Học phần: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam Đề tài: Tìm hiểu những giá trị cơ bản của Bộ Quốc triều hình luật Trường: Đại học Nội vụ Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã được những thành tựu rất quan trọng, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Sự nghiệp cách mạng to lớn này yêu cầu phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực hiện thành công việc xây dựng NNPQXHCN Việt Nam. Để góp phần giải quyết nhiệm vụ trên, cần phải nghiên cứu toàn diện truyền thống lịch sử, trong đó có truyền thống pháp lý của dân tộc, đặc biệt là những quan điểm và kinh nghiệm thực tiễn trong lập pháp của cha ông ta để rút ra những bài học bổ ích cho đời sống xã hội ngày hôm nay của đất nước. Trong số các truyền thống pháp lý của dân tộc cần nghiên cứu thì việc nghiên cứu Quốc triều Hình Luật là một trọng tâm vì nó chứa đựng những giá trị văn minh của đất nước và con người Việt Nam và nó"không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, mà còn đối với cả BL được biên soạn vào đầu thế kỷ XIX: Hoàng Việt luật lệ..". Kết quả nghiên cứu các giá trị của Quốc triều Hình Luật sẽ đóng góp vào việc kế thừa và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các truyền thống pháp luật ở nước ta hiện nay. Đây còn là việc làm thiết thực thể hiện quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X"tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Vì những lí do trên đây, tôi lựa chọn vấn đề "Tìm hiểu những giá trị cơ bản của bộ Quốc triều Hình Luật" làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam của mình. Trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu này là cần thiết và có thể thực hiện được. 2. Lịch sử nghiên cứu Quốc triều Hình Luật đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu. Có thể chỉ ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Trước hết là công trình "Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp quyền Việt Nam" của tác giả Đinh Gia Trinh, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1968. Tại chương II, phần II, tác giả đã đề cập đến hoạt động lập pháp của nhà Lê Sơ, trong đó có QTHL. Thông qua việc đánh giá toàn diện về lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam thế kỷ XV, công trình nghiên cứu này đã phân tích và làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản và tiến bộ của BLHĐ; cuốn "Cổ luật Việt Nam lược khảo" nhà xuất bản Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn 1969 và "Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử" nhà xuất bản Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn 1973 trình bày một cách hệ thống và chi tiết về nền cổ luật Việt Nam trong đó dành một dung lượng lớn đề cập những nội dung cơ bản của QTHL. Từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX đến nay, cùng với quá trình đổi mới tư duy của Đảng, nghiên cứu khoa học xã hội nước ta cũng có những đổi mới đáng kể trong việc thẩm định, đánh giá lại những giá trị văn hóa cũ, trong đó có việc đi sâu nghiên cứu QTHL. Đi đầu trong công việc nghiên cứu QTHL nói riêng và xã hội Việt Nam thế kỷ XV nói chung là công trình "Hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII" do Viện Nhà nước và pháp luật chủ trì nghiên cứu. Công trình đã tái hiện chân thực những văn bản pháp luật nhà nước phong kiến triều Lê ở giai đoạn này qua sự sưu tầm, biên dịch của nhiều nhà khoa học. Đồng thời công trình nghiên cứu này cũng đã bước đầu làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến quá trình pháp điển hóa pháp luật phong kiến Việt Nam, trong đó có nhiều nội dung đề cập trực tiếp đến QTHL. Năm 1997, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội đã xuất bản cuốn "Lê Thánh Tông còn người và sự nghiệp". Cuốn sách này là sự tập hợp các báo cáo khoa học đã được trình bày tại cuộc Hội thảo quốc gia nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của vua Lê Thánh Tông - ông vua sáng nhất trong thể chế quân chủ phong kiến Việt Nam. Rất nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông đã được bàn thảo. Trong số những vấn đề đó, QTHL - sản phẩm lập pháp chủ yếu của Lê Thánh Tông tất yếu đã được đề cập ở mức độ nhất định. Năm 2004, công trình chuyên khảo "QTHL, lịch sử hình thành, nội dung và giá trị" do Tiến sĩ Lê Thị Sơn chủ trì thực hiện đã được công bố. Đây là chuyên khảo với 16 bài nghiên cứu của nhiều tác giả bàn về nội dung và hình thức của QTHL. Đặc biệt công trình đã tập trung phân tích sâu những giá trị lịch sử của BLHĐ. Gần đây nhất, một cuộc Hội thảo quốc gia do Bộ Tư pháp chủ trì đã được tiến hành với chủ đề: "QTHL - những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng NNPQ ở Việt Nam". Chủ đề hội thảo đã trực diện nghiên cứu về vấn đề mà đề tài luận văn quan tâm. Vì vậy kết quả hội thảo đã cung cấp rất nhiều chất liệu quan trọng cho việc thực hiện đề tài tiểu luận này. Tình hình nghiên cứu nói trên cho thấy QTHL đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ và với nhiều mức độ khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề liên quan đến nội dung và kỹ thuật lập pháp của BL. Đây là một thuận lợi lớn cho việc tiếp cận nghiên cứu đề tài luận văn này. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chưa dành sự chú ý thích đáng tới việc nghiên cứu nhận diện GTĐĐ của QTHL, cũng như chưa phân tích lập luận đầy đủ về căn cứ khoa học cho việc đánh giá và tiếp thu các giá trị đó trong hoạt động lập pháp đáp ứng các yêu cầu xây dựng NNPQXHCN và phát triển kinh tế xã hội trên nền tảng truyền thống ở nước ta hiện nay. Thực tế đó đã mở ra hướng nghiên cứu và nhiệm vụ của tiểu luận này. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ bối cảnh xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa tư tưởng) có ảnh hưởng trực tiếp tới tư duy làm luật của các nhà lập pháp thời Lê sơ dẫn đến sự ra đời của bộ QTHL. - Phân tích một số chế định cơ bản thể hiện các giá trị nhân văn, tiến bộ của bộ luật. - Phân tích nhu cầu và khả năng tiếp tục kế thừa các giá trị nhân văn, tiến bộ của QTHL trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. - Đề xuất phương án chọn lọc, tiếp thu, vận dụng những giá trị tiến bộ trong QTHL vào quá trình xây dựng NN và PL ở nước ta hiện nay. 4. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu phát hiện những yếu tố tích cực mang tính đương đại của QTHL, đề xuất những giải pháp tiếp thu những giá trị đương đại đó đáp ứng yêu cầu của hoạt động lập pháp và xây dựng NNPQXHCN ở nước ta hiện nay. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là bộ QTHL, trong đó đặc biệt nghiên cứu là những nội dung tiến bộ, giá trị lịch sử và đương đại của QTHL. 5.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là những quy phạm pháp luật của QTHL, những nhân tố tác động đến quan điểm, tư tưởng của nhà lập pháp thời Lê sơ cũng như những yêu cầu của công cuộc đổi mới và xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài là các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý và lịch sử, tiến hành nghiên cứu sử liệu, các thư tịch, kết hợp nghiên cứu thông sử với lịch sử nhà nước và pháp luật. Ngoài ra còn có các phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp, logic, liên ngành khoa học xã hội. V, v. - Hệ thống phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, nhất là phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng chủ yếu vì đây là phần nghiên cứu về lịch sử tư tưởng nhân văn, tiến bộ trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Các phương pháp lịch sử khác như tiến hành nghiên cứu sử liệu, các thư tịch của lịch sử nhà nước và pháp luật được áp dụng để phân tích các nguyên nhân xã hội chủ yếu đã làm nảy sinh tư tưởng nhân văn, tiến bộ trong lịch sử nhân loại, đồng thời so sánh với các giá trị nhân văn, tiến bộ của Việt Nam được phản ánh thông qua QTHL. - Phương pháp nghiên cứu, phê phán sử liệu, các thư tịch, kết hợp nghiên cứu thông sử được sử dụng nhiều nhất để nêu bật các giá trị nhân văn, tiến bộ của QTHL thông qua các điều luật cụ thể. Điều này giúp tác giả phân tích, lập luận, đánh giá các vấn đề được nhận định là nhân văn, tiến bộ mà luận án nghiên cứu. - Các phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp, logic, liên ngành khoa học xã hội, v, v.. được sử dụng xuyên suốt trong Luận án. Tuy nhiên, các phương pháp này được sử dụng chủ yếu để có thể khái quát được các vấn đề cần nghiên cứu, kết luận các vấn đề đã nghiên cứu và làm cơ sở cho việc nghiệm thu, đánh giá các kết quả đã nghiên cứu. 7. Bố cục của đề tài Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu quốc triều hình luật, hoạt động phát điển hóa pháp luật thời lê sơ và sự ra đời của quốc triều hình luật Chương 2: Nội dung cơ bản của bộ quốc triều hình luật và các giá trị đương đại của quốc triều hình luật Chương 3: Phương hướng, giải pháp tiếp thu các giá trị của bộ quốc triều hình luật trong tiến trình xây dựng nhà nước và pháp luật ở việt nam hiện nay Lướt xuống dưới để xem nội dung còn lại!
NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, HOẠT ĐỘNG PHÁT ĐIỂN HÓA PHÁP LUẬT THỜI LÊ SƠ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT Bấm để xem 1. Thành tựu của các công trình nghiên cứu Quốc Triều Hình Luật đã công bố và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu QTHL khiến cho nhiều nhà nghiên cứu "đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác" về khả năng tư duy cũng như trình độ lập pháp cách đây hơn 5 thế kỷ của dân tộc Việt. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực đã chứng minh ở nước ta thế kỷ XV đã có một nền pháp quyền sơ khai mang tính nhân văn và tiến bộ vào loại sớm trên thế giới. Kết quả đó được thể hiện: - Về thành tựu: Các công trình trên đây đã chỉ ra những điểm tiến bộ mà các nhà lập pháp thời Lê sơ đã thực hiện thành công hơn so với triều đại trước như quan điểm lập pháp trong quản lý đất nước trên các lĩnh vực ruộng đất, thừa kế, thuỷ lợi, mùa màng, chủ quyền và an ninh quốc gia và đặc biệt là sự chăm sóc những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, trách nhiệm của quan lại.. để đưa đến một xã hội thịnh trị mà trong đó mọi người dân đều được nhà nước quan tâm bảo vệ. Trong đó, các tác giả cũng đã tìm hiểu về những đặc điểm căn bản của nhà nước Lê sơ qua nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khẳng định những thành tựu về lập pháp thời kỳ đó là cơ sở khẳng định sự tiến bộ vượt bậc về mặt văn minh của nhà nước Việt Nam trong quản lý đất nước đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. - Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: Do giới hạn và mục tiêu nghiên cứu, các công trình của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực trên đây đã tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính chất lịch sử và trực tiếp đi vào nghiên cứu QTHL qua những quy phạm pháp luật cụ thể và chỉ ra những yếu tố có tính nhân văn, tiến bộ vượt trước thời đại mà hiện nay vẫn còn có tính thời sự. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đưa ra một cái nhìn khái quát, toàn diện về tính nhân văn, tính tiến bộ của QTHL. Tình hình nghiên cứu này cho thấy bộ QTHL đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ và với nhiều mức độ khác nhau. Kết quả nghiên cứu về QTHL đã làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề liên quan đến nội dung và kỹ thuật lập pháp của bộ luật. Đây là một thuận lợi lớn cho việc tiếp cận nghiên cứu và thực hiện đề tài Luận án nhằm khai thác các giá trị của bộ luật để kế thừa và phát huy hơn nữa các giá trị đó trong công tác xây dựng nhà nước và pháp luật hiện nay. Trên thực tế đời sống chính trị - pháp lý xã hội nước ta, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống pháp luật từ bộ QTHL đã được thực hiện nhưng vẫn còn chậm và rất hạn chế. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu là việc kế thừa các giá trị của bộ luật này vào thực tiễn của công cuộc đổi mới hiện nay của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta vẫn chưa như mong muốn. Đúng như Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá: "Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất". Chính vì vậy mà cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về QTHL từ khía cạnh pháp lý với khả năng, nhu cầu tiếp tục kế thừa các giá trị đó của bộ luật, đáp ứng các yêu cầu xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng, phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế trên nền tảng văn hóa truyền thống ở nước ta hiện nay. Thực tế đó đã mở ra hướng nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án này đó là khảo cứu chuyên sâu những giá trị nhân văn, tiến bộ của QHTL trên một số lĩnh vực quan trọng mà bộ luật điều chỉnh là: Hình sự; dân sự; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; quan chế; tố tụng; bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội; và trên một số lĩnh vực khác của đời sống xã hội triều Lê. Đồng thời phân tích những nhu cầu tiếp tục kế thừa và phát huy các giá trị nhân văn, tiến bộ của QTHL trên cơ sở những phân tích về thành tựu đã đạt được và chưa đạt được trong pháp luật hiện hành, đặc biệt là trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam. 2. Hoạt động phát điển hóa pháp luật thời Lê sơ và sự ra đời của Quốc Triều Hình Luật 2.1 Hoạt động pháp điển hóa pháp luật triều Lê sơ Năm 1428 Lê Lợi đã hạ lệnh cho các quan chức cao cấp trong triều "phải theo lệ cổ mà làm ra phép tắc để dạy cho các tướng hiệu và trăm quan cũng như trăm họ đều biết việc thiện và việc ác. Việc thiện thì làm, việc bất thiện thì lánh, chớ có phạm pháp". Đến thời kỳ vua Thái Tông chấp chính, tuy tuổi còn rất trẻ nhưng ông đã anh minh sáng suốt lựa chọn ra bậc đại thần uyên thâm Nho học như Nguyễn Trãi và sai "sửa định" Luật thư làm công cụ quản lí đất nước. Sự ra đi đột ngột của vua Thái Tông khiến cho những dự định của ông bị ngừng lại. Vua kế tiếp là Nhân Tông cũng lên nối ngôi khi còn quá nhỏ tuổi, đến khi ông có khả năng điều hành chính sự thì bị sát hại. Tuy nhiên, năm 1449 ông đã ban hành các điều luật điều chỉnh quyền tư hữu ruộng đất và nguyên tắc xét xử tranh chấp về ruộng đất. Lê Nghi Dân sau khi tiến hành đảo chính, giết Nhân Tông tự xưng làm vua nhưng rốt cuộc cũng bị lực lượng công thần thời kháng chiến trung thành với triều Lê sơ xướng nghĩa phế truất nên thực tế Nghi Dân cũng chưa kịp có đóng góp gì về mặt lập pháp. Lên nối ngôi trong tình hình đất nước rối ren như vậy, nhưng ngay lập tức Lê Thánh Tông đã tỏ rõ sự anh minh quyết đoán của mình. Với quá trình tại ngôi 38 năm của vua Lê Thánh Tông, nhà vua đã chủ trì xây dựng và ban hành hàng loạt quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hương hỏa, bảo vệ an ninh xã hội, tố tụng. Sách Hồng Đức thiện chính thư tổng hợp chủ yếu các quy định được ban hành dưới niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Đức (1469 - 1497) với 83 điều luật, lệ, nhưng trong đó cũng có cả niên hiệu Hồng Thuận (1510 - 1516), Thiệu Bình (1516 - 1526). Ngoài ra, còn có niên hiệu Đại Chính (1530 - 1540), niên hiệu Quảng Hòa (1541 - 1546). Sách Thiên Nam dư hạ tập, được soạn năm 1483 do một nhóm văn thần thừa lệnh vua sưu tập tất cả các điều luật, các pháp lệnh đã ban bố và thi hành trong các triều vua thời Lê sơ từ Thái Tổ đến Thánh Tông. Trong đó, niên hiệu Quang Thuận có 39 điều và Hồng Đức có 63 điều, tất cả là 102 điều bao gồm cả lệnh và lệ. 2.2 Quá trình xây dựng và ban hành Quốc Triều Hình Luật Về thời điểm khởi thảo và ban hành BLHĐ: Nhìn chung hiện nay rất nhiều nhà khoa học cho rằng năm 1483 là năm ban hành của BLHĐ. Tuy nhiên, dựa vào biên niên sử nhà Lê thì năm 1483, nhóm văn thần thừa lệnh vua đã "soạn làm các sách là Thiên nam dư hạ tập và Thân chinh ký sự" mà không thấy đề cập đến việc soạn BLHĐ. Điều này tương đối vô lý vì việc ban hành một VBPL đồ sộ như BLHĐ không thể không được ghi chép lại trong biên niên sử khi mà hai tập Hội điển nói trên được đề cập khá chi tiết trong cùng một thời điểm. Vì vậy, năm 1483 cũng không thể nào là thời điểm ban hành của BLHĐ. Theo tôi, ý kiến của một số tác giả thuộc Viện Sử học Việt Nam cho rằng BLHĐ được khởi thảo từ thời Thái Tổ là hợp lý hơn cả vì dựa vào những ghi chép của chính sử về các sự kiện lập pháp của nhà Lê Sơ, về một số điều khoản trong BLHĐ có quy định cụ thể về cấp hành chính lộ và các chức quan đã tồn tại trước thời Hồng Đức và việc so sánh nội dung một số điều khoản trong BL với thực tiễn áp dụng PL được ghi lại trong chính sử. Đến thời Thái Tông, QTHL tiếp tục được bổ sung một số điều khoản. Sách Hồng Đức thiện chính thư là quyển sách sưu tập các luật lệ thời Hậu Lê, trong các điều từ 126 đến 163 được ghi dưới niên hiệu Thiệu Bình (1434-1439) có 5 điều khoản (310, 502, 507, 513, 527) được Thái Tông bổ sung. Ông còn đưa thêm vào BL điều 672, nội dung điều khoản này hoàn toàn phù hợp với một lệnh chỉ năm 1434 của ông quy định về trình tự và thẩm quyền xét xử của các cấp chính quyền trong đó có đề cấp đến các chức danh xã quan, lộ quan. Ngoài ra, điều 683 cũng được coi là của Thái Tông đưa thêm vào BL vì nội dung điều khoản này hoàn toàn phù hợp với một chỉ dụ của ông năm 1437 quy định về việc xét xử các quan đại thần, hình quan phải căn cứ vào điều luật chính để buộc tội và quyết định hình phạt.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ CÁC GIÁ TRỊ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT Bấm để xem 1. Nội dung cơ bản của bộ Quốc Triều Hình Luật 1.1 Cách tân về tổ chức bộ máy chính quyền Về mặt hành chính, nhà Vua đã kiên quyết và kiên trì cải tạo bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương. Đời Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Lợi chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành 6 bộ: 1. Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước; 2. Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ Đình, Chùa, Miếu mạo; 3. Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh; 4. Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp; 5: Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc Tù, đày, kiện cáo; 6. Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền. 1.2 Giữ cho đất nước luôn ở thế phòng bị đối với quân xâm lược nước ngoài Trong bộ QTHL có nhiều điều quy định rõ trách nhiệm bảo vệ đường biên, vùng biển, cửa quan. Các hành vi xâm phạm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ bị trừng trị nghiêm khắc. Trong Bộ QTHL có nhiều điều quy định rõ về việc xử phạt đối với các hành vi ấy. Ví dụ: "Người trốn qua cửa quan ra khỏi biên giới đi sang nước khác thì bị chém" (đ. 71) hoặc "Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài thì bị chém" (đ. 74). Vua Lê Thánh Tông còn ban hành các đạo dụ, những sắc chỉ quy định việc kê khai, kiểm tra dân số của toàn vương quốc, đặt ra luật lệ về chế độ binh dịch mà ngày nay chúng ta gọi là Nghĩa vụ quân sự; Đặt ra phép quân điền cùng với việc xây dựng quân đội chính quy, thiện chiến làm cho đất nước luôn ở trong tình trạng đầy đủ sức mạnh để đập tan mọi mưu toan xâm lược. 1.3 Giữ nghiêm kỷ cương phép nước Người xưa có nói: "Mọi sự rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn về kỷ cương. Giữ nghiêm kỷ cương là phải giữ gìn từ những kỷ cương hàng ngày, từ những điều tưởng chừng như là nhỏ nhặt nhất. Kỷ cương nhỏ nhặt nhất không giữ được thì làm sao giữ nổi kỷ cương phép nước". Khi ban hành dụ: "Hiệu định quan chế", nhà vua đã nói rõ: "Từ nay con cháu ta nên biết thể chế này ban hành là do việc bất đắc dĩ. Một khi pháp độ đã định, nên kính giữ noi theo. Chớ có cậy thông minh, bàn xằng triều trước mà sửa đổi làm cho pháp điển ngửa nghiêng để tự hãm vào điều bất hiếu. Kẻ làm bầy tôi giúp giập, cũng nên kính giữ phép thường, cố giúp mãi vua ngươi, khiến noi công trước, để mãi tránh khỏi tội lỗi. Bằng dám có dẫn xằng phép trước, luận càn đến một quan, đối một chức, chính thị là bầy tôi phản nghịch, làm rối loạn phép nước thì bị giết bỏ giữa chợ không thương, gia thuộc đều bị đầy ra nơi biên viễn để rõ cái tội làm tôi không trung, ngõ hầu muôn đời sau biết đến cái ý sáng chế lập pháp còn ngự ở đấy vậy". Vua Lê Thánh Tông đặc biệt đề cao trách nhiệm của quan lại. Ông nói: "Các quan viên là những người gân guốc của xóm làng nhờ đó mà chính được phong tục. Vậy phải lấy lễ, nghĩa, liêm, sĩ mà dạy dân khiến cho dân xu hướng về chữ nhân, chữ nhượng, bỏ hết lòng gian phi, để cho dân được an cư, lạc nghiệp, giàu có đông đúc, mình cũng được tiếng là người trưởng giả trong làng". 1.4 Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội Dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp là nền tảng của xã hội. Quả là đúng, khi Nhà Vua anh minh ấy, ngay từ ngày đầu lên trị vì đã lấy việc mở mang nông nghiệp làm trọng. Trước hết, trong việc cải cách hành chính, Nhà Vua đã đặt ra các cơ quan chuyên trách về việc chấn hưng nông nghiệp như đặt ra bốn cơ quan mới: Sở tầm tang chuyên chăm lo khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa; Sở thực thái chuyên lo việc trồng rau; Sở điền mục chuyên lo việc chăn nuôi gia súc, gia cầm và Sở đồn điền chuyên lo việc ruộng đất. Ông còn đặt thêm chức quan mới: Quan Hà đê để chăm lo việc đắp đê, hộ đê, phòng chống bão lụt. Nhà vua Lê Thánh Tông đặc biệt coi trọng việc đắp đập, tu sửa đê điều để đề phòng bão lụt. Trong Bộ QTHL có hai điều quy định khá tỷ mỉ về vấn đề này: "Việc sửa đê những sông lớn bắt đầu từ ngày mồng 10 tháng giêng, người xã nào ở trong đường đê phải đến nhận phần đắp đê, hạn trong hai tháng đến ngày mồng 10 tháng 3 thì làm xong. Những đường đê mới đắp hạn trong 3 tháng phải đắp xong. Quan lộ phải năng đến xem xét, quan coi đê phải đốc thúc hàng ngày. Nếu không cố gắng làm để quá hạn mà không xong thì quan lộ bị phạt, quan giám bị biếm. Quân lính và dân binh không theo thời hạn đến làm và không chăm chỉ sửa đê, để quá hạn không xong thì bị trượng hoặc biếm". 1.5 Mở rộng giao lưu khuyến khích thương nghiệp lành mạnh Để tạo thuận tiện cho việc mua bán, lẽ dĩ nhiên phải có nơi buôn bán. Nhà Vua Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: "Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hóa, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau". Có thể dưới thời Lê Thánh Tông các chợ được mở mang nhiều. Ở các xã lớn hoặc mấy xã ở gần nhau thường có một chợ chung, họp hàng ngày. Trung tâm buôn bán ở nông thôn còn lưu lại đến ngày nay là các chợ phiên thường mở vào những ngày nhất định trong tháng. Chợ phiên là nơi mua bán sầm uất, có nhiều mặt hàng nhất. Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay, đã có lịch sử hình thành trên 500 năm - Nghĩa là từ thời gian dưới triều vua Lê Thánh Tông. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng và nhiều phường khác nữa mỗi khi nhắc đến tên đã là người Việt Nam, ai ai cũng đều lấy làm tự hào về những di sản của cha ông để lại cho con cháu. Dưới thời trị vì của Vua Lê Thánh Tông hàng hóa từ kinh đô Thăng Long về các nơi trung tâm buôn bán các địa phương trong cả nước, luôn luôn tấp nập xuôi ngược như những dòng suối cuộn chảy ngày đêm không bao giờ ngừng. 1.6 Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, trừng trị nghiêm khắc những Hành vi ức hiếp, đục khoét dân lành của quan lại Vua Lê Thánh Tông trong ý thức và hành động của mình lại lấy dân làm quý. Ông chăm lo rất chu đáo đến sự ấm no cho dân. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là bằng cách cải cách pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất, là cái quyền gốc cho việc thực hiện các quyền tiếp theo đảm bảo quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho người nông dân. Trong QTHL đã có những điều luật quy định việc trừng phạt những hành Vi vi phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất của người nông dân như: Tranh giành đất đai trái với chúc thư (đ. 354), nhận bừa ruộng đất của người khác (đ. 344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người khác (đ. 355), tá điền cấy rẽ mà trở mặt ăn cướp (đ. 356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất, nhổ bỏ giới mốc (đ. 357), chặt cây trong khu mộ địa của người khác (đ. 358), cấy trộm vào phần đất, phần mộ của người khác, chôn cất trộm vào ruộng của người khác (đ. 359), ruộng đất đang tranh chấp mà đánh người để gặt lấy lúa má (đ. 360), cấy rẽ ruộng công hay tư, không báo cho chủ mà tự tiện đến gặt (đ. 361), các nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất ao đầm của nhân dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định (đ. 370). Bộ QTHL còn có cả những điều quy định nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất cho trẻ em và người già như: "Chồng chết con còn nhỏ, vợ tái giá mà bán điền sản của con (đ. 377), cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản (đ. 378), người trong họ tự tiện bán ruộng của đứa cháu mồ côi (đ. 379) đều bị xử phạt". 