Tổng hợp các đề thi HSG Ngữ văn 7 chương trình mới kèm đáp án

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 23 Tháng chín 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    1. ĐỀ 1

    I. Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:

    LỜI RU CỦA MẸ

    Lời ru ẩn nơi nào

    Giữa mênh mang trời đất

    Khi con vừa ra đời

    Lời ru về mẹ hát

    Lúc con nằm ấm áp

    Lời ru là tấm chăn

    Trong giấc ngủ êm đềm

    Lời ru thành giấc mộng

    Khi con vừa tỉnh giấc

    Thì lời ru đi chơi

    Lời ru xuống ruộng khoai

    Ra bờ ao rau muống

    Và khi con đến lớp

    Lời ru ở cổng trường

    Lời ru thành ngọn cỏ

    Đón bước bàn chân con

    Mai rồi con lớn khôn

    Trên đường xa nắng gắt

    Lời ru là bóng mát

    Lúc con lên núi thẳm

    Lời ru cũng gập ghềnh

    Khi con ra biển rộng

    Lời ru thành mênh mông.

    Câu 1.

    Bài thơ có cách ngắt nhịp chủ yếu?

    A. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. B. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 4/1.

    C. Ngắt nhịp 4/1 hoặc 3/2. D. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 1/1/3.

    Câu 2. Bài thơ gieo vần

    A. Vần chân B. Vần cách

    C. Vần liền D. Vần hỗn hợp

    Câu 3 . Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

    A. Bốn chữ B. Năm chữ

    B. Tự do D. Lục bát

    Câu 4. Nội dung chính của bài thơ là:

    A. Bài thơ nói về giá trị của lời ru trong cuộc sống của mỗi con người

    B. Bài thơ mượn hình ảnh lời ru để nói về tình mẹ tha thiết, thiêng liêng, bất tử.

    C. Bài thơ gợi những niềm rung động sâu xa trong lòng người đọc về tình mẫu tử.

    D. Bài thơ sử dụng hình ảnh lời ru để bộc tấm lòng thảo hiếu của người con đối với mẹ.

    Câu 5. Từ "mênh mang" được hiểu như thế nào?

    A. Rộng lớn đến mức như không có giới hạn

    B. Rộng đến mức có cảm giác mung lung, mờ mịt

    C. Rộng đến mức không nhìn thấy chân trời

    D. Rộng lớn bao la đến không cùng.

    Câu 6. Hai câu thơ

    Lúc con nằm ấm áp

    Lời ru là tấm chăn

    Sử dụng biện pháp tu từ nào?

    A. Nhân hóa B. So sánh C. Liệt kê D. Nói quá

    Câu 7. Người bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ trong bài thơ trên là?

    A. Người mẹ B. Lời ru

    B. Người con D. Người bà

    Câu 8. Em hiểu gì về hình ảnh "lời ru" được tác giả sử dụng trong bài thơ?

    A. "Lời ru" là hình ảnh ẩn dụ đầy cảm động về tình mẹ thiêng liêng, cao cả.

    B. Hình ảnh "lời ru" được lặp lại nhiều lần tạo nên giọng điệu tha thiết, gợi sức sống, sự bền bỉ của lời ru

    C. Lời ru nâng bước con vào đời.

    D. Lời ru ngọt ngào của mẹ mang đến cho con giấc ngủ say nồng.

    Câu 9. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong khổ thơ thứ hai?

    Câu 10. Em nhận ra thông điệp chung gì từ các dòng thơ sau:

    "Khi con ra biển rộng

    Lời ru thành mênh mông".

    Và: "Con dù lớn vẫn là con của mẹ

    Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con" .

    (Chế Lan Viên)

    II. Phần viết

    Cảm nhận về vẻ đẹp mùa thu quê hương trong bài thơ "Chiều sông Thương" của Hữu Thỉnh?

    Đi suốt cả ngày thu

    Vẫn chưa về tới ngõ

    Dùng dằng hoa quan họ

    Nở tím bên sông Thương

    Nước vẫn nước đôi dòng

    Chiều vẫn chiều lưỡi hái

    Những gì sông muốn nói

    Cánh buồm đang hát lên

    Đám mây trên Việt Yên

    Rủ bóng về Bố Hạ

    Lúa cúi mình giấu quả

    Ruộng bời con gió xanh

    Nước màu đang chảy ngoan

    Giữa lòng mương máng nổi

    Mạ đã thò lá mới

    Trên lớp bùn sếnh sang

    Cho sắc mặt mùa màng

    Đất quê mình thịnh vượng

    Những gì ta gửi gắm

    Sắp vàng hoe bốn bên

    Hạt phù sa rất quen

    Sao mà như cổ tích

    Mấy cô coi máy nước

    Mắt dài như dao cau

    Ôi con sông màu nâu

    Ôi con sông màu biếc

    Dâng cho mùa sắp gặt

    Bồi cho mùa phôi phai

    Nắng thu đang trải đầy

    Đã trăng non múi bưởi

    Bên cầu con nghé đợi

    Cả chiều thu sang sông.

    *Đáp án

    I. Phần đọc hiểu

    Câu 1

    Ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2.

    Câu 2

    Vần hỗn hợp

    Câu 3

    Năm chữ

    Câu 4

    Bài thơ mượn hình ảnh lời ru để nói về tình mẹ tha thiết, thiêng liêng, bất tử.

    Câu 5

    Rộng lớn đến mức như không có giới hạn

    Câu 6

    So sánh

    Câu 7

    Người mẹ

    Câu 8

    "Lời ru" là hình ảnh ẩn dụ đầy cảm động về tình mẹ thiêng liêng, bất tử.

    Câu 9

    Hình ảnh so sánh:

    Lúc con nằm ấm áp

    Lời ru là tấm chăn


    - Tác dụng: Khi con nằm ấm áp trong vòng tay mẹ, lời ru như tấm chăn mềm mại che chở, ủ ấp con, đưa con vào giấc mộng lành. Hình ảnh so sánh gợi lên niềm yêu thương và tấm lòng của người mẹ. Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt, tạo nên hình tượng thơ chân thật. Phải có một trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương với con tác giả mới phát hiện và ghi lại cảm xúc một cách chân thành và sâu sắc đến thế.

    Câu 10

    Điểm chung của các dòng thơ:

    Điểm chung của các dòng thơ: Tình mẫu tử là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời mỗi người. Dẫu con lớn khôn, trưởng thành thì tình mẹ vẫn không xa vắng, vẫn ở bên con chia sẻ ngọt bùi, che chở đời con, dõi theo mỗi bước con đi, giúp con vững bước trên đường đời. Mẹ vừa là bến đỗ bình yên vừa là động lực trên bước đường trưởng thành của con.

    II. Viết văn

    * Yêu cầu về hình thức:

    Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ

    - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, mạch ý mạch lạc..

    * Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau:

    +) Mở bài:

    Dẫn dắt và nêu được ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ "Chiều sông Thương" của Hữu Thỉnh.

    +) Thân bài:

    - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm

    - Không gian chiều thu rộng rãi, thoáng đãng, ẩn chứa nỗi niềm của người đi xa trở về - Tình quê trang trải, rộn lòng, mừng vui ngày gặp gỡ.

    - Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn, dòng sông quê hương – mạch nguồn của sự sống đã bồi đắp cho sự trù phú, giàu có của quê hương gợi niềm tự hào, ngợi ca vẻ đẹp quê hương.

    - Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

    + Kết bài:

    Khẳng định lại vẻ đẹp quê hương và tình cảm của nhà thơ với quê hương.

    Bài tham khảo

    Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca. Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu. Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, êm dịu, ngọt ngào trong "Chiều sông Thương"..

    Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong quân đội, ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn và về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng. Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Ông nổi tiếng với những bài thơ mang phong cách độc đáo, mới lạ. Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ "Chiều sông Thương" của Hữu Thỉnh là một bài thơ xinh xắn, đáng yêu. Những câu thơ, lời thơ ngọt ngào ấy cứ rạo rực trong lòng, làm căng mở các giác quan và thấm ngọt vào hồn bạn đọc.

    Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều thu thường man mác buồn, nhưng "Chiều sông Thương" lại nhiều thiết tha, bâng khuâng, rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì "dùng dằng", níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy "nở tím" cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ "dùng dằng" mãi:

    "Đi suốt cả ngày thu

    Vẫn chưa về tới ngõ

    Dùng dằng hoa Quan họ

    Nở tím bên sông Thương".

    Thương quê mẹ, quê em "nước vẫn nước đôi dòng" biết bao lưu luyến gợi nhớ, gợi thương đã bao đời: "Dòng trong dòng đục, em trông ngọn nào".. Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình "Chiều uốn cong lưỡi hái". Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về:

    "Những gì sông muốn nói

    Cánh buồm đang hát lên

    Đám mây trên Việt Yên

    Rủ bóng về Bố Hạ".

    Nhà thơ – đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành "con gió xanh". Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang "cúi mình giấu quả". Một chữ "ngoan" tài tình gợi tả dòng nước "đỏ nặng phù sa" êm trôi trong lòng mương lòng máng:

    "Nước màu đang chảy ngoan

    Giữa lòng mương máng nổi".

    Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương "mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang" : Là những ruộng lúa "vàng hoe" trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm "Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích". Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là "Những nàng môi cắn chỉ quết trầu" Cũng không phải là "Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng" ( "Bên kia sông Đuống" – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động "để thương, để nhớ, để sầu cho ai:

    " Mấy cô coi máy nước

    Mắt dài như dao cau "

    Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:

    " Ôi con sông màu nâu

    Ôi con sông màu biếc

    Dâng cho mùa sắp gặt

    Bồi cho mùa phôi thai "

    Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà"... "

    Đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn. Biện pháp điệp ngữ" ôi con sông" "cho" tạo sự ngân nga, thiết tha, bồi hồi, say đắm, cảm xúc dâng trào khiến lòng người xúc động khẽ cất lên lời hát ngợi ca, tự hào về một vùng quê màu mỡ. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn.

