Tên tác phẩm: Ngày cuối năm Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Cõi đất hoang cuối làng Hạ ngay bên bãi tha ma. Chỗ đất trống ấy bỏ um tùm vì nhà nào có mồ mả cũng không muốn để sát vào luỹ tre bên xóm có người ở trong. Chỗ này mọc lên những bụi cây ké, cây lá cối xay, cây dướng và bụi lau. Đôi khi, con trâu đi qua quơ mõm chẳng có cỏ rả nhai được, lại lảng ra. Thế mà vẫn có người ở. Chỗ tận cùng nào chẳng có người ở. Nhưng trong làng không bao giờ coi đấy là xóm, là ngõ, kẻ đến kẻ đi không biết thế nào. Chỉ những người lưu lạc đến đây ngụ cư, trai tráng không có tên trong sổ đinh, không được đóng hàng giáp. Thằng mõ làng còn được chia phần ngồi một mình ngoài cửa, chứ người ngụ cư thì chưa được bằng cu mõ. Ấy thế nhưng hàng năm khi nước sông Cái lên to, trên phủ sức về lấy đinh đi hộ đê thì ông phó lý lại tróc đến cái xóm hoang này. Mày đến nương nhờ đây, mày uống nước giếng đầu làng đây thì mày phải làm thân con lừa cõng việc quan sai. Lão ta trôi giạt đến bãi hoang từ bao giờ. Người ta gọi lão là lão, tên lão là lão hay đấy là cái tiếng để gọi người già mà lão già từ khi nào lão cũng không nhớ. Chẳng mấy lúc đã đến ba mươi tháng chạp. Phiên chợ áp Tết, tiếng à à chợ búa nháo nhác đằng cây đa bên kia cánh đồng đã vang động từ sớm. Tiếng vịt cạc cạc, tiếng bò rống, tiếng người chửi nhau.. Có xào xạc thế mới ra ngày chợ vét. Bởi vì sớm mai đã mùng một năm mới rồi. Ai dư dả tiền thì chúng họ thong dong đi sắm sửa từ những ngày chợ trong năm. Phiên chợ này của người cố cùng mới chạy được vài tiền, vội nhoáng nhoáng đi vơ cút rượu, thẻ hương, miếng thịt lợn cúng, lẻ gạo nếp.. Lão cũng chẳng đào đâu ra đồng nào mà mó đến những thứ sắm sửa ấy. Lão chẳng màng đến phiên chợ. Cái Tết, lại cái Tết, rồi lại cái Tết, những tết nhất thờ Ơ qua đi. Khốn khổ, ấy thế mà lão, chỉ có lão, lão thuộc tất cả ruộng lúa, ruộng màu, ruộng đồng cao, đồng xa của mọi nhà trong làng. Bởi vì lão quanh năm đi làm thuê đã cày bừa tát nước tháo nước nhẵn các mặt ruộng. Bây giờ thì lão đi cuốc. Ruộng trồng màu phải cuốc mới kỹ được đất. Để cắm dây khoai lang, khoai nghệ, lại cải thìa, lắm giống mới quá. Ruộng huệ hoa trắng lôm lốp như đứa chít khăn đại tang. Chúng nó hóa rồ đến nơi, trồng các cái ăn cái uống linh tinh. Chẳng bận đến lão. Lão chỉ biết bổ nhát cuốc, lão mong được có việc làm suốt giêng hai. Nhưng đến năm cùng tháng tận thế này thì cũng chẳng nhà nào còn mướn cuốc ruộng nữa. Lão không làm dối, mà có lẽ bởi lão cuốc chậm. Cái già đã hất miếng cơm của lão. Nhưng chẳng cần, lão có việc khác, lão ối việc, có người thì có việc. Nhà kia gọi sửa bờ rào, đóng cổng ngăn, đào cái rãnh tát nước dưới ao, lại đánh gộc tre và không đi làm thì lão đi đặt đó, đánh lờ, kéo vó tôm, câu ếch, lão không đi chợ, nhưng thấy người ta đi chợ Tết thì lão cũng nghĩ có khi ta nên đi chợ đong lẻ gạo nếp, mua thẻ hương, khốn khó đến thế nào thì cũng phải lo nhớ đến các cụ. Nhưng chỉ nghĩ chứ chưa Tết nào lão đong được bát gạo, mua được thẻ hương, rồi cái nghĩ nhạt dần, rồi thôi, mà cứ mùng một Tết, lão múc bát nước mưa đem vào đặt lên hòn gạch ông đồ rau trong bếp cúng ông vải và vua bếp, lão cúng chay. Ờ thì cũng phải đi chợ một cái xem làng nước họ chợ búa ra sao. Cái phiên chợ chửi nhau, đánh nhau, cướp giật của nhau cũng vui mắt đấy. Vẫn còn hàng lá dong, lạt giang bởi vì cũng chẳng thiếu nhà tối ba mươi mới luộc được đôi bánh chưng. Bác hàng dừa bày lên mặt gánh một đống gáo dừa có chuôi cả sọ, có cái đã đẽo thành muôi, chỉ một chốc đã bán hết nhẵn. Thiên hạ mua gáo, mua muôi làm gì mà đổ xô vào thế. Tết nhất lắm thứ phải đong, phải múc, phải khảo chăng. Có đứa bảo sọ dừa già gọt làm quân xóc đĩa còn nảy rền trong bát hơn quân vỏ diêm. Chẳng biết thế nào, chỉ biết vào những tháng củ mật tháng ăn chơi thế này thì đâu cũng có đám thò lò, đám xóc đĩa. Dãy hàng tranh lơ thơ chỉ còn mớ tranh tiền rẻ nhất. Tờ giấy hồng điều đỏ khé in từng chuỗi hình mười đồng tiền. Một chinh Khải Định được lấy mười tờ tranh tiền. Có năm lão đã mua chơi tranh tiền. Lão dán các cột lều, ngoài cửa, trong bếp. Để bói xem năm mới có tiền vào nhà không. Nhưng không khi nào có tiền vào nhà, cũng không có tiền đội nón ra đi, chẳng thấy gì cả. Lão vào bãi bán trâu bò. Lúc nãy chắc có nhiều trâu, nhiều bò, bởi cái bãi lầy bùn còn in vết móng trâu, lại lắt nhắt móng dê hay móng chó. Lúc này thì chợ trâu bò vắng tanh, chỉ còn mỗi một người mổ bò thuê đương cọ mấy con dao trong cái xảo thả dưới ao làng. Trong cái xảo còn có bốn cái móng bò đen gồ ghề nổi lơ lửng trên mặt nước. Lão nói: - Này đằng ấy cho tớ bốn cái móng bò nhé. Tớ xin cái móng chứ không xin cái vó đâu! Bác đồ tể mặt còn đỏ lựng. Dáng hẳn lúc nãy vừa mổ, vừa xả thịt vừa nốc rượu. Bác đồ tể nói to: - Có cái bong bóng nữa. Định đem vứt cho chó gặm, người có tết thì cũng phải cho chó cái tết chứ. Lão giơ hai tay như can đôi bên đánh nhau. Ấy chết. Ấy chết, đừng phí của giời. Cái móng bò ninh lên cũng được nồi nước xuýt. Cái bong bóng thì đem phơi nắng may ra bán cho con mẹ hàng rượu. Một đống tiền cả đấy. Ông ơi! Người đồ tê cười hề hề: - Ờ thì cái bong bóng để đấy chốc nữa bán cho con mẹ buôn rượu. Còn cho bố cầm cái guốc bò này về, của thằng con rể sêu tết đấy nhé. Câu tán dại đâm ra mất cái bong bóng. Phải mau mau kẻo nó không cho cái móng bò nữa thì có mà ăn mày. Lão vơ đâu được cái giỏ mất hom, nhét cả bốn cái móng bò còn dính lầy nhầy lông và bùn lấm. Rồi tất tả đi ngay. Ra khỏi chợ, lão nhìn lại cài giỏ móng bò mới thực yên tâm. Chẳng có đồng mốc nào, đi chợ cũng được những thứ này. Cái xương, cái móng cứ đun mãi tất phải ra sụn ra nước xuýt. Thế là có tết rồi. Đến cái quán giữa đồng, lão ngồi buộc lại giỏ. Bà hàng nước đã nghỉ dọn hàng quán trống gió thổi ào ào vào lều. Lão trói vào lại tháo ra, lại cầm từng cái móng bò lên ngắm, ngắm chán rồi lại đâm nghĩ ngợi lấn thẩn. Khốn nạn thân ông, cái móng bò không phải là cái vó bò, cái vó bò thái ra chấm tương gừng, nhai rau ráu, cái móng thì.. thôi thôi ông cứ đắp bùn hầm cho mấy ngày mấy đêm thì đến sừng trâu móng trâu cũng phải chảy ra nước xuýt. Thuở xưa thằng vua còn ninh mầm đá ra ăn cơ mà.. Ngoài ruộng, một đàn quạ khoang xúm xít trên một luống đất cày ải. Bọn chim chóc trộm ngày này đương chơi trò tranh nhau cái gì đây. Lũ quạ thoáng thấy người ra bay rào rào lên, lão trông thấy trong luống đất một chiếc bong bóng lợn, à mà không phải bong bóng lợn cái bong bóng trâu mới to ngồn ngộn lên thế. Không biết bọn quạ tha ở đâu về hay là đứa nào ném ra đây. Thằng mổ bò kia không cho ông thì ông cũng được giời cho, giời cho ông cái bong bóng trâu còn to bằng mấy cái bong bóng bò. Thật là của giời cho. Những con quạ chết đói lại táp xuống. Có con nhảy vào mổ cái bong bóng. Có con táo tợn đậu xuống vai ông lão, như toan quào vào mặt cái thằng người đến cướp cơm của nhà quạ. Những những con quạ khoang địch sao được lão ông mà túm được con nào thì ông cũng cho chúng mày vào nồi tất. Tết này ông ăn tết thịt bò ông ăn thịt quạ. Lập tức, lão huơ tay lên. Những con quạ khôn ngoan đã đọc được cơn giận nổi đùng đùng trên mặt lão. Cả lũ bay biến đi. Thế là lão nhặt cái bong bóng nhét vào giỏ. Lão nhổ cái cỏ xước tết làm lạt buộc những cái móng bò xách một bên tay. Lão chợt lắng tai. Tiếng chuột kêu chí chí ở góc tường đất. Không phải tiếng chuột nhắt đuổi nhau. Hình như tiếng chuột nhút nhít mới đẻ chưa mở mắt, đương chen nhau trong ổ, lão rón chân bước lại. Lão nhấc hòn gạch vồ. Một ổ chuột tý nhau lúc nhúc đỏ hon hỏn. Con chuột mẹ nằm giữa chưa kịp ngoái đầu lên, bàn tay lão đã chít cổ lôi ra. Con chuột mẹ giãy được mấy cái, tắc thở. Thế là cả chuột mẹ chuột con lão dốc tuột vào giỏ. Đã có thịt bò, lại thêm thịt chuột, được quá Lão về đến những túp lều cái xóm người ngụ cư. Cái lều của lão như đống rạ lởm chởm. Gió rét ngăn ngắt. Tự dưng, lão lẩm bẩm một câu bơ vơ: "À à thế này mới là Tết" lão đương hả hê ta đây. Mấy cái lều ở ngoài chưa thấy hơi hướng ai về. Gió thổi kẽo kẹt như có ma ở các ngôi mộ đằng kia lên đánh đu trên bụi tre. Người ta đi đâu, lão không biết, lão cũng chẳng để ý Chúng nó trốn tết hay chạy tết, có khi kéo nhau bỏ đi luôn cũng nên. Ở ngoài tha ma có nhà nào đi sửa mộ cuối năm. Gió tạt vào mùi hăng hắc hương đám ma. Nhưng trong đầu lão chỉ đương có những cái mừng. Nước xuýt luộc bò, cho thêm cái bong bóng này vào thì ngon ngọt đứt đuôi rồi. Lại còn xó rượu đấy, rượu nhắm với thịt chuột bao tử nướng. Lão đã tưởng ra tiếng pháo xa xa, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa nối lên. Ba ngày tết qua rồi, đã có người gọi hẹn mừng tuổi lão từ trong năm, mùng bốn vào dọn vườn động thổ. Hôm ấy thì được chén tuỷ luý thẳng thừng rồi. Lão nhìn cái bờ rào cúc tần. Để những thức ăn sống sít này chỗ cao ráo cho khỏi con kiến bò vào, không khéo thì có khi cả con chó đến ngoạm mất. Nhìn trước nhìn sau, rồi lão gài cái giỏ chuột vào hốc thân cây dướng. Bốn cái móng bò và cái bong bóng trâu thì treo trên cành cây dường ở ngay cửa lều, trông ra thấy ngay. Lão vào bếp thổi lửa, vơ mấy cái que củi đốt sưởi rồi ngả người xuống ổ rơm. Lão cứ nghĩ vơ vẩn toàn những cái vui, tưởng như vừa được một buổi sắm sửa bận rộn rồi lại đã cơm no rượu say ngoài chợ. Hai con mắt lão gà gà díp lại trong tiếng pháo lạch tạch đâu đây. Lão chợp mắt một lúc. Tiếng gió lùa rào rạt trong vòm trời âm u, trở dậy không biết sắp tối hay còn ban ngày. Lão ngồi dậy lò dò ra đem các thứ vào bếp. Trong hốc cây dướng để cái giỏ chuột. Bốn cái móng bò, cái bong bóng trâu thì treo trên. Nhưng chẳng thấy các thứ ấy đâu cả. Đứa nào đã thón mất. Hay con cầy, con cáo tha rồi. Lão nhìn quanh xem như còn có cái gì rơi xuống đất. Không thấy. Lão đứng tần ngần, cũng chẳng nghĩ ngợi ra sao.
Tên tác phẩm: Nhà nghèo Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa. Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này: Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi: - Gái ơi! Không có tiếng đáp. Chị réo: - Ơ ơi.. Gái.. ơi ơi.. Gái.. Vẫn im. Chị lại réo: - Ơ ơi.. Gái.. Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi! Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra: - Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không? Chị không im. Chị nói thêm: - Người ta gọi nó mà cũng cấm hả? Chưa thôi, chị lại đay: - Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì! Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời! Thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày "đằng ấy" người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng: - Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra độ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có.. Anh cũng không biết "đừng có" thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng: - Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem. Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. Ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó Khóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoặt sau mông, ra điều nghe ngóng. Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù dẫn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chảy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phét đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu. Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu loa: - Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao. Cáu, anh Duyện văng: - Ừ, ông chửi cha con què đấy. Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng: - Ối thiên địa trời đất ơi! Ối cha ơi! Ối mẹ ơi! Tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bảy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường. Tôi buộc bụng nuôi con.. hu.. hu.. - Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều.. - Ối ông cả bà lớn ơi!.. A bấy lâu tôi nằm (ở) với.. chó đấy a.. Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi. - Chó này! Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ: - Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi! Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát: - Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông sau. Những của nợ kia, ông xử chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày. Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh "choeng" một tiếng xuống đất. - Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. Ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi. Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào: - Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ! Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi. Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn: - À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem. - Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh. - Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt.. Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tì lửa, vội kêu chóe: - Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà.. Thằng Duyện nó đốt nhà.. Nó.. Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà. Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi. - Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem. Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn. Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhưng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện. Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. Ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đất sáng ngời. Màu lá cây xanh mướt. Những con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh. Bấy giờ khắp làng bày ra một cảnh lạ mắt. Ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. Ở tay mỗi người cầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp. À, trời vừa mưa xong, ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen như con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhưng chúng lớn hơn nhái, da dẻ bóng mỡ, thân hình có cạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn. Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu. Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng gặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái giỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào gầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. Hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt. Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra dáng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. Ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà. Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. Ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng sún đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình. Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh. Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói: - Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem.. Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng được rằng lúc nãy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: "Tiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đấy". Rồi anh gọi: - Ớ! Gái!.. Ở trong sân, vợ anh nói với ra: - Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con! Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phía có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lưng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi. Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn thấy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại. Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn giơ hết cả ra. Thương ơi! Bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về. Tô Hoài, Bến Ray, Tháng Chạp 1942
