

Đề tài: Tìm hiểu mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay
Học phần: Tổ chức bộ máy nhà nước
Trường: Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu Quảng Nam
MỞ ĐẦU
Học phần: Tổ chức bộ máy nhà nước
Trường: Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu Quảng Nam
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước ở địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thuật ngữ "Chính quyền địa phương" thường được hiểu là những đơn vị của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian thấp và thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa phương đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập với cơ cấu tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không cần sự phân cấp thấm quyền từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước có cơ cấu nhà nước đơn nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của mình theo nguyên tắc quyền lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền Trung ương trực tiếp ủy nhiệm, và cấp trung ương có thế bãi bỏ việc ủy nhiệm đó. Tại một số nước thuộc hệ thống đơn nhất khác, chính quyền địa phương hoạt động theo nguyên tắc thẩm quyền chung, và trên nguyên tắc được phép thực thi những thẩm quyền không thuộc chính quyền Trung ương.
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật nhằm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và kết hợp hài hòa giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Với nội dung tiểu luận "Tìm hiểu mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay", tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn về mô
Hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo xu hướng chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
"Tìm hiểu mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay" là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý. Những vấn đề này được nêu nên và thảo luận ở nhiều hội thảo, bài viết, các công trình nghiên cứu về quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam.
- "Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay" (Hà Nội năm 2016 của Trần Công Dũng).
- Một số đề tài khoa học khác tiếp cận vấn đề xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương dưới góc độ đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước hoặc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta như: "Nghiên cứu các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta hiện nay" do TS. Nguyễn Ngọc Hiến chủ nhiệm; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ và một số đề tài khoa học cấp Bộ khác..
- Về sách chuyên khảo, có các công trình đáng chú ý như: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay" do PGS, TS Lê Minh Thông và PGS. TS. Nguyễn Như Phát chủ biên; "Đổi mới nội dung và hoạt động các cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế" của các tác giả Nguyễn Kỷ, TS. Nguyễn Hữu Đức và ThS, Đinh Xuân Hà; "Chính quyền địa phương với việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật" của PGS. TS Trương Đắc Linh; "Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay" của PGS. TS Bùi Xuân Đức; "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương (lịch sử và hiện tại)" của PGS. TS Nguyễn Đăng Dung: "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta" của PGS. TS Bùi Tiến Quý và Dương Danh My..
Nhìn chung, các đề tài, công trình, bài viết nêu trên đã phân tích khá toàn diện cơ sở lý luận - thực tiễn cũng như bước đầu đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và của chính quyền địa phương ở nước ta nói riêng. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề này, hiện vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau cả về phương diện nhận thức cũng như tổ chức thực hiện; quan hệ giữa mô hình đối mới của chính quyền địa phương với các tổ chức trong hệ thống chính trị đang hoạt động ở đơn vị hành chính - lãnh thổ chưa được làm rõ; lộ trình cải cách và điều kiện thực hiện còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều phương án cải cách mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được nêu ra nhưng thực sự vẫn chưa đủ cơ sở thuyết phục, do đó chưa áp dụng được vào thực tiễn. Vì vậy, trên thực tế, vấn đề xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương vẫn đang rất được quan tâm của các nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý cũng như người dân. Vì rằng đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền địa phương mà còn góp phần giải quyết căn bản mối quan hệ căn bản giữa chính quyền nhà nước với nhân dân, tạo ra động lực quan trọng cho quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian tới.
Kế thừa và hệ thống hóa kết quả nghiên cứu từ các nhà khoa học, tiểu luận này tập trung phân tích mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận chứng cơ sở lý luận của việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương ở nước ta.
Tìm hiểu và khái quát mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam.
Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam, phân tích rõ những ưu thế và hạn chế, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm.
Đề xuất các phương hướng đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là thông qua việc phân tích cơ sở lý luận - thực tiễn và xác định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương nước ta hiện nay để từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương nước ta từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến nay.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, so sánh, tiếp cận hệ thống; kết hợp các phương pháp: Lịch sử, xã hội học..
