Truyện Ma Dòng Họ Bị Nguyền Rủa - Hồi Ức

Thảo luận trong 'Truyện Drop' bắt đầu bởi Hồi Ức second, 16 Tháng hai 2022.

  1. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 10: Chứng Nào Tật Nấy

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày thứ hai, khi Dần và Phụng vừa từ chợ trở về thì ông Bổng lại hớt hải nói:

    - Hai vị sư phụ, trong họ nhà tôi lại xảy ra chuyện, tôi không dám kinh động đến cụ. Hai vị có thể đi cùng tôi một chuyến hay không?

    Dần và Phụng nhìn nhau rồi nói:

    - Đương nhiên là được. Ông mau dẫn đường đi.

    Ông Bổng gật đầu hối hả đi trước, hai thanh niên bước theo sau. Ông Bổng dẫn anh em Dần, Phụng tới nhà một người tên Phán, người này gọi ông Bổng là Bác.

    Ba người vừa tới cổng đã nghe thấy tiếng Phán hú hét ở trong nhà, còn cổng thì bị đóng chặt. Mấy người hàng xóm đứng lố nhố bên ngoài, vừa nhìn thầy ông Bổng thì chỉ vào bên trong mà nói:

    - Kìa, ông Bổng tới rồi, tới rồi.. mau tìm cách cứu thằng cháu ông, chứ con vợ nó bị ma nhập hay sao ấy, cổng lại không thể mở chúng tôi không vào ứng cứu được.

    Ông Bổng gọi lớn:

    - Phán.. Phán, bác đây, mau mở cổng.

    Trịnh Phán lao ra ngoài tay hắn bám vào cổng giật mạnh, vừa giật vừa la:

    - Cổng không khóa bác ơi.. ớ ớ..

    Chỉ nói có thế, Phán lại chạy trối chết, đằng sau Phán là một người đàn bà dáng người nhỏ nhắn đuổi theo sau, ông Bổng cho biết đó là vợ Phán. Nhìn cảnh này ai cũng khó hiểu, tại sao một gã lực điền như Phán mà phải sợ cô vợ bé người thế kia? Giữa sân nhà Phán có đặt hòn non bộ cho nên Phán và vợ gã cứ chạy vòng tròn kẻ trước người sau như mèo đuổi chuột. Để ý kĩ có thể thấy người đàn bà vừa chạy vừa lắc lư cái đầu trông hệt như đầu rắn. Dần thầm nghĩ: "Mãng xà nhập sao?". Lại thấy, rõ ràng rằng cổng không hề khóa nhưng dù thế nào cũng không mở nổi. Trong lúc ông Bổng và Phụng thi nhau lấy đà đạp cổng thì Dần mở tay nải, lấy ra một lá phù viết bằng mực chu sa, chắp tay niệm chú tung về phía trước. Là bùa lập tức dán vào cánh cổng đúng lúc ông Bổng và Phụng lao tới, cổng bất ngờ được mở, hai người kia ngã chúi vào trong.

    Trịnh Phán thấy ông Bổng đã phá được cổng mà vào thì mừng hơn bắt được của, gã chạy như bay tới núp sau ông bác họ luôn miệng kêu cứu. Vợ Phán đổi hướng về phía bốn người đàn ông, nhưng nửa chừng ả khựng lại, thấy rõ trong mắt ả một tia sáng xanh huyền hoặc. Ông Bổng chưa rõ chuyện gì mới quay sang hỏi Phán:

    - Sao mày tơi tả thế kia? Con vợ mày nó bị ma nhập từ lúc nào?

    Phán mếu máo:

    - Từ hôm qua bác ơi.. huhu, cháu sắp bị nó hành đến chết mất thôi.

    Ông Bổng chửi:

    - Cho mày chết, bình thường toàn là mày vũ phu, đánh nó, giờ đã biết thân chưa?

    - Huhu.. cháu sợ lắm bác ơi.. cứu cháu..

    Lúc này, vợ Phán đang đứng yên phân tích tình hình, nhắm thấy hai kẻ đứng cạnh ông Bổng không phải tầm thường nên nó án binh bất động không dám tiến tới. Dần bỗng phá lên cười sằng sặc chỉ tay vào vợ Phán mà chế giễu:

    - Người như que củi, chân bằng ống xậy, tay bằng que tăm, ngực thì thẳng băng, trước sau như một.

    Vợ Phán nghe Dần miệt thị thì nổi cơn thịnh nộ, ả lắc lư cái đầu rồi chẳng suy nghĩ gì nữa, cứ thế nhằm hướng Dần mà lao tới. Phán sợ tới hồn phách lên mây chạy một mạch ra cổng, miệng la bai bải:

    - Coi chừng nó cắn đó..

    Vợ Phán chỉ còn cách Dần hai tấc, cậu chàng ngay lập tức rút lá bùa dấu ở đằng sau ra dán ngay vào trán ả. Vợ Phán khựng lại ngay tắp lự, trong phút chốc liền đổ nhào xuống đất. Những người hàng xóm thấy gã thanh niên trẻ tuổi khống chế được vợ Phán thì cùng reo hò vỗ tay tán thưởng rồi đám đông cũng tản ra ai về nhà nấy.

    Ông Bổng và Phụng chạy tới đỡ vợ Phán dìu thị vào nhà. Dần bắt mạch cho thị nói:

    - Mạch tượng bình thường, tuy nhiên ban nãy yêu xà đã nhập vào người sẽ ảnh hưởng ít nhiều. Người này nhẹ vía, dễ bị yêu ma bám theo, phải đeo bùa hộ thân bên người mới được.

    Đoạn Dần lại nói:

    Cô ấy trông xanh xao, yếu ớt quá, phải bồi bổ nhiều hơn. Ông Bổng nói với chồng thị vào chăm sóc cho thị đi. Hết ngày mai thầy tôi ra ngoài chúng tôi sẽ báo với thầy giải quyết chuyện yêu xà

    Trong lúc ấy tại nhà của Túy, vợ Túy bưng bát cháo nóng hổi vào phòng cho chồng, thị gọi khẽ:

    - Mình ơi.. mình dậy ăn bát cháo này..

    Túy lúc này cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng hơn rất nhiều, nỗi ám ảnh mấy ngày bị yêu tinh ám cũng nguôi ngoai một chút, vừa thấy vợ bưng đồ ăn vào, gã liền cảm thấy đói bụng. Nhưng nhìn bát cháo trắng mặt gã chun ngay lại, gã ỉ ôi:

    - Cháo trắng làm sao mà ăn, mình biết tôi trước giờ ăn thịt quen rồi mà lị..

    - Em biết, nhưng thầy đã dặn mấy ngày tới mình phải ăn chay tránh giết chóc trong nhà kẻo có mùi tanh dẫn dụ tà ma đến.

