Welcome! You have been invited by Ái Hạ to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem

Thùy Minh

Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!
Bài viết: 2022 Tìm chủ đề
10877 1,930
Bộ đề kiểm tra đọc hiểu các văn bản đồng dạng với văn bản trong sách giáo khoa 11 (Kết nối, Chân trời, Cánh diều) bao gồm hệ thống các câu hỏi phân bố theo 4 cấp độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao giúp các bạn học sinh củng cố lại phần kiến thức đã học và kỹ năng làm bài đọc hiểu:

Đọc hiểu truyện ngắn: Người ngựa, ngựa người - Nguyễn Công Hoan

Đọc đoạn trích sau:

Văn bản: Người ngựa, ngựa người (trích)


Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?

Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn lang thang phố nọ sang phố kia thế?

[..]

Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.

Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.

[..] Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà thương Phủ Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.

- Xe!

- Đây!

[..]

Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:

- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?

- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.

- Được.

- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.

Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để cắn.

Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới đánh bạo hỏi một câu rõ khôn:

- Bà tìm ai, thưa bà?

- Tôi tìm người quen.

- Người quen bà ở phố nào?

- Anh cứ kéo đi.

Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.

- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?

- Mười một giờ kém năm.

- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.

- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?

- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.

- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?

Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo [..] . Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.

- Mấy giờ rồi, thưa bà?

- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.

[..] Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:

- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.

Bà khách có ý luống cuống, nói:

- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.

- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.

- Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?

- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?

- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?

- Tôi kéo cô lên Cẩm.

- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!

- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!

[..]

Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:

- Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.

Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế [..] . Anh gõ cửa gọi.

Người bồi săm ra.

- Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ở buồng nào?

- Chả có buồng nào có khách cả.

- Thế người con gái ấy đâu?

- Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?

- Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?

Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.

[..]

Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng, toạch toạch..

11-2-1931

(Nguyễn Công Hoan, Trích Người Ngựa - Ngựa Người )

Tác giả Nguyễn Công Hoan:

- Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan miêu tả chân thực bức tranh về những tháng ngày gian khó của dân tộc cũng như nỗi thống khổ mà đồng bào ta lúc bấy giờ phải gánh chịu. Khi viết về đề tài thôn quê, ông đã thẳng thắn dùng ngòi bút của mình để phê phán bọn cường hào cũng như chế độ thực dân nửa phong kiến đã khiến dân ta chịu nhiều áp bức, bất công với giọng văn trào phúng và châm biếm.

- Với những cống hiến hết mình cho nghệ thuật, năm 1960 Nguyễn Công Hoan đã được nhắc đến trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô, không những thế ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật vào năm 1996.

Truyện ngắn Người Ngựa - Ngựa Người

- Người Ngựa - Ngựa Người là một tác phẩm nổi bật của Nguyễn Công Hoan kể về số phận của những người lao động nghèo, thông qua câu chuyện đầy trớ trêu của anh phu xe, tác giả đã chỉ ra những mặt trái của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.

- Không chỉ vậy, câu chuyện còn chứng tỏ tài năng trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn.

53421523075_7dc12b32a2_o.jpg

Trả lời câu hỏi:

Câu 1. Xác định ngôi kể, điểm nhìn, nhân vật chính trong truyện.

Câu 2. Chỉ ra các yếu tố không gian, thời gian trong truyện. Nêu tác dụng của các yếu tố này.

Câu 3. Tóm tắt ngắn gọn cốt truyện.

Câu 4. Cuộc sống của nhân vật anh phu xe được miêu tả như thế nào?

Câu 5. Truyện kể lại tình huống gì của nhân vật chính?

Câu 6. Nhận xét về giọng điệu và ngôn ngữ được sử dụng trong truyện.

Câu 7. Nhận xét nét đặc sắc trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan.

Câu 8. Khái quát nội dung chính của truyện.

Gợi ý trả lời câu hỏi:

Câu 1.

- Ngôi kể: Thứ 3.

- Điểm nhìn: Toàn tri (điểm nhìn của người kể chuyện).

- Nhân vật chính trong truyện: Anh phu xe.

Câu 2.

- Các yếu tố không gian, thời gian trong truyện:

+ Không gian: Đường phố vắng vẻ;

+ Thời gian: Đêm giao thừa

- Tác dụng của các yếu tố không gian, thời gian: Nhấn mạnh hoàn cảnh đáng thương của các nhân vật: Thời điểm giao thừa là lúc mọi người đoàn viên, đón Tết thì cả hai nhân vật đều phải ra đường kiếm sống, vất vả mưu sinh.