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã kế thừa một số kết quả nghiên cứu có liên quan, các đánh giá, nhận định trong các báo cáo tổng kết của các
Công trình nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta.
7. Bố cục của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương ở nước ta.
Chương 2: Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở NƯỚC TA
1. Khái niệm chính quyền địa phương và các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam
1.1 Khái niệm chung chính quyền địa phương
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phái sinh từ khái niệm hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng khá phố biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm được sử dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống thực tế xã hội, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối quan hệ và cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ góc độ nghiên cứu lý luận, tò góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào 3 quan niệm như sau:
A) Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
Quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đóng trên địa bàn địa phương.
B) Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân).
C) Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng với 4
Phân hệ cơ quan nhà nước tối cao ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án
Nhân dân tối cao, Viện Kiếm sát nhân dân tối cao) là cơ quan quyền lực nhà
Nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân các cấp) và cơ quan kiểm sát (Viện kiếm sát nhân dân các cấp).
1.2 Khái niệm chính quyền địa phương trong các văn kiện, văn bản pháp luật:
Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm chính quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) ngày 18 tháng 6 năm 1997 tại phần III, mục 4 về tiếp tục cải cách hành chính nhà nước đối với chính quyền địa phương chỉ đề cập tới việc kiện toàn củng cố Hội đồng nhân dân và Ưỷ ban nhân dân các cấp và hướng cải cách tố chức và hoạt động của hai cơ quan này mà không đề cập tới các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định và căn cứ Luật Tố chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở ba cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) ;
- Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) ;
- Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Ngoài ra, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo
Tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
1.3 Các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam
1.3. 1 Cấp xã
Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, phường.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có từ 04 đến 05 thành viên, gồm Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch, 01 Ủy viên quân sự và 01 Ủy viên công an. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân do do Hội đồng nhân dân của xã, thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn hay phường sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó.
Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp xã có các công chức:
- Tư pháp;
- Hộ tịch;
- Địa chính
- Xây dựng;
- Tài chính – Kế toán..
1.3. 2 Cấp huyện
Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 09 đến 13 thành viên, gồm Chủ tịch, 02-03 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, trên danh nghĩa là do Hội đồng nhân dân huyện bầu ra. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy.
Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông
Thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng UBND, Phòng Tài chính –
Kế hoạch, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên – Môi trường, Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Văn hóa – Thông tin, Phòng Y tế, Thanh tra huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Văn hóa – thông tin.. Một số cơ quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi cục Thống kê, Huyện đội, Công an huyện, v. V không phải là cơ quan của chính quyền địa phương cấp huyện mà là cơ quan của chính quyền Trung ương đặt tại huyện (đóng trên địa bàn huyện).
1.3. 3 Cấp tỉnh
Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban nhân dân có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực ủy ban Nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch úy ban Nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình thức bỏ phiếu. Giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là các Sở, ngành tỉnh.
2. Vai trò và mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam
2.1 Vai trò của chính quyền địa phương
Trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu được quan tâm theo hệ thống dọc từ trung ương đến cơ sở. Nói đến cơ cấu của bộ máy nhà nước là nói đến các hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương như:
- Hệ thống cơ quan đại diện, hệ thống cơ quan hành chính;
- Hệ thống Tòa án nhân dân, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân.
Khi đó, chính quyền địa phương với tính chất là một chỉnh thể thống nhất ít được đề cập. Đến thời kỳ đổi mới, các hệ thống dọc này, nhất là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan đại diện đứng trước nhiều thách thức mới. Đó là sự phát triển năng động của khu vực thị trường, tính đa dạng của lợi ích, trình độ dân trí, dân chủ được nâng lên.. Xã hội đòi hỏi một bộ máy nhà nước trách nhiệm, minh bạch, thích ứng, linh hoạt, hiệu lực, hiệu quả. Từ đó, chủ trương phân cấp đã ra đời, nhằm khắc phục tính quan liêu, cồng kềnh của bộ máy nhà nước. Mối quan tâm đến quan hệ chiều ngang giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp với tính chất là những bộ phận không thể thiếu của một cấp chính quyền dần được đề cao.
Luật Chính quyền địa phương năm 2015 ra đời là một minh chứng rõ nét cho những thay đổi trong nhận thức về vị trí, vai trò của chính quyền địa phương. Cùng với quá trình phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, chính quyền địa phương đang ngày càng khẳng định mạnh mẽ hơn vị trí, vai trò và tính độc lập tương đối của mình. Sự ra đời của các chỉ số về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI; chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI; chỉ số cải cách hành chính PAR INDEX.. là những minh chứng quan trọng cho quá trình này.
Đồng thời, các chỉ số này cũng là những tác nhân quan trọng cho những nỗ lực nâng cao năng lực tự chủ củachính quyền địa phương trong quá trình đổi mới. Có địa phương đã khẳng khái: "Chúng tôi cần cơ chế riêng chứ không xin" miếng bánh "to hơn" và việc chính quyền trung ương đồng ý thí điểm cơ chế đặc thù ở một số địa phương cho thấy việc bảo đảm sự độc lập tương đối cho chính quyền địa phương đã trở thành nhu cầu rất bức thiết và khách quan cho sự phát triển. Tuy nhiên, là một bộ phận hợp thành của hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương phải được đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền trung ương.
Như vậy, với thay đổi trong nhận thức về vị trí, vai trò của chính quyền địa phương hiện nay, có thể hiểu chính quyền địa phương là một bộ phận của bộ máy nhà nước, có tính độc lập tương đối trong quan hệ với chính quyền trung ương, được tổ chức để thực thi những chức năng, nhiệm vụ nhất định của quản lý nhà nước trên một đơn vị hành chính lãnh thổ, bằng những nguồn lực được phân cấp hay chuyển giao theo quy định của pháp luật.
2.2 Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương luôn gắn liền với vấn đề phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ của quốc gia. Tất nhiên việc phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ phụ thuộc trước hết vào hình thức cấu trúc của Nhà nước, Việc phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ (các cấp hành chính lãnh thổ; quy mô các đơn vị hành chính lãnh thổ) một cách hợp lý, khoa học là cơ sở cơ bản quyết định tính hợp lý và hiệu quả của mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Vấn đề xây dựng chính quyền mấy cấp, quy mô phạm vi của các đơn vị hành chính lãnh thổ được xác định như thế nào phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Kết cấu cộng đồng dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ truyền thông; đặc điểm của yếu tố địa lý – văn hóa; đặc điểm địa – kinh tế của từng khu vực quy định khả năng, định hướng phát triển kinh tế; các yêu cầu về an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của đất nước cũng như của mỗi địa bàn; thể chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Do vậy, không thể có một mô hình tổ chức thống nhất đối với chính quyền địa phương cho mọi quốc gia. Mỗi một nhà nước tùy thuộc vào các điều kiện, đặc điểm lịch sử về địa chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống và bản chất chính trị của chế độ xã hội mà xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp.
Trên thế giới có nhiều cách tổ chức chính quyền địa phương với nhiều tên gọi khác nhau. Ngay trong một nước cũng có nhiều mô hình tổ chức cơ quan quản lý khác nhau ở đơn vị hành chính khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản có những mô hình sau đây:
- Cơ quan chính quyền địa phương là một bộ máy hành chính đứng đầu là tỉnh trưởng, thị trường, quận trường, xã trưởng được bổ nhiệm tin trên. Toàn bộ quyền hạn trong tay người đứng đầu, họ có toàn quyền thực hiện mọi công việc quản lý hành chính nhà nước ở địa phương theo quy định của pháp luật. Mô hình này tồn tại phổ biến ở thời kỳ phong kiến trước đây và hiện nay
Một số đơn vị hành chính "trung gian" ở một số nước Bắc Âu, châu Mỹ và châu Á.
- Chính quyền địa phương là cơ quan hành chính cho cấp trên bổ nhiệm, hoặc được bầu ra kết hợp với một hội đồng tự quản do dân cư bầu ra. Ở đây, vai trò chủ đạo thuộc về cơ quan hành chính, còn hội đồng tự quản chỉ đóng vai trò tư vấn, nằm dưới sự giám hộ của cơ quan hành chính và chỉ được
Bàn định những vấn đề thuần túy địa phương không được tham gia vào những vấn đề quốc gia trừ các vấn đề có tính chất chính trị. Hình thức quản lý này phổ biến ở các đơn vị hành chính "trung gian" các nước châu Âu lục địa (ví dụ như ở Pháp trước cải cách hành chính 1982).
