[3] .
Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam nói mình là dòng giống Tiên Rồng.
Theo thuyết này, từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia thành những nước nhỏ gọi là Bách Việt, đều là Con Rồng Cháu Tiên.
Chú thích họ "Hồng Bàng" :
Họ Hồng Bàng là tên gọi dòng họ vua đầu tiên ở phương Nam. "Hồng" là tên loài chim to khỏe, bay cao, được coi vật Tổ của dân tộc. "Lạc Hồng:"
Chim Hồng hoặc chim Lạc chỉ là một loài, do phát âm khác nhau. Truyền thuyết nói người Việt thuộc giống chim Hồng (hoặc chim Lạc).
Âu Cơ vốn là Tiên chim. Dân tộc Việt thuộc dòng dõi Lạc Hồng, tức là họ mẹ, ngày xưa theo mẫu hệ nên coi họ mẹ là giống Tiên (chim Hồng chim Lạc tu luyện thành tiên). Hình khắc mặt trống đồng có hình đàn chim bay ngược (thiên về họ mẹ).
ĐVSKTT chép tương tự, nhưng bỏ bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, chỉ nói Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh trăm con:
"Con cháu Thần Nông là Đế Minh lấy con gái của bà Vụ Tiên sinh Kinh Dương Vương, tức Thủy Tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải cái gây nên cơ nghiệp nước Việt ta sao?"
ĐVSKTT, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên:
"Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là trời phân chia giới hạn Nam-Bắc. Thuỷ Tổ ta dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng Bắc triều mỗi bên làm Đế một phương" [3]
Trích Lĩnh Nam Chích Quái:
"Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, cây soa đồng làm bánh, lấy cầm thú, ba ba, cá tôm làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa, cấy bằng nước.
Đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn dễ đi lại trong rừng rú.
Đẻ con lấy lá chuối lót cho nằm. Khi trẻ lớn làm lễ thành đinh mang tính thử thách năng lực các thanh niên, thường tổ chức thi tài ngày hội. Sau lễ thành đinh, thanh niên thành thành viên lao động mới của xã hội."
Tục xăm mình
Thời Lạc Long Quân, vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn ty, luân thường về cha con, vợ chồng.
Điều đáng nói là sinh hoạt tinh thần:
Tục xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng đen, mẫu hệ và thờ cúng Tổ tiên.
Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên tâu Hùng Vương. Hùng Vương bảo:
"Ở núi là loài rồng khác thủy tộc, chúng ưa đồng mà ghét dị mới hại."
Vua lệnh ai cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào người. Từ đó không bị thuỷ quái gây thương tích nữa. Tục xăm mình (văn thân) của Bách Việt bắt đầu từ đây.
Đến thời Lý rồi Trần trị vì thiên hạ, vua quan tới thần dân ai cũng thích xăm hình vào người để giữ bản sắc truyền thống.
Với người hoàng tộc và người phục dịch trong triều đình buộc phải xăm hình lên thân thể, coi như luật phải thi hành.
Tục này đến đời Trần Anh Tông (1293-1314) mới dứt. Ăn trầu, nhuộm răng đen thì thế hệ U60 còn thấy các cụ ăn trầu nhuộm răng.
Lời bàn:
"Chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng sông nước là cả quá trình lâu dài, phức tạp và cực khó khăn. Hình ảnh những con thuồng luồng gây thương tích cho dân có lẽ là một trong những biểu hiện phức tạp và cực khó khăn đó.
Dân gặp khó thì kêu vua, vua ân cần chỉ cho dân mọi điều mình biết. Lời chỉ dẫn ấy, đúng sai thế nào ta đã quá rõ, nhưng điều quan trọng hơn ở chỗ, trên dưới như cha con một nhà, nghĩa tình đằm thắm biết bao.
Bấy giờ, hễ người Việt là xăm mình, hễ ai xăm mình là người Việt. Bạn thích hay không thích tục xăm mình là việc riêng của bạn, nhưng trông lại ngàn xưa, xin bạn hãy ghi nhận chính tục ấy góp phần làm cho Hán và Việt biệt lập rõ ràng, chính nhờ biệt lập rõ ràng ấy giờ này, bạn mới có thể ung dung mà nói: Non sông ta..
Đời sống cổ nhân ra sao, đoạn ghi chép ngắn ngủi trên nói khá rõ. Kính thay, một thời chắt chiu cần mẫn, thương thay, một thời gian truân!
Đi giữa giang sơn gấm vóc, xin chớ vô tâm quên Tổ tiên ngàn đời." (Theo Việt Sử Giai Thoại của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục)
Ý nghĩa truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ
Có người nói mở đầu lịch sử Việt Nam là chia rẽ, vì Lạc Long Quân, Âu Cơ không sống được với nhau, chia tay mỗi người mỗi ngả. Thật ra không phải vậy.
Ông cha ta sáng tạo truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ, chỉ nghĩ đơn giản người Việt phải chia nhau khắp nước để cai quản, khai phá, mở mang đất nước.
Ý nghĩa quan trọng nhất là gì? Ở chỗ Âu Cơ sinh 1 bọc trứng nở 100 con.
Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng:
"Đến giờ Ngọ 28 tháng Chạp, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà Âu Cơ sinh 1 bọc; giờ Ngọ rằm tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra thành 100 con trai."
KĐVSTGCM (1840), Việt Nam Sử Học (1919), Việt Nam Văn Hóa Sử Cương (1938), Thần linh Đất Việt (2002), Truyền thuyết Hùng Vương (1971-2003).. đều ghi Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở thành 100 con trai, hình thành hai tiếng "đồng bào."
Người Việt luôn có tình nghĩa, thủy chung, trên dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có Tổ có tông.
Sống có văn hóa: Văn hóa cộng đồng là phản chiếu hiểu biết, niềm tin, phong tục cổ truyền một dân tộc. Người Việt luôn quan niệm:
Chúng ta sinh cùng một bọc (đồng bào) là con cháu Lạc Hồng, cả nước đều là anh em một nhà.
"Con người có Tổ có Tông
Như cây có gốc, như sông có nguồn."
Nay quan niệm đó càng nhân lên gấp bội. Con cháu ở đâu, ông bà, Tổ tiên ở đó. Quan niệm đó dần thành ý thức hệ trong từng người và cộng đồng. Vua Hùng tồn tại và ngự trị ý thức tâm linh người Việt.
Vì sao là một bọc trứng?
Vì tất cả dân tộc Việt do một mẹ sinh ra, đều là anh em, từ bọc trứng sinh ra, không ai sinh trước, không ai sinh sau, không có thứ tự ai anh, ai em, ai chị.
Cha mẹ yêu thương các con giống nhau, không phân biệt trai gái, đứa lớn hay đứa nhỏ.
Sau này, dù chia nhau đi khắp mọi miền khai phá, mở mang đất nước, đứa lên rừng, đứa xuống biển, sống xa nhau cũng có chung một gốc, tất cả đều từ bọc trứng của Âu Cơ, hãy đoàn kết, yêu thương nhau:
"Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau!"
