Chương 4: Vì sao bạn tốt lại dần xa cách (8)
Trải qua tan vỡ giá lạnh, người lạ vẫn có thể cho bạn hi vọng
* * *
Năm 2006, tôi đứng tại một trạm xe lửa nào đó, gọi điện thoại cho anh ấy.
Khóc rồi lại khóc.
Tôi nói ra rất nhiều lời tàn nhẫn, cũng nói ra rất nhiều nỗi tuyệt vọng, tôi nói, không còn hi vọng về cuộc sống, tôi nghĩ tôi có thể không cần sống tiếp nữa..
Anh ấy nói, đó là chuyện của cô, tôi không ép cô đâu đấy!
Tôi đau đến xé ruột xé gan, đau ngột ngạt, vận mệnh lâm li bi đát, bế tắc không một lối thoát.
Lúc bấy giờ, trời đang mưa rất lớn, một mình tôi theo ba lô, vừa đi vừa khóc.. Tôi từng nghĩ hay là đâm đầu vào chiếc xe hơi đang chạy đến, nhưng rốt cuộc vẫn không làm, cũng từng nghĩ đến cách quyết liệt hơn, nhưng vẫn không có dũng khí, chỉ thất thểu bước đi, lẳng lặng buông tiếng thở dài.
Cách đó không xa, có một hồ nước, trong cơn mưa bão nó trở nên thật hung ác, thật hỗn loạn, một vùng nước đầy ác ý. Tôi đi qua đó, đứng bên bờ rất lâu. Khi quá đau khổ, người ta trở nên rất nặng nề, nửa bước bạn cũng khó đi được, chỉ đứng yên tại một chỗ như đang chờ tuyết tan, đợi đau buồn từ từ tan chảy vậy.
Hơn mười phút sau, một chiếc ô từ phía sau xuất hiện che trên đầu tôi.
(Nhớ lại lần nữa, mắt vẫn cay, lòng vẫn đau.)
Cúi đầu nhìn, là một bé trai, khoảng mười tuổi, gầy gò, da ngăm đen, không giống như con nhà giàu, quần áo rất bình thường. Nó giơ thẳng cánh tay, đưa dù lên thật cao, giúp tôi che chắn cơn mưa, hơn ở người của thằng bé lại lộ ra giữa màn mưa.
Điều khiến tôi đau lòng nhất là đôi mắt của nó, can đảm là thế, lại sợ hãi đến vậy - Vâng, cha mẹ thằng bé không ở bên cạnh, nó cũng không biết tôi là ai, chỉ thấy có người đang đứng trước hồ khóc, dường như có ý định kết liễu cuộc sống, thế là dè dặt đưa ô qua..
Nước mắt tôi lại bắt đầu tuôn rơi, tôi nói: 'Dì không sao, con đừng để mình bị ướt, mau trở về đi..'
Thằng bé không lên tiếng, chỉ mở lớn đôi mắt, ra sức lắc đầu, dường như cũng muốn khóc đến nơi rồi..
Một đứa trẻ, khi thấy một người lớn đau khổ bật khóc, nó sẽ không giống như chúng ta nhẹ nhàng an ủi: 'Dì ơi, dì đừng khóc, con che ô cho dì..', mà nó sẽ hít thở không thông, sẽ tay chân lóng ngóng, sẽ đứng ở nơi đó, mở to đôi mắt sợ hãi, không ngừng lắc đầu.
Tôi đoán có lẽ nào muốn nói với tôi rằng: 'Dì ơi, đừng mà!'
Hoặc: 'Con sợ lắm!'
Sau đó tôi ngồi xổm xuống, đẩy chiếc ô về trên đầu nó, không ngừng nói với nó rằng, dì gặp phải một chuyện không vui, hơi buồn, con mau trở về đi, dì không sao, con đừng để mình bị ướt.. Khuyên rất lâu thằng bé mới từ từ rời đi.
Đi được một lúc, nó lại dừng lại, quay đầu lo lắng nhìn tôi.
Lúc ấy, tôi nói với chính mình: Chết gì mà chết? Chuyện xấu đương nhiên là có, nhưng chỉ cần có những điều tốt đẹp nhỏ bé như vậy, thế giới này cũng đáng cho mình tiếp tục sống bằng mọi giá rồi!