1.7 Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ Triều Lê là một triều đại trọng Nho giáo, tức là những quy định khắt khe của Nho giáo với người phụ nữ như "tam tòng tứ đức" được coi trọng. Tuy nhiên trong bộ luật đương thời của triều đình cũng có một số điều luật được coi là cách tân bảo vệ quyền lợi người phụ nữ. Một số điều luật quy định: "Phàm chồng đã bỏ lửng vợ năm tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của mình thì phải tội biếm (đ. 308)". Cùng với mục đích bênh vực phụ nữ, trong Bộ luật Hồng Đức còn có điều quy định rằng: "Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái kêu quan mà trả lại đồ lễ. Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả lại đồ lễ, trái luật bị phạt 80 trượng (đ. 322)" hoặc: "Những nhà quyền thế mà ức hiếp để mà lấy con gái nhà lương dân, thì xử tội phạt biếm, hay đồ (đ. 338)". 2. Các giá trị đương đại của BLHĐ 2.1 Các giá trị về nội dung 2.1. 1 Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ hình sự Có sự phân loại giữa việc xác định tội danh và mức hình phạt cho người phạm tội. Tương ứng với các tội danh được mô tả là các hình phạt cụ thể và thường là cố định. Hệ thống hình phạt gồm có hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Quá trình định tội danh và ADHP đối với chủ thể, BLHĐ đã xét tới lỗi cố ý hay vô ý trong việc thực hiện hành vi phạm tội (điều 47). Từ nguyên tắc chung này, ADHP đối với từng trường hợp phạm tội cũng có sự phân biệt (điều 497) và trừng phạt nghiêm khắc tội cố ý. Tiêu chí xử lý đồng phạm được xác định rõ để ADHP với kẻ chủ mưu và người tòng phạm, trong đó kẻ chủ mưu chịu hình phạt nặng hơn so với người chỉ làm theo (điều 469). Xử lý một người phạm nhiều tội (điều 37) ; phạm tội lần đầu, tái phạm (điều 429) ; Quá trình này đã tính đến việc xem xét nhân thân người phạm tội, cũng như đề cập sâu vào yếu tố lỗi cố ý hay vô ý của người phạm tội để làm căn cứ ADHP. Đây là yếu tố tiến bộ vượt bậc của PL hình sự nhà Lê sơ được PL đương đại tiếp thu. BLHĐ thể hiện rõ tư tưởng nghiêm trị nhưng khoan dung độ lượng. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ BL xác định những loại tội nào là tội nặng và đề ra hình phạt tương thích nhưng có tính đến việc giảm nhẹ cho tám hạng người trong "bát nghị". Tính khoan dung độ lượng còn được thể hiện qua việc khoan hồng đối với những người phạm tội đã già, tàn tật hay còn ấu thơ (điều 16) và để ADHP giảm nhẹ, có lợi cho tội nhân (điều 17) và cho miễn các hình phạt nghiêm khắc nhưng phải chuộc bằng tiền hoặc tha bổng nếu tội nhân không phạm vào các tội thập ác, phản nghịch hay giết người; tha tội cho những người tự thú nếu không phạm tội thập ác, giết người (điều 18). Vấn đề tự thú được giảm nhẹ tội không chỉ đặt ra khi người tự thú đến cửa quan mà còn được đặt ra khi người phạm tội tự nhận lỗi với người bị thiệt hại (điều 19). Trong áp dụng giải thích hình luật, tính khoan dung độ lượng còn thể hiện ở việc nếu điều luật có thể giải thích theo các chiều hướng khác nhau thì cho phép áp dụng sự giải thích có lợi cho phạm nhân và ADHP có lợi nhất (Điều 708). Tính nhân đạo còn được thể hiện qua quy định về hình phạt đối với tội nhân là phụ nữ. Phạt gậy không áp dụng đối với nữ giới phạm tội mà chỉ áp dụng cho đàn ông. Cùng phạm tội như nhau nhưng khi ADHP có sự ưu ái hơn đối với phụ nữ (điều 1) : "Đàn ông phạm tội nhẹ thì đánh 80 trượng.. Đàn bà phạm tội nhẹ thì đánh 50 roi.." . Án tử hình được hoãn thi hành đối với phụ nữ phạm tội mà đang mang thai và nuôi con nhỏ dưới 100 ngày: "Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau một trăm ngày, mới đem hành hình.." (điều 680). Đối với phụ nữ phạm tội trộm cắp và giết người đều được PL giảm nhẹ tội (điều 429) : ".. Ăn trộm có cầm khí giới, thì phải khép vào tội ăn cướp; nếu giết người thì bị khép vào tội giết người. Đàn bà được giảm nhẹ tội" . Đây chính là một trong những đặc điểm nổi bật của BLHĐ, một điều ít thấy trong PLPK. Quan điểm tiến bộ và nhân đạo của nhà làm luật chính là sự ghi nhận một thực tế lịch sử về vai trò của người phụ nữ. Trong quan niệm Nho giáo, người phụ nữ bao giờ cũng rơi vào địa vị rất thấp kém, song BLHĐ lại quy định một số quyền lợi nhất định trên đây cho họ. Điều này thể hiện sự ghi nhận của PL đối với phong tục tập quán truyền thống dân tộc trong việc tôn vinh vai trò người phụ nữ. BLHĐ còn ghi nhận việc ân xá cho người phạm tội (điều 15) : "Những người bị tội đồ, lưu còn đương đi giữa đường mà gặp dịp ân xá, thì cũng được ân xá theo luật.." hay áp dụng nguyên tắc chịu TNHS thay cho người khác để khẳng định bản chất nhân đạo của NN. Đạo hiếu hay tinh thần tương thân tương ông bà chịu tội đánh roi hoặc tội đánh trượng, đều được giảm một bậc " để nêu cao tính thiện của con người. 2.1. 2 Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ tố tụng Tố tụng được coi là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho NN để thực hiện các chủ trương, chính sách đã đề ra. Xuất phát từ việc vận dụng hệ tư tưởng Nho giáo vào thực tiễn, với chủ trương từng bước củng cố NN tập quyền cao độ, thực hiện việc chia ruộng đất để ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi nạn cường hào ác bá, quan lại tham nhũng và độc đoán chuyên quyền khiến cho việc kiện cáo ngày càng phát sinh nhiều, nhà Lê sơ đã đưa ra những quy định tố tụng nhằm hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội, ổn định NN. 2.1. 3 Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ sở hữu, hợp đồng và thừa kế Về sở hữu: Chế định về sở hữu có vai trò hết sức quan trọng trong BLHĐ. Nó khẳng định địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trên thực tế, giai cấp nào nắm trong tay nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó sẽ nắm quyền thống trị đối với các giai tầng khác. Để bảo vệ và duy trì địa vị của giai cấp mình, giai cấp địa chủ phong kiến thời Lê sơ đã tập trung vào việc ban hành các QPPL về sở hữu nhằm thể hiện ý chí giai cấp trong quá trình tổ chức sản xuất, chiếm hữu, phân phối của cải vật chất. Về hợp đồng: Điểm tiến bộ trong BLHĐ so với các công trình pháp điển hóa đương thời là việc quy định tương đối cụ thể về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Một là, hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được ký kết trên cơ sở tự do ý chí, tự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Khi đã ký kết HĐ thì các bên phải tuân thủ cam kết đã ký, nếu không tuân thủ thì bên vi phạm sẽ phải gánh chịu một hậu quả pháp lý nhất định. Hai là, hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở trung thực, không có sự lừa dối, ép buộc. BLHĐ quy định cụ thể những trường hợp bị coi là lừa đảo, ép buộc để trục lợi. Đặc biệt, BL xác định chế tài nghiêm khắc đối với trường hợp những người có chức vụ quyền hạn lợi dụng vị trí của mình để mua bán, vay, mượn người phụ thuộc nhằm trục lợi sau đó không trả. Ba là, hợp đồng phải được ký kết giữa những người có năng lực hành vi (điều kiện về chủ thể). Nếu HĐ không thỏa mãn về điều kiện chủ thể thì sẽ bị vô hiệu. BL còn quy định cụ thể về hậu quả của HĐ vô hiệu. BLHĐ quy định rõ trường hợp nào thì phải bồi thường, trường hợp nào thì tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản là đối tượng của HĐ và lợi ích mà các bên thu được từ HĐ bất hợp pháp. Cho nên, khi áp dụng luật, quan tòa không cần phải cân nhắc cách xử lý mà chỉ cần lựa chọn quy định tương ứng để xét xử. Bốn là, hợp đồng phải thỏa mãn điều kiện về đối tượng của hợp đồng. Theo BLHĐ, đối tượng của hợp đồng là những tài sản được phép chuyển dịch. Theo đó, phần lớn đất đai không phải là đối tượng của hợp đồng mua bán. Năm là, hợp đồng phải thỏa mãn điều kiện về mặt hình thức. Khi tham gia vào quan hệ HĐ, các bên phải giao kết dưới hình thức nhất định. BL xác định hình thức cụ thể cho một số loại HĐ cơ bản. Nếu mua bán ruộng đất, cho vay thì HĐ phải được lập thành văn bản (khế ước). Về thời hiệu HĐ dân sự: Chế định về thời hiệu khởi kiện dân sự nhằm khẳng định quyền sở hữu đã được đặt ra trong BLHĐ. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được xác lập chỉ có giá trị pháp lý trong một khoảng thời gian nhất định do PL quy định. Coi đó là căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nằm ngoài ý chí của các chủ thể trong các giao dịch dân sự để tạo sự ổn định cho các quan hệ dân sự, tránh tình trạng để thời gian quá lâu mới kiện tụng làm mất đi tính xác thực của chứng cứ và gây khó khăn cho quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ. BLHĐ quy định thời hiệu khởi kiện đối với HĐ ruộng đất là 30 năm. Về thừa kế: Vấn đề thừa kế trong BLHĐ được quy định theo hai hình thức sau: - Thừa kế theo pháp luật: Thừa kế theo PL nhà Lê xảy ra khi người để lại di sản không lập di chúc hoặc có di chúc nhưng bị vô hiệu. - Thừa kế theo di chúc: PL nhà Lê tôn trọng quyền tự do định đoạt tài sản bằng chúc thư của người có tài sản để lại. 2.1. 4 Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình Về kết hôn: - BLHĐ đã đề ra các quy định về điều kiện và hình thức kết hôn. Để hôn nhân hợp pháp và hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, PL không cho phép hôn nhân giữa những người cận huyết thống hay có quan hệ gia đình thân thiết (điều 319) :" Người vô loại lấy cô, dì, chị, em gái, kế nữ, người thân thích, đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội"[37, tr. 122] . PL cũng cấm việc cậy quyền thế cưỡng ép kết hôn (338). - Hôn nhân thời Lê muốn được NN và xã hội công nhận phải đáp ứng đầy đủ các thủ tục kết hôn. Nhà lập pháp triều Lê rất tôn trọng và đã thừa nhận những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc trong việc quy định thủ tục kết hôn. Về ly hôn: Nhà lập pháp đã đề cập vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên khi ly hôn với các quy định cụ thể. Trong đó chú trọng đến quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ, điều này chưa từng có trong các BL phong kiến tồn tại trước đó. Về từ hôn: Quyền từ hôn được đặt ra cho cả nam và nữ. Đặc sắc là quyền từ hôn của người phụ nữ. Hôn sự trong xã hội phong kiến là do cha mẹ sắp đặt, con cái buộc phải tuân theo mà không được chống đối. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong hôn sự, BLHĐ đã tiếp thu những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc để có những quy định tiến bộ như khi người chồng tương lai của cô gái mà bị ác tật, phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cô gái có quyền kêu quan để trả đồ sính lễ mà không buộc phải chấp nhận sự sắp đặt hôn nhân của gia đình. Về quan hệ gia đình: - Công nhận quyền sở hữu tài sản riêng của con và cho phép con ra ở riêng; - Cha mẹ chịu trách nhiệm về những hành vi của con; - Không cho phép cha mẹ bán tài sản của con; - Người con gái có quyền sở hữu tài sản trong gia đình; - Người vợ có quyền bình đẳng về tài sản với chồng; Về nuôi con nuôi: PL cho phép việc nhận nuôi con nuôi và quy định cụ thể những quyền lợi và nghĩa vụ của người con nuôi và người nuôi con nuôi (điều 380). Về cơ bản con nuôi và con đẻ có quyền lợi như nhau, nhưng về mặt thừa kế thì con nuôi không được hưởng quyền thừa kế ngang bằng với con đẻ mà phải ít hơn. 2.1. 5 Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quan chế và hoạt động công vụ Nhà Lê sơ đã chuẩn hóa đội ngũ quan lại bằng việc đào tạo Nho học, lấy trình độ học vấn làm tiêu chí để bổ dụng chức vụ và công việc. Trong giáo dục đào tạo, thể lệ về thi cử cũng được định rõ. Với nền giáo dục và thi cử thời Hồng Đức đã tạo ra một đội ngũ quan lại khoa bảng có trình độ rất cao. 2.2 Các giá trị về kỹ thuật lập pháp BLHĐ là văn bản QPPL chứa đựng những giá trị quý báu về kỹ thuật lập pháp. Kỹ thuật lập pháp triều Lê được thể hiện qua BLHĐ có nhiều yếu tố tiến bộ mang tính đương đại có ý nghĩa lớn đối với hoạt động xây dựng PL của NN Việt Nam hiện nay. Cấu trúc điều luật trong BLHĐ được xây dựng theo ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Trong đó có những điều luật chỉ có hai bộ phận là quy định và chế tài và cũng có khi là giả định và quy định mà không có chế tài. Cấu trúc các điều luật trong BLHĐ được xây dựng với những bộ phận trên đây đi từ đơn giản đến phức tạp nhưng đều thể hiện tính phù hợp với thực tiễn rất cao.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP THU CÁC GIÁ TRỊ CỦA BỘ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Bấm để xem 1. Nhu cầu kế thừa các giá trị của BLHĐ Về mặt lý luận: Trong hệ thống PL của bất kỳ quốc gia nào, tại thời điểm nào cũng bao hàm trong nó tính kế thừa. Nói cách khác - tính kế thừa là thuộc tính tự thân của PL. Tìm hiểu tính kế thừa trong PL tại thời điểm được ban hành cho thấy nó đã hội tụ được những giá trị chung của xã hội mang tính chất phổ biến rộng rãi cũng như tiếp nhận các kinh nghiệm lập pháp từ trước đó để lại. Đây là một đặc trưng mang tính đặc thù của PL diễn ra trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng. PL được xây dựng ra là để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của giai cấp thống trị và duy trì trật tự xã hội có lợi cho các đặc quyền đặc lợi đó của giai cấp thống trị tại thời điểm nó được ban hành, nói như C. Mác thì: "Pháp quyền.. chỉ là ý chí của giai cấp.. được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp.. quyết định". Về mặt thực tiễn: Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và tiến trình hội nhập quốc tế, gần đây nhiều VBPL điều chỉnh các quan hệ xã hội liên tục được NN sửa đổi, bổ sung, ban hành mới để đáp ứng nhu cầu, mục tiêu hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, nhiều văn bản luật đã được ban hành, điều chỉnh các lĩnh vực đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, chứng khoán.. Tuy nhiên, PL hiện hành đang có khá nhiều bất cập chính trong những vấn đề mà BLHĐ đã giải quyết rất hợp lý và hiệu quả. Có thể nêu một vài ví dụ sau đây: Khoản 2, điều 20 BL dân sự 2005 quy định: ".. người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo PL, trừ trường hợp PL có quy định khác". Như vậy, "trừ trường hợp PL có quy định khác" trong điều luật này phải được hiểu như thế nào? Quy định này hết sức chung chung và mơ hồ mà đến nay vẫn chưa có VBPL nào hướng dẫn cụ thể nên việc áp dụng PL để giải quyết các tranh chấp về giao dịch HĐ dân sự vô hiệu còn gặp nhiều khó khăn. Có thể nói về mặt này thì PL đương đại chưa theo kịp với PL nhà Lê. 2. Quan điểm, phương hướng và các giải pháp kế thừa các giá trị đương đại của BLHĐ Để xây dựng NN và PL theo hướng PQXHCN thì cần phải nhận biết lịch sử với những giá trị chân chính từ các thành tựu văn hóa của quá khứ để lại, trong đó có những thành tựu về lập pháp nhằm mục tiêu xây dựng NN và PL của người Việt Nam, phù hợp với xã hội Việt Nam. Để đạt được những yêu cầu này, theo quan điểm chúng tôi cần phải xác định những nguyên tắc và định hướng cơ bản cho việc kế thừa các giá trị của BLHĐ như sau: Thứ nhất, việc kế thừa các giá trị của truyền thống chính trị - pháp lý nói chung, các giá trị của BLHĐ nói riêng phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của chế độ XHCN như nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân, nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của luật, nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc đoàn kết dân tộc, nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện quyền lực NN.. Thứ hai, việc kế thừa các giá trị của truyền thống pháp lý phải theo hướng "gạn đục khơi trong", kế thừa đi đôi với gạt bỏ, khắc phục những dấu ấn tiêu cực của chính truyền thống đó. Thậm chí, ngay trong một yếu tố được xem là tiến bộ, tích cực cũng có trong nó những mặt lệch lạc, tiêu cực cần được gạt bỏ. Do vậy, cần hết sức thận trọng và khoa học khi đặt vấn đề kế thừa truyền thống chính trị - pháp lý. Thứ ba, việc kế thừa các giá trị của truyền thống pháp lý phải đứng trên tinh thần tôn trọng lịch sử, khách quan, tránh áp đặt, khiên cưỡng. Thứ tư, kế thừa, tiếp thu luôn đi đôi với phát huy, nhân lên một tầm cao mới các giá trị của truyền thống pháp lý, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Từ những quan điểm và phương hướng trên đây, để kế thừa tốt nhất các giá trị của BLHĐ, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: Một là, đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức và cách nhìn nhận về lịch sử nói chung, về các giá trị đương đại của truyền thống pháp lý nói riêng. Hiện nay, trong thực tế trong nhận thức của một số cán bộ Đảng viên, thậm chí trong cả những người làm công tác lập pháp vẫn tồn tại quan niệm hẹp hòi về lịch sử, dẫn tới sự đồng nhất CĐPK với những tàn dư lạc hậu, thậm chí phản động. Lối tư duy đó đang là trở lực cho việc tiếp thu các giá trị lịch sử và rất cần phải được khắc phục sớm. Biện pháp khắc phục cụ thể là đào tạo, phổ biến nâng cao kiến thức lịch sử và trình độ lý luận chính trị - PL cho các cán bộ đảng viên cũng như những người làm công tác lập pháp để họ hiểu hơn nữa về lịch sử dân tộc và những thành quả mà cha ông ta đã đạt được trong lịch sử, trong đó có thành tựu về PL. Đặc biệt cần gắn vấn đề nghiên cứu truyền thống pháp lý của cán bộ đảng viên hay những người làm công tác lập pháp với vấn đề thực tiễn hiện nay đang rất nóng bỏng có liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực của xã hội và của chính bản thân họ như vấn đề cải cách tiền lương, cải cách bộ máy hành chính.. mà Đảng và NN ta đang tiến hành. Qua đó chỉ rõ cho họ thấy trong lịch sử lập pháp của dân tộc, cha ông chúng ta đã có thời kỳ giải quyết rất tốt các vấn đề đó khiến cho xã hội rất ổn định và thịnh trị. Trong lịch sử, thời kỳ nhà Lê đã thực hiện cấp bổng lộc (trả lương) theo phẩm hàm và khối lượng công việc mà quan lại đảm nhận. Quan lại được đối xử công bằng mà ngân khố của NN lại được phân bổ hợp lí, khiến cho quan lại tận tâm tận lực với công việc do mình đảm nhận. Hai là, đẩy mạnh việc nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện những giá trị của BLHĐ nói riêng và di sản văn hóa pháp lý nói chung. Bao gồm các biện pháp như tổ chức tốt việc nghiên cứu BLHĐ nói riêng và các VBPL cổ nói chung; tăng cường lực lượng tham gia nghiên cứu BLHĐ (tăng cường cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ nghiên cứu viên) ; mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với BLHĐ như nghiên cứu các văn bản pháp điển hóa khác có liên quan đến BLHĐ, và nghiên cứu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội để thấy được giá trị của BL. Ba là, tập trung tìm hiểu những tư tưởng, quan niệm PL của luật gia thời Lê sơ. Công tác nghiên cứu khoa học về tư tưởng, quan niệm lập pháp của các luật gia thời Lê sơ cần phải được tiến hành bằng cách khôi phục lại cách thức xây dựng các QPPL, công tác ban hành, phổ biến PL và thực hiện PL của triều đại nhà Lê sơ để khảo sát những cơ sở tồn tại của các QPPL mà nhà lập pháp thời Lê đã dùng làm căn cứ, đồng thời chỉ ra những tác dụng và mối quan hệ qua lại của hình thức và các nguồn PL nhà Lê đã sử dụng. Bốn là, nâng cao kỹ năng lập pháp của đội ngũ cán bộ làm công tác lập pháp nhằm tăng cường khả năng hiểu biết và kế thừa đúng đắn các yếu tố tiến bộ của BLHĐ nói riêng, các di sản của truyền thống pháp lý nói chung. Năm là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức lịch sử và kiến thức pháp lý cho các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về truyền thống lịch sử, nâng cao ý thức PL và lối sống tuân thủ PL, góp phần tạo dựng bệ đỡ xã hội cho quá trình tiếp nhận các giá trị truyền thống, tiến tới mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Sáu là, kết hợp việc tiếp thu các giá trị truyền thống với gạt bỏ những tàn dư lạc hậu, kết hợp tiếp thu các giá trị pháp lý truyền thống với tiếp nhận các giá trị văn minh pháp lý thế giới nhằm xây dựng nền văn hóa pháp lý hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc. Các giải pháp trên đây nếu được áp dụng đầy đủ sẽ tạo ra những cơ sở cho việc tiếp thu các giá trị lịch sử của BLHĐ vào thực tiễn lập pháp hiện nay, khiến cho xã hội càng ngày càng phát triển. Đó là cơ sở để chúng ta có thể xây dựng được một hệ thống PL đậm đà bản sắc dân tộc và hiện đại.
KẾT LUẬN Bấm để xem BLHĐ ra đời trong bối cảnh đất nước vừa chiến thắng giặc ngoại xâm, bao nhiêu khó khăn của đất nước vừa hòa bình được đặt ra với nhà lãnh đạo triều Lê sơ. Việc ban hành PL với nhận thức cần duy trì trật tự xã hội bằng PL để bảo vệ điều thiện, ngăn ngừa điều bất thiện nên PL nhà Lê khi được ban hành đã thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân và tinh thần xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị của nhà lập pháp theo mô hình quân chủ tập quyền lấy hệ tư tưởng Nho giáo làm nòng cốt. Các QPPL của nhà Lê sơ được xây dựng trên cơ sở tiếp thu các thành tựu lập pháp trong và ngoài nước cùng thời và trước đó. Đặc biệt có sự tiếp thu rất lớn những phong tục tập quán của dân tộc để tạo ra sự phù hợp cao cho các điều luật khi áp dụng vào thực tiễn và sức sống lâu bền của nó với thời gian. Các QPPL này đều thể hiện sự dung hòa quyền lợi giữa giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân cùng các tầng lớp khác trong xã hội nên PL nhà Lê có tác dụng nhanh chóng phục hồi đất nước sau chiến tranh, từng bước ổn định an ninh trật tự xã hội, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Trong BLHĐ, các QPPL được xây dựng với một trình độ lập pháp cao hơn hẳn so với các triều đại trước đó. Nội dung các điều luật được thể hiện đa dạng, phong phú, giản dị và dễ hiểu với sự điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Do có sự tiếp thu các thành tựu lập pháp các triều đại trước đó cùng việc đề cao các phong tục tập quán để đưa vào luật làm quy tắc xử sự chung cho xã hội nên các QPPL đều có sự linh hoạt, sống động và dễ vận dụng. Các QPPL trong BLHĐ thể hiện rõ tính nghiêm minh của NN trong việc giáo dục, răn đe, phòng ngừa các VPPL. Trong mỗi quy định của PL, NN đều đề ra những chế tài có tính đe dọa đối với những hành vi phạm tội, mà nếu không tuân thủ PL thì người thực hiện hành vi sẽ bị xử lý tùy theo mức độ nặng nhẹ đã được quy định. PL đã hướng tới sự dung hòa đạo đức truyền thống với phong tục tập quán cổ truyền trong xử lý các vấn đề xã hội diễn ra trong cuộc sống thường ngày. BLHĐ được ban hành xuất phát từ những nhu cầu nội tại của xã hội nhà Lê sơ thế kỷ XV và khát vọng xây dựng một đất nước hòa bình thịnh trị nên tính thực tiễn và khả thi trong các điều luật rất cao. Nhìn chung, với việc kế thừa thành tựu PL của các triều đại Lý, Trần và sự hội nhập môi trường PL khu vực trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu thực tiễn nên trong BL đã thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa yếu tối nội sinh và yếu tố ngoại sinh, giữa luật tục cổ truyền và luật hướng Nho. Chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới của sự phục hưng nền văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế với mục tiêu đề ra là xây dựng NNPQXHCN Việt Nam vững mạnh, nhu cầu kế thừa các giá trị của BLHĐ nói riêng và nền văn hóa pháp lý truyền thống nói chung là cần thiết và tất yếu không thể trì hoãn. Cơ chế kinh tế thị trường, xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và việc mở cửa giao lưu kinh tế rộng rãi với các nước trên thế giới vừa là thời cơ, vừa là thách thức mới trong sự phát triển và tồn vong của nền văn hóa dân tộc. Việc tiếp thu văn hóa pháp lý truyền thống để làm mới các giá trị truyền thống đó và vận dụng vào thực tiễn hiện nay là đòi hỏi cấp thiết để bảo tồn nền văn hóa dân tộc và phát triển đất nước. Việc nghiên cứu các giá trị lịch sử của BLHĐ để kế thừa và vận dụng các giá trị đó vào đời sống chính trị - kinh tế - pháp luật ngày hôm nay chính là quyết tâm thực hiện mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với những đặc trưng cơ bản là: Dân tộc - Hiện đại - Nhân văn. Đây chính là một nền văn hóa năng động và mới mẻ theo quan điểm của Đảng và nhà nước hiện nay. Trước nguy cơ và thách thức mới, cần thiết phải có các giải pháp khả thi để tiếp tục phát huy các giá trị pháp lý truyền thống, để gìn giữ và bảo tồn nền văn hóa truyền thống nói chung và truyền thống pháp lý nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Huy Lê (2007), "Lê Thánh Tông và Bộ luật Hồng Đức", Hội thảo quốc gia Quốc triều hình luật - những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Bộ tư pháp - UBND tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa. 2. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 3. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Lê Hồng Sơn (2007), "Quốc triều hình luật - Công trình pháp điển hóa tiêu biểu trong lịch sử lập pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến", Hội thảo quốc gia Quốc triều hình luật - Những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Bộ tư pháp - UBND tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa. 5. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về Cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, NXB Tư Pháp, Hà Nội.