Tên tác phẩm: Những năm 1944 - 1945 Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Đảng cần phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa đặng gây ra một phong trào văn hóa tiên bộ, Văn hóa Cứu quốc, chống lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế.. phải gây ra những tổ chức Văn hóa Cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức. (Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25/2/1943) Một hôm, Hương "đen" lên Nghĩa Đô, đến nhà tôi. Hương bảo tôi: - Họp ở đây được không? - Được! Nhiều người hơn mọi khi đấy. - Độ bao nhiêu? - Khoảng mười người mà có thể liền một hai ngày.. - Bao giờ? - Cứ lo sẵn đi. Rồi có người đến hẹn nữa. Hương "đen" ngẩn ngừ hỏi lại tôi: - Có cáng nổi không? Tôi cũng ngẩn ngơ rồi ầm ừ, không đậm không nhạt. - Được! Hương "đen" dường như cũng chẳng để ý vẻ ngần ngại thế nào của tôi, lại móc trong lưng ra một khẩu súng Brôning nhỏ, đen bóng như con quay sừng. Bao giờ thấy súng tôi cũng có một cám tưởng nghiêm trọng khác thường. Cách mạng phải có những cái này chứ, tôi vẫn cho là thế. Ít lâu sau ngày cách mạng thành công. Xuân Thuỷ chủ nhiệm báo Cứu Quốc cho tôi một khẩu súng lục. Chắc là súng giả, vì trông nó gồ ghề màu bồ hóng không loang loáng như súng của Hương "đen". Tôi giắt sau lưng áo, cũng không mở xem bao giờ. Thế mà tôi đã đeo khẩu súng ấy với cái máy ảnh Leica - mà tôi không biết chụp - làm phóng viên báo đi Nam tiến, vào tận mặt trận Nha Trang và Củng Sơn ở Nam Trung bộ. Còn Hương "đen" thì như nghiện súng. Mỗi lần tôi lại được Hương "đen" khoe một khẩu brô-ning mới soi gương được còn bọc giấy bóng. Có lẽ rồi cái thú mê súng đã đưa Hương "đen, vào ngành an ninh. Suốt kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, Hương" đen "ở chiến trường miền Nam. Khi chế độ Ngô Đình Diệm chết, Hương" đen "thoát được khỏi cái hầm đất nhà tù của bạo chúa Ngô Đình Cẩn ở Huế. Hương" đen "đã bị nhốt ngồi một mình dưới đất suốt năm năm trời. Tôi ôm Hương" đen ", sờ thấy cái lưng gù gù hết hiên ngang và hai cánh tay lòng không dài hơn trước. Cặp môi vẫn hơi dầy, nước da ngăm ngăm. Tiếng nói giọng mũi vẫn ấm và thân thương như ngày trước. Sau đấy, Hương" đen "lại vào chiến trường, lại làm nghề" cá "cho tới Sài Gòn giải phóng. Thật sự tôi cũng cứ" ừ "thế, nhưng ngổn ngang những cái phải lo chưa biết lo thế nào. Đảo chính Nhật rồi, các hoạt động của Việt Minh còn táo tợn hơn trước, dẫu cho bộ máy cả sở Liêm phóng Bắc Kỳ, người Pháp đã phải" bàn giao "nguyên vẹn cho người Nhật, ông chủ mới của Đông Dương. Mỗi khi máy bay Mỹ và Anh của Đồng Minh đến ném bom giải thảm xuống Hà Nội, quân Pháp bị xích chân ở các pháo đài Xuân Canh, pháo đài Láng, pháo đào Cáo vẫn phải bắn cao xạ lên phối hợp với súng phòng không Nhật mà người thành phố phân biệt được khói trắng đạn Nhật, khói đen đạn Pháp. Nhiều mật thám sừng sỏ thời Tây đã bị Việt Minh tiêu diệt. Những Phơtô, Luýt thì chết ngay rồi. Đội Sinh bị giết ở cống Mọc. Cai Long, Ba Lự người Yên Thái thì Thôi Hữu, cán bộ phụ trách ngoại thành đã bắn chết ở dốc Tam Đa, ở lều tiệm hút nhà thổ mụ Tíu đầu làng Bái. Nhà tôi ở trong giữa làng, không có vườn hay luỹ tre trổ ra đồng, nhưng nếu động, có thể chui rào sau nhà chạy sang làng Tân được. Lo chính là cái ăn. Đã bao lâu, không còn thấy mặt hạt gạo. Người đói la liệt các xó xỉnh. Không phải đâu xa, mà ngay trong nhà tôi. Nguyễn Xuân Huy không lên ở chung với Nam Cao và tôi nữa. Có lẽ cũng không hẳn vì thiếu ăn, bấy giờ Nguyễn Xuân Huy đương dạy trường tư Nguyễn Vạn Tòng, nhưng từ hôm giữa trưa về, Nguyễn Xuân Huy rỉ tai tôi:" Vũ Quốc uy bị bắt ", rồi đi thẳng. Tôi vẫn đoán Nguyễn Xuân Huy đã dính líu với những tổ chức bí mật khác, có thể là tờ-rốt-kít mà đôi khi tôi có được đọc tờ báo Tranh đấu in thạch của một nhóm làm nhà in Lê Văn Tân, cũng như Nguyễn Xuân Huy đã tha về cho chúng tôi cả một bộ ba quyển tự truyện Đời tôi của Trôtky. Có hôm Nguyễn Xuân Huy chong đèn viết đến khuya, anh không viết truyện thơ mộng kiểu" Nắng đào, Hoa lưu động khẩu lưu trường.. "và làm cho xong tập 13 bài thơ không bao giờ xuất bản, mà Nguyễn Xuân Huy vươn vai, da trắng bệch, râu tua tủa, vừa ngáp vừa vuốt nách kêu: Lúc này không còn lòng dạ thơ mộng nào nữa. Nguyễn Xuân Huy viết sách lý luận. Chữ Nguyễn Xuân Huy chân phương nhà giáo, cả đến chi tiêu hàng ngày cũng ghi: Tiền giặt là, tiền xe điện, tiền mỗi tháng đi nhà thổ một lần, viết đều nét như anh đương soạn tập lý luận văn học Sống và viết, nhà văn mộng mơ này cũng xông vào chính trị rồi. Cũng như đã lâu không gặp lại Nguyễn Tế Mỹ, cái chàng tờ-rốt-kít bạn tôi này đã viết bài khen tiểu thuyết Quê người của tôi trên báo Tin mới. Cái khó về cuộc họp cũng không phải có hay không có Nguyễn Xuân Huy khác xu hướng chính trị cùng ở mà trước nhất, vì tiền. Từ năm ngoái, khi tôi bị bắt, thì hầu như các chủ báo, xuất bản đều hững hờ và xa lánh. Tất nhiên vì chúng tôi có mùi Việt Minh mà vì sách báo thời buổi này đương ế quá. Nam Cao đã phải về quê rồi. Ở quê nhà, con bé Bình Yên mới sinh - tội nghiệp cháu sinh ra, được đặt tên là Bình Yên. Chắc là mẹ con đã rau sam, rau rệu nhiều quá mà" cháu đã phải nhà hàng bún bắt đi rồi ". Thôi thì về, ra thế nào thì ra, đến phải chết thì cùng chết mà thôi. Những nhân vật trong sáng tác của Nam Cao càng ngày càng không cất đầu nổi lên trên miếng ăn, chẳng qua cũng là cái bóng xót xa mà hàng ngày chúng tôi phải chịu giữa bao nhiêu con người đói khát vạ vật trên chợ Bưởi, ngoài đầu làng kia. Hôm mới rồi, Trần Độ hỏi tôi:" Có phải mình gặp Nam Cao cái hồi đói mà họp ở nhà cậu được ăn bánh chưng ấy phải không? " Lúc thiếu đói, miếng ăn ngon no bụng bao giờ cũng nhớ lâu, nhưng không phải, Nam Cao đã về quê sống liều chết liều từ tháng trước rồi. Cũng chỉ còn mình tôi ở nhà. Mấy tháng nay bà ngoại tôi đã lên ở Sơn Tây. Cái xe ba gác bán đinh vít, đinh đỉa, lưỡi thuổng Thừa Lệnh của chú dì tôi mỗi phiên chợ Gạch, chợ Nghệ cũng còn bới đất lật cỏ được ra miếng cơm cho mẹ già. U tôi quang gánh giấy phèn, có khi mấy ngày mới về, chân tay vàng ửng như chát hòe. Người nói có hôm sang Bắc Bỏi, qua tận chỗ Ao Cả, Vực Dê. Các làng bên ấy ai người ta mua thứ giấy hẩm lau bát ấy làm gì bây giờ. Hay là u tôi tránh mặt đi làm mướn, đi ăn mày ở xa, cho tôi không biết. Chỉ còn có em không đi đâu được nữa. Em tôi ốm. Mấy tháng nay em thúng thắng ho, gầy rạc đi. Mấy cô trong xóm cùng lứa tuổi đi mua nhặt sách cũ nắng nôi vất vả quá Nam Cao đã đưa em tôi xuống Kẻ Chợ khám. Bác sĩ bảo thử đờm mới biết bệnh. Nhưng phải mất tiền, mà nhà thương thí ở Phủ Doãn không nhận người ốm ho hay lây. Chẳng biết làm thế nào. Người ta bảo hồi cải cách ruộng đất, các làng đem đốt mất nhiều sách chữ nho ngày xưa. Tôi thì tôi trông thấy trong nạn đói năm ấy người ta huỷ hoại sách mới ghê. Ở các chợ, những quang sách chữ hán bìa màu cánh gián chất đống như gò cỏ khô, bán làm nòm, làm củi, lấy cái sưởi cho qua đêm rét khủng khiếp. U tôi và em với lũ con gái làng lứa tuổi ấy đi các xóm mua sách quảy lên chợ. Chẳng ai nhòm đến, có buổi tối người đói đem đốt sách để sưởi như cháy chợ. Bây giờ lấy đâu ra cho cả chục người ăn hai ngày họp. Làng tôi tuy đói dài, nhưng hầu như cả làng đã vào Việt Minh. Thôi Hữu vượt ngục Hỏa Lò ra, bí danh là Tấn, là Thường, thỉnh thoảng đưa tôi xem tờ Đuổi giặc nước cơ quan của Việt Minh Thanh Hóa. Thôi Hữu vẫn có liên lạc với quê. Lê Hữu Kiều đã giới thiệu cho tôi quen Thôi Hữu khi các anh ấy làm báo Bạn đường. Sau khởi nghĩa, Thôi Hữu không làm cán bộ chính trị nữa, mà làm phóng viên báo Thủ đô rồi báo Vệ quốc quân, đến năm Thôi Hữu bị máy bay Pháp bắn chết ở Hợp Thành trên Thái Nguyên, bấy giờ đương làm báo Sự thật. Ở làng trong các chị em phụ nữ cứu quốc, cô Thu yêu Tấn lắm. Có hôm hai đứa đèo xe đạp hôn nhau, chốc lại loạng choạng đâm vào đường tàu điện. Cũng chính ở quãng Cổng Dong cạnh hồ Quần Ngựa năm trước Tấn đã bắn chết mật thám Cai Long. Tôi biết đêm đêm những gánh sách báo, giấy mực, thuốc súng từ trong thành quảy ra qua vùng này sang bên kia sòng Cái và ở cánh đồng Mả Mái sau làng tự vệ chiến đấu ra tập quân sự ngay từ chập tối. Dù đói đến thế, nhưng phiên nào cũng có mít tinh ở chợ Canh, chợ Trôi. Cô Thu, áo nâu non đổi vai, vạt thắt quả găng, trễ một bên khẩu súng bro-ninh nữ, chít khăn mỏ quạ, mắt đeo kính râm. Cán bộ Việt Minh xuất hiện diễn thuyết giữa chợ hô hào phá kho thóc, đánh đuổi phát xít Nhật. Nhưng tôi không dám bảo với Thôi Hữu rằng sắp có họp ở nhà tôi, giúp cho tôi ít nhiều. Tôi giữ nghiêm ngặt kỷ luật hoạt động bí mật. Giữa lúc ấy, Nguyễn Hữu Đang tới. Nguyễn Hữu Đang đến xem lại tôi đã sửa soạn thế nào. Pháp chết rồi, nhưng tay chân Nhật vẫn nhan nhản, mặc dầu cũng không khó bằng trước. Có lần chúng tôi họp tới mười mấy người ở nhà Nguyễn Huy Tưởng giữa phố gần chợ Hôm. Lần đầu tiên tôi gặp Lưu Văn Lợi, Thép Mới, Nguyễn Công Mỹ.. nhưng vẫn cứ phải cẩn thận. Nguyễn Hữu Đang hỏi tôi: - Công việc đến đâu? - Nhà vắng không có ai, bờ rào đằng sau nhà, có gì thì chạy sang làng bên. Nguyễn Hữu Đang xuống bờ cái chuôm cạn gật gù nhìn sang gò đất trống bên kia mấy bụi cây ráy. - Cũng được. - Nhưng chưa có tiền. - Chưa có tiền? - Thằng.. thằng.. có đưa mày đồng nào không? Tôi nói tránh. - Không sao, anh em ở địa phương đã cho ít gạo và cá khô, đủ rồi. Nguyễn Hữu Đang làu bàu chửi mấy thằng trong thành phố nhà còn có máu mặt. - Tiên sư những đồ khốn nạn, tao đã bảo chúng nó biết họp ở đây mà mày thì đào đâu ra tiền. Nhà chúng nó vẫn còn có ăn. Không cứu nhau lúc này thì lúc nào! Làng tôi ở vào một thế hết sức oái oăm. Các làng bên kia, Yên Thái, Đông, Hồ thuộc thành phố, được phát" bông "mua gạo hàng tháng. Làng Nghĩa Đô ở ngay đường bên này, nhưng đã sang địa phận tỉnh Hà Đông, đói lăn ra cũng không đáng quan tâm. Tây cũng như Nhật không cần giữ thể diện như đối với Hà Nội. Nhiều nhà từ thiện trong thành phố như cụ Ngô Tử Hạ đã đứng ra tổ chức cứu tế các tỉnh đói. Việt Minh chủ trương đẩy nhanh tiến tới Tổng khởi nghĩa, không kéo dài cái sống ngắc ngoải. Cũng là hai công tác xã hội, nhưng thái độ và chủ trương của Việt Minh đối với Tổng hội Cứu tế khác với phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Nhớ lại chuyện hồi ấy bây giờ có người không biết hoặc lẫn lộn. Nguyễn Hữu Đang cũng xem qua loa chiếu lệ. Tình thế bây giờ đã khác hồi mùa thu 1944, khi bọn mật thám Huýt đẩy Vũ Quốc Uy về nhà này nhận mặt tôi rồi xích đi. Nguyễn Hữu Đang cho tôi một tờ giấy năm đồng. Tờ giấy bạc vẽ con công - năm đồng bạc ngày ấy khi mà sáu đồng Bảo Đại ăn một chinh Khải Định thì năm đồng tiền Đông Dương giá trị còn to lắm. Thế là yên trí rồi. Nguyễn Hữu Đang vốn thẳng tính và tính việc nhanh, ở cơ sở nào cũng thân như người nhà. Còn nhớ như nhà ông Mai ở Hàng Điếu, nhà ông thợ điện ở hàng Quạt mà chúng tôi đã đi ăn cưới con trai ông ấy, như ruột thịt. Năm mươi năm sau, mới đây, tôi được Phùng Quán và Phùng Cung mời đến dự ở nhà Phùng Quán cuộc mừng Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi mà vẫn độc thân. Nguyễn Hữu Đang chụp chung với tôi bức ảnh, mới đấy mà bây giờ đã lụ khụ cả, anh có đề một câu rằng".. tặng Tô Hoài để ghi nhớ buổi họp mặt mừng tôi "sống dai" 80 tuổi! Hôm ấy, Nguyễn Hữu Đang trịnh trọng cầm giấy phát biểu hùng biện, rành rẽ, vẫn thế mạch lạc một, hai, ba, bốn hô hào thanh niên cầu tiến tha thiết. Tôi bồi hồi và buồn bã, bâng khuâng. Cô Phương Quỳnh ngồi bên đã nói một câu lạ lùng mà thật vậy, tôi bàng hoàng thấy ra sự thật mà tôi không bao giờ có thể nhận xét được như thế "Nhớ ngày nào liễu mới giâm. Le te bên vũng độ tầm ngang vai. Chợt đâu bóng lả cành dài. Đã sương, đã khói!" (Nguyễn Huy Tự). Cô Phương Quỳnh bảo rằng cụ Đang nói hăng hái như cụ ngủ từ 1945, bây giờ vừa mới trở dậy. Quả như rằng, cụ mà mặc cái áo năm thân nhuộm cậy, vẫn cái mặt đói hốc hác năm ấy, thì đúng là ông phụ lão cứu quốc đi dự mít tinh chợ Canh.. Thôi cũng là đời. Nghe nói mấy lâu nay cụ nghiền ngẫm Lão - Trang. Rồi ngày họp đã tới. Các bạn lác đác về như tình cờ đến chơi. Như Phong, Trần Huyền Trân. Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng. Trần Quốc Hương đến từ sáng sớm. Chập tối, Trần Độ mới vào. Sau này mới biết nơi công tác đội của Trung ương ở ngay ngoài đê, chỉ qua cánh đồng Dàn, Cáo thì tới làng tôi, Trần Độ đã thuộc nhiều đường nên không muốn đi ban ngày. Trần Độ và Trần Quốc Hương là cán bộ trên đến truyền đạt công tác. Văn hóa Cứu quốc ở Hà Nội liên lạc trực tiếp với Trung ương theo cách thức hoạt động đơn tuyến - chỉ có một người biết. Tổng bí thư Trường Chinh phụ trách công tác hội Văn hóa Cứu quốc. Ngày ấy, nghe nói "thượng cấp" tưởng ở những đâu, rồi sau mới biết các anh Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ ở ngay những làng ven đê sông Cái cũng thường qua lại làng tôi. Chỉ thị của anh Trường Chinh được Trần Độ làm công tác đội đưa đi. Người đón nhận tài liệu, giữa đường là Hương "đen", rồi từ Trần Quốc Hương đến Lê Quang Đạo, bí thư ban cán sự thành phố. Trong ban cán sự chỉ có một mình Lê Quang Đạo liên lạc với một tổ Văn hóa Cứu quốc, là tổ của Vũ Quốc Uy- Như Phong và tôi. Các tổ cứ độc lập phát triển, ba người một.. Lần này họp thiếu Lê Quang Đạo. Cuối năm ngoái, Lê Quang Đạo bị bắt hụt ở nhà Vũ Quốc Uy số 125 phố Lốc-Cốc-No (phố Phó Đức Chính bây giờ). Nghe nói Lê Quang Đạo không còn ở Hà Nội, đã lên chiến khu. Nhà tôi là ngôi nhà hương hỏa của ông bà ngoại - ông tôi đã mất, năm gian nhà ngói cổ, hoang vắng, tiều tuỵ, đã đổ nát nhiều. Cả tháng chẳng ai tới, cửa ngõ đóng, cỏ rêu lên tận thềm. Nhưng cũng cứ cẩn thận, chúng tôi chỉ ở trong buồng, chỗ phản nằm của Nam Cao và tôi. Chúng tôi cũng làm việc thông thường và cần thiết mỗi lần họp, dặn nhau các cách đối phó, nếu bị "chó" xộc vào thình lình. Mọi người quây quần hai ngày hai đêm đái ỉa xuống chỗ chuôm cạn dưới kia. Đã lâu mới gặp nhau đông thế, lại họp đấy, ăn ở đấy, trời lạnh, tối đắp chiếu, chăn Nam Định, lăn lóc co quắp ngủ ngay trên phản. Vẫn những tài liệu ấy, những công việc ấy, lại bàn nhưng vẫn thấy mới. Cái mới thấy được chính là quang cảnh ở ngoài đường, trên chợ ùa vào. Người chết đói càng nhiều. Việt Minh tập quân sự, chuyển sách báo và thuốc súng. Có tối thuốc súng để ở nhà cô Thu bị bén lửa, cháy cả nhà. Lính Nhật trên đồn Bưởi xuống nghe ngóng nhưng cũng chỉ biết là cháy nhà. Cô Thu cũng phải nhờ ông Bảy Nền đấm mõm ông bá Kế mấy đồng bạc. Sau khởi nghĩa ông bá đến trả tiền lại cô Thu và xin lỗi. Chúng tôi ở trong cái nhà vắng mà cũng cảm thấy chuyển động, tưởng như nghe tiếng chân người bước rầm rập. Tôi lại nhớ ông ngoại tôi kể chuyện ngày trước các cụ đem nghĩa quân về cánh đồng ban đêm bắc loa gọi vào các làng: Bớ ba quân thượng hạ.. không trông thấy mà vẫn như trông thấy. Đổi khác đến nơi rồi. Trần Độ và Hương "đen" kể tội ác phát xít Nhật và tin tức nhiều nơi trong nước đã lập các khu giải phóng. Dạo đó tôi đã viết bài "Đội nữ du kích Ba Bể" in báo Cứu quốc bí mật theo lời kể của Lê Quang Đạo. Hai tài liệu của Trần Độ mang tới để nghiên cứu và thảo luận là: Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của Trung ương đảng cộng sản Đông Dương và Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh (in năm 1944). Đề cương chưa in, Trần Độ đọc bản chép tay. Đề cương này sau được đăng tạp chí Tiên Phong của Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam số 1 ngày 10 tháng 11 năm 1945 tại Hà Nội. Tôi đã có dịp kể: Đề cương văn hóa đã nghe đọc nhiều lần. Hồi ấy, "Chương trình Việt Minh, có bản lưu hành viết thành những câu năm chữ gọi là" Ngũ tự kinh "để dễ đọc và dễ nhớ. Đề cương văn hóa cũng được là" Ngũ tự kinh "của chúng tôi. Hình như mỗi người đã kín đáo chép lấy một bản và lần họp nào cũng đem ra đọc. Chúng tôi hiểu và đón nhận đây là một mệnh lệnh, mệnh lệnh chiến đấu của chiến sĩ văn hóa - người chiến sĩ chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, xung quanh đương sôi súc chuẩn bị khởi nghĩa. Lý tưởng, lẽ sống, mong ước và chờ đợi và sẵn sàng ấy đã được cảm và thấy như thật không phải chỉ có ở đề cương văn hóa Việt Nam 1943 mà từ lâu ở những tài liệu Nam kỳ khởi nghĩa, tập" Kinh nghiệm Bắc Sơn khởi nghĩa ", những quyển Ba trẻ anh hùng ở Hạ Môn, Du kích Tôn Tử (chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn ở Việt Bắc, bí mật đưa về xuôi in lại) và các báo chí bí mật Cờ Giải phóng, Tạp chí Cộng sản (Đảng Cộng sản Đông Dương), Cứu Quốc (Tổng bộ Việt Minh), Hồn nước (Đoàn Thanh niên Cứu quốc), Kèn gọi lính (Hội Binh sĩ cứu quốc) : Những trang sách báo ấy ngày nào còn in đất, in thạch, in đá, bây giờ con chữ đàng hoàng (do tổ Công nhân Cứu quốc ở báo Tin mới gửi chữ ra). Trông hình thức cũng hiểu được tình hình. Có lần tôi hỏi Lê Quang Đạo ngày khởi nghĩa thì Văn hóa Cứu quốc làm gì. Lê Quang Đạo nói:" Văn hóa Cứu quốc cũng như mọi đoàn thể, cầm võ khí chiến đấu ". Chúng tôi chuẩn bị dao găm, đèn pin, lắc lê để phá đường tàu, quyên quần áo rét ủng hộ chiến khu Bắc Sơn. Chúng tôi đương làm như thế. Sự thực tình hình, tình thế, thực trạng văn hóa và chiến đấu là như vậy. Đến tổng khởi nghĩa thành công, sau 19-8-1945, một số hội viên Văn hóa Cứu quốc và trí thức, sinh viên cứu quốc đều được phân công vào các công tác văn hóa. Tôi còn nhớ: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng (Hội Văn hóa Cứu quốc), Nguyên Hồng, Tô Hoài (Báo Cứu quốc), Trần Lâm, Nguyễn Văn Thân, Trần Kim Xuyến (Đài phát thanh) Nguyễn Công Mỹ (Bình dân học vụ), Trần Huyền Trân (kiểm duyệt sân khấu), Như Phong (kiểm duyệt sách báo).. Không phải cuộc họp ít ý kiến trao đổi, nhưng cũng chẳng bao lăm. Nhóm các tổ Văn hóa Cứu quốc là những tiểu tư sản trí thức không gây được ảnh hưởng và tác động rộng rãi, mà chỉ quan hệ qua lại và lôi kéo được trong những trạc như nhau, mà cũng không phải đơn giản. Có người thủ an, có người nhận là cảm tình nhưng không đi họp, không đóng nguyệt liễm ngại liên luỵ, có người rong chơi, không thích chính trị, sợ vào hội kín. Đinh Hùng kể rằng cậu ấy uống rượu rồi ngủ suốt ngày 19 mãi đến trưa 20 ở nhà trong Ngõ Bò trông ra ngã tư Trung Hiền thấy cờ đỏ sao vàng la liệt mới biết trời đất đã đổi khác. Đến kháng chiến, Đinh Hùng làm báo Cứu Quốc khu ba ít lâu. Nhóm tuần báo Thanh nghị của Vũ Đình Hòe hay tạp chí Khoa học của Nguyễn Xiển chúng tôi không với tới. Vũ Văn Huyền, Thẩm Hoàng Tín đều có quen Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Hữu Đang nhưng cũng chỉ thế thôi, không giác ngộ được. Đặng Thai Mai tán thành Việt Minh và đường lối Đảng cộng sản nhưng chỉ giao thiệp với một người đến liên lạc (Vũ Quốc Uy). Các vị tờ a, tờ b, báo Tri Tân của Nguyễn Văn Tố - mà Nguyễn Huy Tưởng viết truyện lịch sử Đêm hội Long Trì đăng báo ấy - thì không thành lực lượng, cũng như các tay phò tá giải thưởng Alêchxan đơ Rốt cũng đã tàn. Văn đoàn Tự lực lúc ra tập" Giai phẩm "không còn hấp dẫn như trước; vả chăng, nhiều người trong văn đoàn và một số trí thức đã đi vào hoạt động chính trị thân Nhật, ủng hộ Nhật. Người Nhật lúc đầu còn nhẹ nhàng dưới hình thức văn hóa và giao lưu. Một số họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Tỵ được mời thăm Nhật, họa sĩ Phuzita người Nhật sống ở Pháp về Hà Nội, nhà văn hóa Kôn-su giỏi quốc ngữ và chữ Hán khi đảo chính rồi làm kiểm duyệt, cho Nguyễn Giang ra nhật báo Bình Minh, mấy nhân sĩ Trần Trọng Kim, Vũ Đình Dy đã lục tục ở Chiêu Nam (Singapore) về. Thật ra, nhà xuất bản Hàn Thuyên chưa bao giờ thành nhóm, hội nhưng những khuynh hướng gần nhau năm trước bây giờ cũng không còn gắn bó rõ rệt. Nguyễn Tế Mỹ, Lương Đức Thiệp, khác Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh, Phạm Ngọc Khuê, cũng khác cả tay cơ hội Hồ Hữu Tường (về sau, người thì hoạt động chống đối, nhưng người thì đi kháng chiến). Đồ Phồn, Nguyễn Đình Lạp, thì hồ như xa lánh đã lâu, từ sau mấy cuốn tiểu thuyết" dã sử "nhà Hàn Thuyên in loại phổ thông, không ký tên Đồ Phồn. Mặc dầu vậy, tư tưởng con người ta cũng lạ, nếu đọc lời bạt ở tiểu thuyết Khao của Đồ Phồn in năm 1945 thì lại thấy hơi hướng" phá sạch sành sanh (table rase), khác nào những năm trước đấy, kiểm duyệt của Pháp và Nhật đã khéo léo như chỉ riêng để sách của nhà Hàn Thuyên được dùng những chữ "giai tầng", "đấu tranh giai cấp", "thế giới hòa đồng".. Nhiều trí thức và sinh viên đã được các tổ chức khác nhau của đảng giác ngộ. Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập đã gia nhập Mặt trận Việt Minh. Bài hát Tiến quân ca của Văn Cao và bài hát Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi lần đầu tiên đã in trên báo Độc lập của Đảng Dân chủ Việt Nam phát hành bí mật. Đến khi cả hai vợ chồng Dương Đức Hiền được coi như thủ lĩnh sinh viên bấy giờ cũng đã thoát ly đi hoạt động, thanh thế của các đoàn thể cách mạng văn hóa và trí thức càng có tiếng vang lớn, không phải trực tiếp chỉ ở thành tựu của nhóm Văn hóa Cứu quốc. Thời Pháp rồi Nhật, mọi hoạt động công khai đều bị săn chặn khắc nghiệt. Đỗ Xuân Dũng - em luật sư Đỗ Xuân Sảng - được Nguyễn Hữu Đang làm "quân sư quạt mo" mở nhà xuất bản Gió muôn phương, Nguyễn Hữu Đang làm cái quảng cáo tên các tác giả in chung trong một hình ngôi sao năm cánh ở trang bìa sau, Sở Liêm phóng Bắc Kỳ gọi từng người lên. Tôi bị hỏi và đe: "Ngôi sao hả? Sao cộng sản sao Việt Minh chứ gì! Muốn được ở yên thì bỏ cái trò bịt mắt mật thám đi nhé". Riêng hội Truyền bá Quốc ngữ thì Việt Minh vào được êm đẹp. Nguyễn Hữu Đang - trưởng ban dạy học của Hội, kể khi xin phép định đặt tên là hội Chống nạn mù chữ, nhưng sau thấy cái chữ "chống" và chữ "mù" ấy thì dẫu ông hội trưởng hiền hậu như Nguyễn Văn Tố cũng khó qua được mắt cú vọ mật thám. Rồi mới thành tên hội Truyền bá Quốc ngữ đúng nghĩa và vừa phải. Hội đã phát triển ở Hà Nội và lan dần ra các tỉnh. Ở Hà Nội, hầu hết người hoạt động Truyền bá Quốc ngữ đều bí mật là hội viên các đoàn thể cứu quốc khác nhau của Việt Minh. Trong công việc tổ chức ngày mít tinh 2 tháng chín năm 1945 ở Quảng trường Ba Đình có phần góp sức lớn của lực lượng Truyền bá Quốc ngữ ở Hà Nội. Mấy năm ấy Nam Cao và tôi đều đi dạy học buổi tối ở trường đình Yên Thái và Nghĩa Đô miền Tây Hà của Hội. Rồi hầu như tất cả anh chị em hoạt động và giáo viên vùng này đều tham gia tổng khởi nghĩa. Hai đêm ngày bàn bạc, bao nhiêu lo toan và hứng khởi tưởng như khởi nghĩa tới nơi, mà thật, cũng chỉ một lần họp sau ở Hà Đông, thì Văn hóa Cứu quốc đã có đại biểu, Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng đi dự hội nghị Tân Trào trên châu Sơn Dương. Càng găng, càng khẩn trương, hơn một năm nay cuộc họp nào cũng lại nghe đọc thông báo kích động thống thiết về cái chết của Hoàng Văn Thụ. THÔNG CÁO HÃY RA SỨC TỔ CHỨC MỘT LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI Hỡi các đồng chí! Hỡi các đảng bộ Bọn phát xít Pháp vừa mới xử bắn đồng chí Hoàng Văn Thụ thân mến của chúng ta. Cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ chứng tỏ rằng: Quân thù càng sắp tới ngày rẫy chết càng tàn nhẫn gấp bội. Cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ còn chứng tỏ rằng: Quân thù rất sợ Đảng ta và tinh thần phấn đấu của các đồng chí chúng ta. Cũng như các đồng chí trước kia đã hy sinh trong khi làm tròn nghĩa vụ, đồng chí Hoàng Vãn Thụ đã chết để bảo toàn cho Đảng, để nâng cao tinh thần anh dũng của dân tộc bị áp bức Đông Dương. Bằng những hy sinh của các đồng chí đã khuất, nhất định chúng ta sẽ thắng! Một đảng viên chết đi phải được muôn nghìn đảng viên mới nối chí. Các đảng bộ phải tổ chức thêm một lớp đảng viên mới, gọi là lớp Hoàng Vãn Thụ. Mỗi đồng chí trong thời hạn một tháng phải giới thiệu một đảng viên mới vào Đảng. - Phản đối khủng bố trắng - Tinh thần Trung ương uỷ viên Hoàng Văn Thụ muôn năm. - Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG Nhiều năm sau này, ở nhà anh Trường Chinh thường có những dịp gặp gỡ anh em Văn hóa Cứu quốc ngày trước. Vũ Quốc Uy chịu trách nhiệm tổ chức và nhắn anh em, anh Trường Chinh cẩn thận, kỹ lưỡng, bao giờ anh cũng xem tờ giấy ghi tên người dự, và thiếu ai, thừa ai, anh bảo ngay. Cái lần tôi đi Thất Khê viết tập truyện ký Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ cho Nhà xuất bản Thanh niên, anh dặn dò tỉ mỉ, anh bảo: Nghe kể lại chuyện cũ phải tinh ý phân tích bởi mỗi người một tâm sự, một nguyện vọng của mình trong câu chuyện. Có người nói sự thật, có người khoe khoang báo công, có người nói dối, có người minh oan. Rồi tôi nghiệm thấy đúng như vậy. Bấy giờ cụ ông sinh anh Hoàng Văn Thụ đã mất, chỉ còn bà chị ruột của anh. Anh Trường Chinh gửi quà biếu cẩn thận, anh kể anh đã đón ông cụ xuống ở nhà ít lâu. Ông cụ cứ đi chơi phố rồi vào chợ Đồng Xuân uống rượu say, ngồi xích lô về tận cửa, anh Trường Chinh nói: "Lộ bem (bí mật) quá, nhưng biết làm thế nào". Rồi anh cười to. Anh Trường Chinh hay kể lại hồi ấy ở bí mật cùng anh Hoàng Văn Thụ, khi Xuân Đỉnh, khi Phú Thượng huyện Từ Liêm, anh Hoàng Văn Thụ dạy anh học bạch thoại. Biết đọc rồi, anh hay đọc sách báo tiến bộ Trung Quốc có nói về tân văn hóa, anh đã viết dự thảo Đề cương văn hóa Việt Nam hồi này, anh nhớ hình ảnh và hay nói đùa: "Mình là học sinh Hà Nội hẳn hoi mà mỗi khi ra đường phải đóng vai lý Đình Dù khăn xếp, áo the, ô khoác tay, chân đi giày ta. Hoàng Văn Thụ người miền núi mà giả trang đẹp trai lắm, mặc quần áo tây, đi xe đạp cách như thầy ký, như sinh viên. Đề cương văn hóa mà Trần Độ đưa đi phổ biến cho chúng tôi, anh Trường Chinh khởi thảo, anh Hoàng Văn Thụ tham gia ý kiến rồi anh chữa lại. Tình hình gấp gáp đến độ không kịp đưa đi cơ quan" ấn "(in), chỉ truyền miệng như các cậu biết đấy". Năm trước, một lần Trần Độ chuẩn bị giúp anh Trường Chinh một số tài liệu về hoạt động Văn hóa Cứu quốc. Trần Độ hỏi, tôi nói còn nhớ được gì thì tôi đã viết cả trong tập Tự truyện. Chỉ nghĩ rằng cuộc cách mạng giành độc lập của đất nước ta không như ở một số nước khác mà những hoạt động văn hóa làm chấn động tinh thần con người trước đã. Không, ở nước ta, trước nhất là cuộc sống và chiến đấu tư tưởng và cách nghĩ này cứ tự nhiên ảnh hương trong tôi suốt các thời kỳ kháng chiến mà tôi đã viết ý nghĩ ấy trong nhật ký, những khi chứng kiến tổ chức kết nạp Nam Cao và Nguyễn Tuân vào đảng. Mấy hôm sau, anh em tôi được bữa no. Có gì đâu, còn lại vài lẻ gạo và một xâu cá mắm. Lâu lắm, em tôi mới được ngửi mùi thơm cá nướng. Chao ôi, mới đấy mà "đã sương đã khói" hơn năm mươi năm qua rồi. Anh chỉ còn nhớ mả em ở cánh đồng làng chỗ gò Mũ Đồng Cân trông ra.