    "Nắng thu đang trải đầy

    Đã trăng non múi bưởi

    Bên cầu con nghé đợi

    Cả chiều thu sang sông".

    Dòng sông quê hương là mạch nguồn dẫn truyền sự sống, nơi tích tụ dưỡng chất, bồi đắp và dâng cho đời những mùa vàng bội thu, dâng cho đời nhựa sống làm nên sự phồn thịnh của quê hương. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều buông. Vầng trăng non lấp ló như "múi bưởi". Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu.. hình ảnh nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình khiến hồn người bâng khuâng, rạo rực, thiết tha một tình quê. Cảnh sắc quê hương thơ mộng, hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dào dạt trong hồn người. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì "dùng dằng", níu giữ, vấn vương. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với "con sông màu nâu, con sông màu biếc" của Hữu Thỉnh. Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dạt dào như ru hồn ta vào ca dao, cổ tích.

    Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang, nhiều biện pháp tu từ độc đáo, hình ảnh thơ đẹp.. Chất liệu văn hóa dân tộc dân gian ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ, hơi thơ trong bài "Chiều sông Thương" của Hữu Thỉnh khiến hồn người cũng đắm say, mơ mộng cùng cảnh vật nên thơ. Chất thơ, tình thơ là ở đấy.. cứ giăng mắc, vấn vương mãi hồn ta về một chiều thu nên thơ, hữu tình.

    Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bộc lộ nhiều cảm xúc sâu lắng về sông Thương và quê hương quan họ, tình yêu quê hương, yêu đất nước đã ngân nga, thấm chảy trong hồn nhà thơ để rồi cái mạch nguồn dạt dào ấy cứ thiết tha, lắng đọng ngân rung trong từng lời thơ, thơ thơ nhẹ nhàng êm ái trong trong khúc nhạc tâm hồn: "Chiều sông Thương" – Một bài thơ xinh xắn, đáng yêu, đáng mến!
     
    Hậu MinhLieuDuong thích bài này.
  2. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    2. ĐỀ 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

    Chót trên cành cao vót

    Mấy quả sấu con con

    Như mấy chiếc khuy lục

    Trên áo trời xanh non.


    Trời rộng lớn muôn trùng

    Đóng khung vào cửa sổ

    Làm mấy quả sấu tơ

    Càng nhỏ xinh hơn nữa.


    Trái con chưa đủ nặng

    Để đeo oằn nhánh cong.

    Nhánh hãy giơ lên thẳng

    Trông ngây thơ lạ lùng.


    Cứ như thế trên trời

    Giữa vô biên sáng nắng

    Mấy chú quả sấu non

    Giỡn cả cùng mây trắng


    Mấy hôm trước còn hoa

    Mới thơm đây ngào ngạt,

    Thoáng như một nghi ngờ,

    Trái đã liền có thật.


    Ôi! Từ không đến có

    Xảy ra như thế nào?

    Nay má hây hây gió

    Trên lá xanh rào rào.


    Một ngày một lớn hơn

    Nấn từng vòng nhựa một

    Một sắc nhựa chua giòn

    Ôm đọng tròn quanh hột..


    Trái non như thách thức

    Trăm thứ giặc, thứ sâu,

    Thách kẻ thù sự sống

    Phá đời không dễ đâu!


    Chao! Cái quả sâu non

    Chưa ăn mà đã giòn,

    Nó lớn như trời vậy,

    Và sẽ thành ngọt ngon.


    (Trích trong tập "Tôi giàu đôi mắt" (1970), trong "Những tác phẩm thơ tiêu biểu và nổi tiếng", Xuân Diệu)

    Lựa chọn đáp án đúng:

    Câu 1: Bài thơ trên viết theo thể thơ nào?

    A. Bốn chữ

    B. Năm chữ

    C. Bảy chữ

    D. Tám chữ

    Câu 2: Trong bài thơ có sử dụng biện pháp tu từ gì?

    A. So sánh

    B. Nhân hóa và So sánh

    C. Nhân hóa và Ẩn dụ

    D. So sánh, Nhân hóa, Ẩn dụ.

    Câu 3: Trong bốn khổ thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả những quả sấu non bằng những hình ảnh nào?

    A. Những quả sấu non như những chiếc khuy lục, nhỏ xinh, ngây thơ, đũa giỡn cùng mây trắng.

    B. Những quả sấu non nhỏ xinh, ngây thơ.

    C. Những quả sâu non nhí nhảnh.

    D. Những quả sâu non như chiếc khuy lục.

    Câu 4: Tại sao tác giả lại cảm thấy những quả sấu tơ "Càng nhỏ xinh hơn nữa"?

    A. Vì chúng ở trên cao.

    B. Vì chúng là những quả sấu non.

    C. Vì chúng chưa lớn.

    D. Vì chúng là "khuy lục" của áo trời mà trời thì rộng lớn.

    Câu 5: Em hiểu từ "Giỡn" trong câu thơ "Giỡn cả cùng mây trắng" có nghĩa là gì?

    A. Vui

    B. Đùa

    C. Chơi

    D. Nghịch

    Câu 6: Cảm xúc của tác giả về sự sinh thành từ hoa đến trái của quả sấu là cảm xúc gì?

    A. Vui sướng

    B. Bất ngờ

    C. Ngạc nhiên và thích thú

    D. Phấn khởi

    Câu 7: Khi gọi tên quả sấu bằng những tên khác nhau "quả sấu con con", "quả sấu tơ", "trái con", "mấy chú quả sấu con" tác giả muốn thể hiện dụng ý gì?

    A. Thể hiện những quả sấu còn non, nhỏ bé, xinh xắn, ngây thơ, vui nhộn.

    B. Thể hiện sự gần gũi.

    C. Thể hiện sự vui đùa.

    D. Thể hiện thân thiết.

    Câu 8: Nội dung chính của bài thơ là gì?

    A. Miêu tả quả sấu non trên cao.

    B. Miêu tả quá trình phát triển của quả sấu.

    C. Miêu tả sức sống kì diệu của quả sấu.

    D. Miêu tả quả sấu non và sức sống kì diệu, mạnh mẽ của nó. Qua đó, tác giả cho người đọc hiểu được sức sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược.

    Câu 9: Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ sau và cho biêt tác dụng của biện pháp tu từ ấy?

    Trái non như thách thức

    Trăm thứ giặc, thứ sâu,

    Thách kẻ thù sự sống

    Phá đời không dễ đâu!


    Câu 10: Qua bài thơ, tác giả muốn nhắn nhủ tới người đọc điều gì?

    II. Phần viết

    Cảm nhận về bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh?

    Tôi hỏi đất:

    - Đất sống với đất như thế nào?

    - Chúng tôi tôn cao nhau.

    Tôi hỏi nước:

    - Nước sống với nước như thế nào?

    - Chúng tôi làm đầy nhau.

    Tôi hỏi cỏ:

    - Cỏ sống với cỏ như thế nào?

    - Chúng tôi đan vào nhau

    Làm nên những chân trời.

    Tôi hỏi người:

    - Người sống với người như thế nào?

    Tôi hỏi người:

    - Người sống với người như thế nào?

    Tôi hỏi người:

    - Người sống với người như thế nào?
    ( "Hỏi" - Hữu Thỉnh, Trích Thư mùa đông )

    * Đáp án

    I. Phần trắc nghiệm

    1

    Năm chữ

    2

    So sánh, Nhân hóa, Ẩn dụ

    3

    Những quả sấu non như những chiếc khuy lục, nhỏ xinh, ngây thơ

    4

    Vì chúng là "khuy lục" của áo trời mà trời thì rộng lớn.

    5

    Đùa

    6

    Ngạc nhiên và thích thú

    7

    Thể hiện những quả sấu còn non, nhỏ bé, xinh xắn, ngây thơ, vui nhộn

    8

    Miêu tả quả sấu non và sức sống kì diệu, mạnh mẽ của nó. Qua đó, tác giả cho người đọc hiểu được sức sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược.

    9

    - Xác định được biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ:

    + So sánh: Trái non như thách thức

    + Nhân hóa: Thách thức

    + Ẩn dụ: Trăm thứ giặc thứ sâu - chỉ kẻ thù xâm lược

    - Tác dụng: Quả sấu non không sợ loài giặc loài sâu nào cứ lên, cứ trở thành ngon ngọt. Đó là sức sống kì diệu mạnh mẽ của nó. Qua đó, tác giả cho ta hiểu một chân lí lớn lao: Không một loài sâu bọ, không một thứ giặc nào có thể hủy diệt hay chiến thắng sự sống. Mọi cuộc bắn phá rồi cũng sẽ thất bại, không thể phá được cuộc sống vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

    10

    HS nêu được lời nhắn nhủ mà tác giả muốn gửi tới người đọc:

    Qua hình ảnh quả sấu non, nhà thơ muốn giáo dục lòng yêu thiên nhiên say mê, khám phá những bí ẩn của tự nhiên xung quanh và lòng tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam ta.

    II. Viết văn

    * Yêu cầu về hình thức:

    Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ

    - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, mạch ý mạch lạc..

    * Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau:

    +) Mở bài:

    Dẫn dắt và nêu được ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh.

    +) Thân bài:

    - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm

    - Câu hỏi của nhà thơ dành cho thiên nhiên (đất, nước, cỏ) -> Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ – "đã sống với nhau như thế nào?". Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hóa: "Tôn cao", "làm đầy", "đan vào" (để) "làm nên". Các sự vật tương sinh để cùng tồn tại cùng "làm nên" những điều tốt đẹp. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hóa, qua chiêm nghiệm mà đúc kết được.

