Bình Định có 234 Di tích Lịch sử - Văn hóa, hơn 60 di tích hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh. Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Bình Định xin giới thiệu vài Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu.
Di tích lịch sử
Dấu tích Văn hóa Sa Huỳnh ở Bình Định
Bình Định là 1 trong 3 trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh với hệ thống di chỉ phân bố khá dày được các nhà khảo cổ phát hiện, đào thám sát, khai quật:
Động Cườm, Gò Tháp, Ca Công, Động Bàu Năng, Phú Nhuận, Công Lương (Hoài Nhơn), Truông Xe, Gò Lồi, Thuận Đạo, Chánh Trạch (Phù Mỹ), Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp (Quy Nhơn).
Sa Huỳnh là nền văn hóa nổi tiếng thời tiền sử và sơ sử Việt Nam, đặt tên theo khu di tích mộ chum Sa Huỳnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi) do M. Vinet phát hiện năm 1909, chính thức định danh Văn hóa Sa Huỳnh 1937. Việt Nam thời kim khí (cách nay 3000-4000 năm) từng tồn tại 3 trung tâm văn hóa lớn:
Đông Sơn miền Bắc, Óc Eo miền Nam, Sa Huỳnh miền Trung.
Không gian Văn hóa Sa Huỳnh phân bố từ Quảng Bình đến Đồng Nai, Tây Nguyên. Cảnh quan văn hóa chung ấy, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định có di tích nhiều nhất, mật độ phân bố khá dày.
3 vùng mật độ di tích cao nhất là vùng thềm phù sa có sông Vu Gia, Tiên Hà, Thu Bồn; vùng cồn cát ven biển, gần sông Vĩnh Điện, Tam Kỳ, Vĩnh An và vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước La Vận, Bàu Năng, Trà Ổ, Thị Nại (Quy Nhơn).
Những dấu vết văn hóa cư dân cổ Sa Huỳnh trên Quy Nhơn phát hiện khá muộn qua các điều tra, khảo sát, đào thám sát từ 1978, hé mở bề dày và bề rộng không gian lịch sử, văn hóa Bình Định nói chung, Quy Nhơn nói riêng.
Đồ gia dụng tùy táng Văn hóa Sa Huỳnh.
Nhóm di tích tiền sử, sơ sử Quy Nhơn:
Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp là một trong những tập hợp di tích khảo cổ học, cùng một tính chất, phát triển cùng giai đoạn và cùng khu vực với nhóm:
Truông Xe, Gò Lồi, Chánh Trạch, Thuận Đạo (Phù Mỹ) và Động Cườm, Ca Công, Gò Tháp.. (Hoài Nhơn) - vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước: Thị Nại, Trà Ổ, Bàu Năng.
Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp nay thuộc xã Nhơn Hội, TP. Quy Nhơn, là cồn cát trải dài, một bên là đầm Thị Nại, một bên biển.
1978, khảo cổ học phát hiện tại Hội Lộc, dọc cồn cát ven biển lộ nhiều mảnh gốm đen xám rải hầu khắp bề mặt, mở 2 hố thám sát:
3m2 và 1m2, ở độ sâu 0, 15m đến 0, 35m, thu 1 bàn mài xám nhạt, 24 mảnh cuội vỡ, 500 mảnh gốm các loại, hoa văn không rõ nét, chủ yếu là mảnh vỡ bình, hũ, nồi đựng đáy bằng. Lớp đất màu xám lẫn tro than.
Núi Ngang, ngọn núi nhỏ khá bằng phẳng cách đầm Thị Nại khoảng 400m cũng thuộc địa phận thôn Hội Lộc, qua khảo sát phát hiện bề mặt nhiều mảnh gốm vỡ, thuộc loại gốm thô pha nhiều cát, nhiệt độ nung cao, màu nâu, xương gốm màu đen.
Đồi Điệp thuộc thôn Hội Bình phát hiện 1997, dọc chân núi dưới lớp đất canh tác có lớp vỏ sò điệp khá dày.
Chưa đào thám sát kiểm tra, nhưng xói lở tự nhiên làm lộ xác sò điệp dày khoảng 2m. Loại hình di tích như Đồi Điệp, các nhà khảo cổ phát hiện trong các di tích ở Bàu Tró (Quảng Bình).
Loại hình hiện vật tìm thấy qua khảo sát, đào thám sát tại Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp thuộc Văn hóa Sa Huỳnh chủ yếu:
Những mảnh bình, vò, nồi có nắp đậy, nói chung là đồ gia dụng, kích cỡ nhỏ, chưa phát hiện những mảnh chum, vò lớn để chôn xác người như khu mộ chum Động Cườm (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn).
Chưa khai quật khảo cổ học mở rộng diện tích để nghiên cứu sâu, nhưng những dấu tích vật chất còn lại, các nhà khảo cổ học khẳng định chắc chắn:
Từ hậu kỳ đồng thau và sắt sớm (cách nay khoảng 2500 năm), Quy Nhơn có cộng đồng cư dân tiền sử đến định cư.
Hàng loạt trống đồng Đông Sơn phát hiện những năm 1990 và những năm vừa qua trên địa bàn các huyện:
Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, Phù Cát, An Lão chôn theo nhiều mảnh gốm thô đậm phong cách Văn hóa Sa Huỳnh đã thêm nhận thức mới:
Từ TCN, người Sa Huỳnh giao tiếp không gian Văn hóa Đông Sơn phía Bắc và không gian Văn hóa Đồng Nai phía Nam.
TK. X, không gian xã hội văn hóa Champa giao tiếp và tiếp nối với không gian xã hội văn hóa Thăng Long – Đại Việt và không gian xã hội Phù Nam, Chân Lạp.
Quy Nhơn, Bình Định là nơi tiếp nhận và hội tụ các luồng văn hóa Bắc Nam, chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ miền Nam Á và văn hóa Trung Hoa miền Hoa Nam.
Giả thuyết khoa học từ những năm trước về di tích Sa Huỳnh muộn, có thể cũng là di tích Champa sớm, đã và đang làm sáng tỏ.
Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh là Tổ tiên trực tiếp của cư dân dựng nước Champa. Quy Nhơn nay đủ di tích 2 nền văn hóa đó.
Di tích Champa:
Bình Định từng là kinh đô của Champa từ TK. X đến TK. XVI, thời vàng son đó còn lưu đến nay những di sản vô giá với dấu tích thành quách, những ngọn tháp rêu phong đứng vững trước thời gian, bằng giá trị văn hóa nghệ thuật đích thực của chúng.
