Bạn được Anh410183zy mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
2059 19
Kiếm tiền
Cửu Long đã kiếm được 20590 đ
Thạch Sanh Diễn Nghĩa.

Tên khác: Đại Cồ Việt nhất thống chí, Dẹp loạn mười hai sứ quân diễn chí.

thach-sanh-e56658f92e.jpg


Tác giả: Cửu Long

Thể loại: Cổ Đại, Diễn Nghĩa, Huyền Sử.​


Văn án

* * *

Loạn sứ quân tạo ra thảm cảnh

Mười hai phe tranh đánh lẫn nhau

Sứ quân tên họ như sau:

Lý Khuê, Bạch Hổ, Đằng Châu chiếm thành

Đất Thái Bình Nguyễn Khoan hùng cứ

Đỗ Cảnh Thạc, Xương Xí, Nguyễn Siêu

Lã Đường, Kiều Thuận tiếp theo

Rồi Ngô Nhật Khánh lại gieo kinh hoàng

Kiều Công Hãn giành dân với Tiệp

Loạn sứ quân chém giết lẫn nhau

Chiến tranh mãi đến năm sau

Cuối cùng Bộ Lĩnh tóm thâu nước nhà.


* * *

Lời tác giả:

Huyền sử là chuyện truyền thuyết có tính chất huyền hoặc, hoang đường. Nội dung có liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử. Ví dụ như các câu chuyện chép trong sách Việt Điện U Linh tập, Lĩnh Nam Chích Quái về Lạc Long Quân diệt ngư tinh, Thánh Gióng..​

Thạch Sanh - Loạn 12 sứ quân.

Đại Cồ Việt nhất thống chí.

Là sự kết hợp giữa truyện cổ tích Thạch Sanh cùng lịch sử Việt Nam thời Ngô, Đinh. (918 - 969)

Nếu độc giả chưa từng đọc qua tác phẩm diễn nghĩa nào. Xin đừng bấm đọc bộ truyện này.​


Link Thảo Luận - Góp Ý: -Here-
 
Chỉnh sửa cuối:
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 1:

Ba trăm năm lẻ Tuỳ, Đường, Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài,

Hồng châu họ Khúc hùng tài, Gặp đời Thúc Quý toan bài bá vương.

Lời dẫn:

Tiên thần có thể tính quái tượng, đoán quá khứ vị lai, hiểu âm dương, luận luân hồi, biết được nhiều chuyện ly kỳ nơi trần thế.

Nhân gian đồn thổi chuyện cổ, cho rằng có người bịa ra mà không biết rằng nó có thật. Chẳng qua đều bị kẻ gian che giấu, xóa nhòa lịch sử. Ấy thật là đáng tiếc.

Mấy trăm năm trước, Ngọc Đế giáng chiếu, cho Thái Tử cùng năm vị thần tướng hạ phàm đầu thai làm người. Khi đó, có vị Tiên Thần cả gan trộm xé đi một tờ Thiên Thư. Bị Ngọc Đế phát giác, đem ra Lôi Thần Đài xử trảm.

Có điều, tờ Thiên Thư kia không cánh mà bay, rơi xuống phàm giới. Được một vị kỳ nhân nhặt lấy.

* * *o0o---

Thiên Thư chép thơ rằng:

Cuối đời Hàm Thông Trung Quốc loạn,

Chuyển vận đường xa bỏ bê trễ.

Ngô Quyền, Khúc Hạo, Kiểu và Dương,

Soán đoạt giành nhau, dân kiệt quệ

Họ Đinh, đời Tống mới phong Vương.

Thời loạn sinh anh hùng, hay anh hùng sinh vì trừ loạn thế?

Nam Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt Thường, nhà Tần gọi là Tượng Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao Châu, Cửu Chân và Nhật Nam. Nhà Đường lại cải Giao Châu làm An nam phủ, quận Cửu Chân làm Ái Châu, quận Nhật Nam làm Hoan Châu.

Năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm mười hai châu, năm mươi chín huyện và đặt An Nam đô hộ phủ.

Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là năm mươi hai năm, gọi là đời Ngũ Quý hay là Ngũ Đại.

Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở đất Nam Giao, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục.

Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, nên thuận cho ông làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ và gia phong Đồng bình Chương sự.

Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.

Việt sử thông giám cương mục viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ.."

Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Thu tiết năm đấy, vua Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự".

Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Khúc Thừa Dụ thọ bảy mươi bảy năm thì mất, Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia sau này viết trong sách Sử giám Thông khảo tổng luận đều gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên chúa.

Vào năm kỷ Mão, sau khi nhà Đường mất, nhà Lương lên thay, cho Quảng Châu Tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, tự xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau.

Khúc Hạo kế nghiệp Khúc Thừa Dụ, đóng đô ở La Thành, vốn là trị sở cũ do nhà Đường xây dựng nên. Người đời nhận xét rằng Khúc Hạo có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, đã định ra hộ tịch và các chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất.

Theo sử lược, Khúc Hạo lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch.

Khúc Hạo vốn là người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: Đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất.

Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam.

Khi được tăng cường lực lượng từ các sĩ dân Trung nguyên di cư xuống phía Nam, Quảng Châu mạnh lên. Tiết thu tháng chín năm Đinh Sửu, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong mười nước thời Ngũ đại Thập quốc.

Nhận thấy nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu, bề ngoài là để 'kết mối hòa hiếu', song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm Đinh Sửu, khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Thừa Mỹ kế nhiệm cha, tự xưng là 'Khúc Trung chủ', lại tự phong làm Tiết Độ Sứ Tĩnh Hải Quân.

Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, Nam Hán không gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sau này, do Khúc Thừa Mỹ từ bỏ chính sách của cha, nhận chức Tiết độ sứ từ nhà Lương chứ không thừa nhận nhà Nam Hán nên có thể là nguyên nhân quân Nam Hán tiến quân xâm lược nước Việt.

Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam Hán là "Nguỵ Đình".

Một năm sau, tức năm Kỷ Mão, Khúc Thừa Mỹ sai sứ mang lễ trọng hậu sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt. Vua Lương là Mạt Đế Chu Hữu Trinh ưng thuận trao cho.

Vua Nam Hán là Hán Cao Tổ, thụy hiệu Thiên Hoàng Đại Đế nghe tin thì giận lắm, xô đổ ngự tọa, quát mắng quan lại trong triều.

Quan Thứ Sử Lý Tiến quỳ mà tâu rằng:

- Xin vua tôi chớ giận mà ảnh hưởng long nhan. Đợi bình định được tộc Khiết Đan phía Bắc, an ổn nước Cao Ly phía Đông, rồi khi đó đem quân Nam chinh cũng chưa muộn.

Hán Cao Tổ khen là phải, rồi cũng gác chuyện Tĩnh Hải Quân sang một bên.

Cho đến mùa thu tháng bảy, năm Quý Mùi (923), tức năm Càn Hanh thứ sáu, Vua Hán sai tướng Lý Khắc Chính đem sáu vạn tinh binh thảo phạt Giao Châu.

Thế binh hùng mạnh, Khúc Thừa Mỹ chống không được. Đến đầu năm Ất Dậu mới bị Lý Khắc Chính bắt sống đem về. Vua Hán cả mừng phong tước cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành.

Khi Thừa Mỹ bị bắt, vua Hán thân ra đình Nghi Phượng nhận tù binh, hỏi rằng:

- Ngươi cho ta là ngụy triều, nay lại bị trói đưa về đây là cớ sao?

Nói rồi sai người mang ra Ngọ Môn xử trảm.

Cũng cuối thời điểm đó, một bộ tướng dưới trướng Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ dấy binh nổi loạn. Binh lính Nhà Hán vì không quen thổ địa, bị quân của Nghệ mai phục đánh cho tan tác. Lý Khắc Chính thua trận liên tiếp, chống được hai năm thì đổ bệnh mà chết. Quân của Dương Đình Nghệ thừa thế chiếm lại Giao Châu, bắt sống Lý Tiến.

Vua Hán khi đó là Lưu Nhiễm mới lên ngôi, đặt niên hiệu là Bạch Long, hay tin này không biết làm gì, bèn hỏi các quan trong triều.

Tả Thị Lang Trần Bảo đứng ra, tâu rằng:

- Bẩm Bệ Hạ, đất Nam Giao vốn dĩ cằn cỗi, nhưng lại nằm ở vị trí hiểm địa. Nếu đem quân cường công ắt bị phục binh vây đánh. Nay Bệ Hạ mới lên ngôi không lâu, nên an lòng dân trước. Chinh chiến, dẹp loạn phải để sau.

Hán Đế gật đầu cho là phải, lại hỏi:

- Thế theo ý khanh, ta nên làm sao? "

Trần Bảo cung kính đáp:

- Theo ý của bề tôi, nên phái sứ giả, sang đó cầu hòa. Lại mang lễ trọng hậu, chuộc Lý Thứ Sử về kinh. Không những được lòng đám thuộc hạ, mà dân chúng cũng sẽ tôn người là minh quân.

Hán Đế lại hỏi:

- Ta biết cử ai đi sứ bây giờ?

Trần Bảo quỳ rạp xuống, tâu:

- Bề tôi tài mọn, nguyện đi sứ lần này.

Hán Đế cả mừng, truyền thái giám ban thưởng. Lại phong Trần Bảo làm Đại Học Sĩ, mang theo vải lụa gấm vóc, vàng bạc châu báu, cùng một ngàn con ngựa quý đi sứ Giao Châu.

Năm Kỷ Sửu, tức Đại Hữu năm thứ hai (929), Trần Bảo bước vào địa phận Giao Châu, truyền người dâng sớ cho Dương Đình Nghệ, ý muốn cầu hòa. Dương Đình Nghệ đọc xong sớ, truyền cho Trần Bảo vào điện, nhưng bên cạnh lại mai phục sẵn đao phủ.

Trần Bảo vừa bước vào, Dương Đình Nghệ liền trở mặt mà quát rằng:

- Tụi bay giết hại cha con nhà họ Khúc, bây giờ lại muốn cầu hòa ư. Thật khinh người quá.

Lời vừa dứt, xung quanh đao phủ nhảy xổ ra chặt luôn đầu Trần Bảo.

Vua Hán bấy giờ nghe được tin này, đập bàn giận dữ, quan lại trong triều im thin thít, không dám nói lời nào.

Một vị quan tên là Kiều Bình đứng ra hiến kế, âm thầm cho kẻ tài lẻn vào Giao Châu. Lại đầu quân dưới trướng Dương Đình Nghệ. Đợi khi nào lên làm chức to rồi thì hẵng dấy binh tạo phản, trong đánh ra ngoài đánh vào, đấy gọi là nội ứng ngoại hợp.