Cho đến hôm nay, tôi vẫn sẽ bị người khác mắng chửi sỉ nhục, vẫn trải qua đổ vỡ đau thương.
Cũng từng oán, cũng từng hận, cũng từng đau.
Nhưng chỉ cần tôi nhớ đến đôi mắt ấy liền có thể xoa dịu nỗi đau, tha thứ cho những điều không hay, bỏ qua những công kích trong tối lẫn ngoài sáng, tha thứ cho những tủi nhục và đau buồn.
Lòng tốt xa lạ này thật ra vẫn còn rất nhiều.
Năm 2013, ở Đại Lý, một mình tôi thuê một căn phòng nhỏ, bắt đầu sáng tác cả ngày lẫn đêm.
Không có tiền, sợ mình chết đói nơi đất khách, nên tôi cố hết sức hạn chế các khoản chi trong cuộc sống.
Rồi tôi mua một chiếc nồi cơm điện nhỏ và vài cân gạo, chuẩn bị ít trái cây và rau muối, ngày ngày ăn cháo, ăn táo để nhét kẽ răng. Tôi ra ngoài mua hai lạng thịt heo luộc, muốn ăn kèm với cơm, nhưng không nhịn được lại ăn hết sạch trên đường đi.
Lúc đó tôi cũng không thấy cực khổ, bởi trong đầu tôi đâu đâu cũng là cuốn tiểu thuyết chưa viết xong, những suy nghĩ chưa thành văn.
Ngày tết Trung Thu, sáng đọc sách, chiều viết văn, thi thoảng lướt điện thoại một chút, thấy bánh trung thu tràn ngập màn hình, tôi mới chợt nhớ ra Trung Thu đến rồi.
Tôi kéo cửa chớp ra, ngọn núi đã nhuốm màu hoàng hôn.
Mây đen tụ lại, ở giữa là một vầng trăng tròn, giống một bức tranh tuyệt đẹp, ngay giữa tử cung của bầu trời đang mang thai vầng trăng, một sinh mệnh tròn trịa.
Tôi nghĩ trung thu thì có liên quan gì đến mình nhỉ? Viết tiếp thôi..
Lúc này, có người gõ cửa.
Tôi mở cửa ra xem, thì ra là bác chủ nhà đến tặng tôi hai cái bánh trung thu nhà họ tự làm, vẫn còn nóng, to cỡ một chiếc đĩa, nhân ngũ cốc và đậu.
Bác đã nói những gì tôi không nhớ rõ nữa, chỉ nhớ đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn bánh trung thu nóng.
Hương thơm và độ ấm đó đi từ răng, đến lưỡi, truyền thẳng vào tim, đến tận bây giờ vẫn chưa từng nguội lạnh trong tôi.
Còn có một lần, tôi đ, ón taxi ở một thành phố xa lạ để đi thăm một người ngồi trên xe trò chuyện với bác tài về người ấy. Khi xuống xe bác tài nói: 'Tôi cũng từng có một cô bạn gái giống như cô vậy, nhưng tôi đã đánh mất cô ấy rồi..'Anh ấy không lấy tiền xe của tôi, để lại số điện thoại, bảo rằng khi nào cần giúp đỡ thì có thể tìm anh ấy.
Trên đường đi, tôi quen được một người, biết tôi muốn đến Đôn Hoàng, anh ta nói, giúp tôi xem qua nhà cũ của Thường Thư Hồng nhé.
Tôi nói được.
Chuyến đi lần ấy, chỉ có đích đến là Hang Mạc Cao, nhà cũng không nằm trong lịch trình, nhưng tôi vẫn dành ra chút thời gian, tự đi đến đó một chuyến, từ trong ra ngoài, ngay cả cây bạch dương bên ngoài tường nhà và người gác cửa già nua cũng chụp hết lại rồi gửi cho anh ta: Tôi đã đến xem giúp anh rồi, nó còn tốt lắm, đừng lo!
Những điều tốt đẹp này không liên quan đến tiền bạc hay giới tính, chỉ là hai trái tim đối xử dịu dàng với nhau không mang theo mục đích gì.