Tháp Đôi Quy Nhơn:
Xây cuối TK. XII ở phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, công trình kiến trúc đẹp, độc đáo gồm 2 tháp (tháp chính cao 20m, tháp phụ cao khoảng 18m). Tháp Đôi xếp loại đẹp "độc nhất vô nhị" nghệ thuật kiến trúc Champa.
2 tháp đều không phải tháp vuông nhiều tầng theo truyền thống tháp Chăm, mà là cấu trúc gồm 2 phần chính: Khối thân vuông, phần đỉnh hình tháp mặt cong, các góc tháp hiện những tượng chim thần Garuda, 2 tay đưa cao nâng đỡ mái tháp.
Vòm trên các cửa vút cao như những mũi tên. Kiến trúc tháp Đôi ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ giáo.
Tháp Bánh Ít (còn gọi tháp Bạc) :
Xây cuối TK. XI, đầu TK. XII tại xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, trên đỉnh đồi nằm giữa 2 nhánh sông Côn là Tân An và Cầu Gành, cạnh quốc lộ 1A, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20km.
Đây là quần thể 4 tháp, từ xa trông giống bánh ít nên gọi tháp Bánh Ít, mỗi tháp là kiến trúc riêng biệt, mỗi sắc thái khác nhau.
Đỉnh mỗi tháp có tượng thần Shiva bằng đá. Về nghệ thuật, toàn bộ di tích tháp Chàm còn lại trên đất Việt, Bánh Ít là quần thể kiến trúc độc đáo, nhiều dáng kiến trúc đa dạng, trang trí đẹp, giá trị nghệ thuật cao.
Tháp Dương Long (còn gọi Tháp Ngà) :
Xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, cách TP. Quy Nhơn khoảng 50km, xây cuối TK. XII, thời phát triển rực rỡ nhất văn hóa nghệ thuật Chăm.
Gồm 3 tháp Chàm (tháp giữa cao 24m, 2 tháp 2 bên cao 22m). Nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường nét hoành tráng, lộng lẫy, tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí sống động chân thực, huyền ảo kỳ bí.
Tháp Dương Long một trong những tháp Chàm đẹp nhất miền Trung, đặc trưng độc đáo là kích thước lớn, kiến trúc uy nghi.
Tháp Cánh Tiên:
Xây bên thành Đồ Bàn ở xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn khoảng TK. XVI. Đặc biệt của tháp là phần trong các cột ốp tường ốp kín bằng các phiến đá sa thạch màu tím, chạm khắc hoa văn dây xoắn.
Tháp thanh thoát, trang nghiêm, 4 tầng thu nhỏ dần lên trên, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc có những tầng nhỏ, tạo dáng lá lật nhỏ dần về phía trên tạo như cánh chim bay, từ vai tháp trở lên, tứ phía giống cánh tiên bay nên gọi tháp Cánh Tiên.
Tháp Phú Lốc (còn gọi tháp Vàng) :
Xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách TP. Quy Nhơn 35km về phía Bắc, đẹp ngạo nghễ, đượm buồn, từ chân tháp nhìn bốn hướng cảnh trí kỳ vĩ.
Tháp Bình Lâm:
Xây trên gò đất cao thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn 22km. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m, 3 tầng, hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét thanh tú, khỏe khoắn.
Tháp Thủ Thiện:
Xây trên vùng tương đối thấp, trên bờ Nam sông Côn thuộc xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, cách TP. Quy Nhơn 35km về hướng Tây Bắc. Tháp nhỏ, trang nhã, thanh thoát, kỳ bí.
Các tháp trên đều được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay Bộ VHTT&DL) công nhận di tích lịch sử kiến trúc. Hệ thống tháp Chàm ở Bình Định rất phong phú, đa dạng tạo hấp dẫn đặc thù chỉ có ở Bình Định, khách đến vùng Nam Trung Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Di tích Tây Sơn
Đầu dựng nghiệp nhà Tây Sơn, đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn của nghĩa quân Tây Sơn dưới mưu kế của Nguyễn Nhạc để chống nhà Nguyễn.
1773, chiêu dụ rất nhiều nghĩa quân, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo trời đất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng của chúa tôi, tế cờ xuất quân về đồng bằng.
Đạo quân Tây Sơn xuống núi Bà Phu thì xẩm tối, Nguyễn Nhạc cho quân nghỉ, gà cất tiếng gáy thì lên đường. Binh đi như gió, mặt trời vừa mọc, huyện lỵ Tuy Viễn bị bao vây.
Nghe nghĩa quân Tây Sơn hò reo dậy đất, quan Tri Huyện bỏ trốn, nhân viên trong huyện và tất cả lính đều hàng. Nguyễn Nhạc giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê trấn giữ, rồi ra đánh thành Quy Nhơn.
Quy Nhơn là thành cũ của Đồ Bàn (thành Hoàng Đế nay) thuộc Chiêm Thành xưa. Thành ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly, tường đá ong, trên dải gò cao, quanh có hào sâu bao bọc, thế rất vững. Quân Tây Sơn vây đánh 3 ngày không lấy được.
Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ. Nguyễn Nhạc không đưa quân vào được, bèn lui binh, đóng rải rác, giấu quân, nằm im chờ lệnh.
Tuyên tưởng quân Tây Sơn đã thua kéo về núi, thông báo ai bắt sống Nguyễn Nhạc đem nộp hoặc giết lấy đầu nộp, trọng thưởng.
Nguyễn Nhạc đóng cũi thật kiên cố, bên trong dễ mở, đóng, tự mình ngồi trong cũi, bảo nghĩa quân khiêng dâng nộp cho Tuyên. Trước khi đi, Nguyễn Nhạc lệnh:
"Tướng sĩ chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành pháo nổ, kéo vào chiếm thành."
Nguyễn Nhạc chọn 8 lính giỏi côn quyền, mặc như thường dân, để khiêng cũi. Vào cửa thành, dùng đòn khiêng cũi làm côn, tháo thanh cũi làm gậy đánh quân giữ cửa thành.
Ông cho toán quân vài mươi người mặc như thường dân, làm bộ áp giải, mang vũ khí đi hai bên cũi, tổ chức vài thường dân khác chạy theo sau đoàn khiêng cũi, la hét:
"Bắt được tướng giặc rồi, đồng bào ra mà coi.."