    - Nhà thơ hỏi con người -> Con người cần phải sống đẹp và sống có ý nghĩa, hướng đến lẽ sống cao đẹp: Mỗi chúng ta hãy học cách hi sinh và dâng hiến, sống với nhau bằng thái độ sẻ chia, cảm thông. Sức mạnh của cuộc sống đích thực chính là sự đoàn kết, gắn bó giữa người với người.

    - Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

    +) Kết bài:

    Khẳng định lại vẻ đẹp quê hương và tình cảm của nhà thơ với quê hương.

    * Bài tham khảo

    Thơ Hữu Thỉnh viết về thiên nhiên thì đậm chất trữ tình còn viết về cuộc sống con người lại đậm chất triết lí, đó là chuyện cuộc đời sinh sắc sống động! Là máu thịt chứ không phải là giấy mực. Hữu Thỉnh có được một phong cách chắc chắn, vững vàng, đôi khi thô ráp, nhưng thường khắc tạc sâu đậm. Thơ Hữu Thỉnh là tiếng lòng tha thiết với đời, một ngòi bút tận tâm và đôn hậu. Cùng với chất trữ tình, mạch nguồn trữ tình – vốn là hồn cốt thơ Hữu Thỉnh, tính triết luận sâu sắc và cảm xúc đậm đà trong thơ Hữu Thỉnh quyện hòa, đan xen, cùng nảy nở từ cội nguồn truyền thống. Bài thơ "Hỏi" là một bài thơ đậm chất triết lý, chứa đựng nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.

    Người đọc yêu mến thơ Hữu Thỉnh vì cách cảm, cách nghĩ gắn bó nhiều với tâm thức dân gian. Những câu thơ cảm động thấm thía, gọi dậy tâm tình của thảo mộc, tìm cách giao cảm với hồn quê, hồn đất, hướng về những gì thiết thân gắn bó nhất, nhưng ngàn đời vẫn linh thiêng.. Bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh được viết năm 1992, lúc này tác giả đã năm mươi tuổi. Sống trọn một nửa thế kỷ, ở vào cái tuổi "tri thiên mệnh" như Khổng Tử nói, Hữu Thỉnh đã đủ độ chín trong suy tư trải nghiệm về thế thái nhân tình. Thường càng nhiều tuổi, cái nhìn và cách ứng xử của người ta càng nhân hậu, vị tha hơn. Biết được những cái chưa biết của mình về đời, hiểu được những điều chưa hiểu của mình về người, do vậy những trang thơ của ông thường dồn nén chất nghĩ và sức nghĩ.

    Bài thơ Hỏi với một khuôn khổ nhỏ nhắn, mở ra nhiều tầng bậc suy tưởng, thể hiện cốt cách tư duy đậm chất dân gian của Hữu Thỉnh. Xuyên suốt bài thơ là những câu hỏi. Toàn bài được xây dựng theo hình thức đối thoại. Người hỏi là chủ thể trữ tình, đối tượng hướng tới là thiên nhiên: "Đất", "nước", "cỏ" (ba khổ đầu) hình thức ngôn ngữ là đối thoại, còn đối tượng hướng tới là con người (nửa còn lại), ngôn ngữ thơ là độc thoại. Tính trí tuệ của bài thơ nằm ngay trong kết cấu, vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát vừa chi tiết về những tình cảm, suy ngẫm của tác giả. Tứ thơ tạo dựng từ sự liên tưởng, đối chiếu: Liên tưởng từ các hiện tượng tự nhiên đến nhân sinh. Thiên nhiên được nội tâm hóa, nhìn qua lăng kính ưu tư nhân thế đầy thi vị:

    Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào?

    – Chúng tôi tôn cao nhau

    Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào?

    – Chúng tôi làm đầy nhau

    Tôi hỏi cỏ: – Cỏ sống với cỏ như thế nào?

    – Chúng tôi đan vào nhau

    Làm nên những chân trời

    Những câu thơ của Hữu Thỉnh mang ý – nghĩa – đi – tìm, tìm cách khám phá và cảm nhận ý nghĩa văn hóa ẩn dụ trong những hiện tượng tự nhiên. Ý nghĩa ấy được trình bày bằng lời hỏi của tác giả "Tôi hỏi..". Điều nhà thơ muốn hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ là những sự vật ấy sống với nhau như thế nào? Từng sự vật đưa ra câu trả lời trực tiếp, dưới hình thức vấn đáp (các dấu gạch ngang đầu dòng) mà không phải gián tiếp qua lời thuật lại của tác giả. Mỗi khổ thơ đều mang ý nghĩa sâu sắc, hình thức giản dị, nhiều sức gợi, Hình thức mỗi khổ thơ gồm hai câu đi kèm với nhau ấy có dáng dấp như những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông ta xưa, qua sự chiêm nghiệm đúc kết mà có được, khiến câu thơ mang tính chất dân gian nhuần nhị. Mặt khác, cấu trúc ngôn ngữ đối thoại tạo nên sự đa giọng điệu, sự đa thanh – làm nên tính hiện đại của bài thơ.

    Từ cái nhìn hiện thực khách quan: Tầng đất tôn nhau lên, nước làm đầy, cỏ đan vào nhau mở ra bát ngát chân trời, nhà thơ chuyển hóa thành cái nhìn nội tâm: Hình ảnh bên ngoài ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa bên trong: Từng sự vật đều có cách thức sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế, mỗi sự vật có tiếng nói riêng và mang ý nghĩa biểu tượng.

    Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào?

    – Chúng tôi tôn cao nhau

    Đất muôn thủa vẫn là thứ gắn bó máu thịt và thiêng liêng với con người nhất. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy đất trong mối quan hệ "sống cùng", "sống với" để khám phá ra ý nghĩa nhân sinh: "Tôn cao" là một triết lý sống. "Tôn cao" là nâng đỡ chứ không phải vùi dập, "tôn cao" là hướng mở không gian chứ không gói gọn không gian; "tôn cao" là vươn ra ánh sáng chứ không phủ mờ, che lấp; "tôn cao" là để vững chãi thêm trước điều kiện thử thách khắc nghiệt..

    Bằng một lẽ tự nhiên, sau "đất", Hữu Thỉnh chọn "nước" để hỏi:

    Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào?

    – Chúng tôi làm đầy nhau

    Nước vốn mềm mại, uyển chuyển, nước biểu trưng cho "khả năng ứng biến: Một nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam." Nước làm đầy nhau "- cũng là một sự nâng cao nhưng trước hết là bổ khuyết," làm đầy "thực ra là an ủi, xoa dịu, khỏa lấp, làm mềm lại những tổn thất, tổn thương. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy triết lý nhân sinh trong đất và nước. Rồi đến cỏ, trong cái bát ngát mênh mông của cỏ, nhà thơ hỏi:

    Tôi hỏi cỏ:

    – Cỏ sống với cỏ như thế nào?

    – Chúng tôi đan vào nhau

    Làm nên những chân trời

    Câu trả lời của cỏ thể hiện một cách sống đầy bản lĩnh và tình cảm (" đan vào "). Khẳng định tương lai, khát vọng" làm nên những chân trời ". Phải có cái gốc nhân tình vững chắc thì mới nhìn ra được sự vận động của thiên nhiên và thế thái nhân tình. Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ –" đã sống với nhau như thế nào? ". Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hóa:" Tôn cao "," làm đầy "," đan vào "(để)" làm nên ". Các sự vật tương sinh để cùng tồn tại cùng" làm nên "những điều tốt đẹp. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hóa, qua chiêm nghiệm mà đúc kết được. Bài thơ không dừng lại ở tiếng âm trầm, hiền hậu, lắng sâu của đất, tiếng trong trẻo thanh cao của nước, tiếng xôn xao vui vui của cỏ.. không dừng ở thanh âm và triết lý sống của thiên nhiên mà đi sâu" hỏi "cách sống của con người:

    Tôi hỏi người:

    – Người sống với người như thế nào?

    Tôi hỏi người:

    – Người sống với người như thế nào?

    Tôi hỏi người:

    – Người sống với người như thế nào?

    Nếu ba khổ đầu tâm trạng nhà thơ dừng lại ở thế cân bằng, cái nhìn hòa đồng, cảm thông cùng vạn vật giúp chủ thể có được cảm giác an nhiên tự tại thì ở đoạn thơ sau, mạch thơ trở nên khắc khoải, xoáy sâu vào tâm can con người. Đối tượng hướng đến đã thay đổi, từ thiên nhiên chuyển sang con người, cấu trúc khổ thơ cũng thay đổi, khổ này chỉ có câu hỏi nhưng không có câu trả lời. Lúc này, thiên nhiên trở thành tấm gương soi cho nhân tình, đúng hơn, là kinh nghiệm đối nhân xử thế. Học tập kinh nghiệm từ thiên nhiên là vốn văn hóa được truyền từ đời này sang đời khác, qua cả ý thức và vô thức của con người. Thiên nhiên đã" sống với nhau "," tôn cao "," làm đầy "," đan vào "," làm nên "nhau.. Vậy còn con người thì sao?

    Người sống với người như thế nào?

    Trong bài thơ câu hỏi:" Người sống với người như thế nào? "Được lặp đi lặp lại tới ba lần, lần nào cũng khắc khoải, đau đáu mà không có một câu trả lời. Cách kết thúc như vậy tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Tác giả đã gieo vào lòng người đọc câu hỏi suy ngẫm, đòi hỏi mỗi người cần tự nghiêm túc trả lời. Câu trả lời chính là" tôn cao nhau "," làm đầy nhau "," đan vào nhau ", nghĩa là phải sống đẹp và sống có ý nghĩa, hướng đến lẽ sống cao đẹp: Mỗi chúng ta hãy học cách hi sinh và dâng hiến, sống với nhau bằng thái độ sẻ chia, cảm thông. Sức mạnh của cuộc sống đích thực chính là sự đoàn kết, gắn bó giữa người với người.