Tên tác phẩm: Những thương những giận Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Cái năm Tây về lập bốt ngay đầu đình, nhiều nhà phải bỏ làng tản cư đi các nơi. Đến năm Tây thua ở Điện Biên Phủ rút chạy vào Nam thì những nhà ngày trước đi bây giờ lại lần lần trở về. Bác Thậm về muộn nhất, mà về một mình. Những đưa trẻ chạy theo, đố nhau đoán xem ông ấy là cán bộ hay là bộ đội. Đứa nào tò mò thì đến đếm xem trên áo ông có mấy cái huân, cái huy, ông mặc áo đại cán bốn túi hay áo lính trơn hai túi, thắt lưng da. Thậm với tôi là anh em họ. Thậm bậc trên. Thậm trở về làng nhưng Thậm ở đâu hay công tác đâu, tôi không biết. Chỉ thấy Thậm vẫn cao to, mặt gồ ghề xương hóc. Thậm mặc áo cổ Tôn Trung Sơn, ka ki màu xi măng, đi đôi giày tây đen, đầu đội mũ cát két tím, lưỡi trai bóng nhoáng. Thậm dắt cái xe trâu Trung Quốc, quan trọng là cái xe đạp đeo biển sơn xanh, xe biển xanh là xe cơ quan, xe của nhà nước. Cán bộ cỡ nào mới được cấp trên cho đi xe đạp công. Thế là Thậm đã là cán bộ khá rồi. Tôi hỏi: - Bác công tác tận đâu mà bây giờ mới về? - Ở trên Việt Bắc. Bận quá, không lúc nào dứt ra về chơi được. Rồi Thậm hỏi lại tôi một câu thân mật: - Cái lão thịt chó ở gốc cây đại trên chợ còn chứ? - Còn. - Hay đấy! Tớ thết chú. Chẳng mấy khi. Chợ quê vẫn tản mát thế, chỉ đông vào ngày phiên. Chủ quán gầy gò ngồi lù lù sau cái mâm thõng. Thịt luộc xả ra bày lên những tàu lá chuối. Chậu mắm tôm, cái bát đàn riềng ớt thái sẵn, một rổ rau ngổ, húng quế, mơ tam thể bề bộn cạnh một lũ vò rượu nút lá chuối. Tôi hỏi Thậm: - Nhớ lão quán này không? - Nhớ chứ, quán rẻ nhất, lão bán tinh chó chết bả. - Tây bắn ông lão ấy chết năm kia rồi. Thằng này là thằng con cả ngồi nối ngôi đây. Thậm nhìn lại chủ quán rồi im lặng như biết rồi. Lát sau, Thậm hỏi tôi: - Chú có gặp anh cán bộ hồi bí mật.. anh gì nhỉ? - Cán bộ Bản. - Phải rồi, cán bộ Bản. Có gặp không? - Thấy bảo rồi ngày ấy anh Bản đi Nam tiến. Tôi cũng ngạc nhiên nghe Thậm hỏi thăm cán bộ Bản. Bởi tôi còn nhớ một việc xấu hổ cho Thậm hồi sắp Tổng khởi nghĩa. Trưa hôm ấy, cán bộ Bản vừa đi vào làng thì một bọn lính khố xanh với lính Nhật thình lình ập về vây ngoài luỹ. Bí quá, tôi đưa cán bộ Bản sang nhà Thậm. Đằng ấy xóm vắng có lối trổ xuống đồng thoát ra được Thậm đương vác cái giậm, sắp ra ngoài đìa càn cá. Thấy tôi và người lạ, Thậm đoán được ngay. Thậm hạ cái cán giậm, quỳ xuống chắp tay: - Lạy các ông, các ông đi ra ngay không thì chết cả bây giờ. Hôm sau, Thậm chửi tôi: - Mày dắt hội kín về, định gieo vạ vào nhà ông à? Tiên sư mày? Thậm uống hết chén rượu, rồi nói như kể chuyện: - Tớ quên thế nào được cán bộ Bản. Gay go thế thì chuyện phải nhớ đời chứ. Lúc ấy tớ vạch trổ bờ tre sau nhà, rồi lấy cái thúng bơi đưa cán bộ Bản sang bên kia sông an toàn. Bọn Nhật vây đằng đầu làng trơ mắt chẫu ra, không biết. Thế Việt Minh mới tài chứ! Ha, ha.. Chốc chốc, Thậm lại hỏi: - Chú có nhớ không? Chú có nhớ không. Câu chuyện dựng đứng thật ly kỳ mà thật cụ thể khiến cho tôi đâm ngờ ngợ cả trí nhớ tôi, hay là thế thật, tôi quên cũng nên. Từ đấy, đôi khi bác Thậm thường về nhà tôi. Bây giờ thì bác Thậm với tôi đã thân hơn, tôi đã quen lối chè chén suồng sã và kiểu ăn nói phét lác của bác và cũng được biết bác thật hơn. Tôi hỏi Thậm: - Các người tản cư đã về làng cả, bác còn nấn ná trên ấy mãi sao? Bác Thậm nói: - Mười mấy năm công tác rừng xanh núi đỏ lặn lội đến ngã nước, chết đi sống lại nên trên mới ưu tiên, các anh ấy cho được về nghỉ sớm. Lại nghĩ đã quen thung quen thổ, thôi thì đất nước đã độc lập, đâu cũng là nhà, ở đâu chẳng được. Tôi đã có lần lên chơi nhà bác Thậm. Kể ra nhà bác cũng chẳng xa xôi núi đỏ rừng xanh tận đâu, chỉ qua huyện Chương Mỹ sang đầu huyện Lương Sơn đã đến. Bác gái chuyến đi rừng kiếm măng về ngâm lại buôn chè tươi ngồi bán ở chợ huyện. Thằng con cả bác lái xe tải thỉnh thoảng có chuyến Sơn La - Hòa Bình lại lai bố đi chơi. Nó bảo tôi: - Tính bố cháu hay huếch một tấc đến giời, cho người đi đây đi đó một chuyến về khoe cả tháng chưa hết chuyện. Rồi dần dần tôi hiểu hơn cái nông nỗi bác Thậm không muốn về ở làng. Bác hay đi vắng, xóm giềng thì thào bác là công an chìm, có tuổi rồi mà vẫn phụ trách công tác đặc biệt. Thật ra, bác thạo chạy chợ, các chợ nửa quê nửa đường ngược. Bác Thậm buôn thừng, chão ở ô Cách đem vào các mối bán chợ Bắc Qua, có khi ngược chợ Phương Lâm, chợ Bờ mua giang, nứa, đay, tre, tải về cho các thổ đánh thừng ở ô Cách. Sắp Tết lại thồ ống giang về các hàng làm lạt gói bánh chưng, bánh giò. Thằng con tài xế phổi bò đã thuộc tính bố, lại nói giễu: Ấy chỉ thương nghiệp dân doanh vậy mà bố tôi đi đâu cũng đóng đại cán, cái xe đạp biển xanh. Khi về đến nhà lại chững chạc cái kính đen bí hiểm, cái túi da đeo vai làm túi tài liệu kỳ tình trong để mấy tờ báo. Đôi khi bác Thậm đạp xe thong dong như cán bộ trung ương về quê chơi. Một hôm bác Thậm khẩn khoản mời tôi. Bác nói lý do: - Phiên chợ này có việc vui với mấy ông bạn ở địa phương. Chẳng là sắp bầu lại hội phụ lão, anh em muốn giữ ở lại khóa mới. Tiếng là nghỉ mà đã được nghỉ đâu. Mệt quá. Thế nào cũng lên chơi với tớ nhé. Tất nhiên, chẳng nói tôi cũng biết là bác Thậm có việc cần tôi thế nào chứ chẳng phải chơi không. Hôm ấy đánh chén thịt vịt. Đương mùa vịt Bàu Bến béo, cái xương cũng như cái sụn mà đánh tiết canh thì tuyệt cú. Mấy ông khách đến chơi, nghe loáng thoáng mỗi lúc bác Thậm giới thiệu với tôi ông uỷ ban, ông đảng uỷ, người này người này, tôi lờ mờ đoán được ý bác Thậm. Rồi Thậm nói về tôi, chỉ một câu như đinh đóng cột: - Báo cáo các đồng chí, chú em tôi đây, anh em chúng tôi đã cùng nhau hoạt động từ bao nhiêu năm còn bóng tối, nằm ổ rơm, ăn sắn trừ bữa, rải truyền đòn, đánh Pháp đuổi Nhật. Tôi nghĩ ngượng và bực. Nhưng chẳng nhẽ nói thế nào. Hôm sau, đưa tôi ra bến xe buýt, bác Thậm nói: - Thế là ăn chắc chân chủ tịch, chú ạ. Ít lâu sau, bác Thậm lại về chơi. Bác bảo bác đi công tác, nhân tiện tạt vào. Bác cởi ở xe đạp ra một bọc bún lá với gói nilông mắm tôm đồng, cả củ sả, gừng, tía tô. Bác bảo: "Thịt chó chính cống Cầu Giẻ đấy!". Cái chão còn quấn chồm cả lên yên xe với hai vành bánh bùn đã khô lở từng mảng. Chắc là bác vừa tải chuyến thừng chão về ô Cách rồi qua đây có việc chẳng phải tình cờ. Quả nhiên thế. Mấy chén vào rồi, bác Thậm cười khớ khớ, bảo: - Chú biết đấy, tôi đã đi rải truyền đơn, tôi đã hoạt động từ ngày bóng tối với cán bộ Bản. Thế mà phần thưởng lão thành, thưởng tiền khởi nghĩa, tôi chưa có cái gì cả. Thiệt thòi lắm, phải không chú? Tôi nghe mà gai cả người. Tôi nghĩ bụng, dạo trước mà tôi chẻ hoe với bác sự thật về cái hôm chạy mật thám Nhật ở làng thì tôi đã rảnh thân. Nhưng tôi đã trù trừ, rồi tôi câm miệng hến. Tôi nghĩ giật lùi thì nó lại cứ xưng xưng ra thế này rồi tôi đâm ra quên cả tôi. Tôi chỉ còn hăng máu lúc tôi một mình. Thậm thì thào: - Bây giờ xin chú chứng nhận cho tôi, chỉ có chú mới chứng nhận được cho tôi. Tôi không dám làm chứng không phải vì tôi biết Thậm không hoạt động và tôi dám lật tẩy Thậm. Mà tại chỉ vì tôi biết thể thức chứng nhận hoạt động cách mạng phải có hai người cùng hoạt động ở thời kỳ ấy ký vào làm chứng thì mới bảo đảm giá trị. Biết thế, nhưng tôi lại chỉ lờ mờ hoãn binh. Để tôi nghiên cứu các văn bản thế nào rồi tôi nói lại với bác. - Cần lắm, chú cố gắng cho. Chả là có bạn tôi đương làm tổ chức trên huyện uỷ, cả trên tỉnh uỷ. Tôi cũng đớp mấy chén rồi, tôi lại đương hăng: - Tôi đã bảo mà. Bác vô tư đi. Tuần sau, bác Thậm lại xuống. Tôi lo, nhưng lo thế nào thì cái câu trả lời cũng phải có, mà tôi không còn lối nào để huênh hoang được. Tôi thở khướt một cái: - Em chẳng có cách nào giúp được bác. - Sao thế? - Luật đã ra là phải có hai người cùng hoạt động, cùng ký chứng nhận, một người không ăn thua. Nói được thế rồi, tôi được đà, tôi chửi vu vơ: - Bây giờ lắm người chữa lý lịch, khai man, xoay xỏa gian dối lắm. Tôi trông thấy bác Thậm nhăn nheo, rúm lại, bàn tay run bần bật. Thế là tôi mất hứng lại sinh ra động lòng và thương bác Thậm. Có thể giá lúc ấy có ai ký cho bác Thậm thì tôi cũng cầm bút ngoằng một cái theo cũng nên. Bác Thậm thẫn thờ thở một hơi như người nhả khói thuốc lào. - Thế là tôi tay không, tôi công cốc. Chú bảo tôi làm thế nào? Tôi chỉ còn biết một câu nói lại lờ mờ: - Tôi đã báo cáo cả với bác rồi. Thậm ngồi thừ một lúc, rồi như nhớ ra: - Bây giờ chỉ làm thế nào mà gặp được cán bộ Bản thì mới xong được. Có phải không chú? Tôi lặng yên. Thật ra tôi đã gặp Bản. Nhưng lúc này tôi đâm ngại, không muốn vẽ chuyện mà sinh sự vơ vào mình làm gì, cái thằng tôi cả nể. Chuyện tôi gặp lại Bản cũng là tình cờ. Lần ấy tôi sang ô Cách, ngồi nghỉ chán uống bát nước chè tươi ven đường.. Tôi trông thấy đi qua ngoài kia một ông lão dường cũng chưa già mấy nhưng lưng đã còng, bộ quần áo và cái mũ bộ đội đã xám xỉn. Ông xách bốn cái lồng chim gáy. Trời hơi lạnh, mỗi lồng phủ vuông lụa điều như các cụ ngày trước chơi chim gáy hay bọc cái lồng quả vả vào mùa rét như thế. Cái ông gánh bốn chiếc lồng chim gáy đã là lạ, nhưng với tôi càng thật ngạc nhiên, bỗng nhiên mà bồi hồi. Tôi nhớ chim gáy ở miền Nam thì bay rợp trời, nhiều vô kể. Cái ông lão quẩy chim đang đi ven sông Đuống này chẳng khác những bác già sành điệu gác cu đương thẩn thơ mà mải miết chăm chú lội ruộng qua các cánh đồng liền bờ ở Vĩnh Long, ở Bạc Liêu. Không phải các tay chơi này bẫy cu, gác cu đem bán chợ, đem nướng chả. Không, các lão này gác phải con cu dở thì thả ra, thì ném xuống sông, được con cu tướng mạo hay, mỏ nhọn đuôi thon, gáy như hát thì nuôi luyện thành cu mồi - có những con cu mồi đã ở cả đời với người gác cu, trường thọ đến ngoài năm mươi năm. Ông lão gác cu, cái tai lúc nào cũng khoái tiếng cu cao thấp, giọng đồng giọng chuông, giọng thổ lại mê man nhìn hai con vờn nhau trước cửa cụp, trên đồng mênh mông cánh cò, hai chân bước giữa trời đất giữa đồng không, chỉ tràn đầy tiếng cu gáy. Những cái điều còn làm tôi đến ngân ngơ cả người. Ấy là ô hay trông cái ông lão gánh bốn lồng chim gáy ở quãng đường này sao giống cán bộ Bản thế. Đã đành ngày ấy Bản, khỏe mạnh, tầm thước, nhanh nhẹn, không gầy còm thế này, nhưng mà cứ hao hao. Đến lúc ông gánh chim ngước mặt bước lên tam quan đình cạnh gốc đa, thì dẫu cho đã bao nhiêu năm cách xa rồi, tôi vẫn trông ra ra anh Bản thuở ấy. Tôi bước đến, chắp tay: - Chào ông. Ông đi chơi. - Chào ông. Ông già cười đáp: - Người đi chơi thì cũng cho chim được đi đổi không khí chứ. Thê mới công bằng, có phải không? Tôi rụt rè: - Xin lỗi ông, tôi hỏi điều này khí không phải, ông có phải là cán bộ Bản cái hồi Việt minh không? Ông nhìn tận mặt tôi, rồi giơ bàn tay gồ ghề, xương xẩu nắm vai tôi, lắc lắc: - À anh.. anh.. - Rồi ông ôm chầm lấy tôi - Nhớ rồi, nhớ cái hôm chạy Nhật.. Nhớ rồi.. Thế là anh Bản với tôi ngồi chuyện suốt cả trưa sang chiều bên hốc cây đa. Vậy là anh đi Nam tiến rồi ở lại chiến trường miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nửa đời người chiến trường khi thì ở chủ lực, khi sang địa phương quân là cán bộ tổ chúc du kích huyện là bộ đội tỉnh. Giải phóng rồi, trở về miền Bắc và giải ngũ. Ở ô Cách. Vùng đây cũng chẳng phải quê anh mà chỉ là nơi có khi đóng quân lâu từ ngày trước khi đi Nam tiến. Ông đại tá về xin làng đất làm nhà, rồi ở đấy như quê. Anh Bản nài tôi đến nhà anh chơi ngay hôm ấy ở mấy hôm cũng được, nhưng tôi hẹn khi khác. Thế rồi nấn ná lâu lâu đâm ra ngại. Đã mấy lần định đi rồi lại thôi. Ấy thế nhưng rồi việc lại chẳng đừng. Bác Thậm lại về chơi. Đã thành lệ, xe của bác thế nào cũng đèo cái bọc, cái gói. Lần này bọc lá chuối tươi to lù lù. Mở ra thì là mấy gói quà, quà rẻ thôi nhưng không phải mấy khi đã dễ kiếm mà bác vòi tôi là dân ưa nhấm nháp với đôi ba chén. Ấy là gói bún lá, hai chục cái đậu phụ nghệ nướng. Bây giờ chỉ có mấy nơi chợ búa quê xa mới còn bán cái món lôm lam ngày xưa này. Đậu phụ nghệ vàng nướng để nguội uống rượu chấm với muối, cắn ớt cả quả. Và thế nào bác Thậm cũng có chuyện mới, chẳng khi nào không. Bác Thậm thưỡn mặt ra một lát, rồi thì thầm như thờ ơ nói một mình: - Tôi vận rấp quá. Có đứa tố cáo tôi khai man lý lịch, tôi không phải đảng viên. Chúng nó đòi đấu tôi. Quả là việc nghiêm trọng. Tôi hỏi: - Thế thì bác thấy thế nào? Bác Thậm quắc mắt, quát: - Chú lại hỏi anh thế nào? Chú cũng nghi anh à? Tôi nhẹ nhàng: - Là em hỏi bác đã giải quyết như thế nào ấy mà. Bác Thậm xắn một bên tay áo, sừng sộ. - Tôi phải cho chúng nó biết tay. Tôi phải giết, giết hết. Nghe bác Thậm nói trừng trợn thế mà trong bụng tôi lại êm ả. Thật tình, cả tôi cũng ý ngờ bác chứ chẳng phải ai. Bác vào đảng khi nào mới được chứ? Thiên hạ bây giờ cơ man người man trá, tôi chẳng tin mấy ông tự nhận, lại có cả người chứng nhận nữa, đã "tham gia" từ năm tuổi mười ba mười bốn, bây giờ là cán bộ tiền khởi nghĩa, là cán bộ lão thành. Những năm ấy nước ta chưa có cơ quan lưu trữ, chưa có nghề lưu trữ. Cái năm tôi hay anh chuyển công tác, thường chỉ là cầm lý lịch đem về nộp cơ quan mới. Thì tội gì mà tôi chẳng mở ra xem, chẳng chữa, chẳng thêm bớt. Ở chỗ khai sinh, tôi chữa chữ số 0 sang số 8, ở mục khác thì khéo thu xếp cho khớp, kéo thêm 8 năm hay 18 năm mới đến tuổi hưu. Ngon ơ. Ấy là tôi còn ngù ngờ, chứ ma mãnh như bây giờ người ta còn vá lắp được khối chỗ, tôi còn giật được mấy cái bằng trình độ chính trị trung cấp cao cấp và bằng các thứ chuyên môn nghiệp vụ nữa chứ chẳng chơi. Tôi ấy chứ không phải ai, kể gì bác Thậm. Nghĩ thế tự dưng tôi lại đâm ra thương cho thân phận bác Thậm. Cả đời loay hoay vừa bốc phét lại vừa dối trá, mà cũng là người làm ăn tử tế mình nai lưng ra xoay xở lấy miếng cơm manh áo chỉ có cái là cứ lúc nào cũng muốn cao cao thì bây giờ lại ngã ngửa ra, thế cũng là khốn khổ thôi. Tôi thương bác Thậm thật, bác chưa được là cái đinh, khối đứa còn táng tận, còn muối mặt gấp vạn bác. Bác Thậm ơi, bác Thậm, tôi thương bác. Tôi gật gù bật nói: - Bác ạ, tôi đã gặp cán bộ Bản, ừ cán bộ Bản tôi đã gặp. Bác Thậm để rơi bịch cái chén không xuống chiếu, trợn tròn mắt, kêu: - Ối giời ôi? Rồi hét: - Thế thì phen này chúng mày chết rồi. Tôi không để ý cơn giận dữ sung sướng đến phát rồ của bác Thậm. Tôi nói thong thả những việc sắp làm: - Tôi đưa anh đến chơi nhà cán bộ Bản. Chắc là bác ấy mừng lắm, bác ấy đã có hẹn tôi mà. Bác ấy và tôi sẽ viết giấy xác nhận cho anh. Tôi đã nói phải có hai người cùng hoạt động chứng nhận cho lý lịch cho thành tích. Ngồi giữa chiếu rượu mà bác Thậm cứ thở hổn hển như người đương chạy cật lực. Còn tôi trong lúc rượu vào, tôi thấy tôi đương thông cảm với anh em, tôi vẫn được, tôi chẳng mất gì. Phiên chợ sau, bác Thậm xuống nhà tôi. Đằng sau xe chằng thừng đay một cái lọ, trong có đôi gà trống tơ, một buộc chè Thái, bọc cái lá gồi, lại một quả mít chín cây vừa mở mắt vàng hây. Nhưng mà cái hôm tôi bốc đồng muốn đưa ngay bác Thậm đến nhà cán bộ Bản, lúc ngủ dậy lại tần ngần không còn hăng như đang khi ở trong chén rượu. Đến lúc trông thấy bác Thậm xăm xăm đi vào thì tôi nhụt hẳn chẳng còn được như hôm trước nữa. Thế là cái vạ miệng đã đưa việc đến đít rồi, không lủi đi đâu được. Bác Thậm đẩy cả cái xe đạp thồ lỉnh kỉnh như thế đi với tôi dật dờ sang ô Cách. Đến quán bà bán nước chè tươi hôm trước, rẽ vào làm bát nước nhân tiện hỏi thăm đường. Bà hàng như nhận ra người quen, lại nghe hỏi thế, mặt bà tươi tỉnh hẳn lên. Bà giơ cái gáo, chỉ ngay: - Cái ông vẫn gánh lồng chim đi chơi phải không? Hai bác sang qua bờ ao đình rồi vào xóm hỏi nhà ông đại Gáy thì trẻ con lên ba cũng biết. Rồi lại biết thoạt đầu người làng chào hỏi ông là đại tá chim gáy, sau rồi thân hơn thì đâm nhờn, bây giờ quen gọi tắt là ông đại Gáy. Ông đại Gáy chỉ móm mém cười đùa lại: "Đứa nào rủ được ả ấy ả ấy về ở với ông đại Gáy thì hay đấy". Đàn bà con gái ô Cách cũng chẳng vừa, còn nói lỡm nhả hơn mà chắc bà hàng nước này cũng được một mũi. Bà kêu: "Giời ơi là giời, đứa nào đến ở nhà ông để nghe chim ông gáy cả đêm thì còn ngủ nghê lúc nào nữa". Nhà ông đại Gáy không ở ngay xóm Đình nhưng quả là ai cũng biết. Trẻ con ríu rít hội nhau chạy theo dẫn đường chúng tôi. Nếp nhà một gian hai chái mái lá cọ, mặt ao bên kia vườn tha bè củ ấu lẫn rau muống. Lối cổng vào đầu ngõ kê rải rác những hòn đá tảng mặt phẳng vừa bước, phòng những hôm mưa ngập. Hai bên giàn thiên lý và kim ngân treo chim gáy, có đến hàng mấy chục, hàng trăm lồng quả vả không đếm hết được. Mỗi khi người đi qua, những con chim gáy rối rít cong cổ dạng chân cúi đầu cất tiếng gáy. Như những chiếc đồng hồ quả lắc, cứ đúng giờ thì nhả chuông liền liền. Ái chà chà, tiếng đồn thật không ngoa về ông đại tá chim gáy, ông vua chim gáy. Trong nhà, bàn khách ấm chén tinh tươm, sạch bóng nhưng ngăn nắp, gọn ghẽ quá mà lành lạnh: Có thể đoán được nhà người i có tuổi ở một mình với vùng trời và mặt đất toàn chim gáy. Ông đại tá đương rửa cái cuốc, rồi ông từ cầu ao bước lên sân. Cả trăm con chim từ ngoài đầu ngõ vào hai lên vườn lại nhao nhao gáy rập rờn.. Trông thấy, ông đại tá nhận ra tôi ngay reo to: - Ô mày! Tao đợi mày mãi! Rồi ông đại tá nhìn bác Thậm. Ông đại tá bỗng mở chừng mắt, dựng ngược ca lông mi, lông mày: - Nam, thằng Nam? Ối giời ơi, thằng Nam! Ông đại tá nắm hai vai Thậm lắc lắc, hai hàng nước mắt đổ lã chã. Ông nói đứt quãng không la đầu không ra đuôi: - Mày chết rồi kia mà. Chỉ có một mình tao nhảy ra khỏi hầm được. Ối giời ơi, tao thắp nhang cho mày kia. Có phải thằng Nam? Thằng Nam: Mày là con ma hay mày là thằng Nam? Ròi ông lập cập kéo chúng tôi sang bên vườn. Trong giữa luống đất có một búi gừng và một cây bằng lăng rợp bóng đang ra hoa tím tùng đám như cây rừng miền Đông trong kia. Bên gốc bừng lăng là một cây hương cao ngang mặt. Một cái lư hương đắp hình con chim gáy đồ sộ, trên lưng con chim khoét thành cái đỉnh thắp hương. Hai bên dụng hai hàng bia đá nho nhỏ. Ông đại tá nói: - Bao nhiêu năm, đánh bao nhiêu trận, tao nhớ được thằng nào hy sinh thì tao khắc tên vào bia đặt lên cây, anh em thờ nhau ở đâu. Chiều nào tao cũng thắp hương thỉnh một hồi chuông chiêu hồn chúng nó. Ông đại tá đánh diêm châm một nén hương cắm vào hình lưng con chim cu chi chít chân phương. Ông nhấc một tấm bia. Trên mặt bia khắc dọc dài những hàng tên người. Nước mắt ông đại tá nhỏ cả xuống mặt bia ông miết ngón tao cái chùi vào hàng chữ khắc: Liệt sĩ Nguyễn Văn Nam hy sinh ngày.. ấp Sóc Đồn, xã Hùng Hội.. - Tên mày. Tên mày đây.. Anh em nào mà tao nhớ được, tao khắc vào. Rồi đột nhiên ông đại tá cười to, cười sằng sặc như người lên cơn. Ông vừa cười, vừa khóc: - Nam ơi. Mày! Mà thật còn sống à? Thế mà tao cứ tưởng mày đây kia mà, làm sao mà mày sống được? Ông đại tá tức tốc rối rít la lệnh: - Chúng mày với tao dồn mấy con gà đằng chuồng, bắt mấy con cũng được. Chúng mày làm gà. Tao buộc cái chũm, xuống ao kéo mấy con cá. Ở đây, ở đây mấy hôm.. ở với tao vài tháng, ở mãi cũng được. Mày kể cho tao nghe hết, nghe hết từ trong hầm ở ấp Sóc Đồn, nó thả lựu đạn xuống, rõ ràng mày chết rồi mà mày lại về được tận đây là ra làm sao? Bác Thậm mặt tái ngoét, run lẩy bẩy: - Cho tôi ra, mua thuốc.. Tôi hỏi: - Bác mua thuốc gì, tôi đi cho. Bác Thậm lắp bắp: "Không, không", rồi bác Thậm lật đật lom khom chạy ra chỗ để xe đạp. Cân chè, quả mít và đôi gà vẫn buộc sau xe. Bác Thậm đùng đùng lôi cả cái xe ra cổng. Ông đại Gáy giật giọng hỏi tôi: - Nó đi đâu thế? Tôi nói: - Nó lên cơn động kinh ấy mà. Tôi lúng túng không nói hết câu. Ông đại tá cau mặt, buồn hẳn, rồi trầm ngâm: - Thằng này đã nhiều phen hụt chết lắm rồi, tôi biết, tôi đã chứng kiến. Cái dạng thần kinh này không bao giờ lành được. Có khi còn điên nữa. Anh chạy theo xem nó mua thuốc gì mua cho nó. Hay là dỗ nó, đưa nó vào Trâu Quỳ. Đây gần bệnh viện Trâu Quỳ, người ta có thuốc chuyên trị thần kinh. Tôi lúng túng chưa biết nên thế nào, ông đại tá lại gọi tôi: - Anh không đi một mình được. Tôi phải đi với anh ra giúp nó mới được. Tôi vội can: - Anh mặc tôi, tôi thuộc bệnh nó rồi. Anh cứ ở nhà, còn thịt gà, còn chũm cá chứ. Ông đại Gáy nghe tôi, vác cái chũm xuống ao. Bác Thậm mất hút từ hôm ấy. Cũng không lai vãng xuống nhà tôi nữa. Còn tôi cũng lẩn thẩn, đâm ra ngày một nhát như con cáy. Cả đầu hôm ngồi bó gối, nghe tiếng ô tô chạy trong phố ra qua đầu nhà hay có khi chỉ một tiếng ai gọi cũng hốt hoảng giật mình. Không biết tại sao.
Tên tác phẩm: Ông già ở Agra Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Chưa bao giờ tôi nghĩ có ngày tôi đến Ấn Độ. Đất nước Ấn Độ, với tôi trong ý nghĩ, vừa xa lại vừa gần. Bởi từ thuở bé, tôi đã được phiêu lưu theo Tây du ký qua những chốn lạ lùng với thầy trò Đường Tăng. Bởi vì, bây giờ ở Tân Đêli, ở Bombay hay Canquita, gặp chúng tôi đến từ Việt Nam, người Ấn Độ đọc câu thơ: Tên tôi, tên anh là Việt Nam.. Và trong tôi Ấn Độ còn nguyên những mơ màng, chiêm bao xám mờ của tuổi thơ tôi ở trong làng. Các làng vùng Bưởi, người tứ chiếng đến ngụ cư cũng nhiều. Người Đại Từ lên xóm Vạc làng Yên Thái bờ sông Tô Lịch làm nghề nấu dó đã mấy đời. Các chị thợ xeo giấy quê dưới Nam. Trai tráng Quần Anh, Quần Tín ở Thái Bình lên làm thợ thâm nhuộm lĩnh lụa. Đến mùa rét, các nhà đào ao, đắp tường, từng bọn thợ đấu trên Phùng kéo xuống trọ rồi đi rao hỏi việc khắp các ngõ. Lại có những người tận đâu đâu, không bao giờ chúng tôi có thể tưởng tượng ra nơi xa xôi ấy, cũng đến sinh cơ lập nghiệp. Có người nước Nhật làm hiệu buôn trong thành phố về lấy vợ làng Đoài Môn. Có ông Ấn Độ chuyên chăn dê. Ông ấy lấy vợ làng Bái. Làng Yên Thái, làng Đông, làng Hồ, có người Tàu đến ở lâu từ bao đời, ai cũng coi như người Nam Định, Thái Bình lên. Có một người Tàu đến ở gần đây nhất một ông quan ba Tàu. Năm 1945, Tàu Tưởng được làm Đồng minh thắng trận, sang đóng quân ở trường đạo La Coóc Đe trên Quần Ngựa, lo việc tước khí giới quân đội Nhật. Ông quan Tàu này hay xuống dốc Bái chơi nhà thổ nhà mụ Tíu. Đến khi quân Tàu rút về, ông ở lại. Ông lấy cô nhà thổ. Hai vợ chồng sinh sống bằng nghề quảy nước thuê cho các tàu xeo giấy, về sau đi đâu không biết. Những người lạ ấy đều nói giọng vùng tôi. Những đứa trẻ Nhật hay Ấn Độ, hay Tàu nói tiếng Bưởi hệt giọng hơn cả tôi. Các nhà Tàu bán thuốc bắc, giết thịt lợn, mở hiệu cao lâu, bán kẹo, làm thợ dọi vàng lá trang kim. Con trai cũng được "vào làng", đóng tiền đi việc làng, đi khiêng giúp đòn đám ma rồi ăn cỗ, cũng đánh trống đi rước những ngày đình đám. Nhưng tôi biết hơn cả, là nhà ông Tây đen - Ông Carata Sinh. Điều đó tự nhiên với tôi, vì nhà ông ấy có lũ con trạc tuổi tôi cùng đi học trường làng Yên Thái. Mấy hôm nay các bạn nhà văn Ấn Độ đưa tôi đi chơi đền Ta Mahan ở tỉnh Agra. Một di tích đẹp vùng Trung Ấn. Quả tình, tôi thấy cũng không có gì lạ. Tôi mơ hồ trong những nghĩ ngợi lông bông. Không phải vì không có gì quyến rũ lòng ham hiểu biết, thưởng thức, say mê nghệ thuật. Ở trong đền có một ngôi mộ hoàng hậu Munta Mahan. Cái đau xót của ông vua có vợ chết đã biến thành công trình xây dựng và điêu khắc dày công tốn của như thế vậy - nỗi buồn của vua chúa cũng khác người ta. Tôi đương đi qua một vùng đồng bằng mênh mông trời xanh xanh thẳm. Người ta bảo tất cả những con đất nhô ra biển đều có quang cảnh và tính nết tương tự, mặc dầu, so với thân hình cả nước ý đằm vào Địa Trung Hải thì cái doi đất Ấn Độ bao la gấp bao nhiêu lần, nhưng Ấn Độ cũng như thế hai bên là đại dương, giữa bao phủ ngày đêm một trời thiên thanh. Hàng năm chỉ có vài ba cơn mưa, đôi khi mùa hạ đem đến những đám mây đen tụ lại chốc lát, nhả nước xuống rồi tan ngay, trời đất trở lại màu xanh nhởn nhơ quanh năm. Trong những ngày đêm Ấn Độ hồi ấy, tôi đi dưới khoảng trời lúc nào cũng xanh. Vòm trời nhờ nhờ, đấy là màu xanh ban đêm, màu xanh thẫm trời, rồi tiếp đến đất nước lại xanh xanh suốt ngày không lúc nào khác. Những cánh đồng ngô, những cánh đồng cà tím liên tiếp dọc đường. Không giống những quãng đồng ruộng bé nhỏ quê tôi, ở đây cánh đồng dằng dặc xào xạc vàng nhợt, những bãi cà tím bao la quanh những tảng đá ngồi chơ vơ như những núi nham thạch sao băng rơi. Đường xuống phía nam lại bổ dọc qua những cánh đồng trơ trọi bãi ngô vừa bẻ. Từng đàn lạc đà tải hàng, đi dài. Người cưỡi lạc đà chỉ hở hai con mắt nhấp nhô sau cái vấu vai con vật, đầu quấn khăn trắng giữa nắng sa mạc. Sông Hằng xa xa mặt nước lẫn bờ cát vàng. Vài chỗ cạn, có một đàn trâu đen, sừng cong tròn. Lặng lẽ đứng uống nước trông ra dòng nước nắng ánh lên đỏ choé. Đằng kia, làng xóm lơ thơ những túp nhà lợp lá mía trắng nhờ trong làn bụi mịt mù. Con đường đất xuyên bờ bãi vào tới cái giếng có thành cao tròn đầu làng, người đứng xúm xít. Đã lâu không mưa, chiếc lá xanh cũng đổi màu bạc. Người làm đồng, váy áo trắng quấn bụi bên cạnh những con la lắc lư, ngất ngưởng. Nắng thế mà những người đàn bà đi làm vẫn thướt tha bộ cánh vải áo lỏa tỏa, tỏa trắng, tỏa hồng, tỏa vàng. Ở những thị trấn ven đường có những người làm trò quỉ thuật, người làm xiếc, con người dông dài trong thiên nhiên, như thiên nhiên. Người ấy, tay cầm cái beng beng bằng đồng, gõ từng tiếng một, thong thả bước ra, mấy con khỉ lon ton đi trước ông chủ. Ở ngực mỗi chú đeo một cái trống tý tẹo. Cẳng chân khỉ nhỏ như cái que, bước đều tăm tắp, như giả, như thật. Chốc chốc, con khỉ giơ hai tay vỗ mặt trống, ngoảnh bên phải, ngoảnh bên trái, câng câng, vênh váo. Những người đạo sĩ làm quỉ thuật, người làm việc đi dong trong những đêm Tân Đêli xanh biếc, sôi nổi bập bùng tiếng trống cơm. Các góc phố, các ngã năm, ngã sáu, ở thị trấn nào cũng có những đám hát, - đám xẩm chợ, như ở ta. Người xem sáng đêm vẫn đông như nêm cối. Điệu múa Tala Mala, thần nước xanh, thần lửa đỏ quấn lấy nhau, đẹp kỳ diệu. Tưởng như đời sống tinh thần của các dân tộc ở Ấn Độ đã trải những nền văn hóa lâu đời như từng thời kỳ của tuổi trái đất. Đền Ta Mahan trong bóng tường thành uy nghiêm cất lên nền trời xanh, đẹp nhất tòa tháp tròn nóc đá trắng cao lơ lửng như vầng trăng mọc ban ngày trên sông Giua, một nhánh sông Hằng. Cái nóc nhà lạ lùng, cái thang gác toàn đá trắng đá đỏ ở lối xuống hầm mộ bà hoàng hậu, tuyệt vời tinh hoa kiến trúc của văn hóa Ấn Hồi. Tôi tha thẩn ra chỗ lan can đá góc sân đền hạ nhìn xuống sông. Con đường mùa cạn, sông đọng từng vũng nước tròn. Trẻ con vầy nước, tiếng cười the thé chen tiếng đập vải, vỗ vải từ mặt nước vang lên. Từng đàn trâu sừng cong cuốn như cái loa kèn in hình đen kịt mặt cát trắng, lùi lũi nối nhau lội qua sông. Ở bờ tường đá giáp lưng tôi, cũng có người ngồi. Một ông già, ông đạo sĩ già trong làng ra chơi quỉ thuật. Có lẽ thế. Từ nãy, ông già duỗi thẳng hai chân, yên như cái yên lặng ở đấy. Tôi chỉ thấy nhờ nhờ râu tóc và con mắt loáng sáng ngước lên rồi lại thăm thẳm đi đâu. Con mắt ấy đã khiến tôi chú ý đến ông. Phải thế không, hay là bởi một hồi tưởng xa xôi nào. Ông già từ từ đứng dậy. Trước mặt ông, một con gấu đứng đấy tự bao giờ. Con gấu đen, lưng kẻ một vạch lông trắng lủa tủa như bờm ngựa, cao hơn hẳn người, như cây dừa che bóng tàu lá trên ông già. Mõm nó rúc trong chiếc rọ con, cái rọ mỏng mảnh đóng vào mõm gấu cốt làm phép cho khách lạ khỏi hãi thôi, chứ đấy là con gấu ở với ông. Chắc người sai bảo nó đã quá quen. Ông đứng lên thì con gấu bước ra ngoài, dưới lưng ngay trước mặt. Hai mắt gấu thây lẩy như hai giọt nước mắt trong vắt sắp rơi xuống đám lông ngực đen xám. Một tay gấu cầm chiếc côn gỗ thông, đầu buộc cái chuông nhỏ. Gấu bắt đầu lắc nhạc reo leng keng.. leng keng.. nhè nhẹ, và từ lúc ấy, luôn tay rung như thế. Ông già ra đứng với con gấu như hai bố con cùng khúm núm chào khách rồi nhấc cái bị trên vai xuống. Chiếc bị bằng vải xám nhạt, như bao bưu kiện của người công nhân mỗi sáng khuân ra các xe thư. Trông màu bao tải, tôi nhớ tôi đã trông thấy cái bao tải như thế này. Không phải mới trông thấy thường mấy hôm nay ở dọc đường, mà ngày trước ông già Carata Sinh ở làng tôi cũng có chiếc bao tải giống thế. Trí nhớ khó hiểu của người ta nhiều khi đinh ninh, mặc dầu sự thực cũng lắm lúc chẳng phải. Nhưng lúc này, cái nhớ như thế, làm cho tôi có cảm tưởng bàn tay xám xù xì của ông già ở Ta Mahan này tôi đã được thấy, tôi biết từ lâu rồi. Chiếc bao tải màu xám nhạt đeo trên vai ông già Carata Sinh ngày ấy ở vùng Bưởi. Chặp tối, từ trên thành phố về nhà, ông bỏ bao xuống, trong cái bao xam xám lăn lóc ra, có khi là quả cà tím đem bán còn ế lại, có khi là mẩu bánh - không phải những chiếc bánh, mà những mẩu bánh, mẩu đầu đuôi chiếc bánh mì. Lúc nãy, trên đường đi làm về qua Cửa Bắc, ông Carata Sinh đã mua của những người gánh đồ thầu cơm cho lính Tây đem ra dọc đường Cửa Đông bày bán những thùng thức ăn thừa - người bấy giờ gọi là đồ Tây quăng. Ông Carata Sinh đã mua những mẩu bánh vụn như thế. Ông buông cái bị xuống đầu nhà. Lũ trẻ trong nhà, những thằng Caranan Sinh, cái Háccô, thằng Uđà Sinh chạy đến, bao giờ cũng hồi hộp và nhộn nhạo hẳn lên. Bây giờ, ông già làm xiếc đặt chiếc túi xám xuống. Tất nhiên, chẳng khi nào việc đời hơn ba mươi năm trước lại trở lại đúng là quả cà tím của ông Carata Sinh đổ ra. Cái túi của ông già vừa buông, ngoằng ra một đàn rắn. Những con cạp nong, cạp nia khúc vàng khúc trắng, con rắn da mờ như da rắn ráo, vừa bò vừa vươn lên, bạnh mang tròn đầu như quả vả, nghe ngóng đánh hơi. Những con rắn đương tìm nghe tiếng nhạc. Người thả rắn thế này, tôi cũng thường trông thấy ở dọc đường các thành phố Ấn Độ. Người ta cầm ống sáo thổi. Con rắn ngó ngó như đuổi bắt những tiếng réo rắt. Lúc ấy, một nhà du lịch nào đó đến chụp ảnh với đàn rắn vừa nghe nhạc và múa. Khách đã thấy rõ những con rắn chỉ là những thính giả hiền lành đương say nhạc. Khách đứng vào giữa đám rắn, bấm ảnh rồi trả công cho người đã cho thuê cái phông lý thú như thế. Cảnh ấy làm kỷ niệm, ở đâu khác, người xem ảnh còn lý thú hơn nhiều những bức ảnh người chụp với gấu gỗ, hổ gỗ, cá sấu nhồi cỏ thường thấy bày ở vườn hoa các thành phố châu Âu công nghiệp không có hổ, gấu và cá sấu. Ông già có chiếc túi xám đựng rắn giống cái túi của ông Carata Sinh làng tôi ngày trước. Khi tôi còn bé, tôi thấy trẻ con đi chăn trâu mùa lạnh hay tìm các hang đất bắt những con rắn ráo ngủ tránh rét trong đấy rồi đem quấn rắn lẳn vào trong cổ áo, bảo có khăn quàng rắn vào cổ thế thì ấm, khỏi ho. Chẳng biết ông Carata Sinh và trẻ con nhà ông có chơi rắn như thế không, ngày ấy tôi không chú ý như vậy. Tôi bước đến gần ông già cửa đền Ta Mahan. Tôi giơ tay muốn nói xin ông bắt lại những con rắn vào bao tải. Không khó khăn gì, ông già buông cái sáo xuống, tiếng