Hôm qua, tôi vừa đọc xong 'Những chuyện nực cười ở Brooklyn' của Paul Auster, lại bị cảm động bởi một vài chi tiết nhỏ.
Tuy cuốn sách này khá là bình thường, có cuộc sống phức tạp, có cuộc tình sai trái, dễ khiến người ta cảm thấy không thích, nhưng trong cuốn sách cũng có tình cảm mềm mại ấm áp.
Chẳng hạn như, tác giả có nhắc đến một giai thoại về Kafka.
Đó là năm cuối cùng của cuộc đời Kafka, ông và Dora vừa chuyển đến Berlin.
Họ sẽ ra ngoài vào buổi chiều hàng ngày, đến công viên tản bộ.
Có một hôm, họ gặp một bé gái đang đứng khóc ven đường. Kafka hỏi cô bé làm sao vậy, cô bé nói búp bê không thấy đâu nữa. Ông đã bịa ra một câu chuyện:
"Búp bê của cháu đi du lịch rồi!" Kafka nói.
"Sao chú biết ạ?" Cô bé hỏi.
"Vì nó đã viết thư cho chú."
Cô bé không tin lắm.
"Chú có đem theo thư không?" Cô bé hỏi.
"Không có, xin lỗi cháu." Ông nói, 'Chú để lá thư ở nhà rồi, là chú không đúng, nhưng ngày mai chú sẽ đem đến.'
Đêm hôm đó, Kafka đi thẳng về nhà viết thư. Ô, ng nghiêm túc đến mức gần như căng thẳng không khác gì lúc sáng tác bình thường. Ông không phải đang lừa gạt một cô bé. Đây là một tác phẩm văn học thật sự, ông muốn viết ra một câu chuyện thật đẹp để bù đắp cho sự mất mát của cô bé.
Hôm sau, Kafka đem lá thư đến công viên.
Cô bé đang đợi ông.
Vì cô bé còn chưa biết chữ, nên ông đọc lớn cho cô bé nghe.
Trong thư nói, búp bê rất xin lỗi, vì tất cả thời gian đều chung sống cùng một người, nó cảm thấy mệt mỏi, nó muốn ra ngoài ngắm nhìn thế giới, kết giao thêm bạn mới. Không phải nó không yêu cô bé nữa, chỉ là muốn được thay đổi môi trường một chút, nên phải chia xa một thời gian.
Sau đó, búp bê hứa mỗi ngày sẽ viết cho cô bé một lá thư, kể cho cô bé những gì mình làm.
Từ đó, Kafka thân mang trọng bệnh mỗi ngày đều viết một lá thư - chẳng vì gì khác, chỉ vì muốn an ủi một cô bé, hai người vốn không biết nhau, chỉ vô tình gặp nhau trong một buổi chiều tại công viên. Ông viết liên tục ba tuần lễ liền.
Ba tuần lễ.
Ông là một trong những tác giả xuất sắc nhất, không bao giờ lãng phí thời gian trong cuộc sống - với ông mà nói, thời gian đã ngày càng ít đi, vì thế càng thêm đáng quý - vậy mà ông lại bỏ ra hàng tuần vì con búp bê bị mất của một cô bé.
Mỗi một câu viết ra ông đều suy nghĩ rất kĩ, lời văn mạch lạc, thú vị, thu hút người đọc.
Dần dà, từ trong thư cô bé biết được, búp bê đã lớn, đã đi học, đã quen với người khác. Nó vẫn yêu cô bé, nhưng cũng ám chỉ cuộc sống có nhiều nhân tố phức tạp khiến nó không thể trở về được.
Cứ thế, Kafka đã để cô bé chuẩn bị dần tâm lý từng chút một, để biết rằng búp bê không bao giờ quay về nữa.
Cuối cùng, Kafka nói với cô bé, búp bê hết yêu rồi.
Ông miêu tả chàng thanh niên mà búp bê đem lòng yêu, nó đã đính hôn, hôn lễ được cử hành tại một vùng quê, ngôi nhà mới của vợ chồng búp bê rất đẹp, sinh một đứa con, trông rất giống nó..