- Mô hình quản lý địa phương bởi một ủy ban hành chính do dân cư hay các hội đồng tự quản bầu ra. Ủy ban cũng có người đứng đầu song hoạt động chủ yếu mang tính tập thể. Ủy ban quyết định tập thể các vấn đề quản lý địa phương, các thành viên phân công phụ trách từng mảng công việc. Hình thức này phổ biến ở đơn vị hành chính cấp huyện, quận ở Anh, Mỹ, Bắc Âu.
- Mô hình chính quyền địa phương là một hội đồng tự quản do dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và hội đồng là cơ quan có toàn quyền quyết định và thực hiện các vấn đề ở địa phương theo pháp luật. Hội đồng có cơ quan chấp hành của mình dưới dạng ủy ban chấp hành hoặc cá nhân như tỉnh trường, thị trường, chủ tịch, Bộ máy chính quyền này thường được coi là "phi nhà nước", nằm ngoài bộ máy nhà nước. Mô hình này phổ biến ở các đơn vị hành chính kiểu "tự quản".
- Mô hình chính quyền địa phương là một cơ quan đại diện (Xô viết, Hội đồng) do nhân dân địa phương bầu ra, vừa đại diện cho nhân dân địa phương vừa đại diện cho cơ quan nhà nước cấp trên. Đây là những cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Cơ quan này đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức quyền lực (quản lý) trên địa bàn lãnh thổ. Một cơ quan chấp hành được cơ quan này lập ra để tổ chức thực hiện các nghị quyết của cơ quan quyền lực và chính sách, pháp luật của nhà nước nói chung. Đây là cơ quan chấp hành và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Mô hình này là mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta.
Các hình thức tổ chức cơ quan quản lý địa phương trên đây mặc dù có tên gọi khác nhau, cơ cấu và địa vị pháp lý của mỗi bộ phận không giống nhau nhưng nhìn chung đều mang một tính chất là cơ quan chính quyền địa phương, được lập ra để thực hiện các chức năng quản lý địa phương, thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Hay nói cách khác chúng được lập ra để thi hành pháp luật của nhà nước trong việc quyết định những việc được giao ở địa phương.
Về hình thức tổ chức lãnh thổ nhà nước, Việt Nam là một quốc gia đơn nhất. Do vậy mô hình tổ chức chính quyền địa phương được xác định phù
Hợp với cơ chế tổ chức quyền lực theo các đơn vị hành chính lãnh thổ. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước về phương diện cấu trúc hành chính lãnh thổ đòi hỏi bộ máy nhà nước phải luôn được tổ chức theo một hệ thống thống nhất, đảm bảo tính liên thông của quyền lực từ trung ương xuống địa phương. Trong quan hệ quyền lực theo chiều dọc, tức là theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, quyền lực nhà nước phải được xác định theo từng cấp đơn vị hành chính lãnh thổ theo các mục tiêu, mức độ phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp hành chính – lãnh thổ khác nhau trong một quốc gia.
Mặt khác, yêu cầu của tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền, quyền lực không chỉ thống nhất mà còn phải đảm bảo các yêu cầu của một nền dân chủ, Điều này có nghĩa là trong mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền được tổ chức theo các đơn vị hành chính lãnh thổ vừa phải tuân thủ yêu cầu cấp dưới phụ thuộc cấp trên, chịu trách nhiệm trước cấp trên, vừa phải đảm bảo tính độc lập, tự chủ của mỗi một cơ cấu chính quyền trong mỗi cấp hành chính – lãnh thổ. Có như vậy mới đảm bảo được yêu cầu quyền lực nhà nước thống nhất, vừa được thực hiện tập trung, vừa được thực hiện dân chủ theo đúng tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khi nghiên cứu mô hình chính quyền địa phương không thể không nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền địa phương thông qua hai mối quan hệ: Một là, quan hệ dọc: Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với các tổ chức đảng và chính quyền địa phương, của tổ chức đảng cấp trên đối với tổ chức đảng, chính quyền cấp dưới; hai là, quan hệ ngang sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng đối với chính quyền cung cấp. Sự lãnh đạo đó được thể hiện cụ thể bằng việc ra nghị quyết về những vấn đề cơ bản, quan trọng trong xây dựng chính quyền địa phương cử đảng viên của Đảng tham gia bộ máy chính quyền, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, bộ máy chính quyền các cấp..