nhạc o o vừa im, những con rắn lẳng lặng ngoằng vào cái tải - đã thành lệ thế. Và thế là quang cảnh xung quanh không còn rung động như lúc có tiếng chuông khe khẽ như tiếng nước reo trên đầu cái côn của con gấu và những con rắn đương nghe tiếng sáo. Ông hộ pháp gấu từ nãy cầm dựng cái côn, lại lùi ra đứng tựa vào tường đá. Tôi đến ngồi cạnh ông già. Trời nắng dịu - một ngày cuối thu như ở ta. Nắng vàng nhoè trên mặt sông gió cuốn, trong cánh đồng cát bay có những người xách cào đi làm đồng về qua đấy, các bà già giặt vải ở dưới sông, lũ trẻ chơi bên bờ nước cũng đã lên đây, cả những người gác dền cũng tụ lại trong chỗ nhiều bóng nắng. Người nằm trong nắng và trong cỏ như mình ngồi quạt máy, cái thú của người ta ở đây. Ông già làm xiếc cũng ngả mình xuống bãi cỏ đầu kê lên cái tải xám. Những con rắn nằm xếp khúc bên trong, im như những nõn gối bông thật. Tôi bồi hồi mỉm cười, tôi gọi ông già. Tôi gọi bằng tên người mà tôi nhớ. - Ông Carata Sinh ơi? Ông già nhìn tôi, hai mắt mở to dưới hàng lông mày rậm bạc nhờ nhệch, khác vẻ lim dim suy nghĩ lúc nãy. Rồi ông nhại lại những tiếng tôi vừa gọi: - Carata Sing.. Anh bạn nhà văn người Băng gan cùng đi, bảo tôi: - Cụ ấy nói tên người. Carata Sing.. Sing.. Tôi lại gọi: - Háccô ơi? Ông già đáp, như nhắc tôi gọi cho đúng hơn: - Hara Co? Tôi kể cho bạn nghe chuyện ngày trước, ở làng tôi. Bóng nắng vàng bờ sông, như từ nhánh sông Hằng ngoài xa kia kìa, cát cũng vàng lẫn nắng. Làng tôi, ba bốn mươi năm trước ở ven thành phố, nhưng không có vẻ phường phố. Nhiều người cả đời không ra Kẻ Chợ bao giờ. Chúng tôi thèm Kẻ Chợ đến nỗi hay bắt con bọ ngựa, cầm gáy bọ ngựa lên hỏi: "Bọ ngựa? Bọ ngựa? Kẻ Chợ đằng nào?" Chiếc gươm con bọ ngựa bươi bươi phía nào thì trẻ con lại cười ngẩn ngơ, bảo nhau: "Kẻ Chợ đằng ấy? Kẻ Chợ đằng ấy?". Thỉnh thoảng mới nghe tiếng chuông xe đạp kính coong trên đường Thành xuống dốc chợ. Có khi là tiếng chuông xe đạp của ông Carata Sinh - không biết xe của ông hay của sở Tây cho mượn. Trẻ con lóc nhóc chạy theo, kêu toáng lên: "Ma tà! Ma tà bắt gà bỏ túi!". Ông ấy nhảy xuống xe, quay lại. Thế là lũ trẻ sợ, biến vào những bụi dứa dại dưới chân đê. Tôi không được biết ông ấy đến vùng tôi từ bao giờ. Nhưng tôi biết tên ông không phải là Ma tà, tên ông là Carata Sinh. Công phu lắm mới biết được? Phải xem trộm cái khai sinh của thằng Uđà Sinh. Ngày trước, trẻ con hay giấu không cho đứa nào biết khai sinh, sợ đến lúc chửi nhau thì nó réo tên bố mẹ mình. Nhưng tôi không cãi nhau với Uđà Sinh bao giờ và cũng không mách tên bố nó cho đứa khác biết. Nhà ông ấy ở vườn Bàng, cái bãi hoang cạnh đồn Bưởi. Ông lấy vợ làng Bái. Cả hai chị em cô Gáo đều là vợ ông, bà cả bà hai. Ai mối lái nên cuộc nhân duyên lạ lùng ấy, tôi chỉ trạc tuổi với Uđà Sinh, đứa con bé nhất trong nhà, tôi không thể biết. Anh lớn, anh Caranan Sinh đã thôi học, ra vẻ người lớn rồi. Một hôm tôi thấy Caranan Sinh không cởi trần như mọi khi. Đầu anh quấn khăn vố to bằng cái vành rế, thường gọi là khăn quấn thừng. Như bố. Cũng như bố, hai con mắt dưới lằn khăn vố càng sâu hoắm. Anh để râu quai nón. Chỉ khác, bộ râu anh chưa ngả màu vàng như râu bố. Anh mặc sơ mi lụa mỡ gà, anh hay đi đâu, thường đến chiều, khi chúng tôi tan học mới về. Chúng tôi túm anh lại, hỏi: - Anh Nan ơi anh Nan, anh đi đâu về thế? Anh quắc mắt, trịnh trọng nói: - Tao đi làm, tao đi làm mà chúng mày không biết à? Bây giờ tôi mới để ý anh Carnan Sinh đi đôi giày da gan gà của bố, bước cốp cốp. Mỗi ngày gặp, trông mặt anh càng tối xuộm, vì râu ria cứ xồm xoàm ra. Caranan Sinh đã chạy được chân chăn dê ở Ngã Tư Sở. Anh ấy đi giày tây, chít khăn và để râu dài cho ra vẻ người lớn. Có thế người ta mới mượn làm và chúng tôi còn đoán: Anh phải để râu vậy, đàn dê mới sợ, và trẻ con cũng sợ, không dám đến nghịch. Cái Hác Cô học cùng lớp với tôi. Bàn tôi ngồi dài độ hai sải chân, có sáu đứa, đến năm đứa là con gái. Cái Lộ ở làng Cả, cái Trung trên Quán La.. Có mình tôi là con trai ngồi cuối bàn, áp tường, lép vế quá. Chen chúc một cái bàn như thế, bọn con gái tai ác cứ bắt nạt tôi, lúc nào chúng cũng ngồi xoe quần lên tận bẹn. Tôi sợ chúng nó, sợ cả cái Hác Cô. Tưởng cái Hác Cô có thể đấm tôi, tát tôi, dù nó không dành tôi bao giờ. Nhưng lúc nào tôi cũng sợ. Trông mặt mũi cái Hác Cô khác lạ và dữ lắm. Nó không giống mẹ - có lẽ nó giống đàn bà ở đất nước bố nó. Đẫy đà, da đen mờ, hai mắt sâu, to, cứ ngơ ngơ, mới thoạt tưởng thờ ơ, kỳ tình nó đương nhìn lạ lùng đến ngẩn ngơ ra thì có. Ôi, đôi mắt, đôi mắt thăm thẳm của cái Hác Cô, không, đôi mắt ấy không ác với tôi đâu Có khi nghe tiếng người ta nói, chỉ mới nghe cũng làm cho mình được an ủi, tin ngay. Đôi mắt ấy cũng như thế. Lúc ấy mới vào lớp, cả lớp còn lố nhố đứng đợi thầy giáo Thịnh gõ cái thước cho phép ngồi, mới được ngồi xuống. Cái Hác Cô quay sang, thì thào hỏi lại tôi: - Mày bảo cái gì? Tôi lại nói, khổ sở, khe khẽ: - Cho tao để nhờ vào lưng.. Thế là nó hiểu. Nó vẫn ngồi tự nhiên, nói: - Được rồi. Giọng nói và đôi mắt nó thật dịu. Không phải tôi có cảm tưởng vậy, vì nó hứa làm ơn cho tôi. Thế nào hôm nay tôi cũng bị gọi đọc bài. Tôi đã nhiều lần nghiệm cứ y như xem bói thấy thế, khi mình không học bài thì lại hay bị thầy giáo gọi đọc bài. Tôi sẽ phải đứng lên, khoanh tay lại, đọc thuộc lòng một bài cách trí. Hác Cô sẽ cho tôi đặt quyển vở lên cái lưng bè bè của nó. Nó giả vờ ngồi hơi cúi để quyển vở khỏi đổ. Tôi có thể đọc bài cách trí bằng cách hếch một mắt lên để thầy biết mình đương đọc thuộc lòng, còn một mắt cúp xuống quyển vở mở trên lưng áo cái Hác Cô. Nhiều lần nó đã cho tôi nhờ, dù nó biết nếu làm ơn này bị lộ, thầy giáo sẽ phạt quỳ nó, có thể phạt lây cả bàn phải quỳ lên ghế suốt buổi đến sưng đầu gối. Nhưng những đứa ngồi cùng bàn cũng không đứa nào cản trở hay mách thầy. Bọn con gái hay bắt nạt tôi, nhưng hình như thầy giáo càng ác, học trò sợ khiếp lên, càng hay tìm cách ngấm ngầm giúp nhau và đấy cũng là cách chống trả. Thế đấy, tôi vẫn nhớ những chuyện nhỏ bé, nhạt nhẽo như thế về cái Hác Cô. Thằng Uđà Sinh, em cái Hác Cô ngồi bàn sau tôi. Chỉ bàn trên bàn dưới, đã ra hai lớp khác nhau. Có nghĩa là Uđà Sinh mới chỉ học lớp "a b c dắt dê.." thôi. Nhưng tôi chơi với nó. Chỉ vì tôi ham tìm tổ chim chích choè trong bụi tre, bắt dế, nhổ trộm củ cà rốt. Những việc tinh nghịch ấy chúng tôi mả lắm. Chẳng mấy đứa bè bạn với chị em nhà nó. Không biết có phải trông người ngợm chúng nó đen đủi, xa lạ thế nào ấy. Chỉ một việc nghĩ đến chỗ nhà chúng nó ở, bọn trẻ con đã lo lắng lắm rồi. Nhà nó ở bãi hoang vườn Bàng, cả người lớn cũng chăng ai có việc qua đấy. Không biết ai đã bảo cho chúng tôi biết vườn Bàng - chẳng có cây bàng nào - ngày xưa khi Tây mới sang, Tây đem người ra đấy chém nhiều lắm. Nghe nói bây giờ đào còn xương người, có khi chỉ thấy cái đầu lâu. Làm sao chúng tôi dám bén mảng đến chỗ ghê gớm thế, dù cho có tò mò thế nào. Cứ nghĩ mà đã rợn, khi thấy chị em cái Hác Cô đi học, lại nhớ đêm qua chúng nó đã ở trong cái vườn Bàng có ma hiện ra cả đêm. Cũng may, những ý nghĩ kinh hãi chỉ thấp thoáng từng lúc. Rồi cả những cuộc chơi mê mải của tuổi ấy làm cho nỗi sợ vẩn vơ lúc đậm, lúc mờ đi. Một hôm, Uđà Sinh rủ tôi: - Nhà tao có cái này cơ. Sang mà xem.. - Xem cái gì? Nó cười, ràng trắng, ghé tai: - Nhà tao mới có con khỉ. Đừng bảo đứa nào. Chỉ một mình mày thôi. Làm như đứa nào cũng thích đến chơi nhà nó! Nhưng mà nhà nó có con khỉ. Con khỉ à? Thế lại chuyện khác. Thế thì lạ quá ở chợ, hàng thuốc ê và người làm xiếc, hay dắt con khỉ. Con khỉ quái quỷ lắm. Trông thấy trẻ con, khỉ kêu khẹc khẹc như chửi nhau, rồi quay lại, giơ mông, gãi đít. Tuy thế, trẻ con không tức nó, mà lại reo lên. Thế mà ở nhà thằng Uđà Sinh bây giờ có một con khỉ. Tôi không đừng được sự cám dỗ đến nỗi quên cả sợ. Một hôm, tôi theo Uđà Sinh về nhà nó. Nhà ai trong làng cũng đôi bên hàng xóm khin khít, nhà này nằm trống chếnh giữa khu vườn. Một túp hai gian lúp xúp. Những luống cà tím, luống già vừa hái, luống mới gieo, luống đương bỡi, lá tốt um chạm mái tranh. Bố nó đã đem giống cà này từ bên nước Ấn Độ sang. Người ta theo hình thù, màu sắc của nó, đặt tên là quả cà dái dê, quả cà tím. Có người còn kể lần đầu, mẹ nó quẩy cà ra chợ bán chẳng ma nào mó đến. Nhưng rồi thấy ăn bổi như cà ghém, mà lại rẻ. Ở chợ, dù có ôi đến đâu mà rẻ cũng bán hết. Mùa sau, đã có người trồng rau bên Đồng Vân đến nhà Uđà Sinh mua hạt giống. Rồi năm sau, khối người gánh cà dái dê ra chợ Bưởi. Cái Hác Cô quảy đôi thùng tre ghép, chiếc gáo dừa thọc xuống một đầu thùng. Nó trân trân nhìn tôi, rồi lại đi ra ao lấy nước tưới. Không bao giờ cái Hác Cô nói hay chào hỏi tôi, trừ phi hôm nào tôi để nhờ quyển vở vào lưng nó, nó chỉ hơi gật đầu, hay lý nhí "được rồi" mà thôi. Ờ con khỉ kia kìa. Con khỉ con, xinh như chú mèo tý tẹo được buộc vào sợi xích nhôm trắng bên cái cột chống phên cửa. Tôi ngồi ngoài sân cũng xem được. Con khỉ tung tăng mải miết đi quanh cái cột. Con khỉ gặm quả cà dái dê. Hai tay khỉ bưng quả cà, nhấp nháy mắt, nhai gau gáu. Cái vai xo lên, như ông già lụ khụ, lọm khọm. Một lát, tôi đưa mắt nhìn quanh. Vào buổi trưa, thường mẹ nó, dì nó và chị nó ra chợ bán cà. Thế là hôm nay mẹ nó ở ngoài chợ, chị nó phải tưới vườn. Còn bố nó và anh nó, đã đi làm, chặp tối mới về. Tôi lé mắt vào khe liếp. Nhà nó có nhiều thứ cũng như mọi nhà trong làng. Cái chum nước, cái chõng, vại cà muối, chiếc thừng chăng đầu hè vắt bề bộn xống áo. Tôi bỗng nhìn thấy bố nó lù lù tựa lưng vào cái chõng tre. Bố nó ngồi trông ra ngoài sân. Bởi vì, gian nhà tối, râu ria ông mờ mịt và ông ngồi chìm vào bóng gian nhà vang tiếng muỗi reo o o. Những sọt cà tím đặt khắp mặt đất, cả trên chõng. Ông duỗi thẳng hai chân, đầu ngả vào sọt cà. Ông ngồi nghiêm trang trong bóng tối trông ra sân thế để làm gì vậy? Tôi sợ toát người. Tôi không ngờ có bố nó ở nhà. Một lần trên dốc chợ ông ấy đương cúi đầu, rù rù đạp xe, tôi vào hùa với bọn trẻ con gào to: "Ma tà! Ma Tà.. Ma tà bắt gà bỏ túi..". Rồi tôi chạy xuống nấp sau bụi dứa. Bây giờ ông ấy nhớ ra tôi thì có mà ông chôn sống tôi. Tôi ngồi ơ mặt. Sợ quá cũng không dám đứng. Chỉ rón rén rụt chân lại. Con khỉ vẫn nhai tóp tóp. Lại mới thêm trò giơ tay gãi đầu. Nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào ngồi xem khỉ như lúc nãy. Tôi lom khom thu mình đứng dậy. Uđà Sinh biết ý. Nó nhìn vào trong nhà, rồi bảo tôi: - Không sợ, đừng sợ, mày ạ. Giọng nó có vẻ buồn buồn. Nó lo tôi chuồn về. Tôi ngơ ngác: - Không, không.. Uđà Sinh cười, nói: - Thầy tao đang ngủ đấy. Thầy tao đi làm thức cả đêm, đến sáng mới về. Cứ ngồi làm một giấc thế, đến chiều u tao về chợ mới thức. Tao nói to, cũng chẳng nghe tiếng nữa là. Cứ ở đây, không sợ, đừng sợ. Rồi Uđà Sinh lại kể cho tôi nghe tại sao bố nó hay ngồi ngủ. Ông Carata Sinh ngồi ngủ như thế trong đêm, đã quen. Ông làm nghề gác đêm ở khu sân quần vợt của Tây trong thành phố. Suốt đêm, ông cầm gậy song đi canh xung quanh hàng chấn song sắt. Đi vài tua rồi đến ngồi cạnh bức tường có đèn điện treo trên đầu. Ông ngồi, chiếc ba toong dựng tường, chân duỗi thẳng, cái chăn dạ đỏ Nam Định ủ đầu gối, cái ấm giỏ quấn giẻ trong để tích nước chè mạn và cái đồng hồ báo thức của sở đặt bên cạnh. Ông ngủ ngồi như vậy. Ông ngáy pho pho, thế mà đến một lúc, như ngủ đã có ngữ, đến giờ ấy tự dưng ông đứng lên, cầm cái ba toong, đi vòng quanh tòa nhà, cái sân quần vợt chằng dây thép mắt cáo, đèn sáng choang. Tua vài vòng, rồi ông lại vào tường ngồi ngủ, rồi lại đi, cứ thế cho đến sáng. Ông gác lúc ngồi lúc đứng ở sở như vậy đã quen. Về nhà, có chỗ thì ông nằm. Không có chỗ ông cũng chỉ ngồi một lát đã ngáy. Nghe Uđà Sinh nói thế, tôi cũng đỡ sợ. Tôi lại ngồi xem con khỉ đương nhâng nháo vừa ăn quả cà vừa gãi tai. Thỉnh thoảng, tôi liếc mắt trông vào gian nhà tối. Bấy giờ nghe tiếng ngáy lạ tai như tiếng mọt gậm. Biết ông ấy vẫn ngủ, không có gì khác, nhưng rồi tôi lại sợ. Tôi vẫn không thể tưởng tượng được ngồi thế lại là ngủ. Rồi chốc, tôi thấy bàn tay ông sờ soạng lên, như đập con dĩn, con muỗi, rồi lại thõng xuống. Ông Carata Sinh ngủ đập muỗi hay ông Carata Sinh thức đập muỗi. Chỉ thấy ông ấy vẫn ngồi nguyên thế. Thế là tôi đâm sợ thật. Tôi phải về, cứ thấp thỏm mãi càng sợ hơn và ngồi xem như thế cũng chán. Vả chăng ông ấy ngủ rồi cũng phải đến lúc ông ấy thức. Ông ấy mà nhớ ra cái hôm trẻ con trêu mình, có khi lại nhớ có cả tôi. Không xong rồi. Tôi bảo Uđà Sinh. - Tao về đây. Uđà Sinh phụng phịu: - Không thích chơi ở nhà tao nữa à? Uđà Sinh nắm tay tôi. Bàn tay nó có những nốt ghẻ lên mốc xanh, khác nốt ghẻ của tôi, đỏ sạm. Tôi ngơ ngẩn bước ra. Đầu nhà Uđà Sinh trồng những bụi hoa cúc vạn thọ vàng xẫm. Chỉ rặt một giống cúc vạn thọ, lá hắc xì. Khi những cánh hoa vàng li ti rụng xuống, muỗi đất, muỗi mắt bám đen xỉn cả lối đi lầy lội. Bãi cỏ xanh mởn như cái sân bằng cỏ vuông vắn trước nhà. Tưởng bãi cỏ tốt ấy để nuôi dê, nuôi thỏ, nhưng không, ông Carata Sinh hay ra ngồi đấy, nằm đấy. Những khi trời nắng, ông ấy nằm sấp trong cỏ, như đống quần áo cũ ai đem phơi một ngày mùa đông nắng to. Cả khi mùa hạ, gió trong đồng thổi nắng như táp lửa vào, cũng thấy ông phơi mình trên bãi cỏ. Không lạ, đấy chỉ là thói quen. Tôi là bạn của các con ông ấy, rồi tôi cũng có lúc quen mắt. Tôi không hiểu được, vì lòng mong nhớ quê hương, ông đã làm cái sân cỏ và trồng luống cúc vạn thọ, để ông có những buổi ra nằm lẫn trong cỏ ngoài vườn cà, như cảnh quê nhà ông. Từ ngoại ô Tân Đêli xuống, nối tiếp bao nhiêu cánh đồng cà tím hai bên đường. Quả cà tím Ấn Độ mỡ mịn màu tím hàng lụa hoa cà Bombay. Những khóm cúc vạn thọ vàng xẫm ở Việt Nam trồng cửa đền cửa chùa và đôi khi, nhặt ra một cái hoa trong gói hoa cúng, chẳng mấy ai cất công chơi cảnh cúc vạn thọ. Nhưng ở Ấn Độ nhà nào cũng trồng hàng búi và người chủ nhà mến khách bước đến quàng cổ anh bạn từ Việt Nam tới, một vòng hoa cúc vạn thọ, mỗi đóa hoa nhử hạt mắt bồ đề lên nước vàng ánh. Cây cúc vạn thọ ở đây tốt lạ lùng. Đất khô xác, bụi bay khắp cánh đồng nhưng lá cúc xanh biếc và hoa vàng mờ, như cô gái Ấn Độ yểu điệu có đôi môi màu hoa hiên. Khác những gốc vạn thọ sần sùi ở vườn Bàng sân nhà Uđà Sinh năm xưa. Anh Caranan Sinh mới đi làm chẳng bao lâu, mà đã lọm khọm giống bố, ít ai nhận ra ngay được anh ấy khác ông Carata Sinh thế nào. Anh ấy không mặc sơ mi lụa mỡ gà như ngày mới đi làm phải có cái áo mồi cho ra mẽ người. Râu tóc anh mờ mịt dưới cái khăn quấn thừng màu xám, trông kỹ mới thấy hai con mắt sâu