Câu 3. Tóm tắt truyện Người Ngựa - Ngựa Người:

Nhân vật chính là anh phu xe, anh mới trải qua một trận ốm nặng, tiền của dành dụm bấy lâu đều mất hết, nên phải làm việc chăm chỉ gấp đôi để lo cho vợ con có cơm ăn, áo mặc. Đêm ba mươi Tết, khi tất cả mọi người đều đang quây quần bên gia đình thì anh vẫn phải vác xe đi tìm khách. Đang lúc ế khách, ah được một cô gái điếm thuê xe. Cô thuê xe để tìm khách, nhưng cô không có khách nên cuối cùng phải bỏ trốn, quỵt tiền xe anh phu.

Câu 4. Cuộc sống của nhân vật anh phu xe được miêu tả: Anh phu vừa mới ốm dậy, trận ốm thập tử nhất sinh khiến anh không thể kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả. Anh cố vay mượn mua được cái xe để chạy khách kiếm tiền cho các con, thì cuốc xe đêm giao thừa lại bị quỵt tiền.

=> Cuộc sống nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương.

Câu 5. Tình huống truyện:

- Cuộc gặp gỡ tréo ngoe giữa anh phu xe cùng quẫn và cô gái điếm ế khách vào đêm 30 Tết, trong khoảnh khắc giao thừa. Họ dựa vào nhau để kiếm tiền nhưng cuối cùng cô gái điếm không có khách, anh phu bị cô quỵt tiền.

- Tình huống truyện được tác giả xây dựng tuy đơn giản nhưng vẫn chứa đựng tinh thần nhân văn và phong cách trào phúng đặc trưng của nhà văn. Qua đó, Nguyễn Công Hoan đã làm nổi bật lên thái độ phê phán xã hội bất công cùng sự xót thương cho những kiếp người nghèo khổ.

Câu 6. Nhận xét về giọng điệu và ngôn ngữ được sử dụng trong truyện:

- Giọng điệu: Hài hước, châm biếm nhưng chua xót, cảm thương đã để lại cho độc giả nhiều suy ngẫm về phận đời của những con người đáng thương ở xã hội thực dân nửa phong kiến.

- Ngôn ngữ: Mộc mạc, đời thường, giản dị => tái hiện thành công bối cảnh hiện thực của Việt Nam dưới chế độ thực dân nửa phong kiến trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 7. Nét đặc sắc trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan:

- Nhân vật anh phu xe được đặt trong tình huống éo le: Đang ế khách, bỗng dưng vui mừng vì có khách, cuối cùng khách quỵt tiền - tận cùng của sự khốn khổ.

- Nhân vật chủ yếu được miêu tả qua các đối thoai sinh động, tự nhiên, đậm chất người lao động.

- Nhân vật được xây dựng với tính cách đơn giản một chiều nhưng lại phù hợp với mạch truyện và tình huống truyện.

Câu 8. Khái quát nội dung chính của truyện:

+ Truyện phản ánh hiện thực về cuộc sống nghèo khổ của những người lao động trước Cách mạng tháng Tám (giai đoạn nước ta đang chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, cuộc sống của những người lao động lúc đó vô cùng cực khổ và họ phải chịu vô vàn bất công, thiệt thòi)

+ Qua đó tố cáo xã hội bất công; thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót và sự trân trọng ước mơ của con người về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 2022 Tìm chủ đề
Đọc hiểu: Bến quê - Nguyễn Minh Châu

Đọc đoạn văn bản:

Văn bản: Bến quê (trích) :

[..]

Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.

[..]

Chờ Liên (vợ Nhĩ) xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:

- Tuấn, Tuấn à! Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch.

Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dày cộm gập đôi:

- Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!

- Chưa.. - đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.

Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:

- Đã bao giờ Tuấn.. sang bên kia chưa hả?

- Sang đâu hả bố?

- Bên kia sông ấy!

Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:

- Chưa..

Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:

- Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố..

- Để làm gì ạ?

- Chẳng để làm gì cả. - Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra quá ư kì quặc - Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về..

Anh con trai cười:

- Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?

- Hay là thế này nhé. - Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến - Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.

Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phòng đến trưa có thể nắng to - theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ - giắt vào người mấy đồng bạc. [..]

Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước. [..] Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn không tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.

Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết. Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm.. Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Con đò đã sang quá nửa sông, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.

[..] Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.

Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.

(Nguyễn Minh Châu, TríchBến quê, NXB Hội nhà văn 1991)

Tác giả Nguyễn Minh Châu:

- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), là nhà văn quân đội, một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ.

- Từ sau 1975, nhất là từ đầu những năm 80 - thế kỉ XX, ông đã trăn trở đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần đổi mới văn học nước nhà..

Tác phẩm Bến quê:

- "Bến quê" được lấy làm tựa đề cho tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu xuất bản năm 1985.

- Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, truyện "Bến quê" gửi gắm những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương.

- Truyện thành công trong việc tạo dựng tình huống nghịch lí, trần thuật qua dòng nội tâm nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu giàu chất suy tư, hình ảnh mang tính biểu tượng.

53421428464_d65936e6c5_o.jpg

Trả lời câu hỏi:

Câu 1.
Xác định ngôi kể, điểm nhìn trong truyện. Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật nào?

Câu 2. Nhân vật chính trong truyện là ai? Nhân vật được miêu tả trong những hoàn cảnh trái ngược như thế nào?

Câu 3. Nhân vật Nhĩ suy nghĩ, cảm nhận như thế nào về vợ mình trong những ngày nằm liệt? Suy nghĩ đó nói lên nhận thức gì của Nhĩ?

Câu 4. Nhìn bãi bồi bên sông, Nhĩ khao khát điều gì?

Câu 5. Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh bến quê, bãi bồi, những bông hoa bằng lăng cuối mùa, hình ảnh đứa con trai của Nhĩ sa vào đám chơi cờ thế.

Câu 6. Hình ảnh Nhĩ cố đu mình, nhô người ra khỏi khung cửa sổ giơ cánh tay gầy guộc khoát khoát thể hiện điều gì?

Câu 7. Nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện.

Câu 8. Triết lí nhân sinh rút ra từ câu chuyện trên là gì?

[COLOR=rgb(0, 102, 102) ]Gợi ý trả lời câu hỏi:[/COLOR]

Câu 1.

- Ngôi kể: Thứ 3.

- Điểm nhìn: Toàn tri (điểm nhìn của người kể chuyện).

- Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật Nhĩ.

Câu 2. Nhân vật chính trong truyện là: Nhĩ. Nhân vật được miêu tả trong những hoàn cảnh trái ngược:

+ Khi còn trẻ thì đi ngao du khắp nơi, khắp các chốn trên thế giới.

+ Hiện tại lại mắc bệnh hiểm nghèo, không còn khả năng đi lại, sinh hoạt hoàn toàn phụ thuộc vào vợ con.

Câu 3.

- Trong những ngày nằm liệt, nhân vật Nhĩ suy nghĩ, cảm nhận về vợ mình:

+ Nhĩ suy nghĩ về vợ, cảm nhận được vẻ đẹp của người vợ trong những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh.

+ Nhĩ xót xa vô cùng khi thấy Liên mặc tấm áo vá và phải chịu bao vất vả, lo toan

+ Liên đã tần tảo, hi sinh thầm lặng suốt đời vì chồng con, vì gia đình.

- Suy nghĩ đó nói lên nhận thức của Nhĩ: Nhĩ nhận ra vẻ đẹp bình dị, mộc mạc chân thành của vợ mình và thấm thía tình cảm gia đình mãi mãi là ấm áp, hạnh phúc và là nơi nương tựa vững chắc nhất.

Câu 4.

Khoảnh khắc nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên sông cũng là lúc trong Nhĩ bừng lên một niềm khao khát cháy bỏng đó là được đặt chân lên bãi bồi đó. Khát vọng rất bình dị nhưng đã trở nên đặc biệt trong hoàn cảnh của anh lúc này - đó là một điều vô vọng => thể hiện sự thức tỉnh xót xa của Nhĩ.

Câu 5. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh:

- Hình ảnh bến quê (ngay ở nhan đề tác phẩm) gợi ra từ hình ảnh thực: Thuyền – bến, nơi neo đậu, đi về của những con thuyền, con đò khái quát thành nghĩa biểu tượng nơi bến đỗ của đời người, chốn đi về, nơi nương dựa của mỗi người, đó chính là gia đình, quê hương..