Hán Đế nghe vậy thì cả mừng, lại hỏi cử người nào đi cho được? Kiều Bình liền tiến cử con mình là Kiều Công Tiễn đi.

Năm Đại Hữu thứ tư, Dương Đình Nghệ lấy danh nghĩa là báo thù cho họ Khúc, chiêu binh mãi mã. Đánh chiếm lại quận Ái Châu và mấy tỉnh ở Hoan Châu. Ông nuôi ba ngàn giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ.

Cho đến mùa xuân tháng ba, năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết.

Sử Thần bàn rằng: Cuối đời Hán, Đường phần nhiều nuôi giả tử, là vì đương lúc trí, lực chọi nhau, hay là trong khi hoạn nạn cùng theo nhau, đắc lực trong lúc hoãn cấp, tức thì nhận làm giả tử, không biết rằng lòng lang khó dạ. Dấu của hớ hênh, là xui cho người lấy trộm, thiên tính như thế không thể làm khác được. Đình Nghệ nuôi giả tử đến ba ngàn người, thì bị nạn, còn hối sao được nữa.

Thế mới có thơ rằng:

Ba trăm năm lẻ Tuỳ, Đường,

Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài,

Hồng châu Khúc Hạo hùng tài,

Gặp đời Thúc Quý toan bài bá vương.

Cõi nhà hùng cứ nam phương,

Cung cầu một lễ, Hán Lương hai lòng.

Quy mô cũng rắp hỗn đồng,

Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.

Thừa gia vừa được tái truyền,

Bởi cầu Lương tiết hóa nên Hán tù.

Dương Đinh Nghệ lại báo thù,

Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.

Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,

Kiều Công Tiện lại nỡ lòng sao nên.

Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, tự phong mình làm Tiết Độ Sứ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa vững chắc, lại làm điều phản nghịch nên nhiều người ghét bỏ. Bế tắc, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Hán.

Bấy giờ, một bộ tướng dưới trướng Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, đang đóng binh ở Ái Châu. Nói về Ngô Quyền người này, sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ khen là bậc anh hùng tuấn kiệt," Trí dũng song toàn ". Nên được cắt cử canh giữ Ái Châu.

Mùa xuân năm Mậu Tuất, Ngô Quyền đang ngồi đọc sách thì phía chân trời xẹt qua một tia sét, tiếng sấm động ầm ầm. Ngô Quyền có dự cảm chẳng lành, bèn sai người đến Giao Châu dò la tin tức. Vài ngày sau, thám báo trở về, Ngô Quyền nghe tin Dương Đình Nghệ chết dưới tay gian tặc, phun một ngụm máu ngay giữa sảnh đường. Thân tín xung quanh phải dìu đỡ, vuốt ngực bấm huyệt hồi lâu mới tỉnh lại.

Vài tháng sau, Ngô Quyền kêu gọi binh lính từ các tỉnh lân cận, phát binh hướng Giao Châu mà tiến đánh.

Sách sử viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sợ mất mật. Sai sứ không quản ngày đêm trở về Hán triều cầu cứu.

Vua Hán nhân Giao Châu có loạn muốn chiếm lấy, liền phái Thái Tử Lưu Hoằng Tháo. Phong tước Vương, gọi là Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi binh Hán chưa sang, mùa thu năm ấy, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn rồi.

Lưu Hoằng Tháo khi đó ý muốn tiến binh bằng đường thủy, bèn hỏi kế Sùng Văn sứ là Tiêu Ích.

Tiêu Ích thưa rằng:

- Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là bậc hùng tài, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.

Hoằng Tháo cười mà nói:

- Chỉ là bọn giặc cỏ, còn chưa cần làm đến vậy.

Nói rồi bỏ qua lời khuyên của Tiêu Ích, đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Ngô Quyền.

Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá:

- Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, không biết tin Công Tiễn đã chết, kế nội ứng ngoại hợp của chúng ấy là tan rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.

Quả nhiên y như lời Ngô Quyền nói, Hoằng Tháo lần ấy tử trận, toàn quân đại bại. Mười vạn quân binh chỉ còn chưa đến hai vạn trở về. Vua Hán đồn trú ở cửa biển nhưng không giúp gì được, nhìn trời mà khóc ròng hai ngày liền. Sau cùng thu thập tàn binh trở về Kinh.

Người sau ca rằng:

" Dương công xưa có rể hiền,

Đường Lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.

Vì thầy, quyết chí phục thù,

Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.

Hán sai thái tử Hoằng Thao,

Đem quân ứng viện toan vào giúp công.

Bạch Đằng một trận giao phong,

Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu.

Quân thân đã chính cương trù,

Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương.

Về Loa Thành mới đăng quang,

Quan danh cải định, triều chương đặt bày. "

Mùa xuân năm sau, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô. Đóng đô ở Cổ Loa Thành, cai trị tám châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ai, Diễn, Hoan, Phúc Lộc. Lại tôn Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.

Người xưa có câu rằng: Cực thịnh tất suy. Nhà Ngô cai trị được hai tám năm, đến thời Ngô Xương Xí thì bị phân chia. Các hùng trưởng đua nhau nổi dậy, chiếm giữ quận ấp, người sau gọi đó là loạn mười hai sứ quân.

Tân Hợi năm thứ nhất (951), Ngô Quyền mất, ủy thác con trưởng là Ngô Xương Ngậpcho Dương Tam Kha là em của Dương hậu. Dương Tam Kha cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng - Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương, Nam Sách. Phạm Lệnh Công che chở cho Ngô Xương Ngập, đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào mà trú ẩn, Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được. Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Như Ngọc làm con nuôi.

Người đời sau có thơ diễu Tam Kha rằng:

" Nền vương vừa mới dựng xây,

Tiếc cho hưởng nước chưa đầy sáu năm.

Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,

Cán Long tuyền để trao cầm tay ai?

Tam Kha là đứa gian hồi,

Lấy bè thích lý chịu lời thác cô.

Cành dương đè lấn chồi ngô,

Bình vương tiếm hiệu, quốc đô tranh quyền. "


Một năm sau, Ngô Xương Văn dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công.

Ngô Xương Văn lên ngôi, xưng làm Nam Tấn Vương. Lại đón anh là Xương Ngập về kinh đô, cùng trông coi việc nước. Xương Ngập xưng làm Thiên Sách Vương. Một núi không thể chứa hai hổ, Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, vì thế nên hai Vương hiềm khích nhau, nhân gian cũng từ đó mà loạn.

 
Chỉnh sửa cuối:
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 2:

Thánh tổ tiên vương, Nhất bào bách noãn.


Sinh hạ bách thần, Khai quốc an dân

Tương truyền ở quận Cao Bình, có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con cái.

Hai ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Lại đi cầu khấn chùa chiền khắp nơi, cầu sao cho sanh được quý tử. Quả nhiên trời không phụ lòng người, Thạch bà thụ thai ba năm, rồi sinh một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Thạch Sanh.

Khi Thạch Sanh mới chào đời, trời sinh dị tượng. Bầu trời xuất hiện kim sắc, tiếng sấm rền vang vọng trời cao.

Lúc bấy giờ có Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh cùng Đồ Sơn Thuỷ Thánh, đang đi dạo trên vừng mây, bỗng thấy luồng hào quang phía dưới bắn lên, sáng tỏa cả vùng trời.

Tam Vị Tản Viên Sơn thánh gồm ba vị tiên hiền, từng phò tá Hùng Vương đánh bại giặc ngoại xâm. Nên khi mất, chân linh bay về trời được Thần Long Thánh Mẫu (Mẹ của Lạc Long Quân) phong tước thần. Cai quản mấy dãy núi vùng Ba Vì, Sơn Tây.

Còn Đồ Sơn Thuỷ Thánh là tiên nhân ở động Gia Ninh, Phong Châu.

Thấy đạo hào quang ấy, một vị gọi là Cao Sơn nói:

- Nay số nhà Ngô sắp tận, hùng cứ khắp nơi bạo loạn. Đứa bé này mới sinh ra trời ban dị tượng. Sau này ắt hẳn sau này làm nên vị tướng. Chúng mình trước phò vua Hùng dựng nước, cốt là yên lành xã tắc, nay thế loạn sắp nổi lên chẳng lẽ không giúp đời. Vậy thì hiền huynh trước ban cho đứa nhỏ này sức lực hơn người, dời non lấp biển chẳng nói chơi.

Đồ Sơn Thuỷ Thánh, Thuỷ Tinh cũng nói:

- Đạo hữu đã nói như vậy chẳng lẽ ta lại keo kiệt. Nên ban cho đứa nhỏ này tài bơi lội dưới nước. Hễ cứ xuống nước thì như cá về biển lớn, mặc sức mà tung hoành.

Thần Sơn Quý Minh gật đầu, nói:

- Đệ chẳng có tài bơi lội như nhị huynh, cũng không có sức nâng sơn bổ núi như đại ca. Đệ bèn tặng đứa nhỏ này một con mắt, có thể nhìn rõ hết thảy thế gian yêu ma quỷ quái. Cũng tặng thêm tài nghệ bắn cung bách phát bách trúng.

Sơn Thánh, Sơn Tinh nghĩ hồi lâu mà không biết tặng gì, bèn nói:

- Đợi thêm mấy năm, khi đứa bé khai trí, bọn đệ lại tặng cũng chưa muộn.

Bốn người quyết xong thì Cao Sơn, Thuỷ Tinh há miệng phun ra một ngụm chân khí nhập vào bụng của Thạch Sanh. Riêng Quý Minh thì móc một mắt bên phải của mình ra nhập vào đầu đứa nhỏ.

Bốn vị thần tiên chỉ là chân linh nên vợ chồng Thạch Ông, Thạch Bà không diện kiến được tiên dung. Chỉ thấy có ba đạo hào quang nhập vào người Thạch Sanh. Biết được đó là điềm lành, bèn quỳ xuống hướng lên trời cúng bái.

Qua được sáu tháng, Thạch Nghĩa bàn với vợ:

- Con chúng ta khi sinh, trời nảy dị tượng. Điềm báo sau này không phải phàm nhân thông thường. Quanh vùng này chỉ có Lê Lương núi Đuôi Ong là có bản lĩnh cao cường. Chúng ta ngày mai sắm lễ vật, đưa Sanh nhi đi bái vị kia làm sư. Như thế được hay chăng?

Thạch bà khen là phải. Tối hôm đó, vợ chồng hai người sửa đồ sắm lễ. Đợi đến sáng sớm liền ẵm Thạch Sanh lên đường.