    " Sống với "là sống với người và sống với mình, sống nghiệm sinh trong từng khoảnh khắc của riêng mình và sống tử tế với mọi người, chính là biết" tôn cao "những giá trị đích thực," làm đầy "những mất mát tổn thương, khỏa lấp những khoảng cách, để làm nên ý nghĩa cho sự tồn tại của mỗi người. Không nên để những ảo tưởng che lấp đi cái chân thật sáng trong, nhất là không được quên những mảnh đời bất hạnh đang cần đến ở chúng ta một niềm an ủi. Và phải biết lắng nghe tiếng thì thầm của cây cỏ, tiếng trầm lắng của lòng người để sống tốt hơn, đẹp hơn. Bài thơ là nỗi niềm trăn trở, sự suy ngẫm của nhà thơ về thái độ sống của mỗi con người trong cuộc đời; đồng thời cũng là lời nhắc nhở mọi người tự nhận thức lại thái độ sống của mình và tự soi lại mình để có cách" sống với nhau "cho phù hợp, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.

    Thơ Hữu Thỉnh, ở những bài hay như bài thơ Hỏi đã đạt đến tính hàm súc cổ điển, với lối hành văn trí tuệ và chất cảm xúc đằm thắm, nhuần nhị. Hồn cốt dân gian, nếp cảm, nếp nghĩ gắn bó với truyền thống ai đọc cũng thấy thân quen như tự những câu thơ đã nằm trong trí nhớ từ lâu.

    (Tham khảo từ" Tạp chí xứ Thanh"số 202, năm 2012, trang 51)
     
    LieuDuong thích bài này.
  3. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    3. ĐỀ 3 - ĐỌC HIỂU CỦ KHOAI NƯỚNG..

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

    CỦ KHOAI NƯỚNG

    Sau trận mưa rào vòm trời như được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn. Đã chớm hè nhưng trời vẫn lành lạnh, cái lạnh làm người ta hưng phấn và chóng đói. Thường Mạnh đi học về là đi thả trâu. Tối mịt cậu rong trâu về, đầu tưởng tượng đến một nồi cơm bốc khói nghi ngút.

    Nhưng từ giờ đến tối còn lâu và cậu cần phải tìm được một việc gì đó trong khi con trâu đang mải miết gặm cỏ. Cậu bèn ngồi đếm từng con sáo mỏ vàng đang nhảy kiếm ăn trên cánh đồng màu đã thu hoạch. Thỉnh thoảng chúng lại nghiêng ngó nhìn cậu, ý chừng muốn dò la xem "anh bạn khổng lồ" kia có thể chơi được không. Chợt Mạnh phát hiện ra một đám mầm khoai đỏ au, mập mạp, tua tủa hướng lên trời. Kinh nghiệm đủ cho cậu biết bên dưới những chiếc mầm là củ khoai lang sót. Với bất cứ đứa trẻ trâu nào thì điều đó cũng tương đương với một kho báu. Nó bị sót lại từ trước Tết và bây giờ nó sẽ rất ngọt. Để xem, anh bạn to cỡ nào? Không ít trường hợp bên dưới chỉ là một mẩu khoai. Nước miếng đã kịp tứa khắp chân răng khi cậu tưởng tượng đến món khoai nướng. Ruột nó trong như thạch. Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này. Thật may là mình đem theo lửa - cậu lẩm bẩm. Sợ niềm hy vọng đi veo mất nên cậu rón rén bới lớp đất mềm lên. Khi cậu hoàn toàn tin nó là một củ khoai thì cậu thọc sâu tay vào đất, sâu nữa cho đến khi những ngón tay cậu ôm gọn củ khoai khá bự, cậu mới từ từ lôi nó lên. Chà, thật tuyệt vời. Nó không chỉ đơn thuần là củ khoai sót. Nó y như quà tặng, một thứ kho báu trời đất ban riêng cho cậu.

    Mạnh đã có việc để làm, mà lại là một việc làm người ta háo hức. Trong chốc lát đống cành khô bén lửa và đợi đến khi nó chỉ còn lớp than hồng rực Mạnh mới vùi củ khoai vào. Cậu ngồi im lắng nghe một sự dịch chuyển vô cùng tinh tế dưới lớp than, cùi trắng muốt đang bị sức nóng ủ cho thành mật. Từng khoảnh khắc với Mạnh lúc này trở nên vô cùng huyền diệu. Rồi có một mùi thơm cứ đậm dần, cứ quánh lại, lan tỏa, xoắn xuýt. Cậu nhớ lại có lần bà kể, nhờ đúng một củ khoai nướng mà ông cậu thoát chết đói và sau đó làm nên sự nghiệp. Chuyện như cổ tích nhưng lại có thật. Nào, để xem sau đây cậu sẽ làm nên công trạng gì.

    Chợt cậu thấy có hai người, một lớn, một bé đang đi tới. Ông già ôm theo bọc tay nải còn cậu bé thì cứ ngoái cổ lại phía làng. Cậu nhận ra hai ông cháu lão ăn mày ở xóm bên. Hôm nay, chẳng có phiên chợ sao ông cháu lão cũng ra khỏi nhà nhỉ. Vài lần giáp mặt cậu bé và thấy mặt mũi nó khá sáng sủa. Bố mẹ nó chết trong một trận lũ quét nên nó chỉ trông cậy vào người ông mù lòa. Mạnh lén trút ra tiếng thở dài khi ông cháu lão ăn mày đã đến rất gần. Có thể thấy rõ cánh mũi lão phập phồng như hà hít tìm thứ mùi vị gì đó. Cậu bé vẫn câm lặng, thỉnh thoảng lén nhìn Mạnh.

    - Mùi gì mà thơm thế - ông cậu bé lên tiếng - Hẳn ai đang nướng khoai. Ngồi nghỉ một lát để ông xin lửa hút điếu thuốc đã cháu.

    Ông lão lần túi lấy gói thuốc lào. Thằng bé giúp ông tháo khỏi lưng chiếc điếu nhỏ xíu. Mùi khoai nướng vẫn ngào ngạt và Mạnh đành ngồi chết gí, không dám động cựa. Chỉ khi ông lão nhờ, cậu mới cúi xuống thổi lửa. Chà, ông cháu lão mà ngồi dai là củ khoai cháy mất. Đã có mùi vỏ cháy. Lửa sẽ lấn dần vào cho đến khi biến củ khoai thành đen thui mới thôi. Dường như đoán được nỗi khó xử của Mạnh, ông lão bảo:

    - Tôi chỉ xin lửa thôi..

    Mạnh như bị bắt quả tang đang làm chuyện vụng trộm, mặt đỏ lên. Nhưng ông lão mắt lòa không thể nhìn thấy còn cậu bé ý tứ nhìn đi chỗ khác.

    - Thôi, chào cậu nhé. Ta đi tiếp đi cháu!

    Ông lật đật đứng dậy, bám vào vai cậu bé, vội vã bước. Cậu bé lặng lẽ nhìn Mạnh như muốn xin lỗi vì đã làm khó cho cậu. Cái nhìn đĩnh đạc của một người tự trọng, không muốn bị thương hại khiến Mạnh vội cúi gằm xuống. Ôi, giá như có ba củ khoai, chí ít cũng là hai củ. Đằng này chỉ có một.. Mạnh thấy rõ tiếng chân hai ông cháu xa dần. Nhưng chính khi ấy, khi củ khoai nóng hổi, lớp vỏ răn lại như từng gợn sóng nằm phơi ra trước mắt Mạnh, thì nỗi chờ đón háo hức lúc trước cũng tiêu tan mất. Giờ đây củ khoai như là nhân chứng cho một việc làm đáng hổ thẹn nào đó. Dù Mạnh có dối lòng rằng mình chẳng có lỗi gì sất nhưng cậu vẫn không dám chạm vào củ khoai.. Hình như đã có người phải quay mặt đi vì không dám ước có được nó. Có thể ông nội cậu đã từng nhìn củ khoai nướng cho ông làm nên sự nghiệp bằng cái cách đau đớn như vậy.

    Mặc dù rong trâu về từ chiều nhưng mãi tối mịt Mạnh mới vào nhà. Giờ đây mới là lúc cậu sống trọn vẹn với cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá. Cậu nhắm mắt lại mường tượng giây phút cậu bé kia mở gói giấy báo ra. Nửa củ khoai khi đó sẽ khiến cậu ta liên tưởng đến phép lạ, có thể lắm chứ! Và rồi cậu thấy lâng lâng đến mức chính mình tự hỏi liệu đây có phải là giấc mơ?

    (Theo truyện ngắn Tạ Duy Anh)

    Câu 1 . Câu chuyện xảy ra vào thời điểm nào trong năm?

    A. Cuối đông

    B. Chớm hè

    C. Cuối xuân

    D. Đầu thu

    Câu 2. Ai là người kể chuyện?

    A. Cậu bé Mạnh

    B. Ông lão ăn mày

    C. Một người khác không xuất hiện trong truyện

    D. Cậu bé ăn mày

    Câu 3 . Đâu là thành phần trạng ngữ trong câu "Sau trận mưa rào, vòm trời được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn."?

    A. Sau trận mưa rào

    B. Vòm trời

    C. Rửa sạch

    D. Xanh và cao hơn

    Câu 4 . Chủ đề của truyện là gì?

