Ngôn chí 9 Sang cùng khó bởi chưng trời, Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi. Rửa lòng thanh, vị núc nác, Vun đất ải, rãnh mùng tơi. Liêm cần tiết cả tua hằng nắm, Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời. Con cháu chớ hiềm song viết ngặt, Thi thư thực ấy báu nghìn đời. Cước chú: lặn mọc: nổi chìm, thăng trầm núc nác: cây thân gỗ, lá chỉ có ở ngọn, mọc đối, quả dài và dẹp dùng làm thuốc, trị các chứng nhiệt đất ải: đất mục, tơi rãnh: luống liêm: trong sạch, ngay thẳng, không tham của. cần: từ đơn tiết dùng độc lập, chăm chỉ. tiết: khí tiết cả: to lớn tua: nên hằng nắm: luôn nắm giữ mựa: chớ, không chớ hiềm: chớ ngại song viết: song viết (hai chữ viết 曰, hoặc hai chữ nhật) là chữ xương (昌). xương có nghĩa là "hưng thịnh, xương thịnh, phúc khánh"; nghĩa khác: sống (nghĩa trong bài thơ) ngặt: cùng túng, hết thế thi thư: nói tắt của Kinh Thi và Kinh Thư, hai bộ kinh điển của nho gia. thực: đúng là
Ngôn chí 10 Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa sày, Có thân chớ phải lợi danh vây. Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén, Ngày vắng xem hoa bợ cây. Cây cụm chồi cành chim kết tổ, Ao quang mấu ấu cá nên bầy. Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế, Nừng một ông này, đẹp thú này. Cước chú: sày (có bản chép là thày): thầy chùa, thầy sư chớ phải: chớ bị, chớ để vây: vây hãm, bủa vây, ràng buộc hớp: uống bợ cây: nâng niu, chăm sóc cây cụm: trồng cây thành cụm, mọc thành cụm mấu ấu: củ ấu, hai đầu cong lên như sừng trâu tiêu sái: thảnh thơi, tự do tự tại, không bị trói buộc bởi tục luỵ. nừng (có bản chép là năng): ít, chỉ, chỉ có
Ngôn chí 11 Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân, Trúc rợp hiên mai quét tục trần. Nghiệp cũ thi thư hằng một chức, Duyên xưa hương hoả tượng ba thân. Nhan Uyên nước chứa, bầu còn nguyệt, Đỗ Phủ thơ nên bút có thần. Nợ quân thân chưa báo được, Hài hoa còn bện dặm thanh vân. Cước chú: Câu 1: tích kể: Chu Mậu Thúc người đời Tống, thường để cỏ mọc tràn ngoài sân, không bao giờ phát quang, tự nói dữ tự gia ý tứ nhất ban, ý nói để cho cỏ xanh sinh trưởng tự nhiên cũng như ý tứ của mình vậy. Ở đây chỉ cảnh giới của ẩn sĩ, đạo tâm hoà nhập làm một với thiên tâm. Con người tuỳ thuận hoàn toàn theo quy luật của thiên nhiên cây cỏ. thi thư: nói tắt của Kinh Thi và Kinh Thư, hai bộ kinh điển của nho gia chức: vị trí, lưu tích trong chức vị tượng: có lẽ, dường như, tuồng như ba thân: <Phật> thân kiếp trước, hiện tại, và tương lai, dịch chữ tam sinh 三生. bện: vướng víu dặm thanh vân: có khi còn dịch là dặm mây xanh, chỉ đường công danh
Ngôn chí 12 Thân hèn dầu tới dầu lui, Thua được bằng cờ, ai kẻ đôi. Bạn cũ thiếu: ham đèn miễn sách, Tính quen chăng: kiếm trúc cùng mai. Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh, Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi. Con cháu mựa hiềm song viết tiện, Nghìn đầu cam quýt ấy là tôi. Cước chú: thua được bằng cờ: thắng thua như khi chơi cờ kẻ: người đôi: cãi gay gắt với nhau, đôi co, đôi tranh. ham: thích miễn: lẫn, và, với cày chống: (hoặc "chống cày") được coi như là một biểu tượng cho cuộc sống tự trồng trọt (tạc tỉnh canh điền) nuôi thân của các ẩn sĩ; cày chống tuyết: cái cày chống lên tuyết ngâm: ngâm nga, ngâm thơ đòi: nhiều mựa hiềm: chớ sợ, không sợ song viết: của cải, tư nghiệp, cuộc sống tiện: ít (hà tiện) nghìn đầu cam quýt (điển tích): chỉ gia sản ít ỏi.