Hai vợ chồng vất vả ngày đêm, cuối cùng đến trước hồ Thanh Hen. Thấy xa xa có người vừa chèo đò vừa hát, Thạch ông cao giọng hỏi:

- Xin hỏi nhà của Lê Lương núi Đuôi Ong ở đâu? "

Người chèo đò đáp vọng lại:

- Đi thêm một quãng, thấy có ngọn núi nhỏ, cao chóp vót như đuôi ong. Tiến vào nữa là thấy túp lều của Lương tướng quân đó.

Lê Lương vốn là bộ tướng dưới trướng Ngô Quyền. Sau khi Ngô Quyền băng hà thì về núi ở ẩn. Người dân xung quanh vẫn thường gọi ông là Lương tướng quân.

Thạch lão cảm tạ một tiếng rồi dẫn vợ cùng con mình đi lên. Nhưng mới đi được một quãng thì sương trắng nổi lên, che hết tầm nhìn. Rồi nghe vài tiếng lộc cộc, một lão tiều phu không biết từ đâu đi ra, xuất hiện trước mặt hai người.

Thạch ông, Thạch bà thấy lão tiều phu môi đỏ răng hồng, quả là tiên phong đạo cốt ngỡ là tiên nhân hạ phàm, bèn quỳ xuống vái lạy.

Lão già hỏi hai người:

- Các ngươi là đưa thằng bé này tới bái Lê Lương học nghệ đấy ư?

Thạch ông gật đầu đáp phải.

Lão già nói:

- Kẻ này tướng mạo kỳ tài, nhưng số đoản mệnh. Lê Lương thu nhận nó, nhưng không quản được mệnh của nó đâu."

Thạch ông cùng Thạch bà sợ lắm, quỳ gối dập đầu mà rằng:

- Xin tiên nhân giúp vợ chồng chúng con.

Lão già thở dài, đáp:

- Mệnh thiên chú định, không thể làm trái.

Nói rồi ngâm:

Kết bái huynh đệ,

Tình nghĩa kim lan.

Một đao một tiễn,

Diệt yêu trừ tà.

Phò Vua giúp nước,

Bình thiên hạ.

Trần đời tuấn kiệt,

Mấy ai hơn?

Bỏ mình vì tri kỷ,

Dũng nhân, trượng nghĩa.

Sử sách lưu tên,

Xứng danh anh hùng!

Thạch ông cùng Thạch bà chẳng hiểu gì, nhưng nghe chữ bỏ mình liền biết đó là điềm chẳng may. Liền lạy lục xin lão già nghĩ cách.

Lão già lấy trong người ra một tấm giấy vàng, đưa cho vợ chồng Thạch Nghĩa rồi nói:

- Thôi được rồi, niệm tình hai người làm nhiều việc thiện. Ta sẽ giúp một phen. Hai người đi về phía Nam tầm hai dặm, sẽ thấy một ngọn núi. Trong núi có hang, đi vào cứ lấy gậy sắt mà gõ xuống đất. Lõm chỗ nào thì đào lên, dưới đó chắc sẽ có bảo thiết. Đào được rồi thì đưa về làng Phúc Sen, nhờ thợ rèn đúc một thanh đao, lưỡi đao khắc Long Hình, cán đao vẽ Hổ Bộ. Lá bùa này thì cho vào túi đeo bên mình đứa trẻ. Khi nào gặp tai kiếp thì đốt nó lên, ta sẽ hiển linh giúp nó một phen.

Lão già này chính là Sơn Thánh Sơn Tinh biến thành.

Thạch ông, Thạch bà nghe vậy cả mừng, liền cúi đầu vái tạ. Nhưng vừa ngẩng đầu lên thì đã không thấy lão già kia đâu nữa.

Hai ông bà đi thêm một đoạn thì gặp một ngôi đền, phía ngoài đền có ông lão tóc bạc đang ngồi ngâm nga:

Thánh tổ tiên vương

Nhất bào bách noãn

Sinh hạ bách thần

Khai quốc an dân

Vạn xuân an lạc

Hai ông bà nhìn ông lão này dong nhan mười phần tương tự lão thần tiên vừa rồi, vội tiến tới bái lạy.

Ông lão đỡ hai người dậy rồi cười nói:

- Ta biết hai người đứa đứa bé này tới bái nghệ Lê Lương. Năm đó khi đứa bé này mới sinh ra được Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh, cùng Đồ Sơn Thuỷ Thánh ban phước. Ta lúc đó không biết tặng gì, đến hôm nay mới nghĩ ra được. Nãy tặng nó một đạo bùa chú nghĩ lại cũng thấy hơi phèn. Bèn tặng thêm nó một giọt chân long huyết của Thánh Tổ Tiên Vương, Lạc Long Quân. Hy vọng nó sau này thành tài giúp đỡ thương sinh.

Nói rồi lấy trong ngực ra một bình ngọc, rót chân long huyết vào miệng Thạch Sanh. Long huyết vừa vào miệng, trước ngực Thạch Sanh nổi lên một hình xăm ngũ trảo chân Long.

Thạch Ông, Thạch Bà vui mừng không xiết, vừa định nói lời cảm tạ thì một trận gió quét qua. Khung cảnh trước mắt biến đổi trở về non cao rừng xanh, nào có đền thờ chùa miếu gì đâu?

Hai người đem chuyện này kể lại với Lê Lương. Lê Lương nghe xong giật mình, nói rằng:

- Lạc Tiên Vương là thủy tổ của người Việt ta, nay tiên thần hạ phàm ban phước cho đứa nhỏ này. Nó sau này ắt hẳn bất phàm.

Nói rồi đồng ý nhận Thạch Sanh làm đệ tử, hứa là đợi khi nào đủ mười ba tuổi. Sẽ hạ sơn dạy hắn võ nghệ. Vợ chồng Thạch Nghĩa cảm tạ, để lại lễ vật rồi đi về.

Thời gian cứ thế trôi đi, khi Thạch Sanh tròn tám tuổi thì ở Cao Bình, dịch bệnh nổi lên. Thạch ông Thạch bà bệnh nặng không qua khỏi mà mất. Thạch Sanh nhờ tiên thần ban phước mà bệnh tật không vướng thân.

Lại qua năm năm, Thạch Sanh đủ mười ba tuổi. Lê Lương y lời hứa, hạ sơn dạy Thạch Sanh võ nghệ.

Thạch Sanh học ba năm thì thuộc lòng hết sáu mươi đường đao pháp Hoành Tảo Thiên Quân, cùng một bộ Phục Ma Đao. Lê Lương cũng phải tấm tắc khen là người tài.

Lại qua vài năm, khi Thạch Sanh tròn mười tám.

Một hôm, Thạch Sanh đến gặp Lê Lương, quỳ xuống mà rằng:

- Bẩm sư phụ, con nay đã tròn mười tám. Tuổi này đáng ra phải tòng quân, đánh giặc giúp nước nhà mới phải. Chứ không thể ở mãi trên núi này chăn dê chăn bò mãi được. Lòng con hướng về đất nước, xin người hiểu cho.

Lê Lương nói:

- Cha mẹ con khi đăng sơn núi Đuôi Ong thì gặp tiên nhân. Vị tiên nhân kia phán rằng con sau này mệnh đoản. Nếu xuống núi chớ có mang lòng hối hận.

Thạch Sanh đáp:

- Đại trượng phu sống ở đời đâu có thể hèn nhát mãi thế được. Con có chết cũng phải chết ở nơi sa trường. Chứ không muốn chết già nơi đây.

Lê Lương bật cười, khen là phải. Lát sau lấy ra một phong thơ, trao cho Thạch Sanh rồi nói:

- Thôi được rồi, mệnh thiên đã chú định, không thay đổi được. Con cầm lấy phong thơ này, đến động Hoa Lư, gặp một người tên Đinh Bộ Lĩnh. Người này với ta trước phò Tiền Ngô Vương, y thấy thơ này sẽ giúp đỡ con tận tình.

Thạch Sanh mừng rỡ cảm tạ, vội làm lễ ba quỳ chín lạy. Sau cùng trở gót đi thẳng xuống núi.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 3:

Bước chân vào Châu buổi mới đầu.


Sinh tử giao ước nghĩa kim lan.

Tự cổ chí kim, phàm là một nước không thể có hai vua. Cũng như một rừng không thể chứa hai hổ.

Ấy thế mà đất Nam thời Hậu Nhà Ngô. Ngô Xương Văn hiệu Nam Tấn cùng Ngô Xương Ngập, hiệu Thiên Sách đều tự xưng là Vương. Tranh giành quyền vị, khiến dân chúng rơi vào cảnh lầm than. Hùng chủ các ấp, quận không cam chịu phận làm tôi, rục rịch muốn khởi binh tạo phản.

Người đời sau than rằng: Nam Tấn Vương lật đổ Dương Tam Kha rồi, khôi phục cơ nghiệp cũ, nối được kỷ cương hoàng gia. Nhưng lại kính anh, câu nệ phận đích trưởng rước Xương Ngập về Kinh, muốn cho cùng hưởng phú quý. Mà lại không biết rằng lòng người khó đoán, Xương Ngập làm sự đến như vậy thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú rất là ti tiện.

Tạm gác chuyện đó qua một bên, nhắc tới Thạch Sanh từ khi hạ sơn liền quay về nhà. Sắm sửa đồ cúng, ra thăm mộ cha mẹ, rồi lấy lương khô, vác đao cưỡi trâu hướng Trường Châu mà đi.

Hôm nọ, Thạch Sanh tới Trường Châu, khi đó là vào tiết Hạ Chí, trời nóng nực bèn vào cái miếu gần đó nghỉ tạm. Đang tới gần thì chợt thấy một gã ất ơ đi ngang qua. Gã này đi đứng xiêu vẹo, trên tay cầm một bình hồ lô, mùi rượu nồng nặc. Hiển nhiên là một con ma men.

Thạch Sanh liếc mắt nhìn, thấy người kia trán vồ, mũi lệch, hình dong xấu xí. Chỉ nhìn lát rồi cũng không đem lòng để ý. Trong lúc đó thì gã kia cũng đã nhìn thấy Thạch Sanh. Nói tới Thạch Sanh vốn dĩ khôi ngô tuấn tú, da dẻ sáng ngời. Người kia vừa nhìn vừa tấm tắc kêu lạ lắm, bèn tiến tới hỏi thăm tên họ.

Thạch Sanh đáp:

- Tôi họ Thạch, tên Sanh. Từ nhỏ lớn lên ở quận Cao Bình. Mẹ cha chỉ là nông phu. Không biết huynh đài hỏi làm chi?

Người nọ nghe thế, bụng lại nghĩ, kẻ này gia thế bình thường nhưng tướng mạo khoáng thế kỳ tài, sau này ắt thành nghiệp lớn. Bèn nói:

- Tôi họ Lý tên Thông, nhà mấy đời bán rượu. Nhân đi qua chỗ này gặp vị huynh đệ, thấy chẳng phải vật phàm trong ao, nên ngỏ lời hỏi thăm đấy thôi.