CHƯƠNG 2:
ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1. Những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương Việt Nam
1.1 Những ưu điểm
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy theo hướng
Tinh, gọn. Số lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, lề lối làm việc được quy định cụ thể hơn, đã có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng hơn. Chức năng, nhiệm vụ các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc phục cơ bản sự trùng lắp, dẫm đạp; các bộ được tồ chức theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã hoạt động ồn định, cơ chế phối hợp tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên, phân biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt động các đơn vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một
Bước về trình độ lý luận chính trị, học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Đa số cán bộ công chức giữ gìn phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống, thích ứng dần với cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
Nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân và
Vì dân.
1.2 Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương Việt Nam
Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật pháp chưa phân định thật rõ chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, chưa phản ánh hết đặc điểm của chính quyền đô thị, nhất là các đô thị lớn, kinh tế - văn hóa – xã hội phát triển nhanh.
Việc xác định chức năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu của các bộ, các địa phương còn nhận thức khác nhau, có nhiều sơ hở, hiệu quả thấp. Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, biên chế một số bộ máy vẫn có xu hướng tăng lên nhưng chất lượng cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Việc đào tạo theo chức danh cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế; cơ cấu và chất lượng cán bộ, công chức còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.
Thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, đẩy mạnh phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương, các văn bản pháp luật liên quan đến chính quyền địa phương được ban hành những năm vừa qua đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chính quyền địa phương ở mỗi cấp. Những giải pháp cụ thể của Luật như tăng cường cơ cấu tổ chức củaHĐND hay giảm số thành viên của UBND cấp xã, tăng cường chức năng giám sát của HĐND hay tăng cường nguyên tắc tập thể trong hoạt động của UBND "không đủ tầm để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương". Vì thực tế, HĐND hoặc không sử dụng hết quyền năng của mình, các kỳ họp chính thức, hiệu quả giám sát, thảo luận không cao hoặc có xu hướng "vượt rào" muốn giao nhiều thẩm quyền hơn song lại không thực sự kiểm soát được UBND một cách chặt chẽ.
Nhìn tổng thể, cho đến nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình chính quyền địa phương là "cánh tay nối dài" của nhà nước trung ương. Mô hình này bảo đảm được tính thống nhất cao độ nhưng không thực sự phát huy được tính sáng tạo, chủ động của địa phương.
2. Những yêu cầu hiện nay về tổ chức chính quyền địa phương
2.1 Tổ chức chính quyền địa phương phải đáp ứng nhu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương
Chính quyền địa phương có số lượng cán bộ, công chức, viên chức đông nhất và được xem là ít quan liêu nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Nếu chính quyền địa phương làm việc có hiệu quả thì đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống, trở thành hoạt động thực tế của nhân dân, tạo ra sự phấn khởi, sự tin tưởng của nhân dân vào sự sáng suốt, đúng đắn trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời tạo ra sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ngược lại, nếu chính quyền địa phương không giải quyết một cách thấu đáo những thắc mắc, vướng mắc của nhân dân, các cán bộ địa phương làm việc không tốt có thể sẽ làm bùng phát nhiều phản ứng tiêu cực của nhân dân đối với chính quyền nhà nước, với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.2 Tổ chức chính quyền địa phương phải bảo đảm tính đặc thù của mỗi địa phương
Chúng ta đều biết, do những đặc điểm về địa lý, dân cư, điều kiện (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo) mà mỗi địa phương có những nhu cầu và sự phát triển khác nhau, cho nên cần có sự tổ chức quản lý khác nhau, điều đó đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước ở mỗi nơi cũng cần có những đặc thù nhất định. Nghĩa là, chính quyền địa phương ở đô thị phải được tổ chức khác với chính quyền địa phương ở nông thôn, ở vùng đồng bằng phải được tổ chức khác với ở vùng núi, hải đảo..