Ngôn chí 13 Tà dương bóng ngả khuở giang lâu, Thế giới đông nên ngọc một bầu. Tuyết sóc treo, cây điểm phấn, Quỹ đông giãi, nguyệt in câu. Nhạn triện hư không gió thâu. Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ, Trời ban tối ước về đâu. Cước chú: khuở: khoảng thời gian, như "khi", "lúc", "thời" giang: sông; lâu: lầu cao đông: đóng thành, đọng thành, kết thành nên: làm bổ ngữ kết quả, có nghĩa là thành ngọc: loại đá đẹp, nhuần sáng và quý hiếm, hay dùng trong văn chương để trỏ sự trang trọng, đẹp đẽ. bầu: loại cây ăn quả thuộc họ bí, thân leo, quả khô lấy vỏ làm đồ đựng nước, rượu. tuyết sóc: tuyết phương bắc quỹ: bóng mặt trời, mặt trăng, trỏ nhật nguyệt nói chung. đông: đóng thành, đọng thành, kết thành. triện: khắc, chạm, (bóng) như khắc hình. thâu: thu lại, gom lại khứng (khẳng): có thể, biểu thị sự đồng ý, thuận ứng, vui lòng, sẵn lòng làm gì.
Ngôn chí 14 Bề sáu mươi dư tám chín thu, Lưng gày da sảy, tướng lù cù. Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào Hứa, Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng Chu. Bát cơm xoa, nhờ ơn xã tắc, Căn lều cỏ, đội đức Đường Ngu. Tơ hào chẳng có đền ơn chúa, Dạy láng giềng mấy sĩ nho. Cước chú: bề: quãng tuổi nhất định. lưng gày: lưng gầy gò (trái với béo tốt) da sảy: da mẩn mụn lù cù: già nua, dáng còng, cù xuống Lâm tuyền: Rừng và suối Sào Hứa: Sào Phủ và Hứa Do. Hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Được. Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, sào phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời: "ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua ." sào phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, sào phủ đáp: "anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhầm." sào phủ lại nói: "anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi." huỳnh tịnh của phê rằng, "nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe." (huỳnh tịnh của - chuyện giải buồn). Tích sào phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật. Khổng Chu: Khổng Tử, Chu Công - Những người tài giỏi, đấng trọng thần. xoa: (cơm gạo) đen, hẩm, trái với bạc đội đức Đường Ngu: nhờ ơn đức Đường Ngu (Đường Nghiêu (Đào Đường) và Nghiêu Thuấn (Hữu Ngu) hai đời vua thịnh trị theo quan niệm của nho gia) tơ hào: Mảy may sĩ nho: Nho sĩ
Ngôn chí 15 Am cao am thấp đặt đòi tầng, Khấp khểnh ba làn, trở lại bằng. Quét trúc bước qua lòng suối, Thưởng mai về đạp bóng trăng. Phần du lịu điệu thương quê cũ, Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng. Một phút thanh nhàn trong khuở ấy, Thiên kim ước đổi được hay chăng? Cước chú: Am: là căn nhà nhỏ, nhà tranh. Đặt: sắp đặt, sắp xếp Đòi: Nhiều Quét trúc: Lấy gậy trúc, cành trúc dò đáy nước để biết nông sâu mà lội qua Thưởng mai: ngắm hoa mai Đạp: bước chân lên; đạp bóng trăng: chân đi trên bóng trăng in dưới đất. Phần du: Quê hương (Phần Du: Tên làng của Hán Cao Tổ, lấy tên cây phần du mà đặt tên làng) Lịu điệu ( có bản chéplẽo đẽo): Cứ vất vả đeo bám mãi, không dứt ra được, cứ mắc míu mãi, âm cổ của lẽo đẽo. Bù trì: Săn sóc, vun xới Việc hằng: việc làm hàng ngày, thường xuyên Thiên kim: ngàn vàng