Hai người mới gặp mà tựa như đã quen từ lâu. Lý Thông đem rượu của mình ra mời, Thạch Sanh không từ chối uống ngay.

Luận đàm một hồi lâu, Thạch Sanh thấy Lý Thông kiến thức uyên bác, am hiểu sử sách. Bèn đem anh hùng trong đất Việt ra thử dò hỏi một hồi. Lý Thông đều trả lời được hết. Bấy giờ Thạch Sanh mới ngả mũ bái phục, ôm quyền nói:

- Tôi vốn dĩ thấy tướng mạo của huynh nên đem lòng xem thường. Nay nghe lời vàng thước ngọc mới vỡ lẽ ra, huynh tài trí uyên bác, là bậc học sĩ mới phải.

Lý Thông cười mỉm, đáp:

- Chuyện đó có là chi đâu, tôi từ nhỏ bái được ân sư, đọc vài năm sách, lại coi binh pháp. Ý muốn sau này đứng ra giúp nước chống giặc ngoại xâm. Nhưng tiếc hận sinh ra lỡ thời, nay nhà Ngô phân chia thành hai vương, xưng là Nam Tấn cùng Thiên Sách. Hùng chủ vì thế mà không an phận bề làm tôi, quan quyền lộng hành triều chính. Thế sự như thế tôi thấy chán lắm, nên mới bỏ mấy kỳ khoa cử. Về quê làm một tên bán rượu đấy thôi.

Thạch Sanh mới từ vùng quê núi đi ra, không hiểu thế thời, nghe vậy cũng chỉ gật gù khen là phải.

Lý Thông lại nói:

- Tôi tối hôm qua liếc nhìn trời, thấy tinh tượng nổi lên. Nghĩ chắc hôm nay sẽ gặp một vị có tướng thần dũng. Nên từ sáng sớm đã cắp rượu đi dạo chung quanh. Quả nhiên qua miếu này gặp được. Nếu huynh đài không chê tôi dong nhan xấu xí, chúng ta liền kết bái huynh đệ. Như thế có được hay chăng?

Thạch Sanh nghe vậy cả mừng, bật dậy ôm quyền, nói:

- Tôi từ nhỏ cha mẹ mất sớm, côi cút một thân một mình mấy chục năm trời. Hôm nay may mắn gặp huynh ở đây, đó là phúc phận chứ chẳng nói chơi. Từ xưa tới nay các bậc cao nhân đều tài trí hơn người, chứ dong nhan có kể gì.

Hai người nhìn nhau, chốc lát đều bật cười ha hả.

Thế là Lý Thông cùng Thạch Sanh đồng thời cắt máu ăn thề. Nơi này giữa miếu hoang, không có đồ cúng bái. Lý Thông lấy hai chiếc lá chụm lại thành chén, nhỏ máu rót rượu. Rồi hai người cùng quỳ trước tượng thần miếu, vái mỗi người ba cái cùng thề rằng:

- Hai chúng tôi là Lý Thông cùng Thạch Sanh. Giữa miếu hoang gặp gỡ, lời nói hợp lòng nhau, ắt cũng là duyên trời ban. Tuy rằng khác họ nhưng nguyện kết làm anh em. Vì gặp nhau đột ngột, không có đồ tế bái, bèn lấy chén rượu nhạt nhỏ máu ăn thề. Thề rằng, cùng nhau đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt.

Thề xong, hai người đem so tuổi thì Lý Thông làm huynh, Thạch Sanh làm đệ.

Hai người xưng huynh gọi đệ, cùng cười lớn, lấy hồ lô rượu chia nhau mà uống một bữa thật say.

Thời gian trôi qua được mấy nén hương, Thạch Sanh hơi men nổi lên, nói:

- Đại huynh, tiểu đệ từ nhỏ lớn lên ở vùng sông núi, bái được một vị cao nhân học võ. Nay gặp huynh ở đây liền trổ vài đường võ nghệ cho huynh xem.

Nói rồi cầm đao bước ra giữa sân múa võ. Đao của Thạch Sanh nặng tới trăm năm mươi cân, múa lên khiến gió cát bay vù vù.

Lý Thông tấm tắc khen hay, gật gù bảo:

- Không giấu gì em, tôi từ nhỏ được Thánh Chèm, Lý Ông Trọng hạ phàm thu làm đồ. Học được hai món pháp thuật là Thông Linh và Kinh Dịch. Nay gặp được em có tài võ công cao cường, hai chúng ta mà hợp lực thì chẳng khác chi hổ mọc thêm cánh.

Thạch Sanh giật mình, nói

- Phải chăng là Uy mãnh Oanh liệt Phụ tín Đại vương, Lý Thân, Lý Ông Trọng?

Người đời có câu sau:

Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp

Ông Trọng từ thâm vân đạm nùng

Lý Thông cười đáp:

- Hiền đệ còn biết danh tiếng của gia sư?

Thạch Sanh nói:

- Lý Ông Trọng trước phò Hùng Vương đời thứ mười tám, danh tánh truyền xa ai ai mà không biết.

Hai người cùng cười lớn, uống rượu luận đạo tới khi trời trở tối mới về.

Lý Thông nói:

- Huynh nhà cũng chẳng giàu sang gì. Chỉ bán rượu kiếm sống qua ngày. Nếu đệ không chê thì đến nhà huynh ở tạm.

Thạch Sanh cả mừng, gật đầu đồng ý.

Hai người cùng cười rồi dắt tay nhau đi. Về tới nhà, Lý Thông đem chuyện kết bái huynh đệ nói với Lý mẫu, rồi lại bảo giết gà làm bữa tiệc khoản đãi.

Lý mẫu nghe chuyện, trong bụng kêu lạ lắm. Bà biết rằng Lý Thông từ nhỏ đã kỳ lạ hơn những đứa trẻ khác, mới sinh ra đã mọc răng, lên bảy tháng tuổi thì đã biết mở miệng nói chuyện. Sau lớn lên lại ham đọc sách, học binh pháp. Khi rảnh rỗi thường lấy gạch đá làm kỳ, gỗ củi làm binh, bày trận giả trong sân mà chơi. Mới đầu người xung quanh còn chưa biết gì, nhưng sau này có một vị tướng quân đi qua nhìn Lý Thông bày trận trong sân, hỏi rằng:

- Ngươi bày trận gì vậy?

Lý Thông đáp:

- Trận này gọi là Đồng Trụ Tàng Thiên (Trụ Đồng Giấu Trời).

Vị tướng quân kia nhìn, thấy Lý Thông xếp đất cát thành hai hàng dài, ở giữa lại lấy củi gỗ đặt trên đá nhọn. Vị tướng quân nọ thấy thế thì nghi ngờ hỏi:

- Đồng trụ đang cắm vào đâu?

Lý Thông đáp:

- Đang cắm ở giữa sông đấy?

Tướng quân kia hỏi tiếp:

- Sông kia sâu như thế, sức người làm sao cắm được?

Lý Thông hỏi ngược lại:

- Đợi thuỷ triều rút chẳng phải là cắm được ư?

Nói rồi lại ngâm:

- Dây giữ cọc, cọc giữ dây, dây giữ thuyền. Đấy là phép Đồng Trụ Tàng Thiên!

Vị tướng quân kia nghe xong thì giật mình thất kinh, vội tụt khỏi yên ngựa, hướng Lý Thông xá dài một cái, nói:

- Mấy vạn sinh mệnh đất Nam vì kế này mà được cứu rồi.

Lý Thông cười nói:

- Trò trẻ con chơi mà thôi, tướng quân chớ để ý.

Nói rồi đi thẳng vào nhà.

Vị tướng quân kia còn ngẩn ngơ, lát sau mới cảm thán, nói:

- Kẻ này sau lớn lên, ắt khiến binh tướng thiên hạ mới nghe tới đã hãi hùng khiếp vía!

Vị tướng quân kia chính là Tiền Ngô Vương, Ngô Quyền. Năm ấy nhà Nam Hán muốn công đất Nam, chiếm lại Giao Châu. Ngô Quyền dùng kế Đồng Trụ Tàng Thiên, chôn cọc gỗ dưới sông Bạch Đằng, lại lợi dụng thủy triều, quả nhiên thủy quân nhà Hán đại bại. Khi gặp Ngô Quyền, Lý Thông lúc đấy mới chỉ có ba tuổi.

Sau này Vua Lê Thánh Tông có thơ rằng:

**Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu,

Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về chầu.

Rửa không thay thảy thằng Ngô dại,

Dịu một lâng lâng khách Việt hầu.

Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó,

Nào hôn Ô Mã lạc loài đâu?

Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc.

Thong thả dầu ta bủa lưới câu..

**

Nhắc tới Thạch Sanh được khoản đãi nhiệt tình, Lý mẫu lại xem và đối đãi như con ruột. Thạch Sanh cảm động rơi nước mắt, quỳ xuống lạy, nói rằng:

Con vốn từ nhỏ mất cha mất mẹ, nay gặp huynh trưởng cùng Lý mẫu không chê nghèo hèn nhận làm giả tử. Cái ơn này có chết cũng không quên.

Năm Nhâm Tý, mệnh sao Vân Hờn, ở Trường Châu có yêu quái hoành hành, am hiểu thần thông, quấy dân nhiễu chúng. Nam Tấn Vương cùng Thiên Sách Vương bấy giờ đang còn lo tranh đoạt ngôi Vua mà bỏ lơ chuyện này, không ngó ngàng gì đến. Nói tới vùng Lý Thông khi đó có con Chằn Yêu, đạo hạnh sáu trăm bảy trăm năm. Quan binh không trấn áp được.

Thiên Sách Vương bèn viết lệnh rằng: Hằng tháng, cứ đến ngày âm khí nặng nhất, thì dâng tế người sống cho Chằn Tiên, đổi lại an bình.

Tháng đó đến ngày dâng người, lại đúng lượt nhà Lý. Quan binh đưa văn trạng đến. Lý Thông đọc văn trạng xong, ngước lên trời thở dài mà oán rằng:

- Thời thế loạn lạc, đất nước hai Vua, chỉ lo tranh giành quyền vị bỏ mặc dân chúng lầm than. Khiến yêu ma quỷ quái từ âm tào địa phủ ngoi lên nhân gian, hoành hành khắp nơi, Sách Vương thấy thế cũng bỏ mặc làm ngơ. Lại lập miếu thờ, đòi dâng người tế sống. Đó chẳng phải là hành vi của bậc hôn quân hay sao?