hoắm. Suốt ngày, anh lang thang ngoài đồng, ngoài bãi - anh kể thế, đến xâm xẩm tối mới dồn xong được đàn dê, đàn bò vào chuồng nhà chủ - một lão Tây lai, và hôm nào cũng phải nhá nhem tối, Caranan Sinh mới lò mò về đến đầu chợ. Trường làng Yên Thái ngày ấy chưa có đến lớp ba. Rồi đến năm tôi ở ngoài Hàng Mã, cũng ít gặp chị em Uđà Sinh. Mấy năm sau, không nhớ rõ. Cái Hác Cô đã lớn. Có khi gặp nó đi chơi với các bạn gái ở đám hội, đám rước làng Đông, làng Hồ, và những đêm hát chèo trong vùng vào dịp đình đám, cầu mát tháng tư. Nó đẫy đà nhất bọn. Chỉ đám trai lạ mới thấy nó khác con gái mình. Chúng tôi đã quen mắt, không biết thế nào khác, về đôi mắt mơ màng, làn môi bóng hơi cong, những ngón tay nhỏ uốn éo, mớ tóc đen dày với nước da mờ của nó. Chúng tôi chỉ biết nhà nó cũng làm ăn, cũng chợ búa như mọi nhà và nó đương vào tuổi mười bảy mười tám như chúng tôi. Anh Caranan Sinh thì cứ mỗi hôm một lụ khụ. Tay cầm cây hóp dài bằng chiếc lao màn, anh vẫn đi chăn dê, chăn bò cho nhà lão Tây lai tận Ngã Tư Sở, cuối sông Tô Lịch đằng kia. Uđà Sinh đã cao vổng hẳn lên. Nhưng nó không chít khăn, không để râu như anh Nan. Uđà Sinh mặc áo sơ mi lụa chuội sống cứng cành cành và đánh đuôi guốc mộc, buổi tối đi chơi nhởn như trai làng chúng tôi. Uđà Sinh cũng bỏ học đã lâu. Thỉnh thoảng, tôi gặp nó đi ngoài thành phố về. Trông cung cách người bước đi lệch lệch, thất thểu, cũng hiểu được nó đi đâu. Ngày ngày nó đi kiếm việc làm. Chiến tranh thế giới đã xám ngắt ở châu Âu rồi, hình như nước Pháp cũng thua trận rồi, chẳng còn công việc ở đâu nữa. Tôi gặp Uđà Sinh ở chợ. Nó đi chân đất, tay áo xắn, xăm xăm đi. Tôi hỏi: - Sinh ơi, mày đi đâu? Uđà Sinh cười nhe răng: - Tớ đi vác tre.. à mua tre.. Tôi còn đương ngạc nhiên, nó đã cắt nghĩa cho tôi biết trong thành phố đương mua nhiều tre. Từ khi bên Tây có đánh nhau, Tây không sang được, không có cốt sắt, đổ trần nhà người ta làm bằng cốt tre ốp xi măng. Uđà Sinh đi chặt tre, nói khoác thế chứ chỉ vác thuê cho người ta ra Kẻ Chợ. Uđà Sinh lại tất tả đi. Rồi đến những năm đói. Bây giờ nhớ lại, tôi còn ngỡ như lúc ấy có đợt sóng thần, như những làn sóng thần hàng năm nổi lên ở vịnh Băng gan mà máy bay từ Hà Nội đi Ấn Độ qua vịnh, cơn đói như sóng thần từ đại dương tràn liếm đi biết bao người trên mặt đất dưới kia. Không ai còn nhìn thấy ai nữa. Cả vùng tôi, người đói ngồi bơ vơ trên bãi rác như người thế kỷ trước hiện về, con mắt lơ đãng nhìn xuống âm ti. Nghe ai nói ông Carata Sinh cũng chết đói rồi. Tôi không biết. Bởi trông anh Caranan Sinh bây giờ còn lụ khụ hơn bố, có khi người ta tưởng bố anh vẫn sống đấy. Cũng có lần tôi gặp cái Hác Cô ngoài chợ. Nó vêu vao xám ngắt. Khi ấy, chẳng ai còn máu mặt. Rồi nó ra sao, nhà anh em Uđà Sinh, ai còn sống, cũng không rõ. Đến khi cách mạng, tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc. Tôi ra ở hẳn ngoài thành phố, ít dịp về làng. Một hôm, tôi bỗng gặp trên xe điện thằng Uđà Sinh. Từ đằng xa, trông đã biết ngay nó. Lẫn Uđà Sinh với ai được? Nhưng Uđà Sinh tưng bừng quá, bảnh quá. Uđà Sinh đội mu ca lô, mặc quần áo Vệ quốc đoàn. Phải, Uđà Sinh đã đi bộ đội. Uđà Sinh là Vệ quốc đoàn. Mũ ca lô dạ tím, thắt lưng da to bản thắt ngang lưng. Ngôi sao vàng đằng trước mũ, sao tròn hẳn hoi, không phải tự vệ Sao vuông. Lực lưỡng, hiên ngang, cao gần cửa sổ tàu điện, oai như những anh bộ đội ở ban liên kiểm Việt Pháp. Tôi nắm tay Uđà Sinh, chỉ kịp nói: - Bây giờ Sinh ở đâu? Uđà Sinh cười hiền lành, răng trắng tởn, như mọi khi. Uđà Sinh nói: - Tớ đóng trên dường Thành. Tàu điện đỗ ở Hàng Bún. Uđà Sinh trỏ tay, tôi hiểu đơn vị của nó ở Cửa Bắc. Chỗ ấy, ngày trước, ông Carata Sinh, những buổi đi làm về, hay mua mẩu bánh mì bỏ vào cái tải xám đen về cho chúng nó. Khu vực này bây giờ đương nhiều rắc rối khó khăn nhất thành phố. Quốc dân đảng theo quân Tàu về đóng ở ngã tư Hàng Bún, trong trường Yên Thành, dãy nhà Tham Thiên Đường ở phố Quán Thánh, chiếm cả một vùng Ngũ Xã, Nam Tràng trong hồ Trúc Bạch. Lại còn bọn tây mũ đỏ ở trường Bưởi ngày nào cũng ra gây sự với bộ đội và tự vệ quãng Hàng Bún, Yên Ninh này. Uđà Sinh xuống tàu chỗ ấy. Tôi cũng không gặp lại Uđà Sinh. Khi bắt đầu Hà Nội nổ súng, tôi chỉ biết những đơn vị bộ đội đóng ở Cửa Bắc phải đương đầu với Pháp ngay từ phút đầu tiên. Cuộc kháng chiến đã lan rộng ra các tỉnh quanh Hà Nội. Có lần, tôi gặp trên đường Trung Hà lên Lâm Thao một đám người và xe bò tản cư. Trong một chiếc xe có gia đình một bác da đen. Người vợ nói tiếng Sơn Tây ánh ỏi. Chị ngồi trên thùng xe, nhai trầu bỏm bẻm, đương vạch vú cho con bú. Bốn bên lít nhít gồ ghề mấy đứa bé ngồi lẫn với những tay nải quần áo. Người chồng, râu tóc nhếnh nháng mồ hôi, cầm càng. Đứa con lớn, đứa lau nhau, cũng đen kịt như bố, đứa đẩy, đứa bắt bánh. Nhưng không phải gia đình ông Carata Sinh. Lần khác, tôi qua Phủ Đoan, nghe nhà đò kể chuyện bên kia sông Lô, trong đơn vị bộ đội đóng ở đấy, có một người da đen, tôi tìm đến. Cũng không phải Uđà Sinh. Anh này quê ở đảo Mactinich, thuộc địa Pháp, bị bắt đi lính, ra hàng ta dưới Việt Trì, rồi tình nguyện theo bộ đội. Đến năm hòa bình, tôi về Hà Nội, trở lại quê làng. Có lúc anh em cùng lửa tuổi ngồi kể chuyện hồi đầu kháng chiến nhắc đến một số bạn cũ, ai ở đâu, ai làm gì, anh nào trong Nam Bộ ra tập kết, ai ở đâu cũng biết tin, chỉ không ai biết nhà Uđà Sinh phiêu bạt nơi nào. Người nói, con cái nhà ông Carata Sinh đã đưa nhau về Ấn Độ. Có người nói thằng Uđà Sinh đã hy sinh ở mặt trận ngoại thành từ ngày ấy. Nhưng ở chỗ nào, có thật thế không. Trong chiến tranh, những người mất tích, người hy sinh mà ta không tận mắt trông thấy, thường có cảm tưởng rồi sẽ gặp, rồi có khi gặp. Tôi cũng nghĩ thế về Uđà Sinh. Bóng tường đền Ta Mahan đã rợp xuống bờ nước, những đứa trẻ dưới sông đã lên chơi quanh bãi cỏ từ lâu. Ông già làm xiếc đã lại ngả lưng trên thảm cỏ. Những bãi cỏ công viên chân tường đá cửa đền được cắt phẳng đều đặn như những chiếc chiếu xanh. Ở Ấn Độ, công viên không đặt ghế ngồi. Mà những bãi cỏ xanh rờn, đẹp muốt, là chỗ ngồi chơi nằm chơi. Ông già và lũ trẻ cùng nằm chơi trên bãi cỏ Sao mà tôi thấy ông già và các cháu bé quen thuộc, như tờ tranh Tô Vũ chăn dê dán tường nhà mình thuở bé, tự nhiên ngước mắt lên nhìn thấy thế suốt đời. Tôi cũng cứ bỗng dưng nhớ lại cái sân cỏ và khóm cúc vạn thọ trước cửa nhà ông Carata Sinh ngày ấy, có lúc ông nằm phủ phục trong nắng, lũ con im lặng ngồi quanh. Chú bé giống Uđà Sinh - tất nhiên không thể bao giờ như thế, nhưng tôi trông ở cửa đền Ta Mahan đứa trẻ nào cũng hao hao Uđà Sinh, da đen mờ, cặp mắt lờ lờ, hiền hiền. Một chú dắt cái xe đạp kiểu Anh cao lênh khênh, đến trước mặt tôi, nhìn tôi. Tôi cười, tôi nắm tay chú bé, gọi: - Uđà Sinh! Chú Uđà Sinh của tôi lúc ấy nở một nụ cười nhỏ bé trên khuôn mặt âm thầm. Dường như chú cảm được đấy là tiếng kêu thân ái của tôi. Chú giơ xe đạp, như mời tôi nhảy lên, như bảo anh cứ đi một vòng cho khoái chân. Tôi nắm ghi đông rồi phóc lên, lách xe thong thả ngoằn ngoèo biểu diễn giữa đám trẻ. Đám trẻ mỗi lúc xúm lại đông líu ríu cười, reo: Việt Nam Việt Nam. Tôi lại đến bên ông già đương nằm gối đầu lên cái bao đựng rắn cạnh con gấu. Và tôi gọi: - Ông Carata Sinh? Lũ trẻ đột nhiên à lên. Những tiếng trong trẻo, vang như chuông, nhắc lại: - Carata Sing.. Tôi quay lại đám trẻ: - Uđà Sinh? Cả bọn lại cười, lại rối rít: - Uđà Sing? Uđà Sing. Rồi cười nắc nẻ. Những tiếng và những tên người xa xôi, nghe phơ phất bâng khuâng trời Agra. Tôi không hiểu những tiếng ấy, nhưng khi nghe mình nói được có tiếng nhắc lại như hai người cùng nói, bỗng thấm thía lạ lùng. Họa may chỉ có nước mắt mới làm chứng hết được nỗi xúc động chan hòa ấy. Tôi nói rằng: Bạn nhà văn thân mến quê ở Tây Băng gan ơi? Nhớ hồi đầu thế kỷ, người Pháp chiếm nhiều thành phố ven biển Ấn Độ: Bombay, Pôngđixêri, Madrat, Săngđécnago.. Người Ấn Độ đói khó ở các nơi đô hội ấy bỏ quê lần đi các thuộc địa khác của Pháp để kiếm ăn ngỡ như thoát khỏi nơi mình ở thì rũ bỏ lại được cái nghèo nặng nề trên vai. Đến đất nước tôi, họ đã lăn lộn làm mọi nghề vất vả, bán hàng thuê, gác cổng, gác nhà, chăn dê chăn bò, canh đồn điền cao su.. Đi đồng đất xa xôi mà vẫn không ra khỏi được cái nghèo khó. Anh bạn nhà văn ở Băng gan đã kể lại cho ông già làm xiếc nghe chuyện ông Carata Sinh ngày trước đã đến ở rể vùng tôi. Ừ còn cái ông già Carata Sinh này dương nằm nắng ngoài bãi cỏ, cạnh tường đền Ta Mahan. Đối với tôi, đất nước bí ẩn đây thật gần gũi, thật mơ mộng, như cả nước Ấn Độ ra nằm bãi cỏ nắng, những khi nắng đẹp. Ông lim dim mắt, nhìn tôi, nhìn lại tôi. Không thể đoán được con mắt mơ màng ấy đương nghĩ gì. Còn tôi, tôi đương tưởng ra đấy thật là ông Carata Sinh nghề gác đêm, tôi vừa gặp lại ở chỗ chân tường đền Ta Mahan này. Tôi thấy ông mỉm cười, cái cười u ẩn hiền lành trong chòm râu dữ dội xồm xoàm. Ở Agra hay Bombay, Đêli cũ hay Tân Đê li, ai tôi trông cũng từa tựa anh chị em nhà Uđà Sinh. Cái Hác Cô có đôi mắt đen to, sâu thăm thẳm. Trong mớ tóc dày bềnh bồng buông xuống và đôi tay có những ngón dài cong mà nhỏ nhắn. Trong dáng khoan thai lả tả cánh áo vàng, áo trắng, áo tím tỏa xuống hai vai. Trong nụ cười hiền dịu..
Tên tác phẩm: Qua miền trung Thể loại: Truyện ngắn Tác giả: Tô Hoài Núi Chứa Chan Người qua cực nam Trung Bộ thường hỏi núi chứa Chan ở chỗ nào, mà không mấy ai biết. Hầu như những vùng núi cao, thung lũng và cánh đồng đâu cũng là núi Chứa Chan, từ dọc dài bờ biển cực nam khuất khúc lên Tây Nguyên. Ai đã đặt tên cho núi? Chứa Chan là tiếng thở dài ngạc nhiên hay niềm mơ ước của người thợ rừng đẽo đá, người sơn tràng gặp được của đột ngột, hay là tâm sự người chiến sĩ ra chiến trường bao nhiêu éo le chan chứa đời người. Trong sách "Từ điển tiếng Việt miền Nam" của cụ Vương Hồng Sến có kể ở khe Dạ Lao trong núi Chứa Chan có nhà sư Ngộ Chân tu ở hang đá. Thế thì cái nghĩa Chứa Chan đã đến được hư không trong khổ hạnh. Cái nghĩa chứa chan biết sao là cùng. Sớm nay, trời mưa trắng núi trắng trời từ lúc ra khỏi thành phố. Ai cũng hỏi: Tới núi Chứa Chan chưa? Chắc là qua rồi. Hay là chưa qua, bạt ngàn rừng cao su miền Đông, trong mưa như vẫn cả trăm nghìn con lũ xả xuống. Tây Nguyên! Tây Nguyên? Nhớ lần ấy chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, quân đi vượt đèo Khau Vác, sắp vào trận đánh Nghĩa Lộ. Trú quân nửa đêm ở Sài Lương, trông sang nham nhở lửa đèn đồn địch bên kia, tôi được nghe một câu nói trầm ngâm khác thường của vị tướng cầm quân đang lâm trận: - Anh có biết trong cuộc kháng chiến trường kỳ này phải cho đến khi nào ta tới được chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, giải phóng Tây Nguyên mới là toàn thắng. Câu nói mơ màng trên đỉnh Khau Vác năm xưa cứ làm tôi ở Hà Nội bao nhiêu năm sau khi đã hoàn toàn thống nhất đất nước, mỗi lần máy bay lướt qua Tây Nguyên trập trùng hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất giữa vùng sông nước Sài Gòn xanh rờn bóng dừa, lại nhớ lời đinh ninh chiêm nghiệm chứa chan tin tưởng ngót ba mươi năm chinh chiến của vị tướng cầm quân giữa chiến trường. Tạnh mưa, trời quang hẳn. Cả trời cả biển Long Hải đương vun vút bên kia. Vùng Xuyên Mộc núi và rừng nhấp nhô liên tiếp như những dòng thời sự và lịch sử như mới hôm qua. Những ngày đêm du kích Bà Rịa Vũng Tàu phá kho hậu cần của nguỵ Pác, nguỵ Úc, chúng phải bỏ chạy về thị trấn đã qua rồi những đám người di tản đi đâu trên bờ xuống biển trong đêm tối thê thảm biết sống chết thế nào. Bây giờ, con đường như đại lộ ra các bãi biển từ Mũi Né đến rừng tràm nước nóng khu du lịch Bình Châu bên kia. Trời xanh trong, xóa đi những đêm chiêm bao trắng núi trắng trời, rừng Chứa Chan lại thăm thẳm xanh xanh. Xe tải chở sắt thép, xi măng, cát và đồ đạc nội thất. Và những xe chồng chất từng bó lá buông cao ngất. Mỗi chiếc lá buông to như tàu lá cọ, người quanh vùng ngày ngày vào rừng chặt lá. Lá buông tải vào thành phố để người ta làm đồ xuất khẩu chơi cảnh và làm nón, đan chiếu bày bán ở các siêu thị nước ngoài. Trong khe Dạ Lao hang đá núi Chứa Chan, không biết nhà sư Ngộ Chân có còn ngồi thiền hay đã xuống rừng chặt lá buông NINH THUẬN Mỗi khi qua Bình Thuận, Ninh Thuận lại nhớ Tế Hanh khi đi vào hậu địch những ngày đầu chống Pháp tháng bảy 1951, viết bài trường ca: Tôi gặp chị một chiều Ninh Thuận Vai mang gùi đầu quấn khăn tang. Người đàn bà Ninh Thuận. Những ngày kháng chiến của người cán bộ ở cực nam thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ đâu đâu cũng gay gắt, gian nan. Ôi cực Nam Trung Bộ ba mươi năm ác liệt, bây giờ chúng tôi lại đương được đi qua trên những con đường cái chính xứ, ngày đêm xe cộ nườm nượp. Phan Thiết, Phan Rang vẫn những cánh đồng phờ phạc, cằn cỗi, những bờ ruộng mấp mô đá tảng "vờn lên xa xa mỏm tháp Chăm như một dấu chấm đỏ lịm vừa thẩn thơ, vừa sừng sững. Cánh đồng đá lổn nhổn, những giàn dây thanh long vào mùa sang đông trơ trụi như những cây xương rồng hoang. Ven đường đột ngột dựng một cái bảng lớn kẻ chữ Pháp, chữ quốc ngữ:" Nhà máy nước suối Vĩnh Hảo ". Một quãng đường nhựa xếp dãy một hàng xe tải cỡ lớn, chắc là nước khoáng đem về thành phố. Nước suối Vĩnh Hảo đã được khai thác từ thế kỷ trước. Thuở ấy trên báo hàng ngày ở Hà Nội và Sài Gòn, trên những tấm pano dọc đường đề quảng cáo nước suối Vĩnh Hảo, nước khoáng Vĩnh Hảo hay hơn, bổ hơn nước suối Vichy bên Pháp. Thế mà cái ông tư sản này len lỏi nhanh thật, nước suối Vĩnh Hảo bây giờ, lại đầu thai ra ngay ở cái vùng núi đá hẻo lánh mà quen thuộc này. Trong triền núi đá nhô ra, chưa trông thấy rõ đàn bò hay đàn dê lon ton, chen chúc trên đồi ào xuống, đen đủi như bó rạ ở ruộng ải. Rồi nhìn ra là đàn cừu. Những con cừu như con chó con đi đông đặc như cả mảng gốc rạ. Những đàn cừu, cả trăm nghìn con cừu đương chạy thong dong trong nắng gió đất Ninh Thuận. Hốt nhiên trông thấy con cừu, tôi nhớ lại kỷ niệm những chuyến đi xa. Ở Mông Cổ, khi mùa đông về, trên đồng cỏ hanh hao sông suối cạn kiệt nước. Những đoàn xe tải bịt bùng kín những nhà lều chuyển hàng nghìn vạn con cừu đi tìm chỗ trú đông ở những thung lũng có cỏ, có nước. Ở Đông Phi hay quanh vùng đất ẩm Địa Trung Hải, ngay ở đường phố Bây rút nước" Thuỵ Sĩ Phương Đông "khi chiều đến, lũ lượt người ra ngoại ô cõng những con cừu ngoài bãi cỏ về chuồng. Quanh sân bay ở sa mạc Sahara, người chăn cừu nhấc chiếc gậy lên, đàn cừu đi rùng rùng như sóng đất. Người và cừu ở đấy thật gần gũi, tấm da cừu trên vách nhà lều ấm như vách sưởi, cả con cừu thịt treo