Tuyên cho người lên thành xem, truyền mở cửa thành, đưa Nhạc vào thành cho chắc ăn. Đêm đến Nguyễn Nhạc phá cũi, nhảy ra làm nội ứng, mở toang cửa thành, đốt pháo hiệu cho bên ngoài biết.
Trong đánh ra, ngoài đánh vào, đốt dinh trại, giết tướng sĩ, làm cả thành tan vỡ. Lúc này, trong cơn hoảng loạn, Khắc Tuyên không kịp đóng ngựa vội bỏ thành trì, chạy trốn. Từ đó, thành Quy Nhơn bị quân Tây Sơn chiếm giữ.
Thành Hoàng Đế
Từ 500 năm trước là kinh đô của Champa. Theo thư tịch cổ, thành cổ này có tên: Vijaya, Chà Bàn, Xà Bàn, thành Lồi, Đồ Bàn.
Tên gọi Chà Bàn được sử Việt ghi sớm nhất vào thời Hồ (1403). Ghi nhiều nhất, vài sử liệu về sau gọi thành Đồ Bàn. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú:
"Sách Thiên Nam dư địa chí gọi Chà Bàn, sau nhiều sách chép lầm Đồ Bàn vì chữ Chà và Đồ gần giống nhau."
500 năm Champa định đô vùng Vijaya (TK. XI-XV), chiến tranh nhiều lần tàn phá khu này. Sau lần bị người Khơme tấn công cuối TK. XII, kinh đô bị hủy hoại nặng.
1283, tránh quân Nguyên, người Chiêm bỏ kinh thành chạy lên thượng du. Cuộc chiến với nhà Trần, đặc biệt là nhà Lê năm 1471 đưa Vijaya vào Đại Việt, thành Đồ Bàn chấm dứt vai trò lịch sử.
Hiếm có kinh đô nào lại xây dựng, bị hủy hoại, tu sửa, phục hồi nhiều lần như Đồ Bàn. Hiện di tích này thuộc thị trấn Đập Đá và xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn.
Thành Hoàng Đế được Tây Sơn xây 1775 trên cơ sở thành Đồ Bàn, chính thức gọi tên thành Hoàng Đế từ 1778.
1776 đến 1793, thành là đại bản doanh quân Tây Sơn, sau là kinh đô của chính quyền trung ương vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc.
Sử cũ chép:
"Nguyễn Nhạc nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào đá ong thành Lũy, mở rộng cung điện" (Sách Lê Quý Dật Sử).
"Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm thành này, nhân nền cũ xây đá ong, xưng thành Hoàng Đế" (Đại Nam Nhất Thống Chí) ;
"Đồ Bàn có từ lâu đời, khắc phục từ nhà Trần, bị phá vỡ từ đời Lê, khôi phục từ Tây Sơn, sau dần phá bỏ, nay nền cũ vẫn còn.
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37 (1776), nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc năm thứ 3 đóng đô ở đó, mở rộng cửa Đông 15 dặm, tường thành đắp cao, xây bằng đá ong, bề cao 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm 1 cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, hữu cửa Vệ Môn..
Phía Tây thành đắp đê Đỉnh Nhĩ phòng nước lụt, Tây Nam có Đàn Nam Giao tế trời đất, trong thành xây thêm thành con, giữa dựng điện Bát Giác, phía sau là điện Chánh Tẩm (nhà chính), trước điện Bát Giác có lầu Bát Giác.
Hai bên dựng hai nhà thờ, tả thờ Tổ tiên ông Nhạc, hữu thờ Tổ tiên bà Nhạc; trước lầu Bát Giác có cung Quyển Bồng.
Hai bên dãy hành lang làm việc; trước cửa cung có cửa Tam Quan còn gọi cửa Quyển Bồng, hay cửa Nam Lâu, cửa Vệ Môn đứng trước mặt" (Đồ Bàn Thành Ký, Nguyễn Văn Hiển).
Theo Chapman, thương gia người Anh đến thăm Nguyễn Nhạc giữa năm 1778:
"Tường thành phía Đông dài nửa dặm, không thấy đại bác, lỗ châu mai, tháp canh. Không thấy lính canh cổng và trên tường thành."
1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế, đổi tên là thành Bình Định. 1800, Tây Sơn vây thành, 1801, tướng giữ thành của Nguyễn Ánh là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự sát.
1802, Tây Sơn bỏ thành ra Bắc. Gia Long lên ngôi, nơi đây thành dinh Bình Định rồi trấn Bình Định.
"Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời đến chỗ hiện nay (thôn Kim Châu và An Ngãi), năm thứ 14 đắp bằng đất, năm thứ 16 xây bằng đá ong" (Đồ Bàn Thành Ký, Nguyễn Văn Hiển).
Xây thành Bình Định, nhà Nguyễn dỡ vật liệu đá ong từ thành Hoàng Đế, xây lăng mộ Võ Tánh ngay trên địa điểm điện Bát Giác và lầu Bát Giác.
Bảo tàng Quang Trung, bảo tàng tâm linh
Hình thành trên chính nền nhà cũ gia tộc Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, quần thể Bảo tàng Quang Trung, điện thờ Tây Sơn là khu bảo tàng danh nhân lớn nhất, một trong những bảo tàng hút khách đến tham quan du lịch học tập nhiều nhất nước. Một trong những địa điểm tham quan chính khi đến Bình Định.
Rưng rưng bến sông, cây me, giếng nước
Đến Phú Phong, nhẹ bước trên cầu Kiên Mỹ bắc qua sông Kôn nổi tiếng để đến Bảo tàng Quang Trung, cảm nhận linh khí núi sông vùng đất sinh những anh hùng áo vải Tây Sơn.
Không phải ngẫu nhiên Bảo tàng Quang Trung bắt đầu từ bến Trường Trầu bên sông Kôn và kết thúc ở điện thờ Tây Sơn tam kiệt.
11.057 tư liệu hiện vật gốc, hàng trăm hiện vật phục chế về nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung sở hữu kho tư liệu, hiện vật phong phú nhất về thời đại lừng lẫy và vua kiệt xuất.
Đây là thành quả của nỗ lực không ngừng của cán bộ, nhân viên bảo tàng hơn 30 năm qua, từ khi lập 1977.