    - Thế nhưng mình có giết con gì đâu, chỉ là cho tí thịt vào cháo thôi, cho nó dễ ăn.. thôi đừng lằng nhằng nữa.. tôi không ăn chay được đâu. Đời người sống được bao lâu mà chay với tịnh. Mình đi nấu lại cái khác đi.

    - Thế nhưng mà..

    - Không nhưng nhị gì cả, đi mau.. kẻo tôi chưa chết vì ma vật mà chết vì đói đấy.

    Vợ Túy bị chồng hối quá sinh ra mụ mị, nhất thời không biết phải làm sao, cuối cùng cũng chẳng thể trái lệnh chồng. Thị thở dài thườn thượt lắc đầu bưng bát cháo trắng xuống bếp rồi xách làn đi chợ.
     
  2. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 11: Bãi Đất Hoang

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thấy vợ đi rồi, Túy hắng giọng gọi thằng con lớn:

    - Tửu đâu? Thằng Tửu đâu? Lên nhà thầy bảo.

    - Dạ!

    Sau tiếng dạ lớn, thằng con của Túy lật đật chạy vào:

    - Thưa, thầy gọi gì con ạ?

    Túy cầm một sâu tiền đưa cho con trai nói:

    - Mau.. ra chợ mua cho thầy ít lòng về đây thầy nhắm rượu. Bao nhiêu lâu nay bị hành, người sắp chỉ còn da bọc xương rồi.

    Thằng con cầm tiền bước ra ngoài vừa đi vừa nói thầm: "Người thầy toàn mỡ, có không ăn cả mùa đông thì béo vẫn hoàn béo, chỉ có mẹ là da bọc xương thôi."

    Vợ Túy về đến nhà, nấu xong bát cháo thì Túy cũng nhắm xong đĩa long. Gã cầm đũa quệt ngang miệng thở: "Ngon". Vợ Túy nhìn chồng ngạc nhiên:

    - Mình ăn gì thế?

    - Long lợn.. thằng Tửu vừa đi mua về, ngon quá là ngon.. khỏe rồi thì tôi sẽ quay lại thịt lợn cho mình đi bán.. lâu không làm dễ mất mối lắm.

    Vợ Túy hoảng hồn:

    - Ấy chết, không được đâu.. chuyện này..

    Nhưng Túy không để cho vợ nói hết câu, hắn đổ người ra giường quay mặt vào trong đuổi thị:

    - Thôi, mình ra ngoài đi.. tôi phải ngủ một giấc lấy sức.. tối nay mua cho tôi đĩa thịt chó đấy nhớ..

    Vợ Túy thở dài ngán ngẩm, vẻ mặt khổ tâm bất lực. Nói gì thì nói, thị vốn là người đàn bà nhu nhược, từ trước đến nay việc lớn nhỏ trong gia đình đều do Túy quyết "phu xướng phụ tùy", cấm không được cãi. Túy nói một là một, hai là hai, thị chỉ biết nghe theo, nhiều khi góp ý còn bị Túy chửi: "Chỗ của đàn bà là dưới bếp, cấm có lên trên mà nhiều lời.. vớ vẩn tao đánh cho không trượt phát nào đâu".

    Đêm ấy, Túy bị đau bụng dữ dội, gã đòi ra ngoài để giải quyết, mụ Túy gần gừ vì sắp qua giờ hợi, nhưng Túy đập cửa và gầm lên:

    - Mình định để tôi bĩnh ra nhà hay sao?

    - Tôi đã để bô ở trong ấy rồi, mình đi tạm đi, chứ giờ sắp qua giờ hợi ra ngoài nguy hiểm lắm.

    Túy cáu tiết:

    - Đi nặng ở trong này cho mà thối không ngủ được à. Mình mau mở ra, tôi đi nhanh thôi.

    Thấy vợ ngần gừ, Túy quát:

    - Không mở tôi đạp cửa xông ra thì đừng có trách.

    Vợ Túy sợ chồng làm thật thì vội vàng lấy chùm chìa khóa mở cửa cho gã. Túy phóng vọt ra ngoài vườn, hồi lâu mới trở vào, lúc này đã là giờ tí..

    * * *

    Sáng hôm sau, tức là mới đến sáng này thứ ba kể từ khi cụ Cừ đóng cửa, thì lại xảy ra chuyện. Mà người xảy ra chuyện không ai khác chính là Túy. Vợ Túy mới sáng sớm đã tới nhà ông Bổng mà khóc lóc vật vã:

    - Hai bác ơi.. hai bác giúp em với.. lão Túy.. lão Túy nhà em bỏ đi đâu mất rồi.. em lo quá bác ơi.

    Bà Bổng trấn an em dâu:

    - Thím cứ bình tĩnh đi, chuyện đâu còn có đó. Thế chú ấy bỏ đi lâu chưa?

    Mụ Túy mếu máo:

    - Tối qua lão ấy còn ở nhà, lúc lão đi ngủ em còn cẩn thận khóa cửa giấu chìa khóa đi. Thế mà sáng nay dậy đã không thấy đâu nữa rồi.

    Ông bà Bổng đang không biết phải làm sao thì Phụng liền nói:

    - Để anh em chúng tôi đi một chuyến xem sao.

    Mụ Túy lau nước mắt tạ ơn rối rít. Về tới nhà, mụ mở cửa phòng lão Túy và nói:

    - Đây, đêm qua lão nằm trong này, tôi đã cẩn thận khóa trái cửa lại mà không hiểu lão đi bằng cách nào. Sáng nay mở cửa gọi lão dậy ăn cơm thì không còn thấy đâu nữa.

    Dần và Phụng ngó nghiêng xem xét một hồi, rồi hai huynh đệ nhìn nhau như có cùng một suy nghĩ. Đoạn, Dần lại nhìn thấy trên giường của Túy rơi ra thứ gì đó nhỏ xíu đen xì, đó chính là một hạt đậu. Ánh mắt của Dần và Phụng chạm nhau rồi cả hai gật đầu một cái cùng bước ra cửa.

    Ông Bổng và vợ Túy đi theo hai pháp sư trẻ tuổi tới một bãi đất hoang ở cách xa làng. Ông Bổng ngỡ ngàng nói:

    - Đây.. đây chẳng phải là cấm địa của thôn hay sao? Làm sao thằng Túy lại dám tới đây được chứ?

    - Không phải là hắn dám tới, mà hắn bị đưa đi.

    Cả bốn người giật mình nhìn về phía cất tiếng nói, ở trong lùm lau sậy, cụ Cừ rẽ lối đi ra khiến tất cả ngạc nhiên:

    - Thầy, thầy tới đây hồi nào vậy?

    Cụ Cừ không trực tiếp trả lời mà lại nói:

    - Đêm qua nhà chị Túy có người không nghe lời tôi, quá giờ hợi mà còn dám ra khỏi nhà. Báo hại ông Túy bị yêu nghiệt dẫn hồn tới tận đây. Nhưng thế cũng tốt, như vậy ta biết được nơi khởi nguồn của những tai vạ xảy ra với anh Túy.

    Vợ Túy khóc ầm lên:

    - Ôi chao, thế thì ông ấy chết mất.. thầy ơi.. thầy cứu nhà con với..

    Cụ Cừ trấn an mụ:

    - Chị phải bình tĩnh thì chúng ta mới làm việc được, khóc lóc không giải quyết được gì đâu.

    Ông Bổng vẫn còn ngơ ngác lắm, ông hỏi:

    - Thưa thầy, rút cục chuyện này là sao ạ?

    Dần bèn giải thích:

    - Lúc chúng tôi đến nhà chị Túy đây đã phát hiện ra căn phòng của anh túy nằm bị ếm thuật che mắt. Thực tế mà nói, sáng nay anh ta không hề ra khỏi giường, nhưng chị Túy bị che mắt không nhìn thấy chồng, trong lúc chị Túy tới nhà ông Bổng thì thứ yêu nghiệt kia đã dẫn được anh ta ra khỏi nhà. Còn vì sao yêu nghiệt vào được trong nhà thì phải hỏi chị Túy. Đêm qua, ai đã mở cửa để nó vào trong?

    Vợ Túy lúc này mếu máo sợ hãi kể lại toàn bộ sự thật những sự việc của ngày hôm qua, kể cả chuyện Túy đòi ăn thịt và lòng lợn.

    Không để ba thầy trò cụ Cừ kịp giận giữ, ông Bổng đã mắng xối xả:

    - Đúng là không biết trời cao đất dày, đã thế cứ mặc cho hắn ta bị yêu tinh bắt, cứu hắn rồi hắn cũng tự đâm đầu vào chỗ chết thôi.

    Phụng nói:

    - May mà nhờ có túi hạt đậu của thầy tôi nên chúng ta mới tìm được đến đây.

    Cụ Cừ gật đầu:

    - Khá lắm.. các con làm việc rất tốt. Đúng là túi gấm trên cổ anh Túy chính là một túi hạt đậu. Nhưng nó không phải đậu thường đâu. Tôi đã cố ý để anh ta mang túi đậu đó bên mình, chỉ cần anh ta ra khỏi nhà, hạt đậu tự khắc rơi trên đường làm dấu cho ta biết lối đi tìm.

    Ông Bổng lại hoang mang:

    - Vậy.. vậy Túy đâu? Ở nơi đồng không mông quạnh, lau lách rậm rạp này, tìm đâu ra hạt đậu?

    Cụ Cừ chỉ tay về phía trước nói:

    - Đi về phía trước khoảng trăm thước là tới rồi.

    Ông Bổng và mụ Túy nhìn nhau ngờ vực, tuy không nói ra, nhưng cả hai đều chung một suy nghĩ: Ông cụ tinh tường vậy sao? Có thể nhìn thấy hạt đậu nhỏ xíu ngay cả khi nó lẫn vào bụi cây bụi cỏ?

    Như đoán biết được suy nghĩ của hai người, cụ Cừ chỉ nói:

    - Mau lên, giờ không phải lúc suy tính đâu. Đi theo tôi.

    Nhưng ông Bổng vẫn tỏ ra ngần ngại:

    - Thưa cụ, phía trước là núi quỷ, chỗ này trước nay người làng đều không dám lui tới.. nói đúng hơn nơi này được mệnh danh là cấm địa, là nơi ở của quỷ dữ.. vào thì dễ mà ra thì khó.

    - Thế thì lại càng phải vào. Chẳng nhẽ ông không muốn cứu Túy hay sao?

    Ông Bổng nuốt nước bọt, cuối cùng cũng hạ quyết tâm lấy hết tinh thần theo pháp sư đi tìm Túy.
     
  3. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 12: Miếu Cổ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Kì lạ thay càng đi xa thì ông Bổng càng nhận ra mình đang bước vào một nơi như là lòng chảo, xung quanh tuy lau lách rậm rạp, nhưng trong vòng hai mươi thước thì lại nhẵn thín, bằng phẳng như thể có người thường xuyên thả trâu bò ra ăn cỏ vậy. Sừng sững trước mặt tất cả mọi người là ngọn núi mà ông Bổng gọi là núi Quỷ. Nhưng chưa hết, ở giữa khoảng đất trống lại có một cái hố khá sâu, giống như một cái hang đào xuyên xuống lòng đất ông Bổng đứng sát vào cụ Cừ nói khe khẽ:

    - Nơi này quái lạ thật thầy ơi, tôi thấy lạnh quá.

    Cụ Cừ không nói năng gì, chỉ lại gần một cái cây nhỏ xanh mướt mới mọc ngay bên miệng hang mà nói:

    - Túy bị dẫn vào hang rồi. Mọi người thấy cái cây này không? Chính là hạt đậu trong túi gấm rơi ra mà mọc thành đó.

    Ông Bổng và vợ Túy nhìn nhau như không tin vào những gì cụ Cừ vừa nói:

    - Thưa thầy, mới chạm vào đất mà đã thành cây như vậy sao?

    Cụ Cừ gật đầu:

    - Đó là đậu phép, đến nơi nhiều âm khí, hoặc gặp thứ yêu nghiệt ắt mọc lên nhanh chóng báo hiệu cho người biết mà tránh xa. Trên đường tới đây, ta tìm cây đậu này chứ không phải tìm hạt, hiểu chưa?

    Ông Bổng gật gù ra chiều đã thông suốt. Nhưng trí tò mò lại thôi thúc ông mở miệng:

    - Lúc chúng tôi đến nhà Túy, thầy vẫn còn ở trong phòng bế quan, sao chỉ thoáng một cái đã biết chuyện Túy mất tích rồi còn đến đây trước cả chúng tôi thế?

    Cụ Cừ chỉ vuốt râu, trả lời lấp lửng:

    - Đó gọi là bí mật nghề nghiệp. Có nói ông cũng không hiểu.

    Thực chất là hôm qua khi ở nhà Túy, cụ Cừ đã để lại một cái chuông đồng buộc ở đầu giường anh ta, chỉ cần ma quỷ lại gần chuông lập tức rung lên, cụ Cừ dù ở xa đến mấy nhưng nhờ có thuật khai nhĩ mà nghe được tiếng chuông kêu. Đến lượt vợ Túy lo lắng hỏi:

    - Thưa thầy, vậy bây giờ phải vào hang sao?

    - Phải, chồng chị đang ở trong đó, chị có muốn vào không? Nếu không thì đứng ngoài đợi chúng tôi.

    Vợ Túy đương nhiên là không chịu, nói đúng hơn là không dám, thà vào hang mà có đông người còn hơn là ở bên ngoài một mình.

    Đoạn cụ Cừ lấy ra từ trong tay nải một cây đèn cầy, đánh lửa thắp sáng xong thì bắt đầu đi vào. Cái hang này thực chất không sâu, đoàn người chỉ đi một loáng đã tới tận cùng, dưới ánh đèn le lói tất cả đều kinh hãi khi nhìn thấy dưới mặt đất và cả trên vách hang toàn là xương trắng cùng đầu lâu của con người. Lẫn vào đó là một thân ảnh to béo nằm sấp, dáng bộ đang bất tỉnh. Vợ Túy nhào tới hô lớn:

    - Anh Túy, anh Túy.. anh làm sao thế này? Anh mau tỉnh lại đi..

    Người đó quả nhiên là Túy. Túy nhắm nghiền mắt, sắc mặt tái mét, hơi thở rất yếu, cụ Cừ phải cho ngậm một viên định hồn đan để giữ mạng. Sau khi quan sát một hồi xung quanh cụ Cừ nói:

    - Thì ra là vậy, mọi người mau lên, nơi này không thể ở lâu.

    Cụ vừa dứt lời thì mặt đất rung chuyển, chao đảo đất đá như muốn sụt xuống chôn sống toàn bộ những con người bên trong, ai nấy vô cùng hoảng sợ. Trấn tĩnh trong giây lát, ba thầy trò rút kiếm trảm yêu niệm khu chú quỷ rồi đồng loạt cắm mũi kiếm xuống đất, mặt đất mới từ từ yên tĩnh trở lại. Cụ Cừ hô:

    - Mau lên, tất cả đi ra đi.

    Đợi cho ông Bổng và vợ Túy dìu Túy ra bên ngoài rồi, cụ Cừ cắn ngón tay lấy máu vẽ lên lá phù rồi trong tích tắc liệng về phía trong. Đoạn cụ giõng dạc lệnh hai học trò:

    - Rút kiếm.

    Bấy giờ Dần và Phụng rút kiếm lên cùng sư phụ lao ra ngoài.

    Lên đến mặt đất rồi mà ông Bổng và vợ Túy vẫn còn tim đập chân run. Tất cả chọn một nơi nghỉ mệt trước khi lên đường trở về nhà. Ông Bổng đưa nước cho cụ Cừ rồi không dấu được thấp thỏm lo âu mà nói:

    - Thưa cụ, tình hình khi nãy thật là nguy cấp, xém chút thì tất cả đã bỏ mạng rồi. May mà cụ và hai vị đây cao tay. Không hiểu sao trong hang lại nhiều xương cốt như thế?

    Cụ Cừ uống cạn bát nước chỉ về phía hang và nói:

    - Dưới đó là một cái miếu cổ đó.

    - Miếu cổ?

    - Phải, chính là một cái miếu cổ bị đất đá vùi lấp, nó đã ở đó cả trăm năm rồi, không biết vì lí do gì mà những kẻ trộm mộ đã tìm ra nó, chúng đào đường hầm xuống miếu vì nghĩ rằng sẽ tìm được cổ vật hoặc đồ quý hiếm nhưng cuối cùng tất cả đều phải bỏ mạng.

    Ông Bổng run rẩy:

    - Thưa thầy, như vậy chẳng phải là chúng ta đã phạm phải cõi linh thiêng rồi không? Có khi nào cũng sẽ bị chừng phạt.

    Cụ Cừ lại nói:

    - Với tình hình như lúc nãy thì còn cách nào khác chứ? Không lẽ lại để Túy nằm dưới ấy, thấy chết không cứu.

    Ông Bổng gật đầu cho là phải, cụ Cừ bỗng đăm chiêu:

    - Ngôi miếu kia.. không lẽ?

    Rồi cụ quay sang nói riêng với ông Bổng:

    - Trong dòng họ nhà ông đời trước có người làm pháp sư đúng không?

    Ông Bổng tặc lưỡi nói:

    - Thưa cụ, tôi không chắc chắn lắm, nhưng mà trong tộc nhà tôi cũng có đồn đại về việc này. Ấy là vào đời thứ sáu, một cụ là cụ Trịnh Bảo khi còn trẻ đã phiêu bạt giang hồ hành nghề trừ yêu diệt quỷ, cụ không lấy vợ cho nên không có hậu nhân. Trong gia phả cũng không nói gì nhiều chỉ đề hai câu: Cô nhân vô hậu, hành tẩu giang hồ ". Ý nói cụ sống một mình không người nối dõi. Còn chuyện cụ hành nghề pháp sư cũng chỉ là lời đồn.

    Đoạn ông Bổng quay sang cụ Cừ đang hết sức đăm chiêu mà rằng:

    - Bẩm cụ, sao cụ lại biết về chuyện này ạ?

    Cụ Cừ lại nhìn về ngôi miếu với ánh mắt đầy băn khoăn mà rằng:

    - Hôm ở nhà Túy về, tôi đã cảm nhận được một linh hồn đi theo chúng ta. Dù không biết người ấy là ai, nhưng tôi đoán ông ấy không có ý làm hại mình. Tôi đã nghi ngờ người đó là người nhà ông. Lại nói mấy hôm trước khi nghiên cứu gia phả Trịnh gia tôi liên tục mơ thấy một người mặc đồ pháp sư bước từ trong tranh ra, trên tay cầm một con dao làm từ ngà voi, người ấy viết vào tay tôi một chữ" Trịnh "sau đó liền biến mất. Hôm nay tôi lại thấy con dao ngà voi ấy cắm vào chính giữa một cái xác khô ngồi xếp bằng trong miếu cho nên tôi ngờ rằng.. cái miếu cổ chôn vùi dưới lòng đất kia có liên quan tới họ Trịnh nhà ông. Còn một điều nữa, ba ngày vừa rồi, tôi dùng hết pháp lực thỉnh các cụ nhà ông về hỏi chuyện nhưng không một cụ nào hiển linh trừ người mặc đồ pháp sư kia.. tôi đồ rằng linh hồn các cụ đang bị giam giữ, hoặc hội tụ ở một nơi nào đó không thể thoát ra. Nơi đó rất có thể là ngôi miếu bí ẩn kia.

    Ông Bổng há hốc mồm dáng bộ ngạc nhiên lắm:

    - Ôi trời ơi.. khó tin quá. Thật ra trải qua bao nhiêu đời rồi, có những chuyện hậu bối như chúng tôi quả không thể biết hết được. Mà cụ cũng thấy đó, chiến tranh binh biến chưa bao giờ ngừng, những sổ sách, tài liệu về dòng họ phần nhiều đã bị phá hủy, ngay cả gia phả cũng đã phải chép lại mấy lần, bản than tôi là trưởng họ, muốn tìm lại bản gia phả gốc cũng khó vô cùng.