    A. Lòng dũng cảm

    B. Tinh thần lạc quan

    C. Tinh thần đoàn kết

    D. Lòng yêu thương con người

    Câu 5 . Vì sao cậu bé Mạnh lại có "cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá"?

    A. Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn mày.

    B. Vì nhận được lời cảm ơn của ông lão.

    C. Vì được thưởng thức món ăn ngon.

    D. Vì không bị lão ăn mày làm phiền.

    Câu 6 . Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong câu "Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo ra một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này."?

    A. So sánh

    B. Nhân hóa

    C. Nói quá

    D. Nói giảm nói tránh

    Câu 7 . Từ "lật đật" trong câu "Ông lão lật đật đứng dậy." miêu tả hành động như thế nào?

    A. Chậm dãi, thong thả

    B. Mạnh mẽ, dứt khoát

    C. Nhẹ nhàng, khoan khoái

    D. Vội vã, tất tưởi

    Câu 8. Cậu bé Mạnh có thái độ như thế nào đối với hai ông cháu lão ăn mày?

    A. Tôn trọng

    B. Coi thường

    C. Biết ơn

    D. Khinh bỉ

    Câu 9 . Nếu em là nhân vật cậu bé Mạnh trong câu chuyện, em có cư xử với hai ông cháu lão ăn mày như nhân vật trong truyện đã làm hay không, vì sao?

    Câu 10 . Từ câu chuyện của cậu bé Mạnh, em hãy viết đoạn văn (7 – 9 câu) trình bày suy nghĩ về lòng yêu thương?

    II. Phần viết

    Nắng mùa thu?

    * Gợi ý đáp án

    I. Đọc hiểu

    1

    Chớm hè

    2

    Một người khác không xuất hiện trong truyện

    3

    Sau trận mưa rào

    4

    Lòng yêu thương con người

    5

    Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn mày

    6

    Nói quá

    7

    Vội vã, tất tưởi

    8

    Tôn trọng

    9

    - Nêu được cách cư xử của Mạnh: Cảm thông, chia sẻ và tôn trọng với những người bất hạnh, kém may mắn.

    - Nếu là Mạnh thì em cũng sẽ làm như bạn ấy bởi chỉ có tình yêu thương mới làm rung động trái tim con người, từ trái tim mới chạm đến trái tim vì vậy hành động của Mạnh đã khiến cậu như lớn hơn, chững chạc hơn, tấm lòng bao dung, yêu thương con người của cậu vì thế mà rộng ra mãi.

    10

    Trình bày được một số ý sau:

    - Tình yêu thương là sự đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ, gắn bó, quan tâm, giúp đỡ, yêu mến, trân trọng hòa hợp.. giữa con người với nhau.

    - Yêu thương được xem là một phẩm chất đẹp, cao quý và là giá trị sống cốt lõi của con người giúp con người gần nhau hơn. Chỉ cần một chút tình thương được cho đi, bạn sẽ mang đến cho người khác niềm hạnh phục, động lực để tiếp tục cuộc sống còn nhiều cơ cực và bản thân mình sẽ cảm thấy dễ chịu và hạnh phúc hơn. Tình yêu thương như một "sợi dây' vô hình nào đó đang dần nối kết nối mọi người lại với nhau.

    - Người đón nhận tình yêu thương có thêm niềm tin vào cuộc sống. Sự đồng cảm, chia sẻ mà bạn gửi đến cho người đang khó khăn sẽ là nguồn động lực để giúp họ có thêm niềm tin vào cuộc sống. Cái mà bạn cho đi không nhất thiết phải là tiền bạc, của cải đối với một số trường hợp, điều họ cần hơn hết chính là sự động viên, an ủi và người đồng hành về mặt tinh thần. Vì thế, bạn đừng ngại chia sẻ với những người đang gặp khó khăn. Vì thế, bạn hãy cứ yêu thương thật nhiều nhé.

    - Thay đổi cái nhìn của mọi người trong xã hội:

    Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người vô cảm, không có thói quen chia sẻ và giúp đỡ người khác. Vậy tại sao bạn không phải là người khơi nguồn tình thương cho mọi người nhỉ? Chỉ những hành động nhỏ của bạn cũng có thể khiến mọi người chú ý quan sát, có cái nhìn mới mẻ hơn và sẽ cùng bạn tạo ra" ngọn lửa "yêu thương ấm áp, lan tỏa khắp nơi

    II. Phần viết

    * Yêu cầu về hình thức:

    Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ

    - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, mạch ý mạch lạc..

    * Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau:

    +) Mở bài:

    Xúc cảm sâu sắc nhất về nắng mùa thu

    +) Thân bài:

    + Bộc lộ cảm xúc của bản thân về màu nắng, sắc nắng, hình nắng, hương vị của nắng mùa thu, sự vận động của nắng, mối tương quan của nắng thu với con người và vạn vật..

    + Tình cảm với nắng thu: Cảm mến, yêu thương, tha thiết, đợi chờ, hoài niệm..

    +) Kết bài:

    Cảm xúc mến yêu, mời gọi, lưu luyến với nắng, với mùa thu êm dịu.

    Bài tham khảo

    Nắng thu lạ lắm!

    Trời đang chói gắt, ngột ngạt và oi bức của mùa hè sau một cơn mưa nhuần nhị tươi mát của mùa thu như chiếc chổi lông thần kỳ quét đi bao bụi bặm để tỏa ra cái nắng vàng rực rỡ. Từng sợi nắng ngỡ như chuốt sợi tơ vàng sau kẽ lá cây vườn. Vòm trời như bỗng cao hơn. Mây bây giờ tơ vương và bàng bạc thảng thốt. Cánh chim trời cũng chớm sự vội vã, hun hút. Nắng thu mọng nước ngọt cho bưởi, sánh vị đường cát cho hồng. Tất cả đánh thức râm ran tuổi thơ nâng bỗng cánh diều bay lên trời thu lộng gió với bao ước vọng. Nắng thu cũng ngọt dậy những quả đồi sim treo từng túi mật chín. Sim như một tín hiệu để báo thu về. Ai bảo sim là loài cây dại, mọc hoang. Sim đã hút bao tinh chất của đất đồi sỏi đá cằn khô để hoa sim cứ thế mà tím, tím lặng lẽ bền bỉ qua bao gió mưa. Ôi cái miền sim cứ tưởng là cằn, mọc lúp xúp mà đội lên những mâm - xôi - sim ứa ngọt. Ta càng thương đất nghèo chiu chắt bao trọn vẹn thủy chung..

    Nắng thu vàng như một hồi quang ấm no của mùa lúa chín. Đến miền cao của phía Bắc, những ruộng lúa bậc thang như có nhịp điệu từng ngấn, từng ngấn một như những bậc cầu thang lên nhà sàn. Nắng thu uyển chuyển theo thảm vàng của lúa đã tạo ra bao dào dạt như sóng vỗ, sóng lượn lòng người. Nắng của thu vàng như một hợp âm reo vang hồ hởi khi ta hòa chung nhịp trống tựu trường của con trẻ. Nắng như những dấu chân son lọt qua khe hở lá bàng rộn ràng chạy nhảy. Nắng thật vô tư và hiếu động như tuổi thơ. Nắng tỏa ra, nắng không viền lại. Nắng dệt tơ, nắng giăng mắc. Nhà thơ Hoàng Cầm có những câu thơ thật hay về nắng trong bài" Bên kia sông Đuống ":" Những cô hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng ". Ôi cái vị nắng đậm vị trầu cay, đậm vị tình người cứ lan tỏa, cứ rưng rức chắc bền bén duyên.

    Ta cứ ngỡ nắng thu như một người bạn đồng hành có thể sẻ chia, bày tỏ tin cậy. Bởi tất cả đều trong veo, đều tươi sáng, đều thanh cao. Thu thì điềm tĩnh, nắng vàng lại dịu dàng lưu luyến. Lắng đọng thành múi quả tỏa hương mọng nước. Hoa mùa thu không tưng bừng rực rỡ, nồng nhiệt như hè mà chầm chậm bung nở chạm dần vào cái lõi của tâm trạng như một câu thơ xuất thần của Lưu Trọng Lư:" Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa". Dây dưa lắm với nắng thu, bịn rịn lắm với bao hẹn ước. Cúc vàng là nhụy của nắng thu, thu hết bao nỗi niềm, bao e ấp. Chỉ một màu vàng của cúc thôi mà thổn thức lòng mình bao cung bậc. Cúc là chấm nhỏ điểm xiết của nắng như một lúm đồng tiền bén duyên vào thu..

    Chợt dâng lên, dào dạt trong mình ắp đầy bao hoài niệm: Thu vẫn ở lại, lắng lại trong tình đời, tình người không phôi phai. Bởi trong thu vàng, nắng vẫn rót mật ong..
     
    LieuDuong thích bài này.
  4. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    4. ĐỀ 4 - ĐỌC HIỂU BÀI LỤC BÁT VỀ CHA..

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. Đọc kĩ bài thơ sau và trả lời câu hỏi:

    Cánh cò cõng nắng qua sông

    Chở luôn nước mắt cay nồng của cha

    Cha là một dải ngân hà

    Con là giọt nước sinh ra từ nguồn.

    Quê nghèo mưa nắng trào tuôn

    Câu thơ cha dệt từ muôn thăng trầm

    Thương con cha ráng sức ngâm

    Khổ đau hạnh phúc nảy mầm thành hoa.

    Lúa xanh xanh mướt đồng xa

    Dáng quê hòa với dáng cha hao gầy

    Cánh diều con lướt trời mây

    Chở câu lục bát hao gầy tình cha.

    (Lục bát về cha, Thích Nhuận Hạnh)

    Thực hiện các yêu cầu:

    Câu 1: Bài thơ trên được sáng tác theo thể thơ gì?