ngoài hiên lều như ướp lạnh, mỗi bữa ra xẻo một miếng vào nướng. Mùi cừu nồng thơm, phảng phất món cà ri nghệ mua ở chợ Đồng Xuân, chợ Bến Thành về nấu giả cầy, làm nhựa mận cũng đỡ thèm rồi. Khỏi phải chờ, ở Hà Nội bây giờ đã có cao lâu đặc sản cá hồi sống Nhật Bản và quán cà ri Ấn Độ một quán sang trọng bên kia Hồ Gươm, một quán nho nho chen chúc giữa phố Mã Mây. Ông chủ Ấn Độ này kinh doanh hoặc làm quản lý của hãng buôn nào đấy hay ông làm nghề xẹt ty (chetty) cho vay lãi, ngồi bán hàng tơ lụa ở Hàng Ngang - Hàng Đào, cũng na ná như quán ăn Bôđêga cho tới Hà Nội 1954 ta còn thấy. Ông này cũng lấy một người vợ Hà Nộ và mở quán thịt cừu giữa phố cổ 36 phố phường buôn bán sầm uất - Ông làm một công đôi ba việc và người làm chạy bàn, tiếp phẩm, tính tiền khách ăn đều là người nhà vợ. Ông bảo: - Những người nấu thịt cừu ở cửa hàng tôi đem bên Ấn Độ sang. Ông đưa tôi vào tận bếp cho tôi thấy một ông tây đen râu xồm quàng cái tạp dề xanh lơ, rõ thật hạt cái khăn của ông tây đen quấn thừng. Tôi hỏi: - Thịt cừu thì lấy ở đâu? - Thịt cừu hàng tuần có chuyến bay Hà Nội - Cancutta. Có khi phải mua dê Mộc Châu. Thịt dê Mộc Châu cũng ngon như thịt cừu. Chuyến này về tôi sẽ mách ông ấy vào Bình Thuận, tha hồ kén cừu chính cống. Nhưng mà rồi tôi phải chào thua những tay tứ chiếng thương hồ. Tôi khoe: - Vào Ninh Thuận có thể mua cừu không phải làm cà ri dê Mộc Châu nữa đâu. Ông cười cười: - Biết rồi, tôi biết cừu Nha Trang đem ra Hà Nội, đem vào Sài Gòn cũng được. Tôi xin báo đế ông mừng cho tôi, tôi mới mở thêm một quán thịt cừu ở Sài Gòn. Thịt cừu ở Nha Trang vào Sài Gòn cũng gần hơn Hà Nội. Làm sao tôi còn phải mất công đi mách nước cho những người buôn bán tài ba khắp thế giới như những ông Ấn Độ này. Thánh Găng Đi lúc thiếu thời đã từng đi bán vải các thành phố cảng quanh châu Phi kia mà. Tôi lại mơ màng về những con cừu Phan Rang, Phan Thiết, những con cừu trên cánh đồng và bãi đá bao đời ở đất nước tôi đã quen thổ ngơi cái nắng cái gió nhiệt đới, bộ lông cừu cũng xoăn ngắn lại chỉ bằng cái áo gilê. Những cái tháp Chàm chơ vơ chân trời. Có phải những đàn cừu còn lại từ khi cái tháp đo lịm nghìn năm vẫn ở đây. Con cừu và cái tháp vùng Châu Sa nói rằng các nền vân hóa văn minh của nhân loại là nối tiếp trên mặt đất khắp thế gian. Ở sa mạc Di da ngoài thành Kê rô nước Ai Cập có tháp Kiôp vĩ đại. Những tảng đá đồ sộ kỳ lạ quanh chân tháp dường như miết ngón tay thành vệt được. Thế thì khác nào đá ong núi Ba Vì đào trong đất thì mềm phơi ra nắng thì mãi mãi hóa đá với thời gian. Mới đây một nhà khảo cổ Pháp nêu ra một giả thuyết về đá Kim Tự Tháp được thế giới đương bàn tán. Đá tháp Kiôp không phải đá tảng mà đá luyện có khuôn đóng. Cũng như tháp Chăm xây đá liền như ghép lại, cũng như đá ong mềm mà cứng? TUY HOÀ - Sông Ba! Sông Ba! Qua cầu sông Ba. Cái cầu dã chiến mà chiến tranh đã tàn phá bao phen, những mố cầu rêu mốc nước chảy rào rào bên bờ lau. Tôi ngoảnh lại nhìn bên kia Đồng Bò. Cái nơi tôi đã nghe ngót nửa thế kỷ mặc dầu Đồng Bò chưa bao giờ tôi được đến mà tôi đã vừa đi qua. Bởi vì trên đường số 7 từ Tuy Hòa đi, nhưng tôi đã cùng đi với đoàn quân Nam tiến những ngày ghi nhớ: Giữa năm 1946, hơn nửa thế kỷ trước, tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc đi vào Nam. Mặt trận đã tới Nha Trang đương lan ra Tuy Hòa. Ở Đồng Bò bên kia sông Ba đã nghe tiếng đại bác rền tới. Thị xã Tuy Hòa mở hội chợ, những ngày ấy đương nô nức vui đất nước độc lập. Dường như mỗi người vẫn mỗi việc, không ai bận tâm đến tình hình cực kỳ khẩn trương. Chúng tôi lên mặt trận đường số 7. Dự định lên Củng Sơn, Cheo Reo. Trong đoàn đi có trung đoàn trưởng Cao Văn Khánh - sau này là tướng cầm quân cả hai cuộc chống Pháp, chống Mỹ và trung đoàn phó Thu Sơn - người dân tộc Tày - sau này là tỉnh đội trưởng tỉnh Tuyên Quang. TÊN ĐƯỜNG SỐ 7 Giữa năm 1953, quân Pháp đương bị vây hãm đến kiệt cùng trong lòng chảo Điện Biên Phủ. Trong thế nguy, quân Pháp phải rút một binh đoàn đương giúp Mỹ tham chiến ở chiến trường Triều Tiên. Binh đoàn tinh nhuệ này tức tốc trở về Việt Nam dự định mở kế hoạch Át Lăng tấn công các vùng tự do ven biển nam Trung Bộ, đỡ đòn cho Pháp ở Điện Biên Phủ. Đội quân cứu nguy này đóng dọc dài trên đường số 7, từ đèo An Khê trở lên. Quân và dân khu Năm đã khóa đường số 7, phục kích tấn công suốt đèo An Khê. Trên một trăm xe tăng, xe bọc thép bị phá huỷ, hàng trăm địch bị tiêu diệt. Cả một binh đoàn tan tác, kế hoạch Át Lăng vỡ. Vẫn trên đường số 7. Hơn hai mươi năm sau, mùa xuân năm 1975, đại quân ta điểm huyệt Buôn Ma Thuộc thành phố mở đầu mặt trận Tây Nguyên. Cả Tây Nguyên rung chuyển. Bao nhiêu binh lính địch cả năm tỉnh Tây Nguyên dồn lại, chạy xuống đường số 7, tan tành cả ở đấy. Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam bắt đầu. Năm 1952, ta đương tiến vào giải phóng Tây Bắc trên địa đầu tổ quốc, nhưng phải cho đến khi nào giải phóng được Tây Nguyên mới là toàn thắng - tôi còn nhớ lời tiên tri hơn hai thập kỷ trước của vị danh tướng cầm quân ngày ấy, khi qua đèo Khau Vác. Ngày ấy, chúng tôi không đến được Cheo Reo. Máy bay địch từ Kon Tum xuống bắn phá Củng Sơn. Chúng tôi phải trở về Tuy Hòa. Nửa đêm về tới. Những đám cháy ban chiều thị xã Tuy Hòa bị máy bay giội bom phá hội chợ, tàn lửa còn đỏ rực. Con ngựa thuộc đường trong bóng tối vẫn lùi lũi đi. QUẢNG NGÃI Tôi vội đi cho kịp chuyến bay Đà Nẵng mà cơn bão số 2 còn đương rập rình bên ngoài biến Đông. Không biết ghé lại thị xã Quảng Ngãi có kịp không. Bởi vì tôi còn phải gặp cháu Dũng ở thị xã. Dũng bây giờ đã trên ba mươi tuổi rồi. Những năm ấy Hà Nội đương bị Mỹ ném bom, thành phố cứ đông vắng từng lúc. Cơ quan đã đi sơ tán cả, chỉ để lại hai ba người thường trực hoặc ra bưu điện, hoặc đi nhà in. Nhưng loanh quanh rồi lại có mặt cả Cũng như hàng phố người ta chỉ đi khỏi nhà những khi bom bắn căng nhất. Lúc nào cũng thấy Dũng ngồi ở gốc cây sữa trên hè phố. Bấy giờ Dũng mới chỉ khoảng tám chín tuổi. Tôi hỏi: - Cháu không đi sơ tán với nhà trường à? Dũng ngẩn ngơ lắc đầu. Về sau, tôi mới biết mẹ và anh em Dũng ở cơ quan bên cạnh. Ba Dũng vào chiến trường B đã mấy năm rồi. Một năm, Dũng bị một cơn sốt rồi sau đấy, người như ngơ ngẩn khi quên khi nhớ. Dũng phải nghỉ học, ngày ngày tha thẩn, thường ngồi ở cửa cơ quan tôi. Mỗi khi chúng tôi ở nơi sơ tán về, có quả ngô nướng, khoai luộc, bánh đa chợ quê, ai cũng chia cho Dũng. Nhất là khi bác Nguyên Hồng ở Bắc Giang xuống, thế nào bác cũng có bọc lạc luộc của nhà, bác cho Dũng một nắm, có khi bác lấy cái nắp bi đông, rót cho Dũng một chén rượu ra nắp. Dũng lắc đầu, cười, bác đùa. Bác lại cầm chén rượu uống cho Dũng xem. Dũng quá quen ngồi chơi trong phòng, có khi ngủ trưa trên bàn, có còi báo động lại chạy xuống cái hố trú ẩn dưới gốc cây thông đuôi ngựa um tùm. Chẳng bao lâu, Dũng đã thuộc cả tên chúng tôi. Ở văn phòng, bác Tiếu, cô Hường, và bác Nguyên Hồng, bác Tế Hanh.. Thế rồi đến ngày thống nhất tiếng pháo đốt vang động thành phố. Công việc bề bộn, tôi cũng không biết nhà Dũng đã về quê lúc nào. Nhưng đôi khi hỏi thăm cơ quan bên ấy cũng được biết tin. Ba Dũng ốm bệnh mất rồi, má Dũng đã về hưu. Dũng vẫn lẩn thẩn hiền hiền như thế, và đã biết làm vườn. Một hôm tôi nhận được cái thư gửi từ Quảng Ngãi. Trong thư có một tờ giấy trắng to nguệch ngoạc mấy dòng:" Cháu Dũng hỏi thăm sức khỏe bác cho cháu hỏi thăm bác Nguyên Hồng, cô Hường, bác Tiếu có khỏe không. Cháu nhớ cái hồ Hiền (Thiền) Quang.. ". Thư cụt ngủn không ký tên, không đề ngày nhưng tôi đã biết thư của ai. Thế ra Dũng đã biết, chữ, đã viết được. Bao năm đã qua ngoài mười năm rồi, bác Hồng, bác Tiếu, cô Hường đã mất cả Dũng vẫn hỏi thăm. Tôi viết thư cho Dũng ngay. Từ đấy thỉnh thoảng tôi lại thư cho Dũng tôi viết ngắn và nắn nót từng chữ. Tôi lại nhận được những cái thư mất dòng như thế. Nhưng bì thư thì chữ khác, đủ địa chỉ tới cẩn thận. Chắc Dũng nhờ người viết. Trong thư Dũng lại hỏi thăm sức khoe bác Hồng, bác Tiếu, cô Hường.. Tôi làm thế nào để cho Dũng biết là bác Tiếu, bác Hồng, cô Hường không còn nữa, để kể cho Dũng nghe cô ấy, bác ấy đã đau yếu như thế nào. Tôi chợt nghĩ ra tôi cứ kể như thế, má Dũng hay các anh các chị Dũng có thể cắt nghĩa được cho Dung. Quả nhiên, lần này được thư Dũng vẫn chỉ máy chữ ngòng ngoèo, nhưng mấy chữ khác các thư kia.. Cháu Dũng có lời chia buồn với bác Hồng, bác Tiết cô Hường, cháu mong bác Hoài được sức khỏe.. Tôi vẫn nhận thư Dũng, nhất là vào dịp Tết, thư chỉ có vài chữ, nhưng bao giờ cũng chia buồn với bác Nguyên Hồng, bác Tiếu, cô Hường và cháu mong bác sức khoẻ.. (Nhớ cái hồ) Dũng chỉ viết được có thế, Dũng chỉ đinh ninh chữ và một vài hình ảnh những ý nghĩ ấy trong đâu. Đã hơn hai mươi năm bây giờ tôi mới có dịp qua Quảng Ngãi. Cơn bão vẫn đe dọa ngoài kia, giữa trưa mà trời u ám, tôi đã đến Quảng Ngải thị xã xinh xắn phố xá quang đãng, tôi dễ tìm ngay được nhà Dũng. Một bà người nhỏ bé đã có tuổi ngồi trong cửa trước mấy thạp gạo. - Bà các tôi hỏi thăm nhà cháu Dũng. Bà chợt ngạc nhiên rồi thốt lên. - Ông là ông Tô Hoài.. - Vâng. Rồi bà bối rối đưa tôi đến cái cổng khóa trong ngõ phố. Tôi trông vào đã thấy ngay Dũng. Dúng vẫn là Dũng lên tám lên chín khuôn mặt trẻ dại trắng trẻo, nhưng bây giờ Dũng đã là một người đàn ông đẫy đà, có râu ria. Dũng cũng trông thấy tôi. Dũng gọi ngay: - Ông Tô Hoài! Rồi Dũng ngã ngất xuống gầm ghế. Cả nhà hốt hoảng gọi Dũng, kéo Dũng ra, trong lúc hốt hoảng đi gọi bác sĩ, may Dũng đã dần dần tỉnh. Má Dũng nói dạo này Dũng yếu, hay ngã. Các em kể: - Dũng học đến viết thư được cho ông. Nhất định không cho ai viết hộ. Dũng lại đem ra bưu điện, bưu điện không đọc được địa chỉ, bấy giờ mới để cho chúng tôi viết phong bì hộ. Tôi ôm má Dũng, Dũng bám chặt vào vai tôi. NHA TRANG Năm trước, ở bến Đá, gặp ông chủ Trí Nguyên, người khai sinh ra cái hồ cá Trí Nguyên ở Nha Trang thời cũ. Ông khoát tay ra ngoài khơi, nói: Vùng biển này tôi định rồi tôi ngăn lại để nuôi cá voi Khách chơi trên nhà sàn, ăn uống và ngắm cá voi. Ông Trí Nguyên được giữ lại làm công nhân trông hồ cá. Ông có mấy người con chưa có việc làm và ông phàn nàn người xem ném rác xuống hồ bẩn quá, cá chết. Ông lão móm mém nói không ra mếu không ra cười: - Thưa ông, tôi vẫn còn bản đồ, và phác thảo thiết kế các điểm chơi, các vùng nuôi cá voi đây. Ông lão chí thú với du lịch chắc là đã khuất núi ở chân trời góc biển nào, con cái ông có người nào xin được việc làm ở hồ không, như hồi ấy ông mong ước bây giờ tôi thấy trên có biển Trí Nguyên, cũng như bên vùng biển Nha Phu, cả ngày những ca nô, tàu nhỏ tấp nập người đi xem những hồ cá, những đảo khỉ những lưới nuôi ngọc trai. Nhưng chưa thấy cái mộng hùng vĩ nuôi cá voi của ông lão nằm mơ được có. Qua Nha Trang thành phố ven biển bây giờ chỗ nào cũng loang lổ xây dựng. Có còn tiếng chuông văng vẳng nửa đêm chùa Long Sơn, bây giờ ngước mặt chỉ thấy bóng trăng trắng toát trên tượng phật bà Quan âm cao cao. Những đàn cò trắng trên các cánh đồng Diên Khánh đã phiêu dạt đi đâu để lấy chỗ cho con đường đỏ ối lên chùa Bồ Đề. Bãi biển từng quãng, được đóng cọc, rào giậu, che ni lông, ván. Chắc là chia ô để thành phố cho thuê những bãi khơi, bãi tắm, nhưng bây giờ thì còn lốn nhổn. Hàng dừa dọc bên bờ mọi khi xanh mát mắt, nhưng mùa này bụi đường và lá úa tơi tả. Người ta bảo năm nay hạn nắng cháy cả lá, bọ dừa ra nhiều đục rơi cả từng tầu lá. Mỗi đường phố Nha Trang đều mở ra biển. Buổi sáng buổi chiều mọi người thành lệ tấp nập tắm biển. Chỉ có tôi ngồi tựa gốc dừa nhìn ra khơi. Mấy cái tải bắp ngô luộc người ta bày ra bán. Bên mép nước, một lũ trẻ đương đùa với mấy con chó. Trẻ con và chó không biết sợ nước. Sóng đánh vùi cả lũ, tiếng chó vẫn sủa tang tang. Tôi được biết có người nước ngoài cũng đến đây mở quán. Không ở Hà Nội, ở Sài Gòn, ở Đà Lạt mà ở thành phố biển này. Quán rượu Bittrô Cá Mập ở ngã tư phố gần biển. Phố nhỏ, có những quán khang trang, đông khách nhưng quán này chỉ có một gian sâu tối mờ mờ, bàn ghế gỗ giản dị, vách trang trí mấy cái rá làm chao đèn, bên cạnh cái niêu đất, cái rế, mảnh chiếu hoa, tàu lá buông lót vách như đan phên, to nhất là cái bảng quán rượu" Bittrô Cá Mập"treo trước cửa. Mấy cậu chạy bàn ra mời khách. Các cậu bé nhỏ, áo lụa vàng màu da cam, da mai mái. Có cậu mặt láu lỉnh đeo đôi tai vòng bạc. Nước da xám nắng. - Ông chủ có nhà không? Một cậu khoanh tay lễ phép: - Dạ, ông con đi dạo ngoài biển. - Tối không bán hàng à? - Ông con hay đi dạo biển chiều thứ bảy. Vừa hay một cậu khác nói: - Ông về kìa. Một người âu gầy và cao, mặc quần ngắn, cái áo sơ mi cộc, hai mắt sâu hoắm nhìn hau háu, đầu hói hết tóc. Nếu ông ta mặc áo choàng đen, có dáng một linh mục. Ông nói tiếng Việt sõi và hóm quá. Chúng tôi vào bàn bia hơi Đức ngay gần cửa. Tôi hỏi: - Quê anh ở đâu? Beclin hay ở Ham bua? Tiếng ông nói như con yểng nói: - Dạ, quê em ở Vĩnh Phú. - Nói đùa. Nói thật thì em tên là Phong, Nguyễn Văn Phong. Quê em ở Laixich. - Vẫn nói đùa đấy. Anh cười. - Cán bộ bắt khai lý lịch như công an hộ khẩu à? Tôi là Genke F, 40 tuổi. Tôi có một người bạn cùng quê ở Vĩnh Phú. Anh ấy học ở Laixich mà quen. Chúng tôi kết làm anh em. Anh là Kiến, đặt tôi là Phong, Nguyễn Văn Phong. Chúng tôi chống phong kiến mà. Nói rồi lại cười. Tôi hỏi: - Sao lại đến đây? - Tôi đi Tây ba lô lang thang thôi. Đến Việt Nam mười năm rồi. Hà Nội, Sài Gòn đã ở cả. Nhưng tôi thích Nha Trang. - Mở quán ăn. - Vâng, quán rượu Cá Mập. - Tên quán hay là có bán món Cá Mập thật? Anh nói to: - Cá mập thật. Cá mập ăn thịt người thì người phải ăn thịt nó. Tôi kén thịt cá mập ngon. Không mua ở chợ Đầm, cầu Bóng, tôi xuống Cầu Đá chọn cá mập chỉ nhỏ bằng con cá hồng. Ngon lắm, ăn thử. Anh ta chuyện hay quá. Anh kể tôi cũng muốn ăn ngay: - Cá mập nướng, uống với bia Đức, đã lắm. Tối hôm ấy, tôi chén một bữa cá mập. Cũng chẳng biết cá thật hay rởm, bởi vì cá đã xay nhỏ rồi rán chả béo xèo xèo. Lại uống vốtka liên doanh Nga Mỹ thì chẳng biết thịt nướng hay cá nướng nữa. Chủ quán cũng đến nhắm chơi và chúc rượu. Tôi vuốt một cái vòng bạc tòn ten trên tai cậu chạy bàn đến rót rượu. Chủ quán nâng rượu cười rung cả mặt, nhìn con mắt tò mò của tôi, trịnh trọng nói chặn: - Tôi chỉ đồng tình thôi, không đồng tính đâu, ông khách đừng phê bình. Rồi chủ quán lại cười to, hàm răng trắng muốt, chắc là răng giả. Sớm hôm sau, tôi ra biển. Thấy chủ quán đã cởi trần vừa đi vừa hút thuốc lá. Rồi mời: - Sáng sớm đi Cầu Đá lấy cá mập rồi. Tối đến nhé. Tôi cũng rời Nha Trang hôm ấy.