Ngôn chí 16 Tham nhàn lánh đến giang san, Ngày vắng xem chơi sách một an. Am rợp chim kêu hoa xảy động, Song im hương tịn khói sơ tàn. Mưa thu rưới ba đường cúc, Gió xuân đưa một rãnh lan. Ẩn cả lọ chi thành thị nữa, Nào đâu là chẳng đất nhà quan. Cước chú: an: âm Việt hoá của án trong án đọc sách, "an sách: yên sách" xảy: rụng động: trái với tĩnh song: cửa sổ tịn: hết sơ: hơi, mới bắt đầu, ban đầu đường: lối đi rãnh: luống ẩn cả: đại ẩn lọ chi: cần chi nhà quan: lời bề tôi tôn xưng nhà vua
Ngôn chí 17 Dụt xông biếng tới áng can qua, Địch lều ta dưỡng tính ta. Song viết hằng lề phiến sách cũ, Hôm dao đủ bữa bát cơm xoa. Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc, Ngày vắng chim kêu cuối cụm hoa. Quân tử hãy lăm bền chí cũ, Chẳng âu ngặt chẳng âu già. Cước chú: dụt: ngại, e, dụt dè, dút dát. áng: chốn tập hợp nhiều người can qua: chiến tranh loạn lạc địch lều: dựng lều song viết: sống lề: làm theo lệ theo thói cũ. hôm dao: buổi sáng cơm xoa: (cơm gạo) đen, hẩm, trái với bạc (cơm trắng). lăm: định, toan (lăm lăm làm gì đó) âu: âu lo; ư tư ngặt: khó khăn, ngặt nghèo già: tuổi già
Ngôn chí 18 Thương Lang mấy khóm một thuyền câu, Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu. Nguyệt mọc đầu non kình dỏi tiếng, Khói tan mặt nước thẩn không lầu. Giang san dạm được đồ hai bức, Thế giới đông nên ngọc một bầu. Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa, Vui xưa chẳng quản đeo âu. Cước chú: Thương Lang: dòng nước trong xanh, nơi Khuất Nguyên gặp ngư phủ. khóm: khoảnh, khoảng không gian rộng kình: chày hình con cá kình, dùng để gióng chuông. dỏi: vang, kêu thẩn: rồng biển, điệp thức của 辰 thìn (con rồng). Sách Bản Thảo ghi: "Thẩn thuộc loài giao long, mình như rắn nhưng lớn, sừng như sừng rồng, bờm đỏ, từ eo xuống toàn vẩy ngược, ăn chim yến. Có thể thở ra khí trong như lâu đài thành quách, sắp mưa thì hiện ra, nên gọi là thẩn lâu." dạm: vẽ đồ: bức tranh đông: đóng thành, đọng thành, kết thành nên: làm bổ ngữ kết quả, có nghĩa là thành ngọc: loại đá đẹp, nhuần sáng và quý hiếm, hay dùng trong văn chương để trỏ sự trang trọng, đẹp đẽ. bầu: loại cây ăn quả thuộc họ bí, thân leo, quả khô lấy vỏ làm đồ đựng nước, rượu. ắt: nhất định bằng: ngang với Văn Chính: thuỵ của Phạm Trọng Yêm (989 - 1052), tự là Hy Văn 希文, người huyện ngô, là chính trị gia, văn học gia đời Nam Tống, tình tình ngay thẳng, cương trực...