    A. Thơ bốn chữ C. Thơ lục bát

    B. Thơ năm chữ D. Thơ tự do

    Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính của bài thơ?

    A. Tự sự B. Biểu cảm C. Miêu tả D. Nghị luận

    Câu 3. Bài thơ là lời bày tỏ cảm xúc của ai?

    A. Người bố B. Người bà C. Người mẹ D. Người con

    Câu 4: Từ "hao gầy" trong bài thơ được hiểu như thế nào?

    A. Hình ảnh cha vóc dáng dần gầy gò, sộp đi, nhọc nhằn suốt đời, lo toan hi sinh tất cả vì con của mình.

    B. Hình ảnh cha tảo tần khuya sớm để nuôi con nên người.

    C. Hình ảnh gầy gò theo tháng năm

    D. Hình ảnh cha lo toan, hi sinh cho con cái.

    Câu 5. Thông điệp mà bài thơ gửi gắm đến bạn đọc là gì?

    A. Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, biết ơn cha sâu nặng.

    B. Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, biết ơn cha sâu nặng. Đó cũng là truyện thống đạo lí của dân tộc Việt Nam về đạo làm con đối với đấng sinh thành. Ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng.

    C. Bài thơ ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng.

    D. Bài thơ là lời tâm sự của con dành cho cha kính yêu.

    Câu 6: Dòng nào sau đây nêu đúng nghĩa của từ "thăng trầm" trong bài thơ?

    A. Nhịp điệu trầm – bổng (cao – thấp) trong câu thơ.

    B. Ổn định, hạnh phúc trong cuộc sống.

    C. Đáng thương, khổ sở, nhiều niềm đau.

    D. Không ổn định, lúc thịnh lúc suy trong cuộc đời.

    Câu 7: Nội dung chính của bài thơ là gì?

    A. Tô đậm tình yêu thương của mẹ dành cho con.

    B. Thể hiện sự nỗ lực và vươn lên từ cuộc sống nghèo khổ.

    C. Ca ngợi tình yêu thương và đức hi sinh, dành tất cả vì con của cha.

    D. Nhấn mạnh vào sự bảo vệ, che chở của cha mẹ dành cho con.

    Câu 8: Trong các cụm từ sau, đâu là cụm danh từ?

    A. Chở câu lục bát C. Một dải ngân hà

    B. Dệt từ muôn thăng trầm D. Xanh mướt đồng xa

    Câu 9: Em hãy nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh có trong hai câu thơ sau:

    Cha là một dải ngân hà.

    Con là giọt nước sinh ra từ nguồn

    (Trình bày bằng một đoạn văn từ 3– 5 câu)

    Câu 10: Nêu suy nghĩ của em về vai trò của người cha trong gia đình. (Trình bày bằng một đoạn văn từ 5– 7 câu)

    II. Phần viết

    Số phận mong manh, bất hạnh của cô bé bán diêm và tình cảm yêu thương con người của nhà văn Anđecxen qua đoạn trích truyện "Cô bé bán diêm"

    (Ngữ văn 6 bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" – Tập 1)

    * Đáp án

    Phần đọc hiểu:

    1


    Thơ lục bát

    2

    Biểu cảm

    3

    Người con

    4

    Hình ảnh cha vóc dáng dần gầy gò, sộp đi, nhọc nhằn suốt đời, lo toan hi sinh tất cả vì con của mình.

    5

    Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, biết ơn cha sâu nặng. Đó cũng là truyện thống đạo lí của dân tộc Việt Nam về đạo làm con đối với đấng sinh thành. Ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng.

    6

    Không ổn định, lúc thịnh lúc suy trong cuộc đời.

    7

    Ca ngợi tình yêu thương và đức hi sinh, dành tất cả vì con của cha.

    8

    Một dải ngân hà

    9

    Biện pháp tu từ so sánh:

    So sánh: Cha là một dải ngân hà

    Con là giọt nước sinh ra từ nguồn

    Tác dụng: Dải ngân hà rất rộng lớn và bao la. Giọt nước đối với dải ngân hà ngoài kia thì vô cùng nhỏ bé. Nhưng giọt nước cũng phải sinh ra từ nguồn. Con là giọt nước nhỏ bé mà tinh khiết được sinh ra từ nguồn cội sáng đẹp là cha. So sánh như vậy để khẳng định công lao to lớn, sự vất vả hi sinh của người cha. Qua đó cũng thể hiện tình yêu và sự biết ơn của con đối với người cha kính yêu của mình. Niềm tự hào, hạnh phúc vì là con của cha.

    10

    Cha là trụ cột gánh vác mọi trọng trách của gia đình (Làm những việc nặng nhọc, lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống gia đình)

    Cha là chỗ dựa vững chắc lớn lao về mặt tinh thần (cứng cỏi, tâm hồn cao thượng)

    Cùng với mẹ, cha tạo ra mái ấm hạnh phúc mang đến sự hòa thuận trong gia đình

    Con cần phải yêu kính, hiếu thuận với cha mẹ

    Phần viết văn:

    A. Yêu cầu về hình thức:


    - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, bài làm có các ý rõ ràng, biết nêu và đánh giá luận điểm.

    b. Yêu cầu nội dung: Đảm bảo một số vấn đề cơ bản sau:

    +) Mở bài

    - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và khái quát được vấn đề nghị luận

    +) Thân bài:

    - Số phận mong manh, bất hạnh của cô bé bán diêm

    + Gia cảnh: Mẹ, bà đã qua đời, ở với người bố nát rượu, khó tính. Hai bố con phải ở trên căn gác tồi tàn

    Em lang thang bán diêm trong khi "bụng đói, cật rét", em như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa

    Trong tình cảnh ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: Được sưởi ấm, được ăn ngon, được gặp bà, gặp mẹ..

    Cô bé đã chết bởi cái rét cắt da, cắt thịt của thời tiết và bởi sự ghẻ lạnh của người đời.

    - Tình cảm yêu thương con người của nhà văn Anđecxen qua đoạn trích truyện: Nỗi đau đớn, xót xa trước những số phận nghèo khó, đặc biệt là trẻ em và gián tiếp lên án sự vô tâm, thờ ơ, dửng dưng của những con người trong xã hội..

    +) Kết bài:

    Khẳng định lại vấn đề: Nỗi cảm thông, thương xót của nhà văn dành cho những mảnh đời bất hạnh.

    Bài tham khảo

    Ai đã từng đọc "Cô bé bán diêm" của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ và vô cùng xúc

    An–Đéc–xen được mệnh danh là "Ông già kể chuyện cổ tích" - nhà văn lớn của Đan Mạch. Truyện ông viết không chỉ dành cho thiếu nhi mà ở mỗi câu chuyện viết cho thiếu nhi là những bài học nhân đạo cho người lớn. Vốn là người đa cảm và có năng khiếu văn chương, ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện dành cho thiếu nhi. Cái tên An-đéc-xen rất quen thuộc với bạn đọc năm châu bởi truyện của ông có sức hấp dẫn lạ lùng được tạo nên từ sự kết hợp tài tình giữa hiện thực và tưởng tượng, cùng với tính chất hoang đường, kì ảo. "Cô bé bán diêm" là câu chuyện vô cùng cảm động về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời.

    "Cô bé bán diêm" của Andecxen phản ánh số phận mong manh, bất hạnh của em bé nghèo khổ. Thực tại của em quá phũ phàng, bà và mẹ đã bỏ em ra đi mãi mãi, em sống cùng người bố nát rượu trong căn gác xép tồi tàn, em lang thang bán diêm trong khi bụng đói, cật rét giữa đêm giao thừa rét cắt da, cắt thịt của xứ sở Đan Mạch. Đọc những trang văn của Andecxen ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé. Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mối cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi "mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay", cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống. Ngôi nhà xinh xắn với những dây thường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để bớt cảm giác lạnh lẽo, em đã "ngồi nép trong một góc tường", "thu đôi chân vào người" nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em "càng thấy rét buốt hơn". Em không thể về vì biết "nhất định cha em sẽ đánh em". "Ở nhà cũng rét thế thôi", điều đáng sợ nhất đối với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải chống chọi vô vọng với cảm giác giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiến "đôi bàn tay em đã cứng đờ ra".

    Trong tình cảnh ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: "Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?" nhưng dường như em cũng không đủ can đảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng "đánh liều quẹt một que", để bắt đầu cho một hành trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt. Giấc mơ của em bắt đầu từ lúc nhìn vào ngọn lửa: "Lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Ánh sáng ấy đã lấn át đi cảm giác của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh "một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng". Niềm vui thích của em đến trong ảo giác "lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng". Đó là ước mơ thật đơn giản trong khi thực tế lại phũ phàng "tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút.. trong đêm đông rét buốt". Ước ao được ngồi hàng giờ "trước một lò sưởi" cũng biến tan khi "lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". Khoảnh khắc em "bần thần cả người" khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tối lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em.

    Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Bởi thế, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến bức tường xám xịt thành "tấm rèm bằng vải màu". Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã đến với em, khi em nhìn thấy: "Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay". Giá như tất cả những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi "ngỗng nhảy ra khỏi đĩa" sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người. Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đối mặt với "phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu". Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước tình cảnh của em bé bất hạnh.

    Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút, từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã tỏa ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em "một cây thông Nô-en", như đem đến cho em một thiên đường của tuổi thơ: "Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng". Điều trớ trêu nghiệt ngã là tất cả những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ tất cả chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết. Em quẹt hết số diêm còn lại. Em muốn níu bà em lại! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế.

    Cái chết của em vừa đáng thương lại vừa kì ảo. Bởi nó nhẹ nhàng hệt như một giấc ngủ, giấc mơ. Ước mơ của em thật đẹp. Nhưng càng đẹp thì càng đau xót. Em bé bán diêm sống cuộc đời nghèo khổ, thiếu thốn tình yêu thương của cha và thiếu cả tình thương của cộng đồng. Mỗi lần quẹt diêm là một khung cảnh trong mơ hiện ra trước mặt cô bé, nhưng những giấc mộng đó chỉ kéo dài trong vài giây và sau khi diêm tắt, mọi thứ lại trở về với tối tăm, rét mướt, đói khổ. Sự đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực như một nhát dao cứa vào lòng người đọc khi cảm nhận được nỗi bất hạnh, sự cô đơn, lạc lõng của cô gái bé nhỏ giữa xã hội. Cái chết của cô bé cũng vô cùng thương tâm, gây ám ảnh với bạn đọc. Buổi sáng đầu tiên của năm mới, mọi người ai cũng vui vẻ, rạng rỡ nhưng em bé lại một mình chết ở xó tường, em chết vì lạnh, vì lòng người vô cảm không ai quan tâm, giúp đỡ em. Nhưng khi chết, trên mặt em đôi má vẫn hồng, đôi môi như đang mỉm cười, vì em đã thoát khỏi cuộc sống bất hạnh, được đến với người bà yêu quý của mình. Thực tế đây là một cái kết mang tính chất bi kịch. Hạnh phúc với mỗi con người là ở thực tại, ở trần thế này nhưng em phải đến thế giới khác mới được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ấy.

    Số phận đáng thương và cái chết của co bé bán diêm thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn xứ Đan Mạch. Bằng bút pháp đối lập, tương phản giữa hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp của cô bé với không gian rực rỡ ánh đèn, sự ấm áp trong mỗi ngôi nhà tác giả đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của mình trước hoàn cảnh của cô bé, đồng thời, qua đó cũng gợi lên trong người đọc niềm cảm thương với những số phận nghèo khổ, đặc biệt là trẻ em. Sau những lần quẹt diêm, giữa hai bờ của hiện thực và mộng ảo, nhà văn đã để cho em bé có những giấc mơ thật đẹp nhưng cũng thật xót xa. Ước mơ một lò sưởi to (để sưởi ấm), một bàn ăn (để không còn bị đói), một cây thông Nô-en (để có không khí gia đình ngày tết), hay thấy bà hiện ra (để được yêu thương) là những ước mơ chính đáng của bất kì trẻ em nào. Nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh đối với cô bé bán diêm. Như vậy, bằng những yếu tố tưởng tượng, kì ảo, tác giả An-đéc-xen đã để cô bé bán diêm thực hiện được những mong ước của mình - những thứ mà trong cuộc sống đời thường cô bé tội nghiệp, đáng thương ấy chưa bao giờ có được. Điều ấy xét đến cùng là biểu hiện của sự cảm thông và tình yêu thương sâu sắc mà tác giả An-đéc-xen dành cho cô bé bán diêm tội nghiệp. Kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh cái chết của cô bé và sự vô tâm của những người qua đường, tác giả đã thể hiện nỗi đau xót xa trước những số phận nghèo khó, đặc biệt là trẻ em và gián tiếp lên án sự vô tâm, thờ ơ, dửng dưng của những con người trong xã hội.

    Số phận mong manh, bất hạnh của cô bé bán diêm và tình cảm yêu thương con người của nhà văn Anđecxen được thể hiện qua những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Tác phẩm được xây dựng một kết cấu phù hợp với diễn biến sự việc và tâm lí nhân vật. Nghệ thuật tương phản đối lập càng làm nổi bật hơn nỗi bất hạnh của em bé: Mồi côi, trong đêm tối một mình lang thang bán diêm đối lập với đường phố rực rỡ ánh đèn, những người xung quanh vui vẻ, hạnh phúc. Sự đan xen hài hòa hợp lí giữa hiện thực và mộng tưởng vừa làm rõ số phận bi thương, vừa khắc họa khát khao hạnh phúc của cô bé bán diêm.

    "Cô bé bán diêm" của Andecxen thể hiện tình yêu thương sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh. Truyện truyền tải đến người đọc thông điệp giàu ý nghĩa, thấm đẫm giá trị nhân đạo: Hãy yêu thương trẻ thơ và để cho chúng được sống một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.. Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này, niềm đau thương vô hạn, như luôn nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn đầy của An-đec-xen.
     
    LieuDuong thích bài này.
  5. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    5. ĐỀ 5 - ĐỌC HIỂU CHÚ RÙA HỌC BAY..

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

    Chú Rùa học bay

    Bên bờ sông có một chú Rùa đang ra sức tập bay.

    – Cố lên nào.. 1, 2, 3.. Cố lên..

    Một con Chim Sẻ bay ngang qua, thấy thế liền hỏi:

    – Anh Rùa ơi, anh đang làm gì thế?

    Rùa thở dài đáp:

    – Tôi đang tập bay đấy, Chim Sẻ ạ.

    Nghe vậy, Chim Sẻ rất ngạc nhiên, hỏi lại Rùa:

    – Sao cơ? Chẳng phải anh đã chiến thắng trong cuộc thi chạy với Thỏ đó sao? Tất cả là nhờ bốn chiếc chân của anh mà.

    Rùa nhăn mặt trả lời:

    – Thôi thôi, anh đừng nhắc nữa. Tôi và Thỏ đã thi lại lần nữa. Thỏ không ngủ quên giữa cuộc nữa nên đã dễ dàng thắng tôi. Lần này, khi tập bay được, tôi sẽ quyết đấu một trận nữa với Thỏ.

    Chim Sẻ cười:

    – Nhưng mà anh đâu có cánh!

    Nhưng Rùa vẫn không lay chuyển.

    – Bất kể thế nào tôi cũng phải học bay cho bằng được, Chim Sẻ ạ!

    Chim Sẻ lại nói:

    – Nhưng anh đâu có cánh thì làm sao mà bay được, tôi khuyên anh nên từ bỏ ý định đó đi thì hơn. Thôi, tôi đi chơi đây!

    Chim Sẻ bỏ đi rồi, Rùa đi kiếm về rất nhiều lông chim, may cho mình một đôi cánh tuyệt đẹp. Nó ra sức tập luyện, nhưng đã mấy ngày trôi qua mà vẫn không có gì tiến triển. Rùa nghĩ:

    – Thế này không ổn. Mình phải đi mời thầy về dạy mới được.

    Ngày hôm sau, Rùa lên đường đi tìm thầy dạy bay. Ròng rã mấy ngày, nó đi đến một vách núi cheo leo, hi vọng sẽ tìm được thầy.

    Một hôm, Rùa đi tới một vách đá, đột nhiên có một đôi cánh lớn liệng qua. Rùa ta vô cùng ngưỡng mộ, nghĩ bụng:

    – Đây chính là người thầy mà mình đang tìm kiếm.

    Rùa liền hét to:

    – Đại Bàng ơi, xin hãy dạy tôi bay với!

    Đại Bàng ân cần nhắc nhở Rùa:

    – Tôi và Rùa không giống nhau. Rùa không có cánh, làm sao mà bay được!

    Rùa cầm ra đôi cánh tự làm, liên tục xin:

    – Đại Bàng xem, tôi có cánh rồi đây này. Xin anh hãy nhận tôi làm đồ đệ đi.

    Đại Bàng đành phải chấp nhận lời thỉnh cầu của Rùa.

    – Thôi được, nếu Rùa đã quyết thì tôi sẽ giúp. Nhưng tôi không chắc là Rùa sẽ bay được đâu nhé!

    Rùa tự lắp thêm đôi cánh, Đại Bàng nhấc bổng Rùa lên, bay cao hơn những ngọn cây. Rùa thích quá reo lên:

    – A ha! Mình sắp biết bay rồi!

    Đang bay trên không trung thì Đại Bàng bỏ Rùa ra. Rùa ta giống như diều đứt dây, rơi tự do xuống, mặc cho Rùa cố gắng vỗ đôi cánh tới tấp nhưng không ăn thua gì.

    – Cứu với! Ai cứu tôi với..

    Rùa rơi thẳng xuống một tảng đá to, khiến cho mai Rùa bị vỡ rạn.

    Kể từ đó, trên mai của Rùa có những vết rạn ngang dọc, đó là dấu tích của lần Rùa học bay với Đại Bàng.

    Câu 1 . Văn bản Chú rùa học bay thuộc thể loại truyện dân gian nào?

    A. Truyện cổ tích. B. Truyện ngụ ngôn. C. Truyền thuyết. D. Truyện thần thoại.

    Câu 2. Văn bản trên sử dụng ngôi kể nào ?

    A. Ngôi thứ ba C. Ngôi thứ hai

    B. Ngôi thứ nhất D. Kết hợp hai ngôi kể

    Câu 3. Trong văn bản chú Rùa mong muốn học điều gì?

    A. Học chạy.

    B. Học bay

    C. Học bơi lội

    D. Học nhảy.

    Câu 4. Để tập bay, Rùa đã chuẩn bị những gì?

    A. Mua cho mình đôi cánh.

    B. Ra sức luyện tập

    C. Kiếm thật nhiều lông chim, may cho mình đôi cánh, đi tìm thầy dạy bay

    D. Phép liên tưởng

    Câu 5. Dấu ba chấm trong câu sau có công dụng gì ?

    – Cố lên nào.. 1, 2, 3.. Cố lên..

    A. Thể hiện lời nói ngập ngừng, bỏ dở, ngắt quãng.

    B. Giãn nhịp điệu câu văn, chuẩn bị cho sự xuất hiện của một từ ngữ biểu thị nội dung bất ngờ, thường có sắc thái hài hước, châm biếm.