Tên quan binh nghe Lý Thông buông lời nhục mạ Thiên Sách Vương thì giận lắm, tuốt gươm đòi chém. May thay mấy tên thân binh ngăn lại, nói rằng:

- Tên này chuẩn bị làm vật tế cho Chằn tiên, không thể giết bây giờ được.

Tên quan binh nọ còn căm giận, chưa chịu tha. Dân chúng xung quanh phải hết lời van lơn mãi, gã mới nói:

- Tội ngươi đáng ra phải lăng trì xử tử đe chúng. Nhưng niệm tình mấy ngày sau làm tế lễ Chằn tiên nên ta tha cho. Tuy tội chết được tha, song tội sống khó tha.

Dứt lời, truyền tả hữu quật Lý Thông xuống đánh năm chục roi.

Thạch Sanh cả giận, toan rút đao đứng ra can ngăn thì bị Lý mẫu cản lại.

Lý Thông không hề sợ hãi, cười mà nói rằng:

- Hay cho câu: Tội chết được tha, tội sống khó tha. Tôi đây ba ngày nữa vào bụng Chằn Tinh rồi thì miễn tội sống làm chi nữa. Ông bây giờ giết tôi đi là hơn.

Quân sĩ không nghe, đem Lý Thông đặt lên sập, lấy thừng trâu bện lại mà đánh đến thịt nát máu văng, chết đi sống lại mấy lần. Khi tả hữu đánh được năm mươi roi mới chịu thôi.

Lý Thông đêm hôm đó không ngủ được, ngồi một mình ngoài sân than ngắn than dài.

Thạch Sanh thấy vậy liền nói:

- Huynh ơi, ba ngày sau huynh khỏi cần đi làm gì. Để đệ đi thay cho.

Lý Thông nghe thế, mặt trở giận, quát:

- Ngươi có coi ta là huynh trưởng nữa hay chăng mà nói lời như thế?

Thạch Sanh đáp:

- Đệ từ nhỏ luyện võ với bậc kỳ nhân. Tuy Chằn Tinh đạo hạnh cao lắm, nhưng đệ cũng có thể đánh ngang tay với nó một chầu.

Lý Thông không nghe, lại quát:

- Ngươi học võ nhưng đấu sao lại thần thông của yêu ma quỷ quái. Đến lúc đó bỏ mạng thì chí hướng hai ta còn ai làm nữa?

Thạch Sanh đáp:

- Trước đây chúng mình cắt máu ăn thề, nói có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nay huynh một mình vào chỗ chết, đệ còn sống làm sao? Đệ từ nhỏ được tiên nhân đoán mệnh, lại ban cho bùa chú, bảo là hễ gặp tai kiếp thì đốt lên ắt sẽ có tiên thân cứu giúp.

Nói rồi đưa cán đao cho Lý Thông xem.

Lý Thông xem lá bùa, lại đưa lên mũi ngửi, đoạn nói:

- Bùa chú này làm từ vỏ cây Sến Mật, lại được hấp thụ nhật nguyệt tinh hoa. Quả là tấm phù chú hiếm gặp. Nhưng nó không dùng để đấu pháp với yêu quái được.

Thạch Sanh ủ rũ, lại nói:

- Đệ trước được Tiên Nhân Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh ban phước, xin huynh nhìn xem.

Nói rồi vạch áo ra để lộ hình xăm chân long trước ngực

Lý Thông thấy thì cả kinh, vội nói:

- Chân long này dựa theo chân linh của Tiên Vương Lạc Long Quân mà phác thành. Chỉ có truyền nhân của Tiên Vương mới sở dụng.

Lý Thông nói rồi đưa ngón tay lên miệng, cắn đầu ngón tay cho máu chảy ra, quệt lên mắt, niệm chú ngữ, lát sau mở ra nhìn trừng trừng vào Thạch Sanh. Chỉ thấy Thạch Sanh toàn thân toả ánh sáng chói mắt, trên đầu ngự đỉnh một con chân long, đầu lạc đà, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, chân hổ.

Lý Thông sử mắt phép xong, cười nói:

- Đệ đã có ý như vậy, huynh làm sao dám chối từ. Ba ngày sau là vào ngày âm khí nặng nhất. Ta phải nghĩ kế tiêu trừ âm khí của nó. Năm này thuộc mệnh Mộc, sao Vân Hờn, mai lại là ngày chẵn. Chúng mình lập đàn cầu âm quân, xin lệnh thu hồi âm khí, phong tỏa Hoàng Tuyền lộ. Không cho Chằn Yêu trốn xuống âm giới.

Ngày hôm sau, Lý Thông đi ra chợ, mua hương vàng, đồ lễ tế đủ cả. Lại sắm một bộ tranh ngũ hổ, bốn bát muối, bột hùng hoàng.. Tối hôm đó trời trăng sáng tỏ, Lý Thông bày biện cờ xí lập đàn. Đúng canh hai, Lý Thông đi đến trước bàn cầm lấy kiếm gỗ đào, một tay vẽ bùa, miệng niệm chân ngôn, đốt bùa lên, lấy gươm chỉ xuống, xảy thấy trời trong trăng tỏ, giây phút mù đen mịt mịt, từ dưới đất hiện lên hai vị tôn thần. Một vị mặc áo bào màu trắng, đầu đội mũ cao, tay cầm xiềng xích; vị còn lại thì khoác bộ áo bào màu đen, đầu đội mũ tròn, tay cầm thẻ bài hình vuông, trên đó viết "Thiện ác phân minh". Hai người này chính là Hắc Bạch Vô Thường, chuyên dẫn linh hồn người chết về địa phủ.

Bạch Vô Thường tới trước đài hỏi:

- Vị chân nhân này gọi ta có việc chi?

Lý Thông xá một cái, nói:

- Bẩm Vô Thường nhị gia, nhân gian có Chằn Yêu hoành hành, nhiễu dân hại chúng. Tôi đây lập đàn cầu hai vị lên trấn áp con yêu này.

Bạch Vô Thường lắc đầu, nói:

- Con Yêu này đạo hạnh sâu quá, hai chúng tôi trấn áp không được. Xin chân nhân tha thứ.

Lý Thông làm mặt buồn, nói:

- Thế thì thôi vậy, có điều tôi cũng không thể kệ mà không lý đến. Ngày mai, tôi muốn dùng phép trấn áp nó thử một phen. Ngặt nỗi đúng vào ngày âm khí nặng quá. Mong nhị vị thu hồi âm binh, lại phong tỏa Hoàng Tuyền lộ. Không cho nó trốn xuống m Phủ, tôi ắt có cách giết nó. U cũng là tạo phúc cho nhân gian đó vậy.

Bạch Vô Thường gật đầu, đưa âm binh lệnh cho Lý Thông rồi nói:

- Âm Binh lệnh chưởng quản binh lính m Giới. Giơ nó ra rồi thét: Thu. Tức thì âm khí sẽ tán đi. Còn Hoàng Tuyền Lộ ngày mai sẽ được phong tỏa. Chân nhân yên lòng.

Người đời có thơ kể về âm Binh rằng:

Lệnh sai văn võ đôi hàng,

Thiên tiên lực sỹ,

Vạn vạn hùng binh,

Âm binh các đội các cơ..

Lập thành chỉnh túc thủy bộ chư dinh,

Binh trận bố giáp..

Tróc phọc bắt nhốt tà tinh..

Hai vị Hăc Bạch Vô Thường nói rồi hóa thành một luồng gió biến mất.

Lý Thông đốt lá bùa thứ hai, miệng khẽ ngâm:

**Nhớ xưa đang thuở triều Hùng

Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa

Trời thương Bách Việt sơn hà

Trong nơi thảo mảng nẩy ra kỳ tài

Lên ba đang tuổi anh hài

Roi vàng ngựa sắt ra oai trận tiền

Một phen khói lửa dẹp yên

Sóc Sơn nhẹ bước thần tiên lên trời. **

Tức thì giữa trời sấm sét đùng đùng, một vị thần toàn thân mặc giáp sáng lóa, cưỡi kim mã, cầm long thương hạ xuống, nói:

- Thánh Gióng ở đây, vị chân nhân này có gì sai khiến?

Lý Thông nói:

- Bẩm Thánh quân, nhân gian có Chằn Yêu hoành hành. Ngày mai tôi muốn dùng phép trấn áp nó. Xin cậy Thánh quân canh giữ bốn phương cửa miếu, chớ cho nó trốn thoát, để tôi trảm nó.

Thánh Gióng chỉ gật đầu, rồi cưỡi ngựa về trời. Lý Thông cầu thần xong rồi, lại quay đến miếu Chằn, rải bột hùng hoàng xung quanh, lại đặt bốn bát muối quanh bốn góc tường, làm xong hết thảy rồi lúc đó mới về nhà.

Tối ngày hôm sau, Lý Thông bị quan quân giải đến miếu Chằn Tinh để tế lễ. Thạch Sanh cầm đao âm thầm theo sau. Vào lúc canh ba, Lý Thông đang ngồi trên sập, một luồng gió lạnh thổi qua mang theo mùi tanh hôi nồng nặc, cây cối ngoài miếu ngã rào rào. Phía cửa vào chợt xuất hiện một con trăn lớn, há miệng nhằm Lý Thông mà táp tới.

Thạch Sanh sớm đã mai phục sẵn ở bên, vung đao thét lớn:

- Yêu vật to gan, có ta ở đây. Còn không mau chịu chết.

Chằn Tinh cả giận, vung đuôi quật đến Thạch Sanh, một người một yêu quần ẩu ngay giữa miếu thờ.

Thạch Sanh trên người có chân long hộ thể, Chằn Yêu cứ há miệng muốn cắn thì chân long trừng mắt khiến nó không dám làm liều, liền muốn thi triển thần thông. Nhưng quanh miếu rải đầy hùng hoàng, quanh bốn góc lại có muối. Thần Thông của nó không thi triển được. Chằn Tinh sợ quá, há miệng thâu nạp âm khí, muốn trốn xuống âm phủ.

Lý Thông cả giận, giơ m Binh lệnh lên, quát:

- Chạy đâu cho thoát. Thu!

Tức thì âm khí xung quanh tán hết. Chằn Tinh không trốn được vội quay đầu chạy ra khỏi miếu. Thạch Sanh vác đao rượt theo. Nhưng Chằn tinh lướt đi nhanh quá, hắn đuổi không kịp. Lý Thông lại hét lớn:

- Thánh quân ở đâu, còn không hiện thân thì con Yêu này chạy mất.

Dứt lời, có tia sét từ trên trời đột nhiên bổ xuống, một vị thần tướng tay cầm long thương, thân mặc kim giáp, cưỡi ngựa kim ô hiện lên, chính là Thánh Gióng. Thánh Gióng vừa hạ phàm, vung long thương quát:

- Yêu vật to gan, ải này bổn Thánh canh giữ, không qua được!

Thần tiên vốn không được can dự vào chuyện phàm trần. Thánh Gióng thành tiên nên không thể giết Yêu ở phàm giới được. Nhưng ngăn cản nó chạy, lại là có thể. Chằn Tinh trốn không được, bí quá đành quay đầu lại đánh nhầu. Thạch Sanh sức lực hơn người, qua vài trăm hiệp liền chặt được đầu Chằn Tinh.

Lý Thông cả mừng, cười ngớt không dứt. Sau cùng đốt hương tế lễ, trả Âm Binh lệnh cho Hắc Bạch Vô Thường, lại cảm tạ Thánh Gióng hạ phàm giúp đỡ.

Sáng hôm sau, quan binh đến xem thì thấy Lý Thông cùng Thạch Sanh ở một chỗ đang uống rượu, bên cạnh cho thi thể Chằn Tinh. Chuyện này chẳng mấy chốc vang xa, người người đồn thổi rồi truyền vào tai hai vua. Thiên Sách Vương liền truyền lịnh ban thưởng, rồi phong cho Lý Thông làm Trảm Yêu Chân Quân. Nam Tấn Vương lại phong làm Hiển Thánh Chân Quân, lĩnh chức Đô đốc quận công.

Người đời đều khen Lý Thông mà bỏ qua Thạch Sanh, sau có thơ rằng:

**Thuở bước vào Châu bái nghĩa huynh.

Cùng nhau bày trận trảm Yêu Tà.

Cứu dân thoát khốn mừng khôn xiết.

Hào kiệt oai danh buổi mới đầu. **
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 4:

Truyền phong thơ, Lý Thông phá trận.

Kế khổ nhục, Cự Lượng trá hàng.


Nói tới Lý Thông cùng Thạch Sanh trảm Chằn Yêu, nhân dân quanh vùng hết lời cảm tạ. Hai vua đều truyền lệnh ban thưởng thật hậu lại phong làm quan tước lớn.

Hôm đó, chiếu chỉ của vua truyền đến làng, Lý Thông đọc xong chỉ ngồi thở dài.

Thạch Sanh đứng hầu một bên, thấy thế liền hỏi:

- Có chuyện gì mà huynh than ngắn than dài thế?

Lý Thông đáp:

- Hai ta chém Chằn Yêu, vốn là lập công giúp dân, giúp nước. Nhưng hiện tại đất nước hai vua, nếu ta nhận chiếu vua này lại đắc tội vua kia. Mà lại, ngày hôm dâng người tế Chằn, ta có buông lời mắng chửi Thiên Sách Vương là hôn quân. E rằng sau này nhập triều khó sống. Ta thở dài vì không biết phải làm thế nào đấy thôi.

Thạch Sanh nói:

- Nếu đã đắc tội Thiên Sách Vương rồi, không bằng chúng mình nhận chiếu của Nam Tấn Vương đi.

Lý Thông lắc đầu, nói:

- Nam Tấn Vương người này tánh tình nhu nhược, tuy trọng đạo nghĩa. Nhưng thời loạn ắt thành mồi cho kẻ khác, cứ xem việc vua không giết Dương Tam Kha, rồi chịu nhịn Ngô Xương Ngập kiêu xấc; là đủ biết kết cục người này ra sao rồi. Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc thay!

Y nói đáng tiếc thay liền hai lần, không biết là tiếc vì Nam Tấn Vương hay là tiếc vì mệnh của mình nữa.

Hai huynh đệ đều trầm ngâm hồi lâu, lát sau Thạch Sanh nói:

- Thế.. hai anh em mình bỏ nhà, theo hùng chủ các ấp thì sao?

Lý Thông cũng khen là phải, nhưng lại hỏi:

- Hùng chủ các ấp nhiều lắm, nhưng mấy người đáng cho huynh đệ ta theo?

Thạch Sanh vội lấy phong thơ mà Lê Lương lúc trước đưa cho mình khi hạ sơn, nói rằng:

- Trước khi đệ xuống núi, sư phụ có đưa phong thơ này cho. Bảo là đến gặp một người tên Đinh Bộ Lĩnh, động Hoa Lư. Không biết người này thế nào?

Lý Thông tiếp thơ, đọc xong rồi nói:

- Đinh Bộ Lĩnh người này trước là bộ hạ của Ngô Quyền, trong lòng ôm chí lớn chỉ có điều bị Ngô Quyền lấn át nên người đời không biết đến. Khi Ngô vương chết rồi y mới lộ hùng tâm. Ta xem Đinh Bộ Lĩnh là người có tài, nhưng có mưu mà không quyết đoán, cứ như việc cử Đinh Liễn làm con tin ở triều đấy là biết. Hai ta đầu quân dưới trướng người này cũng coi như tạm ổn.

Thạch Sanh gật đầu, nói:

- Vậy huynh thưa lại chuyện này với mẫu thân, để đệ đi chuẩn bị đồ đạc.

Hai người bàn chuyện xong rồi, y kế chia ra mà làm. Đêm hôm đó, Lý Thông đến trước Lý mẫu, quỳ lạy mà nói rằng:

- Thưa mẹ, con cùng Thạch đệ muốn dời nhà đi Trường Châu tá túc. Mẹ hãy đi cùng chúng con.

Lý mẫu lắc đầu, nói:

- Nhà của ta ở đây, cha ngươi cũng chết ở đây. Ta không muốn đi đâu cả.

Lý Thông lại muốn nói thêm, Lý mẫu đã ngắt lời, nói:

- Mẹ biết tình cảnh bây giờ của con. Là nam nhi thì chí tại bốn phương, không thể cứ mãi ở chốn này được. Mẹ đã già rồi, lòng đã sớm muốn đi bồi cha con nơi chín suối, chỉ là còn vướng bận con ở trần thế côi cút một thân một mình. Bây giờ chí hướng con đã vươn xa, mẹ cũng yên lòng mát dạ.

Lý Thông nước mắt chảy dài, muôn vàn lời muốn nói nhưng lại không thốt ra được. Lát sau làm lễ ba quỳ chín lạy, nói:

- Con cảm ơn mẹ, kiếp này báo đáp không hết. Nguyện kiếp sau lại làm con hai người.

Sáng hôm sau, Lý Thông cùng Thạch Sanh đóng cổng ở trong nhà sắm sửa đồ đạc, đến chiều thì ra ngoài mua hai con ngựa tốt, đợi trời trở tối liền lên đường đến động Hoa Lư mà đi.

Lý Thông vừa rời nhà được ba ngày, quả nhiên Thiên Sách Vương đã sai quân binh tới nhà muốn giết. Nhưng lúc ấy vào nhà thì thấy vắng hoe không có một ai, quan binh sai người lục soát xung quanh. Chẳng mấy chốc tìm được Lý mẫu, nhưng không biết bà đã tắt thở từ bao giờ. Lý mẫu vì không muốn trở ngại sự nghiệp của con, tự vẫn ngay trong nhà.

Người đời sau có thơ rằng:

Vất vả từ thuở còn son,

Nay ngày mẹ mất mà con không về.

Đường dài con vẫn mải mê,

Ân tình, nhân nghĩa, lời thề nặng vai.

Nhắc tới Lý Thông đi tới gần Trường Châu, đột nhiên nôn ra một búng máu ngay trên lưng ngựa. Thạch Sanh cả kinh, vội tụt xuống ngựa chạy đến hỏi thăm. Lý Thông khóc mà rằng:

- Mẹ chúng ta mất rồi. Thiên Sách Vương đã bất nhân thì chớ, nay đem binh soát nhà công thần đấy là thêm bất nghĩa. Kẻ bất nhân bất nghĩa như thế, trời tru đất diệt!

Thạch Sanh nghe vậy thì kinh hãi, rút đao ra quát:

- Để đệ quay về báo thù cho mẫu thân.

Lý Thông vội cản lại, nói:

- Sách Vương biết hai người chúng mình không phải dạng tầm thường, ắt có phái trọng binh đi theo. Đệ quay trở về chỉ có tìm đường chết.

Thạch Sanh không cam lòng, nói:

- Thù này không báo thì còn sống làm sao được.

Lý Thông gạt lệ, xuống ngựa hướng nhà mình mà quỳ xuống, Thạch Sanh cũng vội quỳ theo. Hai người lạy mỗi người chín cái, Lý Thông quay qua, nghiến răng nói rằng:

- Thù này không đội trời chung. Nếu hai ta đầu bình cho Đinh Bộ Lĩnh rồi mà y không chịu mang binh đánh Thiên Sách Vương. Thì ta quyết không theo y đâu.

Thạch Sanh gật đầu, đáp:

- Huynh đi đâu, đệ đi theo đó.

Hai người trong lòng mang thù, ngựa chạy ngày đêm không dứt cuối cùng cũng vào địa phận Hoa Lư.

Khi đó là vào đầu xuân, năm Giáp Dần (954), Đinh Bộ Lĩnh không vào triều chầu vua. Thiên Sách Vương lòng sinh nghi, sai người đến do thám mới biết ý tạo phản của Lĩnh. Sách Vương cả giận, sai người trói Đinh Liễn lại rồi mang quân tiến đánh Hoa Lư. Nhưng Hoa Lư là nơi hiểm địa, dễ thủ khó công, Sách Vương đánh hơn một tháng mà không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết.

Đinh Bộ Lĩnh tức giận nói:

- Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?

Nói rồi iền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn.

Sách Vương kinh sợ, nhủ thầm:

- Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì.

Bèn không giết Liễn mà đem quân về trại.

Lý Thông ở trong quán trà nghe người kể chuyện như vậy, liền vỗ tay Thạch Sanh cười nói rằng:

- Trước ta nghĩa Đinh Bộ Lĩnh là người chí lớn nhưng có mưu mà không quyết đoán. Bây giờ y lại hướng cung bắn con là lập ý khởi nghĩa rồi. Đó là trời giúp ta báo thù.

Đợi trời trở tối, Lý Thông cùng Thạch Sảnh lẻn đến trước thành Hoa Lư. Thạch Sanh định đem phong thơ giới thiệu cho lính trên cổng thành thì bị Lý Thông cản lại, nói rằng:

- Mình chưa biết Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào, phong thơ này giữ lại đó cái đã.

Nói rồi chỉ báo miệng cho binh sĩ, bảo muốn gặp Đinh Bộ Lĩnh. Một lát sau, binh lính kia trở ra, quát rằng:

- Hai ngươi đi đi, tướng quân nói rằng không muốn gặp kẻ lạ.

Lý Thông không giận, mà nói:

- Xin huynh chờ chút đã, ta chỗ này có lời muốn nói với Lĩnh tướng quân, nhờ huynh chuyển cho vậy.