Dòng cuối cùng, búp bê đã nói lời từ biệt với người bạn cũ mà nó yêu mến:
"Tạm biệt bạn của tôi, xin hãy sống thật hạnh phúc, giống như chúng tôi vậy!"
Từ đó, cô bé không còn lo lắng nữa. Nhưng khi cô bé nhớ đến búp bê, trong lòng sẽ thấy ngọt ngào và vui vẻ chứ không phải sợ hãi và bi thương.
Kafka dùng thiện ý, tài hoa, trí tưởng tượng để tạo ra một câu chuyện cổ tích, sưởi ấm tuổi thơ, thậm chí là cả cuộc đời của một người lạ.
Rất nhiều người nói, cô bé này thật may mắn biết bao.
Có thể quên đi những đau buồn của thế giới, quên đi hết lần chia ly này đến lần chia ly khác, quên hết những lần bị bỏ rơi này đến lần bị bỏ rơi khác giữa những năm tháng dài đằng đẵng, ở trong câu chuyện mãi luôn hạnh phúc, mãi luôn yêu thương.
Nhưng thật ra, cái chúng ta có thể làm được, không phải là nhận về, mà là cho đi.
Vâng, cuộc sống luôn có rất nhiều nuối tiếc, bạn cũng không có cách nào để buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật được. Nhưng chúng ta có thể quay lại gột rửa sạch những ác niệm bên trong chính mình, khiến trái tim ta chan chứa tình yêu và lòng biết ơn, trở thành đứa trẻ đi qua đường che ô giúp cho một người lạ, trở thành ông lão tặng bánh ngay đêm Trung Thu, trở thành Kafka dùng câu chuyện cổ tích để cứu rỗi tuổi thơ.. Dùng sự nhân từ và tình thương để chữa trị mầm bệnh nghiêm trọng nhất của nhân loại: Ích kỷ, tham lam, lạnh lùng, tàn bạo, bóc lột.. Như vậy, Kolkata mới có thể trở thành thiên đường của tình yêu, nhân gian mới có thể trở thành miền đất dịu dàng hơn.
Mẹ Teresa nói: 'Ta thấy Giê-su trong mỗi một con người.'
* * *
Năm 2006, tôi đứng tại một trạm xe lửa nào đó, gọi điện thoại cho anh ấy.
Khóc rồi lại khóc.
Tôi nói ra rất nhiều lời tàn nhẫn, cũng nói ra rất nhiều nỗi tuyệt vọng, tôi nói, không còn hi vọng về cuộc sống, tôi nghĩ tôi có thể không cần sống tiếp nữa..
Anh ấy nói, đó là chuyện của cô, tôi không ép cô đâu đấy!
Tôi đau đến xé ruột xé gan, đau ngột ngạt, vận mệnh lâm li bi đát, bế tắc không một lối thoát.
Lúc bấy giờ, trời đang mưa rất lớn, một mình tôi theo ba lô, vừa đi vừa khóc.. Tôi từng nghĩ hay là đâm đầu vào chiếc xe hơi đang chạy đến, nhưng rốt cuộc vẫn không làm, cũng từng nghĩ đến cách quyết liệt hơn, nhưng vẫn không có dũng khí, chỉ thất thểu bước đi, lẳng lặng buông tiếng thở dài.
Cách đó không xa, có một hồ nước, trong cơn mưa bão nó trở nên thật hung ác, thật hỗn loạn, một vùng nước đầy ác ý. Tôi đi qua đó, đứng bên bờ rất lâu. Khi quá đau khổ, người ta trở nên rất nặng nề, nửa bước bạn cũng khó đi được, chỉ đứng yên tại một chỗ như đang chờ tuyết tan, đợi đau buồn từ từ tan chảy vậy.
Hơn mười phút sau, một chiếc ô từ phía sau xuất hiện che trên đầu tôi.
(Nhớ lại lần nữa, mắt vẫn cay, lòng vẫn đau.)
Cúi đầu nhìn, là một bé trai, khoảng mười tuổi, gầy gò, da ngăm đen, không giống như con nhà giàu, quần áo rất bình thường. Nó giơ thẳng cánh tay, đưa dù lên thật cao, giúp tôi che chắn cơn mưa, hơn ở người của thằng bé lại lộ ra giữa màn mưa.