Họ đi khắp nước, ra nước ngoài tập hợp tư liệu hiện vật liên quan Tây Sơn và Quang Trung. Những báu vật như trống da voi của đồng bào Tây Nguyên tham gia Tây Sơn, ấn tín, sắc phong, gia phả của nhiều văn thần, võ tướng.
Chuông đồng, súng thần công, ấn tín, tiền đồng Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bia mộ Tổ dòng họ Tây Sơn.
Nhiều hiện vật được dân Bình Định và nhiều địa phương cả nước tặng bảo tàng, vài hiện vật đến thông qua đại sứ quán các nước bạn mà bảo tàng nhờ.
Di tích bến Trường Trầu lặng lẽ sau lùm tre bờ sông Kôn mênh mông cuộn nước, bến sông nhờ nghề buôn trầu lên nguồn xuống biển, Nguyễn Nhạc thu phục nhân tâm, tập hợp lực lượng dân Kinh - Thượng, mưu nghiệp lớn.
Dưới bóng me cổ thụ từng che mát anh em Nguyễn Huệ giờ vẫn xanh um, uống những ngụm nước ngọt mát, trong vắt từ giếng nhà Nguyễn Huệ.
Những ngụm nước như kéo gần hơn 200 năm lịch sử và như thấy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở vừa từ điện thờ ra đến chia cùng gàu nước từ giếng đá ong của họ.
Cây me của gia đình Tây Sơn tam kiệt.
Nhạc, võ, hai trong một
Võ thuật và trống trận Quang Trung là 2 di sản phi vật thể lớn của Tây Sơn. Anh em Tây Sơn khai sáng, phát triển, hoàn thiện các võ phái Bình Định, cải cách nâng cao bài quyền, bài binh khí để dạy nghĩa quân.
Tương truyền, Nguyễn Huệ sáng tạo Yến phi quyền, Độc lư thương, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, những độc chiêu của võ thuật Binh Định.
Nguyễn Huệ chủ trương đưa nhạc trống vào khích lệ ba quân chiến đấu, truyền lại ngày nay với tên gọi trống trận Quang Trung.
Nhà biểu diễn võ, nhạc và đội diễn nhạc, võ thành một phần không thể thiếu của Bảo tàng Quang Trung.
Các buổi diễn nhạc, võ là final bất ngờ và kỳ thú với khách, khám phá xứ đất võ trời văn này, nhạc và võ chỉ là một, trong nhạc có võ, võ đầy chất nhạc, những người diễn quyền cước, binh khí, kèn trống kia khó phân biệt ai là nghệ sĩ, ai là võ sĩ. Chỉ có thể gọi họ:
Những nghệ sĩ – võ sĩ, giúp hiểu: Võ thuật ở tầm cao và chiều sâu của nó, là văn hóa, 1 nghệ thuật.
Nghệ thuật, văn hóa có thể và cần song hành với võ công để lập những kỳ tích cho non sông, đất nước. Dường như đó là di huấn từ cuộc đời Nguyễn Huệ.
Dễ hiểu vì sao Bảo tàng Quang Trung là bảo tàng duy nhất nước ta có đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp trong biên chế của mình, chuyên biểu diễn nhạc, võ.
Bảo tàng tâm linh, nơi thể hiện niềm tự hào dân tộc
Bảo tàng Quang Trung lập 1977, nay đã 30 tuổi. Tiền thân của nó là đền thờ Tây Sơn hơn 200 năm. 1827, sau 25 năm nhà Tây Sơn sụp đổ và bị trả thù, truy quét hiểm ác, dai dẳng, xóa dấu tích, bất chấp cấm đoán hà khắc của nhà Nguyễn, trên nền nhà, vườn cũ anh em Nguyễn Huệ lúc ấy thành bãi đất hoang, dân làng Kiên Mỹ âm thầm xây đình Kiên Mỹ thờ anh em Tây Sơn.
Từ đó hàng năm diễn ra lễ cuối tháng 11 và mùng 5 tháng Giêng ÂL. Đó là 2 ngày trọng đại nhất nhà Tây Sơn:
Ngày Quang Trung đăng quang trên núi Bân và đại thắng Đống Đa, quét sạch 29 vạn quân Thanh. Người Kiên Mỹ phải che mắt nhà Nguyễn khi gọi đây là ngày "cúng cơm mới."
Hai ngày lễ trọng tại ở Kiên Mỹ liên tục hơn trăm năm, thu hút người Kiên Mỹ, Tây Sơn, ngày càng nhiều người thập phương đến. Chống Pháp, "tiêu thổ kháng chiến", đình ấy thành ngọn đuốc và ngày lễ nhớ Tây Sơn tạm đứt đoạn.
Những năm 1960, đền thờ Tây Sơn tạo trên nền đất cũ. Lập tức quy tụ bốn phương.
Hàng năm, 5 tháng Giêng kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, hàng vạn người về đây, cùng dân Kiên Mỹ, Tây Sơn làm lễ hội lớn tưởng nhớ Nguyễn Huệ, niềm tự hào lớn của mỗi người Việt dù ở phương trời nào.
Ai đó từng nói, người Pháp hãnh diện về Napoleon Bonaparte, thiên tài quân sự chinh phục cả Âu Châu, rạng danh nước Pháp.
Người Mỹ tự hào khi có nhà chính trị thiên tài George Washington, Tổng thống lỗi lạc đưa Hoa Kỳ đến vinh quang.
Người Việt có quyền tự hào về Quang Trung bách chiến bách thắng trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước vĩ đại.
Chưa có Khải Hoàn Môn hoành tráng tưởng niệm Napoleon như người Pháp dựng ở trung tâm Paris, hình thành đền thờ Tây Sơn 200 năm trước và Bảo tàng Quang Trung hơn 30 năm gần đây là thể hiện tình yêu, ngưỡng mộ, tự hào lớn của người Bình Định và cả nước với Quang Trung.
Không lạ khi 30 năm qua, bào tàng này có những phát triển vượt bậc trong quan tâm chăm sóc, ủng hộ hết mình của Đảng, chính quyền, dân Bình Định, Hà Nội, TP. HCM và nhiều địa phương khắp ba miền Bắc, Trung, Nam.
Gia Lai tặng một nhà rông Bana, nhiều doanh nhân tài trợ xây tượng đài Quang Trung, tượng Tây Sơn tam kiệt và sáu văn thần, võ tướng thời Tây Sơn, phục chế, mua vài hiện vật quý.