    Cụ Cừ gật đầu lại nói:

    - Tôi hỏi ông, tại sao người làng các ông lại đồn rằng nơi này có quỷ? Tại sao không một ai dám bén mảng tới đây trừ những kẻ trộm mộ?

    Ông Bổng lục lại kí ức những chuyện linh dị xảy ra với mảnh đất này nhiều năm về trước:

    - Chuyện này cũng li kì lắm. Ngày tôi còn bé đã nghe người trong làng kể lại rằng khu đất dưới chân núi này bị quỷ ám, người nào cố tình bén mảng tới đều có kết cục không hay. Khi ấy đã có những người không tin, cũng đều là những thanh niên trẻ tuổi," chiếu mới chưa trải sự đời"thách thức nhau tới đây bẻ cành hái quả, xới đất trồng trọt, dựng lều cắm trại, cuối cùng người thì bị sét đánh, người thì phát điên, người thì khi không tự động dẫn thân tới đây treo cổ tự vẫn. Chúng tôi từ ấy cũng lấy đó mà làm gương, đời này sang đời khác dặn dò con cháu không được bén mảng lại gần chỗ này. Bao nhiêu năm cứ nghĩ rằng mảnh đất cấm địa sẽ không có kẻ nào dám đặt chân tới không ngờ hôm nay lại chứng kiến có người dám đến đây mà đào hầm trộm mộ..

    Cụ Cừ vuốt chòm râu trầm ngâm nghĩ ngợi. Vậy đúng là cả làng không ai biết về sự tồn tại của ngôi miếu cổ dưới lòng đất kia sao? Ông Bổng tỏ rõ sự lo lắng:

    - Nếu đúng như thầy nói, có khi nào miếu cổ là do các cụ tổ lập nên, vậy thì phải khai quật rồi làm lễ, thờ cúng đầy đủ. Biết đâu do con cháu không biết có sự tồn tại của miếu, không hương khói được, cho nên tổ tiên giận giữ giáng tai họa chăng?

    Cụ Cừ lắc đầu:

    - Chuyện đó không đơn giản như vậy đâu. Ông không nên nóng vội, Để rồi tôi sẽ tìm hiểu thêm.

    Nghỉ ngơi một hồi xong xuôi, đoàn người bắt đầu kéo nhau ra về. Dần và Phụng thay nhau cõng Túy. Ông Bổng và vợ Túy đi trước, cụ Cừ bước sau cùng. Trước khi đi cụ Cừ cẩn thận làm phép xóa dấu chân người để tà ma không còn bám theo được nữa.
     
  4. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 13: Sấm Truyền

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Túy được cụ Cừ tận tình cứu chữa thì cũng mau chóng tỉnh lại, lúc này gã không còn dám cứng đầu cứng cổ nữa, vừa nhìn thấy ân nhân thì quỳ sụp xuống mà vái lấy vái để:

    - Con xin đội ơn pháp sư.. đội ơn ngài cứu mạng..

    Rồi Túy kể về sự việc gặp phải đêm qua, sau khi từ ngoài vườn trở về..

    Lúc ấy đã là giờ tí, Túy sau khi lên giường thì thấy trong người bứt dứt khó chịu lắm, hắn liền gọi vợ vào buồng ngủ cùng, gọi mãi cuối cùng cũng thấy cửa buồng mở ra. Trời rất tối, lại không thắp đèn nên gã không nhìn rõ vợ, chỉ thấy màn động đậy rồi có người dở chăn chui vào. Hắn do nhịn đã lâu nên ham muốn nổi lên, quờ quạng khắp người vợ, nhưng Túy cũng rất tinh, hắn thấy vợ có gì khang khác, mọi khi thị có máu buồn, cứ hễ động vào là cười như ma làm, vậy mà hôm nay lại nín thít, hơn nữa trên người lại có mùi tanh hôi như là rắn rết, đã thế bên tai hắn đã nghe rõ những tiếng phì phì cực kì quen thuộc. Túy sợ đến đứng tim, vội kéo chăn lùi vào góc giường quát to:

    - Ai.. ai đấy..

    Tiếng phì phì lại vang lên rồi hai chấm sáng vàng vọt hiện rõ mồn một trong bóng tối. Túy quỳ trên giường khom người van lạy rối rít:

    - Xà nương tha cho tôi.. tha cho tôi.. bớ người ta cứu tôi cứu tôi với.

    Kì lạ một chỗ, dù hắn gào đến rát cổ bỏng họng thì cũng tuyệt nhiên không có ai ứng cứu, người nhà hắn đã đi đâu hết rồi? Hay cũng bị yêu xà giết chết rồi chăng? Trong khi ấy, hai cái chấm vàng khè vẫn tiếp tục di chuyển lại gần Túy. Hắn nhắm chặt mắt, sợ đến run rẩy, cảm nhận rõ ràng có thứ gì đó mềm mại trơn trượt đang quấn quanh người. Túy hét lên một tiếng đầy tuyệt vọng rồi gục xuống không còn biết gì nữa.

    Túy kể xong câu chuyện của mình thì Dần cũng nói về chuyện của vợ chồng Phán:

    - Hôm qua khi tới nhà Trịnh Phán để xem, con thấy vợ Phán cũng bị xà yêu nhập, con mới cho cô ta một lá bùa hộ thân, tuy nhiên đó chỉ là giải pháp tạm thời. Chuyện này nếu không giải quyết triệt để thì còn nhiều người bị hại.

    Cụ Cừ gật đầu đồng tình, cụ nói:

    - Khả năng cao lời nguyền của họ Trịnh cũng liên quan tới thứ yêu xà này. Liên tiếp nhiều chuyện xảy ra đều có sự xuất hiện của nó. Chỉ có điều bây giờ sức mạnh của nó mỗi lúc một tăng, không hiểu nguyên nhân do đâu. Ta phải hành động nhanh lên mới được, để lâu sự việc càng trầm trọng.

    Nghe cụ Cừ nói vậy ông Bổng càng lo lắng. Thời hạn của ông sắp đến gần, nếu lời nguyền không được giải tức là ông phải chấp nhận số phận, trở về với tiên tổ ở tuổi năm mươi. Cụ Cừ nói:

    - Ông Bổng, giờ ông hãy về nhà lục lại tất cả sổ sách ghi chép của gia tộc từ trước tới nay, tôi muốn tìm hiểu thêm những sự kiện xảy ra ở các đời trước. Còn Dần và Phụng tới các nhà trong họ, hỏi những người lớn tuổi để thu thập thông tin. Nhanh lên, ta cảm nhận yêu khí của xà tinh càng lúc càng gần.

    Mọi người vâng dạ, ai vào việc của người nấy. Riêng ông Bổng thì nói như mếu:

    - Bẩm thầy, hồi nhà tôi bị cháy, tất cả sổ sách đã bị ngọn lửa thiêu rụi. Riêng cuốn gia phả thì may mắn còn sao lại để ở nhà thờ một bộ nên mới..

    Cụ Cừ thở dài thất vọng:

    - Vậy ông tới nhà họ hàng xem sao, kiểu gì cũng có ai đó lưu lại thứ gì có ích.

    Ông Bổng lại gật đầu, tất tả đi ngay.

    * * *

    Đêm ấy cụ Cừ lại nằm mơ thấy vị pháp sư nọ. Ông ta hiện ra, đặt vào tay cụ một cuốn sách có tựa đề: "Trịnh gia sấm tập lục hệ truyền kì". Khi người đó biến mất còn để lại lời nhắn: "Dưới chân nghê thú ở trước nhà thờ họ".

    Tỉnh giấc mộng, cụ Cừ mừng rỡ thắp hương khấn rằng: "Đa tạ tiền bối chỉ dạy, tôi biết những ngày qua tiền bối luôn đi theo chúng tôi chỉ đường dẫn lối, xin đa tạ, đa tạ!"

    Sớm tinh mơ hôm sau, cụ Cừ vội vã tới gặp ông Bổng kể lại giấc mơ hồi đêm, cụ nói:

    - Bí mật sắp được hé lộ rồi, chuyện giải lời nguyền cho con cháu ông chỉ trong nay mai.

    Ông Bổng mừng rỡ khôn xiết, không chần trừ đưa cụ Cừ tới nhà thờ họ. Quả nhiên trước nhà thờ có hai con nghê đá. Ông Bổng tự hào nói:

    - Nhà thờ này đến nay đã tồn tại được sáu đời. Tức là vào khoảng cuối đời họ trịnh thứ sáu, đầu đời thứ bảy thì xây dựng. Hơn một trăm năm qua nhà thờ có mấy lần tu sửa nhưng hai con nghê đá thì tuyệt nhiên không ai động tới hay di chuyển được. Mỗi lần tu bổ, con cháu chúng tôi đều phải làm mái rơm để che chắn cho hai ngài ấy, ngăn không cho đất đá bắn vào mà tổn hại.

    Ông Bổng cho biết thêm, nghê thú được làm từ đá xanh chuyển từ tận Hoa Lư ra, thợ thủ công ở đó đều là những người lão luyện trong làng trạm khắc đá mỹ nghệ.

    Cụ Cừ đăm chiêu nhìn hai pho tượng, trong giấc mơ, tiền bối họ Trịnh chỉ nói ở dưới chân nghê thú chứ không nói là ở bên nào: Trái hay phải? Ngẫm nghĩ một chút, cụ Cừ vui mừng cười lớn:

    - Hiểu rồi, hiểu rồi..

    Đoạn, cụ bước tới ngắm nghía con nghê ở phía bên trái và nói chắc nịch:

    - Ở dưới con nghê này.. hà hà.

    Nhớ lại, thì vị pháp sư nọ lúc cầm quyển sách đã cầm bằng tay trái, đưa cho cụ Cừ cũng đặt ở tay trái, điều ấy khả năng chỉ là trùng hợp nhưng cũng có thể đó là một gợi ý lắm chứ. Có điều chìa khóa để mở cơ quan nằm ở đâu? Lại nghĩ, nơi chốn mở cơ quan phải thật bí mật và kín đáo, nếu ở vị trí quá lộ liễu dễ thấy, dễ sờ thì hẳn là trăm năm qua đã có người vô tình mà mở được rồi. Mà nơi kín đáo thì chỉ có miệng mà thôi, bởi chẳng có ai dám hỗn hào cho tay vào miệng nghê cả.

    Quan sát thật kĩ miệng ghê, quả nhiên cụ Cừ thấy có sự bất thường, bởi ở phần lưỡi bên trong cùng nhô ra vật gì tròn lẳn. Cụ Cừ nhẩm trong miệng: "Nghê ngậm ngọc sao? Sau đó, trước con mặt kinh ngạc của ông Bổng cụ Cừ luồn tay vào miệng nghê xoay xoay vật hình tròn nghe rõ một âm thanh đánh" tách", và thật bất ngờ, bệ đỡ dưới chân nghê thú từ từ mở ra. Ông Bổng thốt lên:

    - Trời ơi.. cơ quan kìa thầy ơi.. thật không ngờ..

    Cụ Cừ vô cùng vui mừng cúi xuống trước nghê xá ba xá, sau đó nhìn vào bên trong cơ quan lấy ra một dương đồng. Tuy nhiên dương lại bị khóa, cụ Cừ nghĩ đến Phụng và nói:

    - Chỉ có nó mới làm được việc này.. làm khóa là nghề tổ truyền của nhà nó mà hà hà..

    Ông Bổng cũng sờ nắn chiếc dương mà suýt xoa:

    - Chao ôi, bao nhiêu đời nay mà không ai trong họ biết được bí mật này.. không biết bên trong có gì hả thầy?

    Để tránh ông Bổng hiểu nhầm rằng mình có ý định mập mờ, cho nên cụ Cừ giao chiếc dương cho ông và nói:

    - Ông mang chiếc dương này về, tôi sẽ nhờ đồ đệ mở ra là biết ngay.

    Ông Bổng nâng niu chiếc dương trên tay coi như báu vật gia truyền. Ông nói:

    - Tôi hi vọng là đúng như giấc mơ của thầy, trong này là thứ có thể cứu dòng họ của tôi.
     
  5. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 14: Nguồn Cội

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trở về đến nhà, việc đầu tiên là cụ Cừ triệu Phụng và Dần. Vừa nhìn thấy chiếc dương cổ trạm khắc hoa văn tinh sảo, cả hai đã vô cùng tò mò:

    - Thưa thầy, trong này có gì vậy ạ?

    Cụ Cừ vuốt râu:

    - Chính ta cũng không biết, đang muốn nhờ Phụng mở khóa để xem đây.

    Phụng nghe vậy thì vô cùng hào hứng, ngay lập tức muốn trổ tài, nhưng cầm chiếc dương lên xoay tới xoay lui thì mặt nó ngẵn tũn nói:

    - Thưa thầy, muốn mở được khóa thì phải có ổ khóa, cái dương này ổ khóa nằm ở đâu?

    Mọi người bấy giờ nhìn nhau, cụ Cừ thở dài, người xưa quá kĩ lưỡng, đúng là cơ quan nằm trong cơ quan. Cứ nghĩ rằng Phụng có nghề gia truyền sẽ biết cách mở nó ra, thật không ngờ.. nhưng ánh mắt tinh tường của cụ Cừ một lần nữa quét trên nắp dương, chính giữa nắp là một khối tròn màu trắng vô cùng nổi bật gọi là mắt, phải chăng khóa nằm ở đó. Tuy nhiên khối tròn dường như không có sự linh động mà bất di bất dịch.

    Cụ Cừ bưng chiếc dương ra ngoài trời để nhìn cho kĩ cũng không phát hiện được gì. Lại đặt dương vào vị trí cũ, bất chợt Dần thốt lên:

    - Mọi người ơi, khối tròn này hình như làm từ xương động vật đúng không?

    Cụ Cừ giật mình như tỉnh cơn mê, cụ quay lại nhìn một lần nữa:

    - Không những là xương động vật, mà còn là xương người.

    Lúc này trong đầu cụ liền lóe lên một tia sáng, có lẽ nào? Rồi cụ tự trách mình sao không nhận ra từ đầu. Cụ nói:

    - Người xưa thường dùng máu nhận thân.. ông Bổng.. việc này phải nhờ cả vào ông.

    Đoạn chẳng nói chẳng rằng, cụ Cừ nhấc con dao bổ cau trên bàn, xong lại cầm tay ông Bổng nhanh như cắt xía ngọt một đường nhỏ trên đầu ngón chỏ, nặn cho máu chảy vào mắt dương. Lạ lùng thay, giọt máu đỏ tươi vừa rơi xuống liền bị thấm hút ngay lập tức, những hoa văn trên nắp dương như được kích hoạt phát ra ánh sáng thần kì, nắp dương từ từ tách đôi..

    Mọi chuyện diễn ra quá nhanh, ông Bổng cũng như tất cả mọi người có mặt đều thấy vừa kinh ngạc, ngỡ ngàng lẫn hồi hộp. Nắp dương đã được mở, đồng nghĩa với việc báu vật bên trong lộ ra đúng như trong giấc mơ hồi đêm của cụ Cừ, đó là một cuốn sách tựa đề: Trịnh gia sấm tập lục hệ truyền kì. Cả bốn cái đầu chụm vào xem xét hồi lâu.

    Nội dung cuốn sách quả nhiên có nhiều tình tiết lý thú kể về thủy tổ của dòng họ. Đầu tiên phải nói đến cụ Trịnh Biểu, sách viết:"Những năm tháng binh biến, Hiến Quận công Trịnh Vực lưu lạc nhân gian mai danh ẩn tích, sống cuộc đời bình dân, đổi tên là Vũ. Vũ lấy vợ sinh ra Biểu, trong một lần chạy chốn quan binh nhà Nguyễn, Biểu lạc cha mẹ, từ đó trở thành trẻ bơ vơ. Sau này Biểu dạt về trấn Sơn Tây chọn chốn này làm đất cắm dùi, tuy nhiên sợ gặp họa sát thân, Biểu dấu biệt thân thế và tuyệt nhiên không nhắc gì tới cha mẹ. Chỉ đến những năm tháng cuối đời, Biểu mới gọi con trưởng tới dặn dò và hé lộ bí mật mình là con của Hiến quận công Trịnh Vực, là cháu nội của chúa Trịnh Bồng- vị chúa cuối cùng của nhà Trịnh, dặn dò con trai giữ bí mật không được ghi chuyện này vào gia phả nếu không muốn diệt môn.

    Sinh thời Biểu có tới tận mười hai người con, nhưng chỉ nuôi được tám. Sự thể là bởi bốn lần đầu, cứ sinh ra được ba ngày là đứa trẻ lại chết non. Một đêm nằm mơ, Biểu thấy một con mãng xà to lớn hiện ra nói rằng Biểu dựng nhà, cắm cọc trên mình nó khiến nó bị thương, nếu không mau di dời đi chỗ khác thì cả nhà gặp họa.

    Biểu nghe vậy thì vô cùng hoảng sợ, ngay hôm sau thuê người dỡ nhà chuyển đi. Nhưng như vậy cũng chưa yên thân, mãng xà vẫn liên tục hiện về đòi Biểu phải làm lễ tạ tội, mà lễ vật không phải là thứ heo quay, bò gà bình thường, nó bắt Biểu phải cho nó một người vợ thì nó mới tha cho nhà Biểu.


    Bị dồn vào thế bí, Biểu cuối cùng cũng phải đồng ý cho mãng xà một người vợ lẽ. Người vợ này đương nhiên không cam tâm tình nguyện, một lòng muốn sống. Ngày bị đưa đi tế mãng xà, ả lập lời nguyền chù ẻo cả nhà Biểu chết non.

    Dù là thế nhưng sau đó, Biểu vẫn tự tay xây một cái miếu thờ lưng tựa núi mặt hướng thủy để nhớ ơn người vợ lẽ hi sinh bản thân để cứu cả nhà.

    Câu chuyện tưởng như sau đó thì khép lại. Nào ngờ người nhà của người vợ lẽ kia không rõ vì đâu mà biết chuyện vô cùng tức giận đến chất vấn Biểu, Biểu không thể chối cãi bèn kể rõ sự tình. Người kia không những không cảm thông còn phủi áo mà nói:

    - Nhà anh sống chỉ biết lo cho bản thân mình, không quý trọng sinh mạng người khác, sớm muộn con cháu cũng phải gánh hậu quả.

    Nói xong liền dứt áo ra đi. Năm con trai đầu của Biểu lên bốn tuổi, một lần theo cha ra miếu phát hiện một ổ rắn dưới gốc cây duối cổ thụ, vốn là trẻ con bản tính nghịch ngợm không suy nghĩ gì nó lấy gậy chọc nát bấy đám trứng rắn. Thế là đêm ấy rắn mẹ hiện về oán trách Biểu, nó nói:

    - Lúc sinh thời tôi là vợ lẽ của ông, vì cả nhà ông mà hi sinh tính mạng trong lúc đang mang thai con gái của ông. Nay ông không quản giáo con trai để nó giết hại con tôi, tôi quyết không tha cho nhà ông. Mai ông ra ổ rắn đếm xem còn bao nhiêu quả trứng thì nhà ông tồn tại được bấy nhiêu đời.

    Biểu tỉnh dậy quá sợ hãi ra gốc cây duối, quả nhiên có một ổ rắn bị chọc nát bét. Đếm đi đếm lại chỉ còn đúng sáu quả là nguyên vẹn. Theo như những gì rắn mẹ báo mộng thì họ Trịnh của Biểu chỉ tới sáu đời là tuyệt hậu.

    Câu chuyện này khiến Biểu chăn trở cho tới tận lúc nhắm mắt xuôi tay.
     
    Last edited by a moderator: 23 Tháng mười hai 2022
  6. Hồi Ức second

    Bài viết:
    57
    Chương 15: Hậu Duệ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lại nói đến đời thứ năm, hậu duệ của Biểu thuộc hàng đích tôn gọi Biểu là kị tên Bát, sinh được người con đặt tên là Bảo. Bảo vô cùng thông minh lanh lợi, nhưng tính tình lập dị khác người. Hễ cứ thấy ở đâu người ta bốc mộ hay làm đám ma là Bảo dù ở xa mấy cũng chạy tới xem, còn nói rành rọt người đó làm sao mà chết, chết lúc độ tuổi bao nhiêu, còn ở dương gian hay là đã siêu thoát hoặc rơi vào ngã quỷ. Người làng khi ấy cho rằng Bảo trẻ con nói năng linh tinh không ai để ý, chỉ đến một hôm, Bảo theo mẹ ra chợ, gặp một người làng, Bảo chỉ tay vào người ấy mà nói:

    - Bác vừa đi bốc mộ về sao? Bác hợp vong hợp vía người đó, họ đang theo bác đòi dẫn đi đó. Mau mau về nhà tìm thầy pháp đuổi vong đi kẻo mất mạng.

    Khi Bảo nói câu ấy, rất nhiều người xung quanh đều nghe thấy nhưng không ai tin là thật. Cho đến bảy ngày sau, người kia bỗng dưng chết đuối, lúc ấy nhớ lại lời Bảo thì ai cũng phải nổi da gà. Từ ấy danh tiếng về cậu bé tên Bảo có tài tiên tri đồn đi khắp chốn. Khắp nơi người ta kéo về nhờ cậu xem tử vi số mệnh, có cả những nhà quan chức cũng tới muốn Bảo xem cho, mà đặc biệt Bảo xem rất trúng, còn chỉ điểm làm sao để giải hạn hoặc bày cách để gia chủ phát tài phát lộc. Rất nhiều người sau đó đã quay lại để cảm ơn Bảo, tặng bố mẹ cậu bé vô số vàng bạc, nhà Bảo giàu lên nhanh chóng.

    Năm mười hai tuổi Bảo được người của triều đình tới tận nhà đưa đi, kể từ đó sống ở kinh thành phục vụ hoàng tộc, ít khi trở về quê hương. Nhưng sau này lại nghe nói, Bảo vốn tính tình phóng khoáng không muốn gò bó cho nên xin chiếu rời kinh đô, phiêu bạt giang hồ sống cuộc đời tự do tự tại.

    Không ai biết sau đó Bảo đã đi đâu, làm gì cho tới tận khi vụ thảm án của người bán rượu trong dòng họ có tên là Trịnh Lâm xảy ra thì Bảo xuất hiện. Ban đầu không ai nhận ra Bảo vì thời gian quá dài, Bảo đã trưởng thành khác lúc nhỏ rất nhiều, chỉ khi cụ thân sinh ra Bảo tới thì mọi người mới biết. Bảo nói dòng họ đang lâm nguy vì lời nguyền xà tinh ứng nghiệm, Bảo trở về để hóa giải lời nguyền, chậm trễ cả họ sẽ rơi vào cảnh diệt tộc.

    Nghe Bảo nói như thế ai nấy đều sợ hãi hoang mang, bởi những cái chết non trong họ là có thật, không những thế còn vô cùng dồn dập và ghê rợn, mang màu sắc tâm linh huyền bí.

    Sau hôm ấy, Bảo mất tích bảy ngày, cụ thân sinh ra Bảo được báo mộng rằng con trai đã chết, nhưng lại không rõ là chết ở đâu. Còn lời nguyền đã giải được hay chưa thì cũng chẳng ai tường tận. Tuy nhiên sự chết chóc ở trong tộc đã có dấu hiệu giảm dần. Cũng từ đó, phàm là đàn ông mang họ Trịnh sống thọ nhất cũng chỉ tới năm mươi.

    Cũng trong thời gian ấy, người làng phát hiện ra ngôi miếu thờ ở dưới chân núi đã biến mất, qua một thời gian dài hồ nước gần đó cũng dần cạn kiệt rồi trở thành một lòng chảo khổng lồ. Những chuyện linh dị cũng bắt đầu khiến không một ai dám bén mảng tới gần. Vùng đất dưới chân núi trở thành vùng đất chết.

    Người ghi lại những sự kiện trên là cháu của Bảo gọi Bảo là chú ruột. Người này còn cho biết bản thân đã từng liều lĩnh xông vào "cấm địa" là khu đất hoang để tìm hiểu sự tình, sau khi trở về biết là mình sẽ không sống được lâu mới viết lại tất cả, trong lúc dòng họ xây nhà thờ bí mật thuê thợ làm một đôi linh nghê, bên trong có cơ quan để cất dấu cuốn sách truyền cho hậu thế. Lại bí mật đào trộm mộ của một người bị sét đánh ở trong họ, lấy một đoạn xương chế tác ra mắt dương yểm một đạo bùa lên đó với mục đích chỉ cho những người mang dòng máu họ Trịnh mới có thể mở được mà thôi.

    Lại nói Bảo trước khi mất tích còn để lại một lời sấm rằng: Ta ra đi lần này lành ít dữ nhiều, nội trong bảy ngày không thấy ta trở về thì có nghĩa là hàng yêu thất bại, nhưng nhất định sẽ không để cho dòng họ tuyệt diệt. Đến đời thứ mười hai ắt có chân nhân xuất hiện giúp ta hoàn thành phần việc còn lại.


    Gấp cuốn sách lại, mọi người ai nấy đều sửng sốt như vừa được ngược dòng thời gian trở về lịch sử hai trăm năm trước từ đời cụ Trịnh Biểu tới giờ. Ông Bổng xúc động nói:

    - Quả nhiên, tổ tiên có quá nhiều bí mật. Tôi ngần này tuổi mới hiểu rõ được gốc gác của mình.

    Cụ Cừ vỗ vai ông Bổng:

    - Phải cảm ơn người viết và cất giữ cuốn sổ này, nếu anh ta không thông minh tìm được một nơi giấu an toàn, bảo quản tốt như thế, thì giờ có lẽ chúng ta chẳng có tài liệu để mà nghiên cứu.

    Tuy nhiên ông Bổng vẫn vô cùng băn khoăn:

    - Trong sách không hề có một lời nào nói cách hóa giải lời nguyền!

    Đúng vậy, trong sách quả là không đề cập tới vấn đề này, nhưng với một pháp sư lâu năm trong nghề như cụ Cừ thì bản thân cuốn sách đã chính là một lời giải. Cụ thắp hương lên ban thờ chắp tay nói:

    - Tiền bối quả nhiên đề cao hậu sinh rồi. Nếu đã được tin tưởng như thế, tôi đây xin dốc hết sức mình mà giúp đỡ cho Trịnh gia.
     
    Last edited by a moderator: 23 Tháng mười hai 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...