Tên lính kia thấy Lý Thông ăn nói khép nép, cũng không nỡ lòng từ chối. Bèn nói:

- Người chuyển khẩu dụ hay là lấy giấy viết?

Lý Thông đáp:

- Chuyện này cơ mật, nên giấy viết là hơn.

Tên lính nghe vậy liền ném giấy bút xuống. Lý Thông cầm bút chấm mực, viết vào hai câu. Rồi bọc một thỏi bạc lại, ném lên tường thành, nói:

- Phía trong có mười lượng bạc, coi như tiểu đệ mời huynh uống rượu. Còn tờ giấy kia phiền huynh đưa cho Lĩnh tướng quân.

Tên lính cả mừng, quay trở vào trong.

Nói tới Đinh Bộ Lĩnh đang cùng các tướng ở trong trướng bàn bạc, chợt có người vào báo. Lĩnh giận lắm, nói:

- Ta nói ngươi không nghe hay sao? Bây giờ đang thời kỳ rối ren, lỡ có kẻ gian trà trộn vào thì làm sao?

Nói rồi thét người lôi tên lính kia ra đánh.

Tên lính sợ hãi, vội quỳ xuống nói:

- Bẩm tướng quân, hai người kia có dâng một tờ giấy. Bảo là có chuyện cơ mật cần báo..

Bộ Lĩnh cầm giấy lên, đọc thơ thấy trên đó viết hai câu rằng:

"Muốn cứu được con, bày kế khổ nhục.

Trời giăng mây phủ, đánh trại nửa đêm."

Bộ Lĩnh trong bụng mừng lắm, đọc xong thơ liền đốt đi, vội nói:

- Hai người kia ở đâu? Mau mau truyền vào.. Không, để ta đích thân ra đón.

Nói rồi cùng đám thân tín đi ra cổng thành đón người.

Nhắc tới Lý Thông cùng Thạch Sanh vẫn đang đứng bên ngoài, đột nhiên cổng thành mở ra. Đinh Bộ Lĩnh cùng năm người khác chạy nhanh tới. Khi đôi bên thi lễ xong, Bộ Lĩnh liền hỏi luôn:

- Lời ấy của tiên sinh có là thật?

Người xung quanh không hiểu gì cả, Lý Thông cười nói:

- Đương nhiên là thật, nhưng cần tướng quân giữ bí mật cho.

Đinh Bộ Lĩnh khen là phải, rồi mời hai người đi vào thành. Khi Lĩnh hỏi đến danh tánh, hai anh em đều xưng rõ họ tên, dâng thơ của Lê Lương, còn kể tới lý do mình bỏ nhà trốn đi. Chư tướng nghe xong đều kinh ngạc, hóa ra kẻ chém Chằn Tinh lại là hai người trước mặt này.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, cho chư tướng lui xuống hết, lại hỏi Lý Thông rằng:

- Kế mà tiên sinh chỉ ta, bây giờ phải làm sao?

Lý Thông thưa:

- Tình thế trước mắt, nếu tướng quân đem binh ra đánh thì thắng thua còn chưa rõ. Nhưng nếu thắng thì mệnh Đinh Liễn cũng không qua được. Khi đó người trong thiên hạ đều mắng tướng quân là kẻ vô tình. Ắt bất lợi cho đại nghiệp về sau. Còn nếu thua.. thì không cần phải bàn đến nữa rồi.

Đinh Bộ Lĩnh buồn rầu, chỉ im lặng không nói năng gì. Lý Thông nói tiếp:

- Cứ như ý của Thông, tướng quân chọn người thân tín. Lập kế khổ nhục, rồi đưa sang trá hàng Sách Vương. Nhân khi nó không đề phòng thì cứu Đinh Liễn ra. Thông xem tinh tượng, đoán rằng ba ngày nữa trời giăng mây mù, đánh mai phục là thích hợp nhất. Không biết binh lực tướng quân bây giờ còn lại bao nhiêu?

Đinh Bộ Lĩnh đáp:

- Chỉ còn ba vạn, trong đó có bảy ngàn trọng giáp kỵ binh. Một vạn tiễn thủ, còn lại đều là bộ binh hết.

Lý Thông gật đầu, nói:

- Theo ý của Thông, bộ binh tướng quân hãy chia làm ba đạo, một đạo cùng tiễn quân đánh thẳng cửa trại, hai đạo còn lại đánh thọc vào hai bên sườn, lại dụng hỏa công. Binh của Sách Vương công thành đã hơn một tháng, quân binh sinh lòng chán nản. Ta lợi dụng trời tối, ắt bọn chúng phải thua chạy tan tác. Ở phía sau trại Sách Vương có một gò đất nhô cao, cây cối thưa thớt. Tướng quân cho trọng giáp kỵ binh vòng qua mai phục nơi đó, lại tắt đèn giấu cờ, người ngậm tăm, ngựa buộc mõm. Khi tàn quân Sách Vương đi qua thì tràn xuống đánh nhầu.

Đinh Bộ Lĩnh nghe xong mừng rỡ, cầm tay Lý Thông mà rằng:

- Gặp được tiên sinh là trời giúp ta.

Lý Thông lại nói:

- Kế ấy có chi là đáng kể, chỉ có điều, khổ nhục kế phải thành thì Đinh Liễn mới sống được.

Đinh Bộ Lĩnh hỏi:

- Trong bộ tướng của ta biết chọn ai cho được?

Lý Thông đáp:

- Tôi thấy Phạm Cự Lạng là người được hơn cả.

Lĩnh nghi hoặc, hỏi:

- Sao không cử Lê Hoàn hay Nguyễn Bặc?

Lý Thông đáp:

- Hai người này từ nhỏ theo tướng quân. Người đời đều so chẳng khác gì Lưu, Quan, Trương thời Tam Quốc. Nếu trá hàng thì lộ mất.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội truyền cho Cự Lạng vào trướng truyền lại kế ấy. Phạm Cự Lạng quỳ xuống tâu:

- Tôi đây coi Đinh Liễn như cháu của mình, dù cho phải xông núi đao cũng phải cứu Liễn ra được mới thôi.

Ấy gọi là:

Nhất phiến trung can huyện nhật nguyệt. Thiên thu chính khí tác sơn hà.

Bộ Lĩnh nghe nói, chắp tay cảm tạ. Cự Lạng cũng gật đầu một cái rồi lui ra. Hôm sau, Lĩnh nổi trống nhóm hết chư tướng dưới trướng.

Lý Thông cùng Thạch Sanh cũng có mặt. Bộ Lĩnh truyền rằng:

- Sách Vương chuyên quyền làm uy, hại nhà Ngô suy sút. Ta mai đây phải đánh nó một chầu mới yên lòng Tiền Ngô Vương ở dưới hoàng tuyền..

Lời vừa dứt, Phạm Cự Lạng bước ra lớn tiếng nói:

- Lương thảo trong thành sắp hết, chớ nói chi ngày mai. Cho dù sắm mấy tháng cũng không làm được việc gì. Binh quân Sách Vương bảy vạn, đều là tráng hán khắp nơi tụ hội về. Ba vạn quân thì làm sao đánh được. Lại nói Sách Vương là con cháu họ Ngô. Lên làm vua có gì sai trái. Còn như chuyện nhân gian lầm than đấy là do Nam Tấn Vương mới đúng chứ.

Đinh Bộ Lĩnh cả giận, quát:

- Hay cho tên này, chuyện thiên hạ đại sự mà cũng dám buông lời càn rỡ thế ư?

Mắng rồi thét tả hữu lôi Cự Lạng ra chém.

Chư tướng xung quanh phải hết lời van lơn mãi Lĩnh mới nguôi giận tha cho, chỉ truyền người quật Lạng ra đánh một trăm gậy.

Chiều ngày hôm đó, Thiên Sách Vương lại mang binh công thành không được. Nhưng lại bắt được mấy tên lính, Sách Vương truyền lệnh tra hỏi tình hình trong thành thì biết được chuyện Cự Lạng bị đánh. Đêm đấy Sách Vương mừng lắm, hướng các tướng dưới trướng nói rằng:

- Phạm Cự Lạng được gọi là Giao Châu Thất Hùng, nếu như được kẻ này thì Nam Tấn Vương bì sao được với ta.

Chư tướng đều gật đầu khen là phải.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 5:

Dâng thư trá hàng, Cự Lạng cứu Liễn.

Nửa đêm công trại, Lý Thông báo thù nhà.


Nói tới Phạm Cự Lạng bị đòn nằm trong trướng, Phạm Hạp chiều hôm đó liền tới thăm. Cự Lạng vội truyền người dọn bàn dâng trà, rồi cho tả hữu lui hết ra ngoài.

Hạp với Lạng vốn là anh em họ hàng xa, nên rất hiểu tình tình nhau. Phạm Hạp vừa ngồi xuống liền mở miệng hỏi:

- Anh hôm nay sao lại buông lời càn rỡ luận việc quốc sự, để tướng quân giận như thế?

Cự Lạng đáp:

- Càn rỡ gì đâu, chẳng qua anh nhìn nó không ưa đấy thôi.

Phạm Hạp cười ngất, nói:

- Đến nước này rồi anh còn giấu em ư. Nhìn điệu bộ hai người, em đã đoán được tám chín phần rồi. Cái kế khổ nhục này có gì đâu mà lạ nữa.

Cự Lạng giật mình, nói:

- Vẫn là không giấu được em, ta cùng tướng quân bày kế khổ nhục này là để che mắt Sách Vương, cứu thiếu chủ ra đó.

Phạm Hạp gật đầu, đáp:

- Kế này cũng xem như ổn, nhưng anh quên em rồi ư?

Cự Lạng không hiểu gì, Phạm Hạp lại nói tiếp:

- Chúng mình vốn là anh em, dòng dõi quan lớn trong triều. Sách Vương công đến Hoa Lư, dĩ nhiên cũng tìm hiểu từng bộ hạ dưới trướng Tướng quân. Nếu anh dâng biểu trá hàng, em mà không đi theo thì Sách Vương tất mang lòng sinh nghi. Đến lúc đó không những lợi người mà còn thiệt mình.

Cự Lạng nghe thế cả mừng, nói:

- Em nói vậy là muốn đem thư trá hàng cho Sách Vương chứ gì?

Phạm Hạp khẳng khái gật đầu. Hai người nhìn nhau rồi cùng bật cười ha hả. Tuy cả hai đều là người làm tướng, nhưng Phạm Hạp từ nhỏ theo học thầy nho, nên có tài ăn nói biện luận. Cự Lạng biết điều đó nên mới nhờ việc.