2.3 Nâng cao tiêu chuẩn và năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức địa phương
Trình độ dân trí của nhân dân ta đã được nâng cao, tính chất của quản lý nhà nước ngày càng phức tạp, đòi hỏi việc quản lý nhà nước cần phải khoa học hơn nên cán bộ chính quyền địa phương, kể cả cấp xã, cần phải có trình độ, phải được đào tạo về học vấn, chuyên môn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu. Nhà nước nên có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với cán bộ mỗi cấp. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương, nhất là của cấp xã để khi phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương thì đội ngũ cán bộ, công chức này đủ khả năng, năng lực để hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn được trao. Muốn cho số sinh viên tốt nghiệp đại học đến làm việc ở các cơ quan chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp xã, thì Nhà nước cần phải có chế độ đãi ngộ phù hợp, bên cạnh yêu cầu nâng cao về trách nhiệm của cán bộ địa phương.
KẾT LUẬN
Đề tài: "Tìm hiểu mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay" nghiên cứu, đề xuất các nguyên tắc và phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Từ những kết quả nghiên cứu như đã trình bày, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Một là, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay là một yêu cầu khách quan và cấp bách; bởi lẽ mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta theo như Luật Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 đã không còn tương thích các điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập kinh tế quốc tế; không tương thích với những đổi mới của các cơ quan nhà nước ở Trung ương, nhất là sự đổi mới trong việc lãnh đạo và điều hành của Chính phủ, cũng như các yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và việc đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đoạn cách mạng mới.
Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta phải đáp ứng các yêu cầu: Quyền lực nhà nước phải được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ cả ở trung ương và địa phương; đảm bảo sự thống nhất không chỉ không gian chính trị mà còn phải thống nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý; phân định rõ vai trò, trách nhiệm
Của các cơ cấu chính quyền, thẩm quyền, của người đứng đầu trong việc quản lý và điều hành đất nước; đề cao vai trò tự quản, vai trò kiểm tra, giám sát của cơ quan đại biểu của nhân dân.
Ba là,
[HIDETHANKS=1]Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải được coi là nhiệm vụ cấp bách trong chiến lược cải cách tổ chức bộ máy Nhà Nước. Với yêu cầu phải phát huy vai trò tự chủ của chính quyền địa phương; phân định rành mạch và kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức, cán bộ của mỗi cấp chính quyền phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, với đặc thù của mỗi loại hình địa phương; đề cao vai trò quyết định và giám sát của Hội đồng nhân dân, thực hiện chế độ thủ trưởng hành chính ở các cấp chính quyền; đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp, triển khai thí điểm mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương từ đó tổng kết, rút kinh nghiệm, trước mắt cần kịp thời chỉ đạo thí điểm mô hình chính quyền đô thị của Thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng và tăng cường chính quyền xã theo hướng xây dựng mô hình chính quyền cơ sở ở nông thôn theo chế độ tự quản; đảm bảo sự đồng bộ và phù hợp giữa cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và sự đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương.[/HIDETHANKS]
Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cần quán triệt và thực hiện tốt một số phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu đó là phải xây dựng khung pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương; phải phân cấp mạnh hơn nữa trên cơ sở xác định và phân công thẩm quyền,
Trách nhiệm giữa trung ương và địa phương; cần có quyết định đột phá trong việc đổi mới mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương cùng với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và chính quyền địa phương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Chính phủ (2006), Báo cáo số 116-BC/CP ngày 15/12 về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp từ 2004 - 2006, Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Dung (2003), "Bản về cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương", Nghiên cứu lập pháp .
4. Hiến pháp năm 2013;
5. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
6. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương - sự phát triển qua bốn bản
Hiến pháp và vấn đề đổi mới, PGS. TS. Trương Đắc Linh - Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Last edited by a moderator: