Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh và Hoài Chân

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Phan Kim Tiên, 13 Tháng hai 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    40. Nguyễn Đình Thư

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sinh ngày 1-2-1917 ở làng Phước Yên, huyện Quảng Điền (Thừ Thiên). Nhà rất nghèo, nhờ bà ngoại nuôi đến lớn, nên đặt tên Thư, lấy ý rằng đời xưa Ô. Ngụy Thư khôn lớn nhờ bên ngoại.

    Học trường Queignec, trường Quốc học Huế. Có bằng thành chung. Hiện làm thư ký Kho bạc Huế.

    Khách yêu thơ gặp được một bài thơ hay là một cái thú. Nếu bài thơ lại chưa từng in lên mặt giấy cho hàng vạn người xem thì cái thú lại gấp hai. Thơ in ra rồi hình như có mất đi một tí gì, có lẽ là ít hương trinh tiết.

    Tôi đã được nếm cái thú thanh thiết ấy trong khi xem thơ Nguyễn Đình Thư.

    Đây không phải là một nguồn thơ tân kỳ. Xem xong ta có thể nghĩ đến thơ người ày, người khác. Mặc dầu, lần thứ nhất tôi đọc những vần thơ ấy, nó cứ lưu luyến hoài trong tâm trí như tiếng nói một người bạn tuy mới quen mà vẫn thân yêu từ bao giờ.

    Thơ Nguyễn Đình Thư không nói chuyện gì lạ: Một chút tình thoảng qua, một đêm trăng lạnh, vài con bướm vẽ vành, một buổi chia ly, nỗi lòng người bị tình phụ, đi lại chỉ những buồn thương, những vui sướng rất quen. Nhưng buồn ở đây là một mối buồn âm thầm, lặng lẽ, thấm thía vô cùng, cái buồn không nước mắt, cái buồn của điệu Nam Bình trên sông Hương. Lòng thi nhân như một nguồn sầu vô hạn rưới khắp cảnh vật, bao phủ cả vừng trăng khuya:

    Không biết hôm nay trăng nhớ ai

    Mà buồn đưa lạnh suốt đêm dài?

    Trông chừng quạnh quẽ mênh mông quá

    Như trải u hoài muôn dặm khơi.

    Buồn cho đến những khi đang vui, những khi yêu và được yêu, cũng buồn. Bài thơ thành ra lời của thi nhân thì thầm một mình: Người xem hình như cũng cần phải ngâm rất to. Đọc to lên nghe sỗ sàng thế nào như nghe những bài ca Huế phổ vào cái âm nhạc ầm ỹ của đôi bàn máy hát.

    Nhưng thi nhân dễ buồn thì cũng dễ vui. Một chút nắng mới báo tin xuân cũng đủ khiến người vui. Cái vui của Nguyễn Đình Thư có vẻ kín đáo, nhưng không miễn cưỡng, không gượng gạo. Người vui hồn nhiên, cái vui của cây cỏ.

    Về điệu thơ thì có đến bốn năm lối. Riêng trong lối lục bát thỉnh thoảng ta lại gặp những câu phảng phất giọng Kiều hay giọng ca dao lẫn với một tí phong vị mới. Chẳng hạn như những câu:

    Một thương là sự đã liều

    Thì theo cho đến xế chiều chứ sao!

    Sa buồn mây nối đồi thông,

    Khói cao nghi ngút đôi vùng giang tân.

    Có khi lại xen vào một hai tiếng của đàng trong nghe cũng hay:

    Cách vời trước biết bèo mây

    Chung đôi xưa "nỏ" sum vầy làm chi.

    Nhất là chữ "thương" một chũ đầu miệng của người Huế, thi nhân dùng đến luôn và dùng khi nào cũng có duyên (trên kia ta đã thấy một lần) :

    Mấy bữa trông trời bớt nhớ thương,

    Chim say nắng mới hót inh vườn.

    Gió xao trăng động hương cành,

    Trông ra mấy dặm liều thành thương thương.

    Mở lòng đón phong trào mới, điều ấy đã đành, nhưng cũng chớ quên tìm đến nguồn thiên nhiên của nòi giống. Nguyễn Đình Thư đã có ý ấy. Ít nhiều hồn xưa đã ngưng lại trong thơ Nguyễn Đình Thư.

    Tháng 1-1941
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    41. T. T. Kh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một chuyện ngắn của Ô. Thanh Châu: "Hoa ti gôn". Ít ngày sau, tòa soạn nhận được một bài thơ nhan đề "Bài thơ thứ nhất", rồi lại nhận được một bài thơ nữa: "Hai sắc hoa ti gôn". Hai bài đều ký tên T. T. Kh, và đều nét chữ run run. Từ đấy tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T. T. Kh ở đâu.