    C. Thể hiện sự bất ngờ.

    D. Cho biết sự vật, hiện tượng chưa liệt kê hết.

    Câu 6 . Hình ảnh "Những vết rạn trên mai rùa" thể hiện điều gì?

    A. Vì làm việc mình yêu thích nên xấu xí một chút cũng không sao.

    B. Vì ham thích điều mới lạ nên chuốc hậu quả.

    C. Nếu làm việc không đúng khả năng của mình thì sẽ nhận lấy hậu quả.

    D. Sự bất lực của con người khi gặp sự cố trong cuộc sống.

    Câu 7. Câu trả lời của chú Rùa với Chim Sẻ "Bất kể thế nào tôi cũng phải học bay cho bằng được, Chim Sẻ ạ!" thể hiện tính cách nào của Rùa?

    A. Nhút nhát, sợ chết.

    B. Yếu đuối.

    C. Nóng vội nhưng dũng cảm.

    D. Quyết tâm

    Câu 8. Có ý kiến cho rằng: Câu chuyện "Chú Rùa học bay" đã thể hiện được những đặc trưng cơ bản của truyện ngụ ngôn.

    Theo em, ý kiến trên đúng hay sai?

    A. Đúng B. Sai

    Câu 9.. Lời khuyên của Chim Sẻ:

    – Nhưng anh đâu có cánh thì làm sao mà bay được, tôi khuyên anh nên từ bỏ ý định đó đi thì hơn gợi cho em suy nghĩa gì?

    Câu 10 . Bài học tâm đắc nhất mà em rút ra từ văn bản trên? (Trình bày bằng đoạn văn từ 5-7 câu)

    II. Phần viết

    Mùa em yêu?

    * Đáp án

    I. Phần đọc hiểu

    1

    Truyện ngụ ngôn

    2

    Ngôi thứ ba

    3

    Học bay

    4

    Kiếm thật nhiều lông chim, may cho mình đôi cánh, đi tìm thầy dạy bay

    5

    Thể hiện lời nói ngập ngừng, bỏ dở, ngắt quãng

    6

    Nếu làm việc không đúng khả năng của mình thì sẽ nhận lấy hậu quả.

    7

    Quyết tâm

    8

    Đúng

    9

    - Học sinh trình bày được ý nghĩa lời khuyên của Chim Sẻ. Có thể trình bày ý sau:

    + Hãy nhìn vào thực tế, khả năng của bản thân, đừng ảo tưởng sức mạnh.

    10

    - Trình bày bằng một đoạn văn (có độ dài khoảng 5-7 câu)

    - Học sinh có thể trình bày nhiều bài học mà bản thân tâm đắc rút ra từ câu chuyện trên, tuy nhiên phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

    Sau đây là một vài gợi ý: Bài học tâm đắc rút ra:

    VD: Tài sản lớn nhất mà bạn có chính là năng lực thực tế của bản thân, chỉ có tự đi trên đôi chân của mình, chúng ta mới có thể vững vàng vượt qua sóng gió và đạt được thành công.

    Hoặc: Trong cuộc sống, thay vì mù quáng học theo những điều mà mình ngưỡng mộ từ người khác mà không phù hợp với khả năng của bản thân thì hãy phát huy hết sở trường, ưu thế của mình, tự đi trên con đường riêng của mình

    Hoặc:

    Cuộc sống muôn màu, mỗi người sinh ra mang một sắc màu khác nhau, một năng lực khác nhau hãy luôn cố gắng sống là chính mình, bước đi bằng chính đôi chân của mình, rồi thành công sẽ mỉm cười với bạn.

    Phần II. Viết văn

    a. Yêu cầu về hình thức:

    - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, bài làm có các ý rõ ràng, mạch ý trôi chảy.

    b. Yêu cầu nội dung: Đảm bảo một số vấn đề cơ bản sau:

    +) Mở bài

    - Giới thiệu mùa em yêu

    +) Thân bài:

    Em yêu mùa nào trong năm? Vì sao? Mùa ấy đã để lại những cảm xúc, suy nghĩ gì trong lòng em? Mùa ấy có những đặc điểm gì đặc biệt về thời tiết, quang cảnh, cỏ cây hoa lá, con người? Mùa ấy gắn với kỉ niệm nào khó quên trong lòng em? Ước mong, hi vọng của em khi mùa về?

    +) Kết bài

    Cảm nghĩ của bản thân về mùa: Yêu mến, trân trọng

    * Bài tham khảo

    Ông lão thời gian chầm chậm rảo từng bước chân trên vòng quay của đất trời. Rồi bỗng nhiên một ngày nhìn ra khung cửa sổ kia, ta phát hiện ra một điều bất ngờ: Mùa thu đã đến.

    Bao giờ cũng vậy, mùa thu đến thật nhẹ nhàng, êm dịu. Mùa thu đến đem theo không khí mát lành của đất trời. Trên con đường thân quen, ta rảo bước ngắm nhìn đất trời, cây cỏ. Bầu trời trong xanh không một gợn mây. Nắng vàng bao trùm cảnh vật. Những cây bàng già hai bên đường cũng nhuốm sắc vàng tươi trẻ. Ngay cả những cô bé hoa cúc kia cũng được mùa thu tặng cho chiếc áo vàng rực rỡ. Người ta thường nói hoa cúc chính là vị thiên sứ đáng yêu của mùa thu. Đi đến đâu ta cũng bắt gặp một sắc vàng tươi thắm của hoa cúc.

    Mùa thu đã về! Ánh nắng vàng trong veo như thuỷ tinh nhảy nhót trên những cánh đồng quê. Bầu trời cao hơn, xanh thăm thẳm ra. Những đám mây trắng như bông đang lững lờ trôi. Cơn gió nhẹ đưa hương hoa sữa nồng nàn, hoa sữa mới trổ bông, xòe ra những quả cầu hoa trắng xanh, thơm từng góc phố.. Hít hà hương hoa sữa ta bỗng thấy lòng ấm áp lạ thường. Bấy giờ, hoa hồng mới vươn mình kiêu hãnh khoe lớp áo khoác mịn màng với nắng. Hoa cải mới e lệ diện bộ váy vàng tươi sáng. Và mùi hoa quế thơm thơm mới đậu trên tà áo dài con gái đi khắp phố phường để hòa mình vào gió. Từng đàn chim ríu rít hót vang. Cánh đồng lúa chín vàng, thơm mùi lúa mới. Hoa cúc, hoa sen rủ nhau khoe sắc, hương mùa thu vương vít nơi vườn nhà. Lá cây cũng sang màu. Cái thứ màu đỏ đồng của lá bàng, màu vàng vàng của bằng lăng.. chờ ngày trút lá luôn làm xao động lòng người.


    Không như xuân về mang đến sự náo nức tươi vui, vạn vật đâm chồi nảy lộc. Không như ngày hạ nắng chói chang khiến lòng người rạo rực, cũng chẳng giống khi đông về mang theo cái lạnh thấu xương, thu đến mang cái cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Tiết trời êm dịu, từng cơn gió nhè nhẹ lướt qua khiến lòng người thổn thức. Không háo hức chờ đợi như xuân, thu về mang lại cho ta cảm giác khắc khoải. Vì điều gì đó, thu về khiến lòng ta muốn du dương theo điệu nhạc, hát vu vơ đôi ba câu chờ đợi, nhẹ nhàng, an yên. Thu về, lá cành mang cái màu vàng cuối mùa, từng chiếc lá rụng cũng khiến người ta bất chợt mà nhớ đến dăm ba câu hát lay động trái tim mình:

    "Khi chiếc lá xa cành

    Lá không còn màu xanh

    Mà sao em xa anh

    Đời vẫn xanh vời vợi

    Sớm thu trong lành, dịu ngọt, khiến người ta muốn tận hưởng, hít hà thứ cảm giác mà bấy lâu nay tìm kiếm. Chiều thu là khoảnh khắc ta thấy buồn, bao kỉ niệm xa xưa chợt ùa về trong ký ức. Ừ thì, thu mà, vốn dĩ thu khiến người ta thèm cảm giác đợi chờ, khắc khoải, thèm dư vị của thương yêu, và được gặm nhấm nỗi buồn một lần nữa. Đêm thu là những ánh trăng tròn viên mãn ngày rằm bên chị Hằng xinh đẹp. Đêm thu khiến ta thèm trở về ngày bé thơ, được rước đèn, đèn ông cá, đèn ánh sao, cùng ngân nga bài hát trong không khí của đêm rằm. Mùa thu là mùa của những đêm rằm rước đèn, họp bạn. Trên bầu trời đêm trong vắt, những ánh sao lấp lánh góp phần tôn thêm vẻ đẹp của mùa thu. Những quả bưởi trên cây, khấp khởi trong lòng một niềm vinh dự được trịnh trọng đặt giữa mâm cỗ trăng rằm. Bọn trẻ con chúng tôi có lẽ mong đợi mùa thu nhất bởi thu về chúng tôi có những đêm trung thu vui vẻ, có những món đồ chơi ưa thích..

    Nhìn lá vàng rơi xào xạc trong gió khẽ mơn man bao kỉ niệm dấu yêu của ngày tựu trường lại ùa về khiến lũ học trò chúng tôi rưng rưng niềm vui trên khoé mắt. Mùa thu, hoa phượng đã tàn phai để dưỡng sức sau một mùa hè sôi động rực lửa, chỉ còn vài bông phượng lấp ló trong tán lá xanh um như nhắc nhở, như thúc giục học trò chăm chỉ đèn sách.

    Mùa thu là thế đấy. Yêu mùa thu ta mới cảm nhận được sự ấm áp, tình yêu thương. Và mùa thu cũng luôn mở rộng tấm lòng thương yêu chào đón mọi người. Yêu lắm mùa thu ơi!
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...