Bảo tàng ngày càng to đẹp, khang trang, hiện vật tư liệu ngày càng phong phú, các lễ hội Đống Đa mỗi năm ngày càng đông vui bội phần.
Anh hoa và hào khí Tây Sơn – Nguyễn Huệ lại tỏa sáng rực rỡ, tạo niềm tin lớn, sức mạnh lớn trong quyết tâm bứt phá, hội tụ, phát triển vì tương lai giàu đẹp.
Từ đường Võ Văn Dũng
Từ đường Võ Văn Dũng, danh tướng Tây Sơn, xây trên quê ông, nay thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn. Từ thị trấn Phú Phong rẽ trái khoảng 3km tới thôn Phú Mỹ.
Theo gia phả họ Võ do Võ Thừa Khuông, di duệ đời 9, soạn trên cơ sở tài liệu cũ, thì Thuỷ Tổ họ Võ ở Phú Mỹ là Võ Văn Của, quê gốc Nghệ An, di cư vào Nam từ TK. 17, đến lập nghiệp tại thôn Phú Lộc, ấp An Tư, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn.
Đến đời thứ 2: Võ Văn Thọ, gia thế họ Võ tương đối khá giả.
Thọ xuất tài lực tổ chức đắp đập Lộc Đổng, tham gia đắp nhiều đập dẫn nước vào đồng ruộng, mở mang kinh tế nông nghiệp cho Phú Mỹ và nhiều làng xã trong vùng.
Đời thứ 3:
Võ Văn Khanh tài trí, có công huân với nhà nước, từng được phong Nam Tước. Võ Văn Khanh kết duyên Nguyễn Thị Điểm, sinh Võ Văn Chỉnh và Võ Văn Dũng.
Dũng thuở nhỏ tên Độ, thông minh, chí khí từ sớm. Sống trong gia đình khá giả, ông được học hành, hay đi đây đi đó nên hiểu biết rất rõ thời cuộc, tầm nhìn mở mang. Rất giỏi võ, một phần kế thừa truyền thống thượng võ quê hương, một phần nỗ lực rèn luyện, gồm đủ cung, đao, kiếm..
Hàng năm 8-2 ÂL, con cháu dòng tộc Võ tập trung về làm giỗ Võ Văn Dũng, tưởng nhớ Tổ tiên và vị tướng lỗi lạc có những đóng góp xuất sắc với Tây Sơn, với dân tộc, rạng danh dòng họ, xóm làng, rạng danh Bình Định.
Từ đường Bùi Thị Xuân:
Nhà thờ dòng họ Bùi ở huyện Tây Sơn có bàn thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân. Đô Đốc Bùi Thị Xuân người xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, vợ Thiếu Phó Trần Quang Diệu. Họ là dũng tướng trụ cột của Tây Sơn.
Bà ra Bắc vào Nam, tung hoành biên giới phía Tây, lập nhiều chiến công vang dội, gây khiếp sợ cho quân vua Lê, Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Quang Trung lên ngôi 1788, bà được phong Đô Đốc. Quang Trung mất (1792), triều đình Tây Sơn suy yếu, quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân.
1802, chồng bà là Trần Quang Diệu bị xử tử cùng vua Quang Toản. Bà cùng các con sa vào tay kẻ thù, bị xử voi giày.
DI TÍCH CÁC NHÀ YÊU NƯỚC VÀ KHÁNG CHIẾN
Lăng Mai Xuân Thưởng:
Hơn 200 năm, xây kiểu kiến trúc cổ trên ngọn đồi cạnh quốc lộ 19 thuộc xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn để thờ Mai Xuân Thưởng - nhà yêu nước, lãnh tụ xuất sắc phong trào Cần Vương kháng Pháp tại Bình Định.
Trên ngọn đồi này, nơi năm xưa Mai Xuân Thưởng dựng cờ khởi nghĩa, thấy các căn cứ kháng Pháp của nghĩa quân như Phú Phong, Tiên Thuận, Linh Đổng, Hương Sơn.
Hơn 100 năm từ ngày Mai Xuân Thưởng hy sinh nhưng tên tuổi ông vẫn sống mãi trong lòng người Bình Định và cả nước.
Mộ Đào Tấn:
Các danh nhân văn hóa Bình Định, Đào Tấn như ngôi sao sáng chói. Ông yêu nước, quan nổi tiếng liêm khiết, nhà thơ, nhà soạn tuồng xuất sắc Việt Nam cuối TK. XIX đầu TK. XX, được suy tôn "Hậu Tổ" nghệ thuật tuồng Việt Nam.
Mộ nằm trên núi Huỳnh Mai thuộc xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 15km, là Di tích Lịch sử - Văn hóa quan trọng trùng tu tôn tạo trên nguyên gốc, ngày càng hút nhiều khách đến tham quan tri ân người có công kế thừa, phát triển nền văn hóa dân tộc.
Căn cứ Núi Bà:
Núi Bà là dãy núi gồm 66 đỉnh cao thấp khác nhau, uốn lượn đan xen gấp nếp của các mạch Trường Sơn đâm ra Biển Đông.
Nằm phía Đông Nam huyện Phù Cát, tổng diện tích khoảng 40km2, địa hình tự nhiên phong phú với thảm thực vật đa dạng, nơi tồn cư những quần thể động vật quý hiếm.
Các sử gia triều Nguyễn gọi Núi Bà là Phô Nghinh Đại Sơn. Quanh Núi Bà nhiều di tích khá nổi tiếng như miếu Bà, đền thờ Thần Núi, đá Vọng Phu, chùa Linh Phong với sự tích về Ông Núi, các giếng vuông, phế tích tháp cổ Champa.
Tháp cổ Hòn Chuông mà dân gian gọi Hòn Bà Chằng là di tích văn hóa Chăm xây trên khối đá to cao, kiến trúc duy nhất mà trong bản thống kê các di tích Chăm ở Trung Kỳ của người Pháp chưa được nhắc.
Núi Bà là căn cứ địa Cách mạng vững chắc của quân dân Bình Định chống Mỹ. Núi Bà có vị trí chiến lược khá quan trọng của Bình Định và đặc biệt ở Khu Đông, rất thuận tiện vận chuyển giao thông đường thủy, bộ.
Núi Bà là vị trí phòng ngự chiến lược, tiến công khi có thời cơ, làm chủ được Núi Bà có thể làm chủ Khu Đông Bình Định. Núi Bà làm căn cứ địa Cách mạng của Khu Đông.