    Nhưng sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có đến mấy người nhất quyết T. T. Kh chính là người yêu của mình. Và người ta phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho hai bài ấy là những áng thơ kiệt tác.

    Nói thế đã đành quá lời, nhưng trong hai bài ấy cũng có những câu thơ xứng với vẻ lâm ly của câu chuyện. Cô bé T. T. Kh yêu. Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á. Cô bé kể: Những buổi chiều thu, đứng dưới giàn hoa ti gôn.

    Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,

    Thở dài trong lúc tôi vui;

    Bảo rằng: "Hoa giống như tim vỡ,

    Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"

    Cô bé ngây thơ không tin. Ai ngờ lời nói văn hoa kia bỗng thành sự thực. Chàng đi..

    Ở lại vườn Thanh có một mình,

    Tôi yêu gió lạnh lúc tàn canh,

    Yêu trăng lạnh lẽo rơi trên áo,

    Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành

    Và một ngày kia tôi phải yêu

    Cả chồng tôi nữa. Lúc đi theo

    Những cô áo đỏ sang nhà khác!

    - Gió hỡi, làm sao lạnh rất nhiều?

    Ngày ấy là ngày buồn nhất trong đời nàng:

    Người xa xăm quá - Tôi buồn quá

    Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.

    Từ đó mùa thu qua, rồi thu qua. Nàng vẫn luôn luôn tưởng nhớ, nhưng tin buồn chàng nào có hay; cho nên nàng tự hỏi:

    Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,

    Trời ơi! Người ấy có buồn không?

    Một nỗi đau đớn trần truồng, không ẩn sau Liễu Chương Đài như nỗi đau đớn của nàng Kiều ngày trước (1).

    Cho đến hôm nay, xem chuyện, tình cờ lại thấy cảnh hoa xưa. Nàng không sao cầm lòng được:

    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ

    Nhỏ xuống thành thơ, khóc chút duyên!

    Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?

    Tháng 11-1941

    * * *

    (1) Khi về hỏi Liễu Chương Đài.

    Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay!
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    42. Trần Huyền Trân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (1) Sinh ngày 13 tháng 9- 1913 ở Hà Nội. Tự học ở Hà Nội.

    Hiện viết giúp: Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san.

    Viết đến đây tôi định khép cửa lại, dầu có thiên tài gõ cửa cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân. Trần Huyền Trân, con người có tên lạ ấy không phải là một thiên tài. Nhưng tôi ưa những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương.

    Cũng có lần thi nhân tỏ tình tương tư:

    Xa nhau gió ít lạnh nhiều,

    Lửa khuya tàn chậm, mưa đổ nhanh.

    Nhưng thường thì Huyền Trân tìm thi hứng, hoặc trong những cảnh đời buồn bã như cảnh đời cùng của thi sĩ Tản Đà:

    Có đàn con trẻ nheo nheo,

    Có dăm món nợ eo sèo bên tai.

    Nhện dăng già bút một vài đường tơ.

    Ngiên son lớp lớp bụi mờ,

    Một ôn tờ lại từng tờ cổ thi.

    Hoặc trong cảnh đồng quê:

    Mặt trời say rượu tắm ven đông

    Nước thẹn bâng khuâng ửng má hồng.

    Bầy sẻ đâu về cười khúc khích

    Rủ nhau lúa chín trộm vài bông.

    Đồng quê của Huyền Trân đã mất hết vẻ quê mùa. Nó làm duyên dáng như một cô gái thành thị.

    Huyền Trân ưa nhất là nói tình mẹ con.

    Người gợi cái hình ảnh Phạm Ngũ lão sau khi dẹp giặc Nguyên. Đêm ấy khao quân vừa tan. Ai nấy đều yên ngủ. Cho chiến mã cũng:

    Đuôi mừng phủi sạch bụi binh đao.

    Giữa lúc ấy Phạm Ngũ Lão một mình ngồi trong trướng lòng băn khoăn nhớ mẹ:

    Binh thư ngừng giở, bào quên cởi.

    Đèn nhớ mong ai bấc lụi dần.

    Thế rồi tướng quân quất ngựa tìm về chốn

    Nằm ôm gốc gạo lều dăm mái

    Cánh liếp che sương hé đợi chờ.

    Than ôi! Tướng quân về tới nơi thì mẹ già không còn nữa.

    Thơ Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em, tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió.

    Tháng 11-1941

    * * *

    (1) - Thi sĩ xin giấu tên thật.
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...