Ý nghĩa triết học đơn giản, đầy nhân bản hiếm có trên thế giới. Tính bình đẳng này thể hiện rất rõ thời Vua Hùng, cùng một thế hệ Vua Hùng, lấy tên giống nhau, không phân biệt Vua Hùng này với Vua Hùng kia.
Bởi người Việt cổ không cần biết Vua Hùng này có vĩ đại hơn Vua Hùng kia không, chỉ cần biết tất cả Vua Hùng từ một gốc là dân tộc Việt, từ một bọc trứng của Âu Cơ.
Tính chất cùng một bọc trứng đậm nét trong mỗi người Việt, bởi trên 5 triệu người Việt sống rải rác khắp thế giới, nhiều nhất ở Mỹ, Canada, Pháp, Úc, những người Việt xa quê hương vẫn hướng về quê cha Đất Tổ con Lạc cháu Hồng, nhiều người hẳn mong ngày nào đó sẽ về nước.
Lạc Long Quân, Âu Cơ không đưa các con xâm chiếm nước khác, mà chỉ khai sơn phá thạch, lấn biển, dựng nước Văn Lang.
Vì sao Âu Cơ không sinh 50 con gái, 50 con trai, mà tất cả là con trai? Có người đưa thuật Âm-Dương lý giải điều này. Tôi không tin cách lý giải Âm-Dương đó.
Tôi nghĩ có lẽ thêm bằng chứng tư duy đơn giản, chất phác của người Việt xưa:
Con trai là lao động chính trong nhà và xã hội, trách nhiệm rất lớn, đào núi, lấp biển, đắp đê, đánh cá, trồng rừng, săn bắn.
Dù truyền thuyết không nói Âu Cơ sinh con gái, nhưng thể hiện Âu Cơ quyền lực ngang Lạc Long Quân, vì bà lãnh đạo 50 con trai lên núi, ngang Lạc Long Quân lãnh đạo 50 con trai xuống vùng biển.
Hỏi:
- Cho biết ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang?
Trả lời:
- Khoảng TK. VII TCN, các Vua Hùng dựng nên nhà nước đầu tiên là Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa thế nào? Đó là câu hỏi mỗi người đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.
Hiện tại, ít nhất có 3 cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:
Thứ nhất:
Vì Tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó đặt quốc hiệu Văn Lang.
Cơ sở thực tiễn cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm.
Sách Đới ký của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là "Điêu Đề" không ngoài ý nghĩa này (điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).
Cách 2:
Vì Tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích:
Chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang.
Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này là tính phổ biến và trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu.
Nhưng "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức sau khi khai sinh Văn Lang rất nhiều thế kỷ. Vì vậy cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.
Cách 3: Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu ngành ngữ âm học lịch sử. Theo đó:
1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người..
2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer). Ghép lại, Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách này được củng cố thêm bởi kết quả hàng loạt những khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ 3 được nhiều người tán thành nhất.
(Theo Đại cương Lịch sử Văn hóa Việt Nam - Tập 1).
Quốc hiệu Văn Lang có nghĩa là gì?
Văn Lang là tên gọi nước ta thời Hùng Vương, nó không chỉ bắt nguồn trong truyền thuyết dựng nước mà còn thấy trong thần phả, thần tích, sử ghi chép về thời Hùng Vương. Vì vậy có thể khẳng định quốc hiệu Văn Lang là có thực. Vậy Văn Lang có ý nghĩa là gì?
Theo ngôn ngữ học, tên Văn Lang không đứng một mình mà trong hệ thống tộc danh có yếu tố chung là "lang."
Thường các tộc danh trên thế giới, nhất là các tộc danh cổ đều xuất phát từ danh từ chung có nghĩa là "người."
Tiếng Hán Việt, từ "lang" nghĩa là "đàn ông", đồng âm với một số ngôn ngữ các dân tộc anh em như từ "arăng" trong tiếng Ê-đê, "urang" trong tiếng Chăm, "đranglô" trong tiếng Bana.. tất cả đều có nghĩa là "người", "con người" hoặc "đàn ông."
Tộc danh với thành tố "lang" trải dài từ phía Nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến Bắc Trung Bộ Việt Nam, tương ứng với địa bàn sinh sống cộng đồng người Bách Việt.
Vậy tộc danh "lang", "Văn Lang" là một trong những tộc danh cổ nhất của dân tộc ta, thực tế thành quốc hiệu nước ta thời Hùng Vương.
Văn Lang là từ kép trong ngôn ngữ Hán Việt dùng để phiên âm từ Việt cổ chỉ "con người", "người", "đàn ông" và là phiên âm tên nước.
Theo văn tự học thì từ "lang" nghĩa là "người đàn ông"; còn "văn" là chữ xuất phát chính từ tục xăm mình của người Việt.
Về ngữ âm tiếng Hán thì "văn" được biến âm từ "xăm". Ký tự chữ "văn" nguyên thủy là hình vẽ người xăm hình rồng ở ngực.
Cuốn sách Tìm về cội nguồn chữ Hán của hai nhà nghiên cứu Lý Nhạc Nghị (Trung Quốc) và Jim Water (Mỹ) đưa ra quá trình biến đổi của chữ "văn" qua các loại chữ Hán cổ khác nhau và giải thích "văn" nghĩa gốc là xăm mình.
Hình chữ trong cổ văn giống một người trước ngực và sau lưng xăm những hoa văn, đồng thời dẫn ra câu nói của Trang Tử:
"Việt nhân đoạn phát, văn thân" nghĩa là "người Việt cắt tóc, xăm mình."
Như vậy Văn Lang vốn là tộc danh và là đặc điểm văn hóa của người Việt đã thành quốc hiệu với nghĩa:
"Con người", "người", "đàn ông" hoặc "người xăm mình."
Nguyễn Khắc Thuần bàn:
"Không thể nói khác hơn Lạc Long Quân và Âu Cơ đã có cuộc kỳ ngộ. Người từ phương xa theo cha đi chu du khắp cõi, tình cờ dừng bước ở Xích Quỷ.
Người làm vua một phương, dân thương gọi là bố. Xứ sở chẳng cùng, tuổi tác cách biệt, thế mà vừa gặp đã rung động về nhau. Lạ thay!
Xét về thế thứ, Lạc Long Quân và Đế Lai là anh em con chú con bác. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức lấy con gái của anh con nhà bác.
Có người nghiêm phê luân thường đạo lý đảo điên, mối họa cho thiên hạ thật khó lường. Song lấy khuôn mẫu đạo đức hiện thời để xét đoán hành vi của thiên cổ, ngỡ như đúng, cái sai đã chất chứa sẵn rồi.
Đọc sách đâu chỉ đọc chữ trong sách. Ngàn xưa vẫn thế, nỗi tâm sự cần ký thác thường ở giữa những dòng chữ hoặc ở sau những dòng chữ đó.
Sử cũ nhấn mạnh mối thâm tình các nhóm thuộc Bách Việt. Chừng như muốn tỏ vốn dĩ tất cả đều chung máu mủ ruột rà. Ngẫm mà xem!"
Truyền thuyết chọn đất đóng đô
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Khắc Xương (con của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu) là nhà "Hùng Vương học, Đền Hùng học" của Phú Thọ 88 tuổi vẫn cực minh mẫn khi kể truyền thuyết Hùng Vương chọn đất đóng đô.
Ngày ấy, Tổ tiên tìm đất đóng đô nước Văn Lang thận trọng cầu kỳ lắm.
Đích thân vua đi nhiều nơi vùng Phú Thọ nay tương ứng thuộc địa danh Thanh Vân, Đông Lĩnh, núi Thắm (Thanh Ba) ; Ao Châu (Hạ Hòa) Xuân Lộc (Thanh Thủy), cuối cùng chọn vùng từ ngã ba sông Bạch Hạc tới quanh núi Nghĩa Lĩnh đóng đô. Truyền thuyết Hùng Vương của Nguyễn Khắc Xương:
"Vua đi mãi nơi này nơi khác chưa tìm được nơi có thể định đô. Tới vùng: Trước mặt ba sông hội tụ, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như hình hổ phục rồng chầu, tướng quân bắn nỏ, ngựa chạy rồng bay.
Giữa những đồi xanh tốt có ngọn núi đột ngột nổi lên như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn bốn phía thấy ba bề bãi rộng bồi đắp phù sa, bốn mặt cây xanh, hoa tươi cỏ ngọt, trùng điệp quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu.
Vua cả mừng khen là đất họp muôn dân, đủ hiểm để giữ, có thế để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước muôn đời. Vua Hùng đặt đô ở đó gọi thành Phong Châu."
Phạm vi kinh đô kéo dài từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới núi Nghĩa Lĩnh. Vùng địa linh này là đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, có bãi sa bồi, rừng núi và đồi, thoáng rộng, tiện thông thương hai miền ngược xuôi bằng đường thủy, có thế hiểm trở chống ngoại xâm.
Niên biểu thời dựng nước
–2070 triệu năm trước: Thiên tạo núi Nghĩa Lĩnh
–50 triệu năm trước: Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng bằng, đầm hồ, xuất lộ địa hình Vĩnh Phú, có dãy đồi 99 voi chầu về Đất Tổ.
–1, 5 vạn năm trước, các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người nguyên thủy cư trú. Họ là chủ nhân nền Văn hóa hậu kỳ đồ đá cũ Sơn Vi.
–Trên 1 vạn năm đến 8000 năm cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-mơ, tràn vào ngập toàn bộ đồng bằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy Sơn Vi tạm lánh lên vùng núi Hòa Bình – Bắc Sơn.
–Khoảng 6000 năm trước, nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm mưa lũ thau chua rửa mặn và phù sa màu mỡ các sông bồi đắp làm hồi sinh thảm thực vật.
Quần thể động vật như chim thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo môi trường sống thuận lợi cho con người.
- Thời kỳ bộ lạc từ TK. 10 TCN trở về trước, ứng với Văn hóa Đồng Đậu – Phùng Nguyên.
–Khoảng 2000 năm TCN có 15 bộ lạc Việt cổ sinh sống trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bộ lạc Văn Lang của thủ lĩnh họ Hùng nhờ địa lợi tuyệt đối vùng ngã ba sông Hồng, Lô, Đà trở nên lớn mạnh.
–Khoảng hơn 1000 năm TCN, thủ lĩnh Văn Lang lập nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, được suy tôn Hùng Vương. Thời dựng nước Văn Lang từ TK. 10 TCN đến giữa TK. 3 TCN ứng văn hóa Gò Mun, Đông Sơn.
–257 TCN Vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán tiêu diệt và chiếm nước.
Văn Lang là nhà nước phôi thai đầu tiên, rất đơn giản, dù mới hình thành nhưng cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt.
Họ bước đầu hiểu mối quan hệ thiên nhiên và con người, sức mạnh cộng đồng khi làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm, đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.
NƯỚC VĂN LANG
TRUYỀN THUYẾT
Giả thuyết 1: Nước Việt 4000 năm
Nước Văn Lang hình thành khoảng 2879 TCN, kết thúc 257 TCN chuyển sang An Dương Vương Thục Phán. Từ đây hình thành quan niệm coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách nay khoảng hơn 4000 năm và sách báo nói 4000 năm văn hiến. (Theo ĐVSKTT do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở TK. 15).
Giả thuyết 2: Nước Việt 2700 năm
Theo bộ sử xuất hiện sớm hơn ĐVSKTT là Đại Việt Sử Lược TK. 13 chép nước Văn Lang lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục 14 bộ tộc Việt khác khoảng TK. 7 TCN (cùng thời Chu Trang Vương của nhà Chu, Trung Quốc). Ông lên ngôi xưng hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Phong Châu – Phú Thọ.
9 truyền thuyết nổi tiếng thời kỳ Hùng Vương - An Dương Vương
Truyền thuyết 1: Con Lạc-cháu Hồng, Lạc Long Quân-Âu Cơ.
Truyền thuyết 2: Chử Đồng Tử-Tiên Dung và Đầm Dạ Trạch, từ thời Hùng Vương thứ ba.
Truyền thuyết 3: Thánh Gióng-Phù Đổng Thiên Vương, Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 4: Trầu-Cau khoảng thời gian từ thời Hùng Vương thứ nhất đến thứ sáu.
Truyền thuyết 5: Dưa hấu-Mai An Tiêm khoảng thời Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 6: Bánh chưng-bánh dày, Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 7: Chuyện tình Trương Chi-Mỵ Nương.
Truyền thuyết 8: Sơn Tinh-Thủy Tinh đời Hùng Vương thứ 18.
Truyền thuyết 9: Mỵ Châu-Trọng Thủy thời An Dương Vương.
Sách tham khảo
ĐVSKTT, soạn giả Phan Phu Tiên, Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên.. NXB. KHXH Hà Nội, 1993.
KĐVSTGCM, soạn giả: Quốc Sử Quán triều Nguyễn, NXB. Giáo dục Hà Nội, 1998.
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, NXB. Giáo dục, 2006.
An Nam Chí Lược, soạn giả Lê Tắc, NXB. Viện Đại Học Huế; 1961.
Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, soạn giả Đào Duy Anh, NXB. Nhã Nam, 2014.
Lĩnh Nam Chích Quái, soạn giả Trần Thế Pháp, NXB. Hồng Bàng.
Việt Điện U Linh, soạn giả Lý Tế Xuyên, NXB. Hồng Bàng.
Chú thích
1.2. 3 ĐVSKTT; Soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.. Dịch giả Viện sử học Việt Nam; NXB. KHXH Hà Nội 1993; bản điện tử.
Theo Ngô Sĩ Liên, kinh đô nước Văn Lang là Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, quốc hiệu Văn Lang. Văn Lang tương ứng thời Vua Hùng, gọi chung là thời đại Hồng Bàng. Nguồn gốc dân tộc ta là Lạc Việt, sau này có thành ngữ "con Lạc cháu Hồng", "dòng giống Lạc Hồng."
Nguồn gốc
Cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông vị thần trông coi nghề nông ở trên trời là Đế Minh sinh Đế Nghi. Minh đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy con gái bà Vụ Tiên, sinh Lộc Tục.
Lộc Tục là thánh trí thông minh, Minh rất yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục không dám vâng mệnh, cố nhường cho anh.
Minh lập Đế Nghi (anh của Lộc Tục) nối ngôi cai quản phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản phương Nam gọi là nước Xích Quỷ[2] .
Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, lấy con gái của Động Đình Quân sinh Sùng Lãm. Sùng Lãm rất khỏe, một tay nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm, đi lại dưới nước như đi trên cạn giống cha. Sùng Lãm lấy hiệu Lạc Long Quân thay cha trị nước.
Diệt Ngư Tinh còn gọi Ngư Tinh Xà
Lĩnh Nam Chích Quái ghi Biển Đông có Tinh Ngư Xà (còn gọi Ngư Tinh) dài hơn 50 trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, đi ầm ầm như mưa, ăn thịt người nên ai cũng sợ.
Đời thượng cổ có cá dung mạo như người, tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói, dần lớn lên, sinh nhiều con trai con gái, bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn.
Lại có giống Đản Nhân sống ở gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau biến thành người, giao dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải.
Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở đó. Sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở đường khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền dân đi qua chỗ này thường bị Ngư Tinh hại.
Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để hành nhân qua lại. Ngư Tinh hóa gà trắng gáy trên núi. Quần tiên nghe tiếng, ngỡ rạng đông bèn bay lên trời. Nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (Ngõ Phật Đào).
Long Quân hóa phép thành thuyền dân, lệnh cho Quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, song giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá.
Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên núi, nay chỗ đó gọi Bạch Long Vĩ. Đầu trôi ra ngoài bể biến thành chó. Long Quân lấy đá ngăn bể rồi chém. Nó biến thành đầu chó, nay gọi Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, nay gọi Mạn Cầu Thủy (còn gọi Cẩu Đầu Thủy).
Diệt Hồ Tinh
Truyền thuyết ghi:
Trừ xong nạn Ngư Tinh, ngài đến Long Biên có cáo chín đuôi sống hơn nghìn năm, thành tinh, trú trong hang sâu dưới chân núi đá phía Tây Long Biên.
Cáo thường hóa thành người trà trộn trong dân dụ bắt con gái về hang hãm hại. Từ Long Biên đến núi Tản Viên bị Hồ Tinh hại. Dân hai miền rất sợ, nhiều người bỏ ruộng đồng, nương rẫy, đi nơi khác làm ăn.
Long Quân một mình một gươm đến sào huyệt Hồ Tinh. Ngài đến cửa hang, cáo thấy bóng người liền xông ra, ngài làm mưa gió, sấm sét vây chặt cáo.
Đánh ba ngày ba đêm, cáo dần yếu sức, tìm đường chạy, ngài đuổi theo chém đứt đầu. Nó hiện nguyên hình là cáo khổng lồ chín đuôi.
Ngài vào hang cứu những người còn sống, sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái xoáy hang cáo thành vực sâu, đương thời gọi Đầm Xác Cáo, đời sau gọi Tây Hồ.
Dân quanh vùng về cày cấy trên đồng ven hồ, dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi làng Hồ, nay vẫn còn.
Lĩnh Nam Chích Quái chép:
Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Sau này Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai rồng dẫn thuyền đi, nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy. Xưa ở phía Tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía Đông gối lên sông Lô Giang.
Trong hang, dưới chân núi có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà.
Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc nên gọi là Bạch Y Man (Mán Áo Trắng).
Cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở.
Long Quân bèn lệnh cho lục bộ Thủy Phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân Thủy Phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn.
Nơi này thành một cái vũng sâu gọi là "Đầm Xác Cáo" (tức Tây Hồ nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái.
Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Động (Hang Cáo).
Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà ở nay gọi là Hồ Thôn (Thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.
Vậy Hồ Tây là lăng mộ chôn xác cáo chín đuôi? Mang huyền thoại này đi hỏi những người dân sống lâu năm ở khu vực xung quanh hồ thì được bác Văn (ở phố Trần Vũ) cho biết:
"Gia đình tôi có 3 đời sống ở nơi này. Truyền thuyết về Hồ Tây có rất nhiều, nào là Hồ Trâu Vàng, Đầm Xác cáo, Hồ Dâm Đàm.
Về huyền thoại cáo chín đuôi, tôi được nghe trước đây, vùng đất này là rừng núi hoang vu, ít người qua lại.
Lúc đó, trên một ngọn núi giữa vùng có một con cáo chín đuôi. Nhờ hàng ngàn năm tu luyện, cáo đã thành tinh, phép thuật lợi hại.."
Và có vẻ như khơi đúng mạch, bác Văn ngược về quá khứ, cứ kể như mình là người chứng kiến sự việc:
"Con cáo chín đuôi lúc biến thành cô gái xinh đẹp, lôi dụ các chàng trai; lúc lại thành chàng thanh niên tuấn tú đi tán tỉnh thôn nữ; khi lại là quỷ dữ dọa người đến khiếp sợ.. Nó làm thế vì muốn bắt được nhiều người đưa về hang sâu để ăn thịt dần."
Sách viết về Hồ Tây cũng như trên nhiều phương tiện truyền thông, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nhận xét:
"Hồ Tây là hồ thuộc loại linh thiêng nhất Việt Nam. Không chỉ tôi mà trong tâm thức nhiều người Hà Nội, Hồ Tây đã và đang được tin như là long mạch lớn nhất của Thủ đô cổ kính.
Cái tên xưa nhất của Hồ Tây là Đầm Xác Cáo và truyền thuyết gắn liền với công đức của Lạc Long Quân giúp dân có cuộc sống yên bình, không bị loài yêu tinh quấy phá. Thần đã truy đuổi con cáo vào tận hang và sau đó, cho nước ngập hang làm chết cáo."
Diệt Mộc Tinh
Lĩnh Nam Chích Quái chép:
"Mộc Tinh trải không biết bao năm, khô héo rồi biến thành yêu tinh, rất dũng mãnh, giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng thuật thần đánh thắng nó.
Nó hơi chịu khuất phục nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ.
Hàng năm 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, nó mới cho yên ổn. Dân thường gọi Quỷ Xương Cuồng.
Biên giới Tây Nam giáp nước Mi Hầu, vua nước này sai dân mọi ở Bà Lộ (nay phủ Diễn Châu) bắt giống mọi sống ở Sơn Nguyên tới nạp, thành lệ thường mọi năm.
Tần Thủy Hoàng cho Nhâm Ngao làm quan lệnh Long Xuyên, Ngao muốn bỏ lệ đó, cấm nạp lễ người sống, Xương Cuồng tức giận vật chết Ngao. Sau phải phụng thờ nhiều hơn.
Đời Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Du Văn Tường người phương Bắc, đức hạnh thanh cao, khoảng 40 tuổi qua nhiều nước, biết tiếng các dân mọi, học thuật làm mình vàng và răng đồng, sang nước Nam lúc hơn 80 tuổi.
Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư dạy pháp thuật làm trò vui cho Xương Cuồng xem để giết y.
Người biết pháp thuật này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Hiểm Can, thường làm người cưỡi ngựa hoặc làm bọn con hát.
Hàng năm tháng 11 dựng lầu cầu vồng cao 20 trượng, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây thừng dài 136 thước, đường kính rộng 3 tấc, lấy dây mây quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, ở giữa gác lên cây.
Thượng Kỵ đứng lên dây chạy nhanh 3, 4 lần, đi lại không ngã. Kỵ đội khăn đen, mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba.
Hai người (mỗi người cầm một cán cờ) đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì tránh, lên xuống không ngã.
Khi thì Thượng Đát lấy tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên cây cao 17 thước, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 lần, tiến tiến lùi lùi.
Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng giống cái lờ bắt cá, dài 3 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà không ngã.
Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, miệng la hét kêu gào, chuyển động chân tay, rờ xương vỗ bụng, tiến lên lùi xuống, hoặc làm người cưỡi ngựa phi nhảy, cúi xuống nhặt vật dưới đất mà không rơi khỏi lưng ngựa.
Khi thì Thượng Hiểm Can ngả mình nằm ngửa, lấy thân đỡ một gậy dài cho đứa trẻ trèo lên. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Giết súc vật mà tế.
Xương Cuồng tới xem, pháp sư đọc mật chú, lấy kiếm chém. Xương Cuồng cùng bộ hạ chết hết. Lệ làm lễ nạp dâng người sống hàng năm bèn bỏ, dân sống yên lành như xưa."
Mộc Tinh là "ma mộc" gỗ khô, tức những gì hư hóa, nhất là các thứ dị đoan. Long Quân cũng đuổi đi, sau có người dùng ma thuật cũng chỉ tạm bợ, nên nó còn lưu hành trong dân, nhưng cả ba thứ tinh không còn nhô đầu lên văn đàn được nữa. Hồ Tinh, Ngư Tinh chỉ còn tác hại dưới hình thức du mục võ biền.
Chuyện tả con người chiến đấu yêu ma, thuỷ quái, phản ánh công cuộc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh các vùng miền núi, đồng bằng châu thổ, vùng ven biển.. là khắc phục trở ngại thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống hạn hán, ngập lụt, thú dữ.
Điều này được huyền thoại hóa bằng những kỳ tích chống Thuỷ Tinh (lụt lội), diệt Ngư Tinh (miền sông nước), đánh Mộc Tinh (miền rừng núi), diệt Hồ Tinh (đồng bằng châu thổ)..
Qua đó thể hiện sức mạnh chinh phục, cải tạo thiên nhiên của cư dân Việt cổ để kiến tạo, xây dựng quốc gia phát triển qua hàng ngàn năm đến nay và mãi về sau.
Con Rồng Cháu Tiên
Diệt xong yêu quái, ngài thấy dân vùng này vẫn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm, bèn dạy dân trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn ở, phòng thú dữ.
Dạy dân đạo lý cha con, vợ chồng. Dân cảm tạ, xây tòa cung điện nguy nga trên núi cao. Nhưng ngài không ở, thường về quê mẹ dưới Thủy Phủ, dặn dân:
"Hễ có tai biến gì thì gọi, ta về ngay!"
Đế Lai nhân phương Bắc vô sự, nhớ chuyện Đế Minh tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bảo bề tôi thân cận là Xuy Vưu (còn gọi Xi Vưu) thay mình giữ nước để đi tuần du Xích Quỷ phương Nam.
Đến nơi, Đế Lai thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, nước vô chủ, bèn để ái nữ Âu Cơ và những kẻ hầu ở lại hành tại[3] .
Lai dạo chơi thiên hạ, xem khắp hình thắng. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê tượng đồi mồi, bạc vàng châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn các vị, sơn hào hải vật không thiếu thứ nào.
Bốn mùa khí hậu không lạnh không nóng, Đế Lai yêu thích, quên về, sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài.
Dân nước Nam khổ vì cảnh phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân về, cùng hướng về Biển Ðông gọi to:
"Bố ở nơi nao, mau về cứu chúng con!"
Long Quân thoát nhiên trở về, thấy Âu Cơ dung mạo tuyệt mỹ, Long Quân yêu thích, hóa thành chàng trai đẹp, đông kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến nơi hành tại.
Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng xiêu xiêu. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài trong cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh.
Lai về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân biến hóa trăm hình vạn vẻ, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn hổ voi xé xác chúng làm kẻ đi tìm không dám lục sạo.
Lai đành về phương Bắc, truyền ngôi đến Đế Du Võng thì Xuy Vưu làm loạn. Xuy Vưu mình thú nói tiếng người, sức khỏe dũng mãnh.
Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc.
Đế Du Võng cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, Võng bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Dòng họ Thần Nông tới đây thì hết.
Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ một bọc, cho là bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu, bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở một con trai mới đem về nuôi.
Không phải bú mớm, các con tự lớn, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người kính trọng cho là phi thường.
Hàng chục năm sau, Long Quân sống đầm ấm bên vợ con vẫn nhớ Thủy Phủ. Một hôm từ giã vợ con, hóa rồng vụt lên mây bay về biển.
Vợ con thường muốn về đất Bắc, tới biên giới, Hoàng Đế Hiên Viên nghe nói rất sợ hãi, cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không về được bèn về nước Nam. Âu Cơ đứng trên núi cao hướng về Biển Ðông gọi:
"Bố ở nơi nào để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này."
Long Quân bỗng về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói:
"Thiếp nguyên người đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được trăm đứa con trai không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng; mong chàng đừng ruồng bỏ, làm mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha, chỉ riêng mình đau khổ thôi."
Long Quân nói:
"Ta là giống Rồng, đứng đầu thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được với nhau, tuy khí Âm Dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống tương khắc như nước với lửa, khó bề ở lâu với nhau được.
Nay phải chia ly, ta sẽ mang 50 con trai về Thủy Phủ, chia trị các nơi, còn 50 đứa sẽ theo nàng ở trên đất, chia nước ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống nước có việc cùng gắn bó, đừng bỏ rơi nhau" [3] .
Trăm con vâng theo, từ biệt mà đi. Âu Cơ và 50 con lên ở đất Phong Châu nay thuộc Phú Thọ, suy phục lẫn nhau, tôn người con cả làm vua, hiệu Hùng Vương[3] .
Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam nói mình là dòng giống Tiên Rồng.
Theo thuyết này, từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia thành những nước nhỏ gọi là Bách Việt, đều là Con Rồng Cháu Tiên.
Chú thích họ "Hồng Bàng" :
Họ Hồng Bàng là tên gọi dòng họ vua đầu tiên ở phương Nam. "Hồng" là tên loài chim to khỏe, bay cao, được coi vật Tổ của dân tộc. "Lạc Hồng:"
Chim Hồng hoặc chim Lạc chỉ là một loài, do phát âm khác nhau. Truyền thuyết nói người Việt thuộc giống chim Hồng (hoặc chim Lạc).
Âu Cơ vốn là Tiên chim. Dân tộc Việt thuộc dòng dõi Lạc Hồng, tức là họ mẹ, ngày xưa theo mẫu hệ nên coi họ mẹ là giống Tiên (chim Hồng chim Lạc tu luyện thành tiên). Hình khắc mặt trống đồng có hình đàn chim bay ngược (thiên về họ mẹ).
ĐVSKTT chép tương tự, nhưng bỏ bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, chỉ nói Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh trăm con:
"Con cháu Thần Nông là Đế Minh lấy con gái của bà Vụ Tiên sinh Kinh Dương Vương, tức Thủy Tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải cái gây nên cơ nghiệp nước Việt ta sao?"
ĐVSKTT, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên:
"Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là trời phân chia giới hạn Nam-Bắc. Thuỷ Tổ ta dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng Bắc triều mỗi bên làm Đế một phương" [3]
Trích Lĩnh Nam Chích Quái:
"Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, cây soa đồng làm bánh, lấy cầm thú, ba ba, cá tôm làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa, cấy bằng nước.
Đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn dễ đi lại trong rừng rú.
Đẻ con lấy lá chuối lót cho nằm. Khi trẻ lớn làm lễ thành đinh mang tính thử thách năng lực các thanh niên, thường tổ chức thi tài ngày hội. Sau lễ thành đinh, thanh niên thành thành viên lao động mới của xã hội."
Tục xăm mình
Thời Lạc Long Quân, vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn ty, luân thường về cha con, vợ chồng.
Điều đáng nói là sinh hoạt tinh thần:
Tục xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng đen, mẫu hệ và thờ cúng Tổ tiên.
Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên tâu Hùng Vương. Hùng Vương bảo:
"Ở núi là loài rồng khác thủy tộc, chúng ưa đồng mà ghét dị mới hại."
Vua lệnh ai cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào người. Từ đó không bị thuỷ quái gây thương tích nữa. Tục xăm mình (văn thân) của Bách Việt bắt đầu từ đây.
Đến thời Lý rồi Trần trị vì thiên hạ, vua quan tới thần dân ai cũng thích xăm hình vào người để giữ bản sắc truyền thống.
Với người hoàng tộc và người phục dịch trong triều đình buộc phải xăm hình lên thân thể, coi như luật phải thi hành.
Tục này đến đời Trần Anh Tông (1293-1314) mới dứt. Ăn trầu, nhuộm răng đen thì thế hệ U60 còn thấy các cụ ăn trầu nhuộm răng.
Lời bàn:
"Chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng sông nước là cả quá trình lâu dài, phức tạp và cực khó khăn. Hình ảnh những con thuồng luồng gây thương tích cho dân có lẽ là một trong những biểu hiện phức tạp và cực khó khăn đó.
Dân gặp khó thì kêu vua, vua ân cần chỉ cho dân mọi điều mình biết. Lời chỉ dẫn ấy, đúng sai thế nào ta đã quá rõ, nhưng điều quan trọng hơn ở chỗ, trên dưới như cha con một nhà, nghĩa tình đằm thắm biết bao.
Bấy giờ, hễ người Việt là xăm mình, hễ ai xăm mình là người Việt. Bạn thích hay không thích tục xăm mình là việc riêng của bạn, nhưng trông lại ngàn xưa, xin bạn hãy ghi nhận chính tục ấy góp phần làm cho Hán và Việt biệt lập rõ ràng, chính nhờ biệt lập rõ ràng ấy giờ này, bạn mới có thể ung dung mà nói: Non sông ta..
Đời sống cổ nhân ra sao, đoạn ghi chép ngắn ngủi trên nói khá rõ. Kính thay, một thời chắt chiu cần mẫn, thương thay, một thời gian truân!
Đi giữa giang sơn gấm vóc, xin chớ vô tâm quên Tổ tiên ngàn đời." (Theo Việt Sử Giai Thoại của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục)
Ý nghĩa truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ
Có người nói mở đầu lịch sử Việt Nam là chia rẽ, vì Lạc Long Quân, Âu Cơ không sống được với nhau, chia tay mỗi người mỗi ngả. Thật ra không phải vậy.
Ông cha ta sáng tạo truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ, chỉ nghĩ đơn giản người Việt phải chia nhau khắp nước để cai quản, khai phá, mở mang đất nước.
Ý nghĩa quan trọng nhất là gì? Ở chỗ Âu Cơ sinh 1 bọc trứng nở 100 con.
Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng:
"Đến giờ Ngọ 28 tháng Chạp, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà Âu Cơ sinh 1 bọc; giờ Ngọ rằm tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra thành 100 con trai."
KĐVSTGCM (1840), Việt Nam Sử Học (1919), Việt Nam Văn Hóa Sử Cương (1938), Thần linh Đất Việt (2002), Truyền thuyết Hùng Vương (1971-2003).. đều ghi Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở thành 100 con trai, hình thành hai tiếng "đồng bào."
Người Việt luôn có tình nghĩa, thủy chung, trên dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có Tổ có tông.
Sống có văn hóa: Văn hóa cộng đồng là phản chiếu hiểu biết, niềm tin, phong tục cổ truyền một dân tộc. Người Việt luôn quan niệm:
Chúng ta sinh cùng một bọc (đồng bào) là con cháu Lạc Hồng, cả nước đều là anh em một nhà.
"Con người có Tổ có Tông
Như cây có gốc, như sông có nguồn."
Nay quan niệm đó càng nhân lên gấp bội. Con cháu ở đâu, ông bà, Tổ tiên ở đó. Quan niệm đó dần thành ý thức hệ trong từng người và cộng đồng. Vua Hùng tồn tại và ngự trị ý thức tâm linh người Việt.
Vì sao là một bọc trứng?
Vì tất cả dân tộc Việt do một mẹ sinh ra, đều là anh em, từ bọc trứng sinh ra, không ai sinh trước, không ai sinh sau, không có thứ tự ai anh, ai em, ai chị.
Cha mẹ yêu thương các con giống nhau, không phân biệt trai gái, đứa lớn hay đứa nhỏ.
Sau này, dù chia nhau đi khắp mọi miền khai phá, mở mang đất nước, đứa lên rừng, đứa xuống biển, sống xa nhau cũng có chung một gốc, tất cả đều từ bọc trứng của Âu Cơ, hãy đoàn kết, yêu thương nhau:
"Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau!"
Ý nghĩa triết học đơn giản, đầy nhân bản hiếm có trên thế giới. Tính bình đẳng này thể hiện rất rõ thời Vua Hùng, cùng một thế hệ Vua Hùng, lấy tên giống nhau, không phân biệt Vua Hùng này với Vua Hùng kia.
Bởi người Việt cổ không cần biết Vua Hùng này có vĩ đại hơn Vua Hùng kia không, chỉ cần biết tất cả Vua Hùng từ một gốc là dân tộc Việt, từ một bọc trứng của Âu Cơ.
Tính chất cùng một bọc trứng đậm nét trong mỗi người Việt, bởi trên 5 triệu người Việt sống rải rác khắp thế giới, nhiều nhất ở Mỹ, Canada, Pháp, Úc, những người Việt xa quê hương vẫn hướng về quê cha Đất Tổ con Lạc cháu Hồng, nhiều người hẳn mong ngày nào đó sẽ về nước.
Lạc Long Quân, Âu Cơ không đưa các con xâm chiếm nước khác, mà chỉ khai sơn phá thạch, lấn biển, dựng nước Văn Lang.
Vì sao Âu Cơ không sinh 50 con gái, 50 con trai, mà tất cả là con trai? Có người đưa thuật Âm-Dương lý giải điều này. Tôi không tin cách lý giải Âm-Dương đó.
Tôi nghĩ có lẽ thêm bằng chứng tư duy đơn giản, chất phác của người Việt xưa:
Con trai là lao động chính trong nhà và xã hội, trách nhiệm rất lớn, đào núi, lấp biển, đắp đê, đánh cá, trồng rừng, săn bắn.
Dù truyền thuyết không nói Âu Cơ sinh con gái, nhưng thể hiện Âu Cơ quyền lực ngang Lạc Long Quân, vì bà lãnh đạo 50 con trai lên núi, ngang Lạc Long Quân lãnh đạo 50 con trai xuống vùng biển.
Hỏi:
- Cho biết ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang?
Trả lời:
- Khoảng TK. VII TCN, các Vua Hùng dựng nên nhà nước đầu tiên là Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa thế nào? Đó là câu hỏi mỗi người đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.
Hiện tại, ít nhất có 3 cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:
Thứ nhất:
Vì Tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó đặt quốc hiệu Văn Lang.
Cơ sở thực tiễn cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm.
Sách Đới ký của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là "Điêu Đề" không ngoài ý nghĩa này (điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).
Cách 2:
Vì Tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích:
Chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang.
Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này là tính phổ biến và trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu.
Nhưng "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức sau khi khai sinh Văn Lang rất nhiều thế kỷ. Vì vậy cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.
Cách 3: Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu ngành ngữ âm học lịch sử. Theo đó:
1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người..
2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer). Ghép lại, Văn Lang nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách này được củng cố thêm bởi kết quả hàng loạt những khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ 3 được nhiều người tán thành nhất.
(Theo Đại cương Lịch sử Văn hóa Việt Nam - Tập 1).
Quốc hiệu Văn Lang có nghĩa là gì?
Văn Lang là tên gọi nước ta thời Hùng Vương, nó không chỉ bắt nguồn trong truyền thuyết dựng nước mà còn thấy trong thần phả, thần tích, sử ghi chép về thời Hùng Vương. Vì vậy có thể khẳng định quốc hiệu Văn Lang là có thực. Vậy Văn Lang có ý nghĩa là gì?
Theo ngôn ngữ học, tên Văn Lang không đứng một mình mà trong hệ thống tộc danh có yếu tố chung là "lang."
Thường các tộc danh trên thế giới, nhất là các tộc danh cổ đều xuất phát từ danh từ chung có nghĩa là "người."
Tiếng Hán Việt, từ "lang" nghĩa là "đàn ông", đồng âm với một số ngôn ngữ các dân tộc anh em như từ "arăng" trong tiếng Ê-đê, "urang" trong tiếng Chăm, "đranglô" trong tiếng Bana.. tất cả đều có nghĩa là "người", "con người" hoặc "đàn ông."
Tộc danh với thành tố "lang" trải dài từ phía Nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến Bắc Trung Bộ Việt Nam, tương ứng với địa bàn sinh sống cộng đồng người Bách Việt.
Vậy tộc danh "lang", "Văn Lang" là một trong những tộc danh cổ nhất của dân tộc ta, thực tế thành quốc hiệu nước ta thời Hùng Vương.
Văn Lang là từ kép trong ngôn ngữ Hán Việt dùng để phiên âm từ Việt cổ chỉ "con người", "người", "đàn ông" và là phiên âm tên nước.
Theo văn tự học thì từ "lang" nghĩa là "người đàn ông"; còn "văn" là chữ xuất phát chính từ tục xăm mình của người Việt.
Về ngữ âm tiếng Hán thì "văn" được biến âm từ "xăm". Ký tự chữ "văn" nguyên thủy là hình vẽ người xăm hình rồng ở ngực.
Cuốn sách Tìm về cội nguồn chữ Hán của hai nhà nghiên cứu Lý Nhạc Nghị (Trung Quốc) và Jim Water (Mỹ) đưa ra quá trình biến đổi của chữ "văn" qua các loại chữ Hán cổ khác nhau và giải thích "văn" nghĩa gốc là xăm mình.
Hình chữ trong cổ văn giống một người trước ngực và sau lưng xăm những hoa văn, đồng thời dẫn ra câu nói của Trang Tử:
"Việt nhân đoạn phát, văn thân" nghĩa là "người Việt cắt tóc, xăm mình."
Như vậy Văn Lang vốn là tộc danh và là đặc điểm văn hóa của người Việt đã thành quốc hiệu với nghĩa:
"Con người", "người", "đàn ông" hoặc "người xăm mình."
Nguyễn Khắc Thuần bàn:
"Không thể nói khác hơn Lạc Long Quân và Âu Cơ đã có cuộc kỳ ngộ. Người từ phương xa theo cha đi chu du khắp cõi, tình cờ dừng bước ở Xích Quỷ.
Người làm vua một phương, dân thương gọi là bố. Xứ sở chẳng cùng, tuổi tác cách biệt, thế mà vừa gặp đã rung động về nhau. Lạ thay!
Xét về thế thứ, Lạc Long Quân và Đế Lai là anh em con chú con bác. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức lấy con gái của anh con nhà bác.
Có người nghiêm phê luân thường đạo lý đảo điên, mối họa cho thiên hạ thật khó lường. Song lấy khuôn mẫu đạo đức hiện thời để xét đoán hành vi của thiên cổ, ngỡ như đúng, cái sai đã chất chứa sẵn rồi.
Đọc sách đâu chỉ đọc chữ trong sách. Ngàn xưa vẫn thế, nỗi tâm sự cần ký thác thường ở giữa những dòng chữ hoặc ở sau những dòng chữ đó.
Sử cũ nhấn mạnh mối thâm tình các nhóm thuộc Bách Việt. Chừng như muốn tỏ vốn dĩ tất cả đều chung máu mủ ruột rà. Ngẫm mà xem!"
Truyền thuyết chọn đất đóng đô
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Khắc Xương (con của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu) là nhà "Hùng Vương học, Đền Hùng học" của Phú Thọ 88 tuổi vẫn cực minh mẫn khi kể truyền thuyết Hùng Vương chọn đất đóng đô.
Ngày ấy, Tổ tiên tìm đất đóng đô nước Văn Lang thận trọng cầu kỳ lắm.
Đích thân vua đi nhiều nơi vùng Phú Thọ nay tương ứng thuộc địa danh Thanh Vân, Đông Lĩnh, núi Thắm (Thanh Ba) ; Ao Châu (Hạ Hòa) Xuân Lộc (Thanh Thủy), cuối cùng chọn vùng từ ngã ba sông Bạch Hạc tới quanh núi Nghĩa Lĩnh đóng đô. Truyền thuyết Hùng Vương của Nguyễn Khắc Xương:
"Vua đi mãi nơi này nơi khác chưa tìm được nơi có thể định đô. Tới vùng: Trước mặt ba sông hội tụ, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như hình hổ phục rồng chầu, tướng quân bắn nỏ, ngựa chạy rồng bay.
Giữa những đồi xanh tốt có ngọn núi đột ngột nổi lên như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn bốn phía thấy ba bề bãi rộng bồi đắp phù sa, bốn mặt cây xanh, hoa tươi cỏ ngọt, trùng điệp quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu.
Vua cả mừng khen là đất họp muôn dân, đủ hiểm để giữ, có thế để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước muôn đời. Vua Hùng đặt đô ở đó gọi thành Phong Châu."
Phạm vi kinh đô kéo dài từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới núi Nghĩa Lĩnh. Vùng địa linh này là đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, có bãi sa bồi, rừng núi và đồi, thoáng rộng, tiện thông thương hai miền ngược xuôi bằng đường thủy, có thế hiểm trở chống ngoại xâm.
Niên biểu thời dựng nước
–2070 triệu năm trước: Thiên tạo núi Nghĩa Lĩnh
–50 triệu năm trước: Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng bằng, đầm hồ, xuất lộ địa hình Vĩnh Phú, có dãy đồi 99 voi chầu về Đất Tổ.
–1, 5 vạn năm trước, các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người nguyên thủy cư trú. Họ là chủ nhân nền Văn hóa hậu kỳ đồ đá cũ Sơn Vi.
–Trên 1 vạn năm đến 8000 năm cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-mơ, tràn vào ngập toàn bộ đồng bằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy Sơn Vi tạm lánh lên vùng núi Hòa Bình – Bắc Sơn.
–Khoảng 6000 năm trước, nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm mưa lũ thau chua rửa mặn và phù sa màu mỡ các sông bồi đắp làm hồi sinh thảm thực vật.
Quần thể động vật như chim thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo môi trường sống thuận lợi cho con người.
- Thời kỳ bộ lạc từ TK. 10 TCN trở về trước, ứng với Văn hóa Đồng Đậu – Phùng Nguyên.
–Khoảng 2000 năm TCN có 15 bộ lạc Việt cổ sinh sống trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bộ lạc Văn Lang của thủ lĩnh họ Hùng nhờ địa lợi tuyệt đối vùng ngã ba sông Hồng, Lô, Đà trở nên lớn mạnh.
–Khoảng hơn 1000 năm TCN, thủ lĩnh Văn Lang lập nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, được suy tôn Hùng Vương. Thời dựng nước Văn Lang từ TK. 10 TCN đến giữa TK. 3 TCN ứng văn hóa Gò Mun, Đông Sơn.
–257 TCN Vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán tiêu diệt và chiếm nước.
Văn Lang là nhà nước phôi thai đầu tiên, rất đơn giản, dù mới hình thành nhưng cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt.
Họ bước đầu hiểu mối quan hệ thiên nhiên và con người, sức mạnh cộng đồng khi làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm, đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.
NƯỚC VĂN LANG
TRUYỀN THUYẾT
Giả thuyết 1: Nước Việt 4000 năm
Nước Văn Lang hình thành khoảng 2879 TCN, kết thúc 257 TCN chuyển sang An Dương Vương Thục Phán. Từ đây hình thành quan niệm coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách nay khoảng hơn 4000 năm và sách báo nói 4000 năm văn hiến. (Theo ĐVSKTT do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở TK. 15).
Giả thuyết 2: Nước Việt 2700 năm
Theo bộ sử xuất hiện sớm hơn ĐVSKTT là Đại Việt Sử Lược TK. 13 chép nước Văn Lang lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục 14 bộ tộc Việt khác khoảng TK. 7 TCN (cùng thời Chu Trang Vương của nhà Chu, Trung Quốc). Ông lên ngôi xưng hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Phong Châu – Phú Thọ.
9 truyền thuyết nổi tiếng thời kỳ Hùng Vương - An Dương Vương
Truyền thuyết 1: Con Lạc-cháu Hồng, Lạc Long Quân-Âu Cơ.
Truyền thuyết 2: Chử Đồng Tử-Tiên Dung và Đầm Dạ Trạch, từ thời Hùng Vương thứ ba.
Truyền thuyết 3: Thánh Gióng-Phù Đổng Thiên Vương, Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 4: Trầu-Cau khoảng thời gian từ thời Hùng Vương thứ nhất đến thứ sáu.
Truyền thuyết 5: Dưa hấu-Mai An Tiêm khoảng thời Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 6: Bánh chưng-bánh dày, Hùng Vương thứ sáu.
Truyền thuyết 7: Chuyện tình Trương Chi-Mỵ Nương.
Truyền thuyết 8: Sơn Tinh-Thủy Tinh đời Hùng Vương thứ 18.
Truyền thuyết 9: Mỵ Châu-Trọng Thủy thời An Dương Vương.
Sách tham khảo
ĐVSKTT, soạn giả Phan Phu Tiên, Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên.. NXB. KHXH Hà Nội, 1993.
KĐVSTGCM, soạn giả: Quốc Sử Quán triều Nguyễn, NXB. Giáo dục Hà Nội, 1998.
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, NXB. Giáo dục, 2006.
An Nam Chí Lược, soạn giả Lê Tắc, NXB. Viện Đại Học Huế; 1961.
Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, soạn giả Đào Duy Anh, NXB. Nhã Nam, 2014.
Lĩnh Nam Chích Quái, soạn giả Trần Thế Pháp, NXB. Hồng Bàng.
Việt Điện U Linh, soạn giả Lý Tế Xuyên, NXB. Hồng Bàng.
Chú thích
1.2. 3 ĐVSKTT; Soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.. Dịch giả Viện sử học Việt Nam; NXB. KHXH Hà Nội 1993; bản điện tử.
Nguồn
Lichsuvietnam
Tsrsblog. Wordpress
Wikipedia - Hùng Vương
Vietnamese Arts & Culture - Văn Hóa & Nghệ Thuật Việt Nam
Ddlqd
Còn tiếp