Điều khiến tôi đau lòng nhất là đôi mắt của nó, can đảm là thế, lại sợ hãi đến vậy - Vâng, cha mẹ thằng bé không ở bên cạnh, nó cũng không biết tôi là ai, chỉ thấy có người đang đứng trước hồ khóc, dường như có ý định kết liễu cuộc sống, thế là dè dặt đưa ô qua..
Nước mắt tôi lại bắt đầu tuôn rơi, tôi nói: 'Dì không sao, con đừng để mình bị ướt, mau trở về đi..'
Thằng bé không lên tiếng, chỉ mở lớn đôi mắt, ra sức lắc đầu, dường như cũng muốn khóc đến nơi rồi..
Một đứa trẻ, khi thấy một người lớn đau khổ bật khóc, nó sẽ không giống như chúng ta nhẹ nhàng an ủi: 'Dì ơi, dì đừng khóc, con che ô cho dì..', mà nó sẽ hít thở không thông, sẽ tay chân lóng ngóng, sẽ đứng ở nơi đó, mở to đôi mắt sợ hãi, không ngừng lắc đầu.
Tôi đoán có lẽ nào muốn nói với tôi rằng: 'Dì ơi, đừng mà!'
Hoặc: 'Con sợ lắm!'
Sau đó tôi ngồi xổm xuống, đẩy chiếc ô về trên đầu nó, không ngừng nói với nó rằng, dì gặp phải một chuyện không vui, hơi buồn, con mau trở về đi, dì không sao, con đừng để mình bị ướt.. Khuyên rất lâu thằng bé mới từ từ rời đi.
Đi được một lúc, nó lại dừng lại, quay đầu lo lắng nhìn tôi.
Lúc ấy, tôi nói với chính mình: Chết gì mà chết? Chuyện xấu đương nhiên là có, nhưng chỉ cần có những điều tốt đẹp nhỏ bé như vậy, thế giới này cũng đáng cho mình tiếp tục sống bằng mọi giá rồi!
Cho đến hôm nay, tôi vẫn sẽ bị người khác mắng chửi sỉ nhục, vẫn trải qua đổ vỡ đau thương.
Cũng từng oán, cũng từng hận, cũng từng đau.
Nhưng chỉ cần tôi nhớ đến đôi mắt ấy liền có thể xoa dịu nỗi đau, tha thứ cho những điều không hay, bỏ qua những công kích trong tối lẫn ngoài sáng, tha thứ cho những tủi nhục và đau buồn.
Lòng tốt xa lạ này thật ra vẫn còn rất nhiều.
Năm 2013, ở Đại Lý, một mình tôi thuê một căn phòng nhỏ, bắt đầu sáng tác cả ngày lẫn đêm.
Không có tiền, sợ mình chết đói nơi đất khách, nên tôi cố hết sức hạn chế các khoản chi trong cuộc sống.
Rồi tôi mua một chiếc nồi cơm điện nhỏ và vài cân gạo, chuẩn bị ít trái cây và rau muối, ngày ngày ăn cháo, ăn táo để nhét kẽ răng. Tôi ra ngoài mua hai lạng thịt heo luộc, muốn ăn kèm với cơm, nhưng không nhịn được lại ăn hết sạch trên đường đi.
Lúc đó tôi cũng không thấy cực khổ, bởi trong đầu tôi đâu đâu cũng là cuốn tiểu thuyết chưa viết xong, những suy nghĩ chưa thành văn.
Ngày tết Trung Thu, sáng đọc sách, chiều viết văn, thi thoảng lướt điện thoại một chút, thấy bánh trung thu tràn ngập màn hình, tôi mới chợt nhớ ra Trung Thu đến rồi.
Tôi kéo cửa chớp ra, ngọn núi đã nhuốm màu hoàng hôn.
Mây đen tụ lại, ở giữa là một vầng trăng tròn, giống một bức tranh tuyệt đẹp, ngay giữa tử cung của bầu trời đang mang thai vầng trăng, một sinh mệnh tròn trịa.