Chống Pháp, Núi Bà chưa thành căn cứ, nơi đây hình thành các trụ bồ dọc ven biển báo động dân quanh vùng khi Pháp đổ bộ. 9 năm chống Pháp, các cơ sở Cách mạng Bình Định hầu hết đóng ở đây.
Suốt thời gian chống Mỹ, căn cứ Núi Bà ngày càng củng cố vững chắc, thành chỗ dựa cho lực lượng tỉnh, cũng như huyện Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Quy Nhơn.
Núi Bà như mẹ hiền che chở, nuôi giấu lực lượng Cách mạng suốt thời chiến tranh gian khổ. Núi Bà ghi nhận biết bao chiến công của cán bộ, chiến sĩ, ghi nhận hy sinh mất mát, khắc sâu tội ác của Mỹ-ngụy gây ra cho dân ta.
Ai từng sống, chiến đấu ở căn cứ Núi Bà không quên những kỷ niệm năm tháng chiến tranh. Những địa danh như khu 10, trạm xá Khu Đông, đồi Búp Sen, Vĩnh Hội, Hố Nhảy, hang Động Rừng, Sơn Rái.. là những hình ảnh không bao giờ quên.
Không địa danh nào ở đây lại không mang những kỷ niệm sâu sắc với những người từng sống, chiến đấu trên chiến trường Khu Đông.
Núi Bà với 22 điểm di tích đang bảo vệ gìn giữ, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa 25-1-1994 và UBND tỉnh lập đề án tôn tạo.
Di tích tôn giáo
Chùa Thập Tháp (Thập Tháp Di Đà)
Chùa Thập Tháp Di Đà cách TP. Quy Nhơn khoảng 28km, hòa thượng Nguyên Thiều dựng năm 1683, trên gò đất có 10 tháp Chàm.
Đây là chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế, trùng tu 1820, 1849, 1877, 1924. Chùa vẫn giữ tổng thể hài hòa, tôn nghiêm, cổ kính.
Nằm khuất trong vườn cây cổ thụ sum suê cành lá và quanh năm đắm chìm trong mầu xanh ao đầm, cây cỏ, chùa Thập Tháp từ lâu thành danh lam
thắng cảnh nổi tiếng, hút nhiều khách thập phương về cúng tế, lễ bái hoặc tham quan, khảo cứu vì là cổ tự xưa nhất ở miền trung.
Chùa nằm phía Bắc thành cổ Đồ Bàn, gần QL. 1 và cách TP. Quy Nhơn độ 28km. Xa xưa, trên gò đất cao ấy có mười tháp Chàm cổ kính nằm án ngữ mặt Bắc Đồ Bàn mới gọi gò Thập Tháp.
Từ khi vào trấn đất Thuận Hóa, mở mang bờ cõi xa dần về phía Nam, ngoài chăm lo chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa trong hơn 200 năm, các chúa Nguyễn coi trọng đạo Phật cho xây nhiều chùa, đúc nhiều chuông, nhiều tượng Phật.
Tế Viên hòa thượng, Giác Phong Lão Tổ đều là người Trung Hoa truyền bá đạo Phật ở Việt Nam.
Năm Ất Tỵ (1665) đời Chúa Nguyễn Phước Tần, có thiền sư Trung Hoa đến ở lại đất Quy Ninh để tìm đất cất chùa. Ông phá hủy 10 tháp Chàm bị sụp đổ, lấy gạch xây chùa thờ Phật gọi chùa Thập Tháp.
Chùa xây năm Quý Hợi (1683) niên hiệu Chính Hòa nhà Lê, thiền sư có công xây chùa là hòa thượng họ Tạ, húy Nguyên Thiều, quê Triều Châu, Quảng Đông. Ông tu về Thiền tông thuộc phái Lâm Tế.
1691, chùa được Lê Hiển Tông ban biển ngạch "Thập Tháp Di Đà tự". Sau khi xây chùa Thập Tháp Di Đà, hòa thượng Nguyên Thiều mở trường truyền đạo.
Ít lâu, ông giao đệ tử trông coi rồi ra Thuận Hóa lập chùa Phổ Thành ở Hà Trung, vào Gia Định lập chùa Giác Duyên, ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân.
1687-1691, phụng mệnh chúa Nguyễn về Trung Hoa tìm mời thêm các danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí về miền Trung Việt Nam.
Chùa Thập Tháp Di Đà xây gạch Chàm, lợp ngói Âm Dương, bốn vày, ba gian, hai chái, kiến trúc chữ khẩu, hai lớp tường bao bọc chung quanh.
Những khu chính của chùa gồm chính điện, khu phương trượng, khu Tây đường và Đông đường, dãy hành lang rộng lớn nối liền, bao bọc một sân rộng, có lát gạch vuông, bày đủ các thứ cây cảnh.
Khu chính diện, kết cấu chủ yếu là gỗ quý được chạm trổ rất tinh xảo, công phu với những họa tiết hoa cuộn, hoa sen, rồng, phượng cách điệu. Đầu tám hàng trụ cột, đầu kèo được chạm, trang trí cổ tự.
Ngoài công trình chính, cạnh chùa có 24 bảo tháp lớn nhỏ mang hình thái kiến trúc nhiều thời khác nhau. Trước chùa có ao sen rộng, xây đá ong xưa.
Trong chùa có ba tạng kinh, giấy khổ rộng, chữ to bằng ngón tay út. Bộ kinh cổ, có lẽ Nguyên Thiều thỉnh từ Trung Hoa sang lúc phụng mệnh chúa Nguyễn về nước cuối TK. 17.
Chùa có 2 tượng Hộ Pháp, 36 tượng La Hán bằng gỗ chạm khắc tinh vi. 36 tượng La Hán, mỗi vị cao nửa mét, thờ hai bên án cạnh bàn thờ Phật, mỗi bên 18 vị, mỗi vị có mặt và dáng điệu khác nhau.
Tượng Hộ Pháp đặt hai bên cửa vào cao 2m. Chuông đường kính 70cm, nặng 500kg, đúc từ 1893.
Tất cả chùa miền Trung xây từ thời các chúa Nguyễn, chùa Thập Tháp Di Đà là cổ nhất thuộc phái Lâm Tế, xem như chùa Tổ.
Về sau, Nguyên Thiều ra trụ trì ở Thuận Hóa tịch ở đó, đệ tử mới lấy chùa Quốc Ân làm chùa Tổ thay chùa Thập Tháp Di Đà.
Nguyên Thiều sau khi tịch (1729) được chúa Nguyễn Phước Chu ban thụy hiệu "Hạnh Đoan Thiền Sư", có bài minh khắc vào bia đá ca ngợi đạo đức của hòa thượng.
Nhiều lần trùng tu, tái tạo, cái cũ và cái mới đan xen, nhưng chùa vẫn giữ tổng thể hài hòa, tôn nghiêm cổ kính.
Trùng tu 4 lần. Lần trùng tu đầu tiên năm Minh Mạng thứ nhất (1820), lần 2 năm Kỷ Tỵ (1849) thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, lần 3 năm Bính Tuất (1877) thời Tự Đức và lần 4 năm Giáp Tý (1924) thời Khải Định.
1924, hòa thượng Phước Huệ là Tổ thứ 40 phái Lâm Tế và là Tổ thứ 13 phái Nguyên Thiều đứng ra xây dựng, mở rộng chùa, dựng thêm cổng tam quan như ngày nay (Theo ST)
Chùa Sơn Long (chùa Hang)
Chùa Sơn Long, dân địa phương quen gọi chùa Hang, lập hơn 300 năm, chùa cổ thứ nhì của tỉnh Bình Định, chỉ đứng sau chùa Thập Tháp (An Nhơn). Chùa Sơn Long nguyên là Giang Long thiền thất, tọa lạc trên sườn núi Trường Úc.
Sau đó, chùa tái thiết trên khu đất hình thang sát chân núi (Trường Úc), cách cầu Trường Úc khoảng 700m về hướng Đông, nay thuộc phường Nhơn Bình, TP. Quy Nhơn, gặp chùa cổ nép mình bên núi Trường Úc.
Cổng tam quan khiêm nhường hòa mình cùng hàng rào cây lá xanh mướt xưa kia nay lùi vào trong, nhường chỗ cho đôi cổng mới được thiết kế quy mô và hiện đại hơn nhưng chùa vẫn giữ những nét rêu phong, cổ kính ban sơ.
Kiến trúc chùa nhiều thay đổi nhưng khuôn viên vẫn như cũ. Mặt tiền hình cánh cung niễng, mặt hậu đất đá lồi lõm sát vách núi. Chính mộc mạc, hoang sơ của khuôn viên chùa phần nào tạo vẻ u huyền cổ kính cho chùa.
Tương truyền, dưới chân núi phía sau chùa, xưa kia có tảng đá rất lớn trông như miệng rồng có hàm trên, hàm dưới với một lưỡi nhỏ đưa ra ở giữa.
Những tiết hạn hán, các cụ tiên chỉ trong vùng thường đến đây ăn chay, đạp đất để cầu mưa thuận, gió hòa. Tảng đá đó có tên Hàm Long, nay không còn vì nạn chẻ đá.
Chùa có 15 mộ tháp lớn nhỏ, có những mộ vẫn giữ nét rêu phong, cũ kĩ mấy trăm năm trước, có mộ tháp trùng tu khang trang hơn.
Theo Đại Thích Đồng Đức trụ trì chùa, 1992, xây thêm tượng Bồ Tát Quan Âm ở hướng Tây. 1996, xây tượng Thích Ca Mầu Ni tọa thiền phía Tây Bắc.. mang lại sắc khí mới cho chùa.
Đến Sơn Long, chiêm ngưỡng tượng Phật Lồi 7 đầu rồng bằng đá nặng 1, 5 tấn, cao 3, 1m với chạm khắc hoa văn sau lưng.
Tượng của người Champa tạc từ TK. VIII.. Dù dáng khiêm tốn nhưng Sơn Long vẫn dập dìu khách phương xa đến thăm thú, lễ bái, vãn cảnh.. đặc biệt đầu năm mới.
Chùa Long Khánh:
Nằm trung tâm thành phố, một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Bình Định, nơi sinh hoạt lễ bái của giới tăng ni Phật tử và là điểm tham quan du lịch hấp dẫn cho khách gần xa khi đến với thành phố biển Quy Nhơn.
Chùa hình chữ "Khẩu" phía trước có chánh điện gồm thượng điện, hậu điện. Thượng điện thờ Phật A Di Đà và Quan Âm Chuẩn Đề.
Hậu điện thờ Phật Tổ Thích Ca. Hai bên có Đông phòng, Tây phòng. Hai dãy này dành riêng cho tăng ni. Phía sau là Tổ đình, thờ các vị khai sơn phá thạch.
Kiến trúc nguyên thủy của chùa không còn. Chùa hiện nay cơ bản xây lại năm 1956, hoàn thiện năm 1972. Phong cách kiến trúc mang dáng dấp kiểu chùa của cư dân miền Nam Trung Hoa.
Về giá trị kiến trúc, chùa không độc đáo, nhưng với lịch sử hình thành và phát triển của Quy nhơn, chùa có vị trí khá đặc biệt.
Minh văn khắc trên chuông và ghi chép trong cuốn Lịch sử chùa Long Khánh lưu tại chùa cho biết chùa thuộc thôn Vĩnh Khánh, phủ Quy Nhơn, do thiền sư Tích Thọ đời thứ 38 Thiền phái Lâm Tế tên Nguyễn Trinh Tường khởi dựng.
Chuông đúc năm Gia Long thứ 4, tức 1805. Điều này tương đối phù hợp với Đại Nam Nhất Thống chí.
Nhưng theo các nguồn tài liệu Phật giáo thì người có công khởi dựng chùa Long Khánh là thiền sư Đức Sơn. Thần vị hòa thượng này hiện thờ tại Tổ đình.
Ông là Tổ thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tông, sinh năm Kỷ Mùi, viên tịch 2 tháng Chạp năm Tân Dậu.
Theo các tài liệu Phật giáo, thiền sư Đức Sơn đến lập Tổ đình Long Khánh của dòng Lâm Tế, vùng đất này mang địa danh Quy Ninh.
Đối chiếu lịch sử, địa danh này tồn tại từ 1651 đến 1742. Trong chùa, ngoài chuông, có một hiện vật cổ được các sư tặng cho bảo vật của chùa.
Hòa thượng Đức Sơn đến Quy Ninh từ 1651 đến 1742, thời gian này chỉ có 1 năm Ất Mùi là 1715. Chùa Long Khánh xây muộn nhất là 1715, thời điểm Đức Sơn cho đúc chiếc khánh, không phải năm 1807 như Đại Nam Nhất Thống Chí và các tài liệu gần đây xác định.
Hòa thượng Nguyễn Trinh Tường không phải người kiến lập chùa mà là có công tôn tạo chùa, đúc chuông 1805.
Về hệ phái, hòa thượng Nguyễn Trinh Tường thuộc đời 38 dòng Lâm Tế và nếu Đức Sơn là Tổ thứ nhất thì ông là đời thứ 4 của Tổ đình Long Khánh.
Từ đây, kết luận chùa Long Khánh xây trên đất làng Vĩnh Khánh, phủ Quy Ninh khoảng năm 1715.
Giữa thế kỷ XVIII phủ Quy Ninh đổi thành Quy Nhơn, đến cuối TK. 19 làng Vĩnh Khánh đổi thành làng Cẩm Thượng, thuộc huyện Tuy Phước, phủ Quy Nhơn đổi thành tỉnh Bình Định.
Các tác giả Đại Nam Nhất Thống Chí ghép chùa Long Khánh vào địa danh cuối cùng này.
Dù bao lần trùng tu, tái tạo, chùa vẫn là Di tích Lịch sử - Văn hóa có giá trị. 1 trong 2 chùa niên đại cổ kính nhất ở Bình Định. Nay, khách gần xa đến chùa cảm giác tĩnh mịch, sâu lắng và tôn kính như thế giới hư vô cực lạc.
Chùa Linh Phong:
Chùa Linh Phong, còn gọi chùa Ông Núi, xây từ đời Lê, cách nay ngót 700 năm. Chùa ở lưng chừng núi phía Nam trong dãy Núi Bà thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát.
Tương truyền, năm Nhâm Ngọ đời Hiếu Minh Hoàng Đế thứ 11, một ông sư người Trung Hoa, pháp hiệu Thiện Trí đến dựng am nhỏ gọi Dũng Tuyền tự (chùa Suối).
Ông ở ẩn trong núi, ngày đêm tụng kinh niệm Phật nên dân làng gọi sư là Ông Núi.
Thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725), xuống chiếu cho làm lại chùa, đặt tên Linh Phong thiền tự, ban pháp danh cho sư khai sáng chùa là Tịnh Giáo Thiện Từ Đại Lão Thiền Sư. Nhà sư viên tịch thời Tây Sơn.
Phong cảnh chùa Linh Phong thật kỳ vĩ. Thủa xưa, chùa nằm dưới rừng cây cổ thụ, tịch mịch thâm u. Cây sống lâu đời, hình thù cổ quái, cao vút.
Quanh chùa, đá mọc ngổn ngang. Hòn đứng sừng sững giữa trời. Hòn chen chúc cùng cây cối. Có những hòn tạo thành hình cóc khổng lồ hoặc đôi trống mái đang âu yếm nhau.
Có những hòn đá lớn nhẵn nhụi nằm rải rác như đàn voi khổng lồ. Chùa cất ở lưng chừng nên sau chùa có núi cao ngất.
Nguồn nước trong mát từ các mạch trên đỉnh núi chảy xuống, dẫn đến chùa bằng 2 nhánh.
Từ cổng chùa nhìn xuống chân núi, thấy làng mạc xanh tươi, nhà cửa quần tụ. Xa hơn nữa, một phần đầm Thị Nại hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Sườn núi phía Đông có hang đá rộng ăn sâu lòng núi, nơi Ông Núi thường tu luyện. Đồn rằng trong hang có bàn đá, ghế đá và nhiều vật dụng đều bằng đá.
Có 2 con cọp mun hiền lành của thiền sư để lại. Thỉnh thoảng cọp ra khỏi hang tìm trái cây ăn chứ không bắt heo bò của dân.
Hang bỏ lâu đời, đường vào hang gai mọc lấp đầy nên giờ chẳng ai dám vào và cũng không thể vào được.
Chùa Linh Phong mấy lần đón Đào Tấn từ quan về tu ở đấy. "Bài ký chùa Linh Phong", Đào Tấn viết:
"Những năm vua Kiến Phước, Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về núi này, chùa này, một năm ở chùa quá nửa.."
Ông ghi câu đối ở đây:
Khói hoa một mớ trời dành sẵn
Ao biển mười năm mộng trở về.
Sau khi chùa đặt tên Linh Phong thiền tự, vua ban câu đối:
Bờ biển gặp duyên may, mưa pháp cùng trời thấm nhuần đất Phật;
Núi Linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn che chở người đời.
Năm thứ 3 Hiếu Võ Hoàng Đế nhà Tây Sơn, Ông Núi viên tịch, sư sãi an táng trong tháp cạnh chùa. Tháp cũng có câu đối ca ngợi cảnh chùa và công đức nhà sư.
Chùa Linh Phong được nhà nước công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa. Nhà nước cho phép xây lại chùa theo nguyện vọng của dân.
Nay, chùa Linh Phong sừng sững mái son nổi bật trên nền cỏ cây xanh biếc với tượng Phật Bà ngự giữa tòa sen trước sân chùa.
2 tòa tháp an táng các nhà sư cũng tu bổ lại. Ngày rằm, mồng 1, sư sãi và đệ tử khắp nơi về chùa dâng hương lễ Phật.
Tết và những ngày lễ lớn, ngày nghỉ, dân nô nức chen chân về chùa Linh Phong vãn cảnh, tham quan. Chùa nay thành địa chỉ du lịch khá hấp dẫn của Bình Định.
Nhà thờ chánh tòa Quy Nhơn - Kiến trúc tôn giáo đặc sắc vùng đất Bình Định
Nhà thờ chánh tòa Quy Nhơn (còn có danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời và còn có tên khác là nhà thờ Nhọn) tọa lạc 122 đường Trần Hưng Ðạo, TP. Quy Nhơn.
Nhà thờ khuôn viên khá rộng và trồng nhiều cây xanh, nằm đối diện với trục đường Lê Thánh Tông nên ngắm được nhà thờ từ đầu đường Nguyễn Huệ.
Kiến trúc hình mái vòm tuyệt đẹp bên trong nhà thờ chánh tòa. Cung thánh với trần vòm cao tạo vẻ đẹp thanh thoát. Nhà thờ là nơi diễn ra những buổi lễ quan trọng như "lễ phong chức" cho các linh mục.