- Hình ảnh của bãi bồi bên kia sông, hàng năm vẫn bồi đắp phù sa màu mỡ nuôi cây lá xanh tươi. Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: Vẻ đẹp của cuộc sống quê hương, những cái thật gần gũi, bình dị, quen thuộc, bãi bồi cũng như đức hi sinh thầm lặng của Liên suốt đời bồi đắp, chăm chút cho chồng con. Và thật trớ trêu: Dòng sông bên lở, bên bồi, Nhĩ vô tình quên lãng thì Liên lại là người bồi đắp.

- Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, một màu tím thẫm như bóng tối mang theo dấu hiệu của sự tàn phai, tiêu biến. Cái tàn lụi bỗng trở nên gấp gáp, nhẫn tâm khi nó gắn với tâm trạng và cảnh ngộ của Nhĩ; những tảng đất lở bên này sông, khi cơn lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ òa vào giấc ngủ của Nhĩ, gợi ra sự sống đang bị thời gian khoét dần đi, lở lói, xót xa..

- Hình ảnh đứa con trai của Nhĩ sa vào đám chơi cờ thế bên lề đường gợi ra điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo, thờ ơ, vô tình, hay toan tính mà trên đường đời người ta khó tránh khỏi.

Câu 6. Hình ảnh Nhĩ cố đu mình, nhô người ra khỏi khung cửa sổ giơ cánh tay gầy guộc khoát khoát:

- Nhắc nhở người con nhanh chóng qua sông, thực hiện ước nguyện của bố.

- Nhận thức của Nhĩ: Con người sẽ bỏ lỡ mất cơ hội nếu cứ vướng vào những thứ chùng chình không đâu.

Câu 7. Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện: Ngôn ngữ trong truyện là thứ ngôn ngữ đời thường, giản dị; những đối thoại gần gũi bộc lộ chân thật những tâm tư của nhân vật.

Câu 8. Triết lí nhân sinh rút ra từ câu chuyện:

- Vẻ đẹp, ý nghĩa cuộc sống không phải tìm ở đâu xa, mà tồn tại ngay bên cạnh mình.

- Sự chùng chình của con người có thể bỏ lỡ những điều đáng quý..
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 2022 Tìm chủ đề
Đọc hiểu: Bức tranh - Nguyễn Minh Châu

Đọc văn bản sau:

Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?

- Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ: "Chân dung chiến sĩ giải phóng". Thật là danh tiếng quá!

- Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức "chân dung chiến sĩ giải phóng" đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm!

"A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả.. Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!".

Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:

- Bác đến cắt tóc?

- Vâng.

- Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.

Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.

- Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?

Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:

- Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.

- Anh ấy nói với chị thế?

- Vâng.

- Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ..

- Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?

- Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?

- Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.

- Vì sao?

- Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài..

- Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?

- Từ 69.

- Từ tháng mấy?

- Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.

Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?

[..] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:

- Thưa ông đến cắt tóc?

- Vâng ạ!

Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.

Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.

- Mời bác ngồi!

Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.

- Bác vẫn cắt như cũ?

- Vâng.

..

"Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?"

"Phải".

"Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?"

"Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội".

"Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!"

"Không".

"Tôi có phải cút khỏi đây không?"

"Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!"

Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.

Bây giờ thì cái tác phẩm mới của tôi đã hoàn thành. Tôi đang đối mặt với chính mình, để viết những dòng này, như những lời chú giải cho một tác phẩm hội họa thể hiện một cái mặt người rất lớn: Những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: Dưới cằm và hai bên mép phủ kín bọt xà phòng. Không trông rõ miệng, chỉ thấy một vệt mầu đen lờ mờ nổi bồng bềnh trên những đám bọt xà phòng. Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.

(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, 1983)​

53421247346_d2a94c3e37_o.jpg

Trả lời câu hỏi:

Câu 1.
Xác định ngôi kể, điểm nhìn trong truyện.

Câu 2. Giới thiệu nhân vật chính và mối quan hệ của các nhân vật đó.

Câu 3. Nêu tác dụng của việc đẩy điểm nhìn sang nhân vật "tôi".

Câu 4. Theo em, nhân vật "tôi" day dứt, hối hận vì lẽ gì?

Câu 5. Theo em, đoạn đối thoại sau có phải là đối thoại trực tiếp giữa nhân vật tôi và người thợ cắt tóc không? Tác dụng của việc dựng đoạn đối thoại này?

"Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?"
"Phải".
"Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?"
"Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội".
"Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!"
"Không".
"Tôi có phải cút khỏi đây không?"
"Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!"


Câu 6. Nhận xét về nhân vật người thợ cắt tóc trong đoạn trích trên.

Câu 7. Theo em, nhân vật tôi là người như thế nào?

Câu 8. Rút ta tư tưởng chủ đề và triết lí nhân sinh từ đoạn trích.

Gợi ý trả lời câu hỏi:

Câu 1.


Ngôi kể: Ngội thứ nhất – xưng tôi

Điểm nhìn từ nhân vật tôi và điểm nhìn xây dựng từ bên trong.

Câu 2.

- Nhân vật chính:

+ Người họa sĩ, đó là một anh chàng nghệ sĩ tài năng, anh ta vốn nghiêm túc với nghệ thuật và công việc.

+ Người thợ làm nghề cắt tóc sau thời gian đi bộ đội trở về.

- Mối quan hệ:

Nhân tôi là người nghệ sĩ từng vẽ bức tranh chàng trai là bộ đội lúc bấy giờ với thông tin anh bộ đội đã mất. Ngày giải phóng, người nghệ sĩ ghé quán cắt tóc đúng quán anh bộ đội ngày xưa mở ra à Mối quan hệ giữa nhân vật tôi và anh thợ cắt tóc, người bộ đội ngày xưa chính là sự áy náy, khó xử khi biết mình chính là một trong những lí do khiến mẹ anh khóc mù hai mắt vì thương nhớ con (tưởng con đã hi sinh)

Câu 3. Tác dụng của việc đẩy điểm nhìn sang nhân vật "tôi" : Nhân vật tôi là người trực tiếp tham gia câu chuyện, có mối quan hệ với các nhân vật khác, vì vậy việc đẩy điểm nhìn từ phía nhân tôi sẽ giúp cho câu chuyện trở nên chân thật và theo mạch cảm xúc của nhân tôi. Đồng thời, xây dựng điểm nhìn từ bên trong cho thấy được những cảm xúc day dứt, dằn vặt, dày vò khôn xiết của nhân vật tôi, những đoạn chiêm nghiệm về triết lí cuộc đời hay những cuộc đối thoại giữa mình và anh thợ cắt tóc khiến cho nhân vật tôi cảm thấy hoang mang, e ngại và lo sợ.

Câu 4. Theo em, nhân vật "tôi" day dứt, hối hận vì không kịp thời mang bức tranh vẽ chân dung anh chiến sĩ về cho mẹ anh ấy cùng lời nhắn anh vẫn còn sống. Sự chậm trễ này khiến bà mẹ anh chiến sĩ đau khổ, khóc con (tưởng con hi sinh) mà bị mù lòa.

Câu 5: Đoạn đối thoại trên không phải là đối thoại trực tiếp trong thực tế mà là đối thoại trong tưởng tượng của nhân vật tôi. Lời đối thoại có phần trách móc của anh thợ cắt tóc với chính mình. Qua đoạn đối thoại tưởng tượng này, ta thấy được sự dằn vặt trong tâm trí người nghệ sĩ khi biết có thể bản thân chính là nguyên nhân khiến mẹ anh thợ cắt tóc bị mù.

Câu 6. Nhận xét về nhân vật người thợ cắt tóc trong đoạn trích trên:

Mặc dù người họa sĩ thất hứa, nhưng anh thợ cắt tóc vẫn đối xử điềm đạm, không trách mắng, không nhắc lại chuyện cũ..

Qua đây, có thể thấy anh thợ cắt tóc, cũng là anh chiến sĩ xưa là người điềm đạm, bao dung, sẵn sàng tha thứ cho người khác.

Câu 7. Theo em, nhân vật tôi vừa là người tốt, biết nhận lỗi, biết tự trách bản thân sau khi thất hứa. Nhưng "tôi" cũng thể hiện là người hám công danh, vì sự nghiệp, danh tiếng của mình mà thất hứa với người đã giúp đỡ mình. Đây là kiểu nhân vật đa nhân cách.

Câu 8. Rút ta tư tưởng chủ đề và triết lí nhân sinh từ đoạn trích.

- Tưởng chủ đề: Truyện đề cao sự chính trực, đạo đức của con người.

- Triết lí nhân sinh: Nghệ thuật phải sinh ra trong đạo đức và duy trì đạo đức để làm nghệ thuật.
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back