Tôi nghĩ trung thu thì có liên quan gì đến mình nhỉ? Viết tiếp thôi..
Lúc này, có người gõ cửa.
Tôi mở cửa ra xem, thì ra là bác chủ nhà đến tặng tôi hai cái bánh trung thu nhà họ tự làm, vẫn còn nóng, to cỡ một chiếc đĩa, nhân ngũ cốc và đậu.
Bác đã nói những gì tôi không nhớ rõ nữa, chỉ nhớ đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn bánh trung thu nóng.
Hương thơm và độ ấm đó đi từ răng, đến lưỡi, truyền thẳng vào tim, đến tận bây giờ vẫn chưa từng nguội lạnh trong tôi.
Còn có một lần, tôi đ, ón taxi ở một thành phố xa lạ để đi thăm một người ngồi trên xe trò chuyện với bác tài về người ấy. Khi xuống xe bác tài nói: 'Tôi cũng từng có một cô bạn gái giống như cô vậy, nhưng tôi đã đánh mất cô ấy rồi..'Anh ấy không lấy tiền xe của tôi, để lại số điện thoại, bảo rằng khi nào cần giúp đỡ thì có thể tìm anh ấy.
Trên đường đi, tôi quen được một người, biết tôi muốn đến Đôn Hoàng, anh ta nói, giúp tôi xem qua nhà cũ của Thường Thư Hồng nhé.
Tôi nói được.
Chuyến đi lần ấy, chỉ có đích đến là Hang Mạc Cao, nhà cũng không nằm trong lịch trình, nhưng tôi vẫn dành ra chút thời gian, tự đi đến đó một chuyến, từ trong ra ngoài, ngay cả cây bạch dương bên ngoài tường nhà và người gác cửa già nua cũng chụp hết lại rồi gửi cho anh ta: Tôi đã đến xem giúp anh rồi, nó còn tốt lắm, đừng lo!
Những điều tốt đẹp này không liên quan đến tiền bạc hay giới tính, chỉ là hai trái tim đối xử dịu dàng với nhau không mang theo mục đích gì.
Hôm qua, tôi vừa đọc xong 'Những chuyện nực cười ở Brooklyn' của Paul Auster, lại bị cảm động bởi một vài chi tiết nhỏ.
Tuy cuốn sách này khá là bình thường, có cuộc sống phức tạp, có cuộc tình sai trái, dễ khiến người ta cảm thấy không thích, nhưng trong cuốn sách cũng có tình cảm mềm mại ấm áp.
Chẳng hạn như, tác giả có nhắc đến một giai thoại về Kafka.
Đó là năm cuối cùng của cuộc đời Kafka, ông và Dora vừa chuyển đến Berlin.
Họ sẽ ra ngoài vào buổi chiều hàng ngày, đến công viên tản bộ.
Có một hôm, họ gặp một bé gái đang đứng khóc ven đường. Kafka hỏi cô bé làm sao vậy, cô bé nói búp bê không thấy đâu nữa. Ông đã bịa ra một câu chuyện:
"Búp bê của cháu đi du lịch rồi!" Kafka nói.
"Sao chú biết ạ?" Cô bé hỏi.
"Vì nó đã viết thư cho chú."
Cô bé không tin lắm.
"Chú có đem theo thư không?" Cô bé hỏi.
"Không có, xin lỗi cháu." Ông nói, 'Chú để lá thư ở nhà rồi, là chú không đúng, nhưng ngày mai chú sẽ đem đến.'
Đêm hôm đó, Kafka đi thẳng về nhà viết thư. Ô, ng nghiêm túc đến mức gần như căng thẳng không khác gì lúc sáng tác bình thường. Ông không phải đang lừa gạt một cô bé. Đây là một tác phẩm văn học thật sự, ông muốn viết ra một câu chuyện thật đẹp để bù đắp cho sự mất mát của cô bé.
Hôm sau, Kafka đem lá thư đến công viên.
Cô bé đang đợi ông.
Vì cô bé còn chưa biết chữ, nên ông đọc lớn cho cô bé nghe.
Trong thư nói, búp bê rất xin lỗi, vì tất cả thời gian đều chung sống cùng một người, nó cảm thấy mệt mỏi, nó muốn ra ngoài ngắm nhìn thế giới, kết giao thêm bạn mới. Không phải nó không yêu cô bé nữa, chỉ là muốn được thay đổi môi trường một chút, nên phải chia xa một thời gian.
Sau đó, búp bê hứa mỗi ngày sẽ viết cho cô bé một lá thư, kể cho cô bé những gì mình làm.
Từ đó, Kafka thân mang trọng bệnh mỗi ngày đều viết một lá thư - chẳng vì gì khác, chỉ vì muốn an ủi một cô bé, hai người vốn không biết nhau, chỉ vô tình gặp nhau trong một buổi chiều tại công viên. Ông viết liên tục ba tuần lễ liền.
Ba tuần lễ.
Ông là một trong những tác giả xuất sắc nhất, không bao giờ lãng phí thời gian trong cuộc sống - với ông mà nói, thời gian đã ngày càng ít đi, vì thế càng thêm đáng quý - vậy mà ông lại bỏ ra hàng tuần vì con búp bê bị mất của một cô bé.
Mỗi một câu viết ra ông đều suy nghĩ rất kĩ, lời văn mạch lạc, thú vị, thu hút người đọc.
Dần dà, từ trong thư cô bé biết được, búp bê đã lớn, đã đi học, đã quen với người khác. Nó vẫn yêu cô bé, nhưng cũng ám chỉ cuộc sống có nhiều nhân tố phức tạp khiến nó không thể trở về được.
Cứ thế, Kafka đã để cô bé chuẩn bị dần tâm lý từng chút một, để biết rằng búp bê không bao giờ quay về nữa.
Cuối cùng, Kafka nói với cô bé, búp bê hết yêu rồi.
Ông miêu tả chàng thanh niên mà búp bê đem lòng yêu, nó đã đính hôn, hôn lễ được cử hành tại một vùng quê, ngôi nhà mới của vợ chồng búp bê rất đẹp, sinh một đứa con, trông rất giống nó..
Dòng cuối cùng, búp bê đã nói lời từ biệt với người bạn cũ mà nó yêu mến:
"Tạm biệt bạn của tôi, xin hãy sống thật hạnh phúc, giống như chúng tôi vậy!"
Từ đó, cô bé không còn lo lắng nữa. Nhưng khi cô bé nhớ đến búp bê, trong lòng sẽ thấy ngọt ngào và vui vẻ chứ không phải sợ hãi và bi thương.
Kafka dùng thiện ý, tài hoa, trí tưởng tượng để tạo ra một câu chuyện cổ tích, sưởi ấm tuổi thơ, thậm chí là cả cuộc đời của một người lạ.
Rất nhiều người nói, cô bé này thật may mắn biết bao.
Có thể quên đi những đau buồn của thế giới, quên đi hết lần chia ly này đến lần chia ly khác, quên hết những lần bị bỏ rơi này đến lần bị bỏ rơi khác giữa những năm tháng dài đằng đẵng, ở trong câu chuyện mãi luôn hạnh phúc, mãi luôn yêu thương.
Nhưng thật ra, cái chúng ta có thể làm được, không phải là nhận về, mà là cho đi.
Vâng, cuộc sống luôn có rất nhiều nuối tiếc, bạn cũng không có cách nào để buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật được. Nhưng chúng ta có thể quay lại gột rửa sạch những ác niệm bên trong chính mình, khiến trái tim ta chan chứa tình yêu và lòng biết ơn, trở thành đứa trẻ đi qua đường che ô giúp cho một người lạ, trở thành ông lão tặng bánh ngay đêm Trung Thu, trở thành Kafka dùng câu chuyện cổ tích để cứu rỗi tuổi thơ.. Dùng sự nhân từ và tình thương để chữa trị mầm bệnh nghiêm trọng nhất của nhân loại: Ích kỷ, tham lam, lạnh lùng, tàn bạo, bóc lột.. Như vậy, Kolkata mới có thể trở thành thiên đường của tình yêu, nhân gian mới có thể trở thành miền đất dịu dàng hơn.
Mẹ Teresa nói: 'Ta thấy Giê-su trong mỗi một con người.'