Phạm Hạp viết biểu hàng xong, đợi trời chập tối liền lẻn ra khỏi thành đến trước trại của Sách Vương. Quân của Sách Vương bắt được, hỏi rõ danh tánh rồi báo lên.

Sách Vương đang ngồi cùng chư tướng trong trướng bồng, nghe tin cả mừng, bụng thầm nhủ:

- Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng là anh em họ hàng xa. Nó nửa đêm lén sang đây chắc hẳn là dâng thư hàng!

Sách Vương bụng nghĩ vậy, nhưng bên ngoài vẫn giả bộ làm ngơ. Lát sau mới truyền lệnh dẫn Phạm Hạp vào dưới trướng.

Phạm Hạp vừa bước vào dưới trướng, Sách Vương liền trỏ tay mà quát rằng:

- Phải chăng Đinh Bộ Lĩnh sai ngươi sang đây do thám?

Chư tướng xung quanh nghe thế, đều rút đao soạt soạt cả ra.

Phạm Hạp sắc mặt không đổi, bình tĩnh đáp:

- Tôi đây là anh em với Phạm Cự Lạng, sao đây dâng thư quy hàng Sách Vương.

Thiên Sách Vương giả bộ ngạc nhiên, đập bàn quát:

- Láo xược, ngươi khinh tài trí của ta quá, dám sang dâng thư trá hàng!

Phạm Hạp cười, tâu:

- Xin Sách Vương minh xét cho, thơ hàng này là thật. Vốn là anh tôi Cự Lạng theo Bộ Lĩnh hơn mười năm, công lao có đủ. Vậy mà lúc sáng nay, anh tôi chỉ vì một câu nói, mà nó lỡ lòng nào sai người lột áo, đánh đòn ngay giữa mặt ba quân.. Nên anh tôi nản chí, không muốn theo nó nữa. Bèn kêu tôi sang đây gặp Sách Vương, dâng biểu xin hàng.

Nói đến đây rồi dâng thư trình lên.

Sách Vương đọc thư xong, lúc đó mới đổi giọng, nói:

- Xin Hạp tướng quân thứ lỗi cho. Hai bên đang thế thù địch, nên ta mới gặng hỏi như thế.

Phạm Hạp vội thưa:

- Xin Sách Vương nhanh chân cho, Bộ Lĩnh là người đa nghi. Nó mà biết tôi sang đây thể nào cũng bắt anh tôi đem ra chém.

Sách Vương ân cần nói:

- Việc đó xin yên tâm, Cự Lạng khi nào sang, chỉ cần mật báo một tiếng. Ta sẽ mang đại quân đến tiếp đón.

Phạm Hạp cả mừng, gật đầu ưng thuận. Sau đó rời khỏi trướng quay về.

Phạm Hạp vừa đi, liền có người đứng ra hỏi:

- Bẩm bệ hạ, hai người này phục tòng dưới trướng Đinh Bộ Lĩnh đã lâu. Nay tự dưng đến hàng, ắt có điều ám muội.

Sách Vương cười, đáp rằng:

- Nếu người dâng thơ hàng không phải Phạm Hạp hay Phạm Cự Lạng. Mà là Lê Hoàn hay Nguyễn Bặc, ta ắt sai ngươi lôi ra chém tuốt. Thế nhưng Cự Lạng, người này rất khác.

Người kia nói:

- Bề tôi không hiểu, nguyện được nghe rõ tường trình.

Sách Vương nói:

- Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng vốn là dòng dõi quan lại trong triều. Nhưng tiền nhân đắc tội quan lớn, sau cùng bị cách chức đày làm thứ dân. Đến đời Phạm Cự Lạng thì lên núi làm sơn tặc. Năm đó Đinh Bộ Lĩnh được lệnh Vua, điều quân thanh trừ thảo khẩu thì bắt được Cự Lạng. Cự Lạng đánh không lại nên mới chịu phục tòng dưới trướng Đinh Bộ Lĩnh. Ta xem Cự Lạng người này tâm vốn không phục, nếu ta cho hắn đủ lợi lộc ắt sẽ thành cánh tay đắc lực cho ta.

Chư tướng xung quanh đều gật đầu khen phải.

Thế mới nói là: Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, lợi dụng lòng ân nghĩa của Nam Tấn Vương mà tranh giành ngôi Vua. Nên trong đầu lúc nào cũng suy bụng ta ra bụng người, dẫn tới trúng kế khổ nhục của Phạm Cự Lạng. Đấy là muốn hối cũng không được.

Phạm Hạp trở về kể lại chuyện với Cự Lạng. Cự Lạng cả mừng, cảm ơn rối rít rồi liền sắm sửa đồ đạc muốn đi ngay.

Hai người mặc đồ dạ hành cải trang, nửa đêm cưỡi ngựa đến cổng thành thì lại gặp một viên tướng, môi son răng trắng, đầu đội mão kim loan, tay cầm bán nguyệt thương, cưỡi ngựa kim ô, hầm hầm giục ngựa chạy lại. Phạm Cự Lạng nhận ra người này, bèn lên tiếng chào hỏi:

- Nguyễn Bặc tướng quân, nửa đêm rồi mà huynh vẫn canh gác ở đây ư?

Có thơ khen rằng:

"Hoa Lư kết nghĩa anh hùng chúa.

Đại Hữu ân khâm tướng quốc công."

Nguyễn Bặc đáp:

- Tôi vâng mệnh chủ quân, trấn thủ ở đây để đề phòng có người lẻn ra đó.

Vừa nói ánh mắt gã nhìn trừng trừng hai người.

Nguyễn Bặc vốn là con Nguyễn Thước, một nha tướng dưới trướng Dương Đình Nghệ. Tương truyền là người giỏi võ nghệ và có sức khỏe phi thường, từng dùng tay không bắt sống cọp. Là thân tín của Đinh Bộ Lĩnh.

Phạm Cự Lạng cười nói:

- Tướng quân nói vậy là muốn ám chỉ tôi đây hay sao?

Nguyễn Bặc vung mâu một vòng, nói:

- Nói kẻ nào tự kẻ đó biết.

Phạm Cự Lạng cả giận, cũng vác đao lên quát:

- Ngươi khinh ta quá lắm, tiếp ta một đao!

Nói dứt lời liền giục ngựa chạy đến chém một đao.

Nguyễn Bặc hươi mâu đón đỡ, nạt:

- Phản đồ, có ta ở đây ngươi chớ làm càn!

Hai người đánh vùi đến hai, ba mươi hiệp, quần nhau ngay trước cổng thành. Binh lính trên thành hoảng hốt, vội cho người đi cấp báo.

Phạm Hạp bắn pháo hiệu, vội nói:

- Anh ơi, chúng mình đi mau kẻo đại quân kéo đến.

Pháo hiệu nổ oành một tiếng, lập tức phía bên ngoài thành hơn một dặm Thiên Sách Vương dẫn theo binh mã ào ào chạy tới. Nguyễn Bặc thất kinh, đâm bậy một mâu rồi chạy vào trong thành, rồi truyền binh lính đóng cửa thành lại.

Quân của Sách Vương tiến đến, nhưng chỉ đứng cách cổng thành Hoa Lư tầm ba bốn trăm trượng, ngoài tầm tên bắn. Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng cũng cưỡi ngựa chạy tới trước Thiên Sách Vương, rồi xuống ngựa quỳ tâu rằng:

- Hai anh em Cự Lạng cùng Hạp ra mắt bệ hạ.

Sách Vương mừng lắm, vội đỡ hai người dậy, truyền:

- Hai vị tướng quân chớ đa lễ, có được hai vị trợ giúp chính là phúc của bổn vương.

Nói rồi truyền tả hữu rút về trại, lại lệnh ban thưởng anh em họ Phạm thật hậu.

Sáng hôm sau, quân Sách Vương lại tới công thành. Cự Lạng xin đánh trận đầu lập công, Sách Vương cả mừng liền ưng thuận.

Cự Lạng phi ngựa chạy tới trước cổng khiêu khích. Chư tướng đứng trên thành giận lắm, Bộ Lĩnh hỏi:

- Có ai dám xuống trảm tên phản đồ này cho ta?

Một người đứng ra tâu:

- Mạt tướng nguyện xuống ngựa, ra trận chém đầu tên này.

Bộ Lĩnh nhìn xem người vừa tâu là ai, hóa ra là Lưu Cơ, liền gật đầu chấp thuận.

Lưu Cơ sắm sửa áo mão, ngựa giáp, rồi vác thương xông ra đánh nhầu với Phạm Cự Lạng. Hai người ngang tài ngang sức, đánh được tám mươi hiệp thì ai nấy đều mỏi rã rời. Đánh thêm mấy hiệp nữa, Lưu Cơ liệu bề chống không được, bèn quay ngựa chạy về. Cự Lạng ngó thấy, quát:

- Mi chạy đâu cho thoát!

Nói dứt lời đã giục ngựa rượt theo.

Lưu Cơ thúc ngựa chạy được một đoạn, thấy Cự Lạng đuổi theo không ngớt. Trong bụng hoảng quá, liền dùng phép hồi mã thương, quay phắt lại đâm ra một mâu. Cự Lạng cười ha hả, gạt đao đỡ được rồi chém lại một đao, quát rằng:

- Chỉ là trò mèo mà muốn đâm ai?

Lưu Cơ bị trúng một đao ở vai, sâu tới tận xương. May thay chạy tới tầm cung bắn nên Phạm Cự Lạng không đuổi theo nữa.

Cự Lạng cưỡi ngựa chạy về trung quân, Sách Vương nghe tin mừng không sao tả xiết. Truyền lệnh ban thưởng rồi rút quân về.

Đêm đó, Sách Vương mở tiệc thiết đãi ba quân. Cự Lạng cùng Hạp mừng thầm, nghĩ bụng: Đây quả là thời cơ tốt để cứu Đinh Liễn.

Cùng thời điểm đó, Đinh Bộ Lĩnh y kế của Lý Thông; sai Lê Hoàn, Nguyễn Bặc chia làm hai cánh quân tả hữu, khi có tên hiệu thì đánh vào trại của Sách Vương. Mỗi tên lính phải mang theo một bó rơm, hễ thấy trại địch thì xông vào mà đốt. Lại truyền lệnh cung thủ đợi sẵn, tên tẩm dầu hỏa bắn lửa làm hiệu. Còn Lý Thông cùng Thạch Sanh được lệnh mang trọng giáp kỵ binh vòng qua mai phục phía sau trại.

Nói tới Sách Vương buổi sáng công thành trảm tướng, trong lòng vui vẻ bèn bảo dọn tiệc rượu dưới trăng, cho đàn ca hát xướng tưng bừng, lòng người bâng khuâng như ở chín tầng mây. Tiệc đến nửa tuần, Cự Lạng cùng Hạp xin ra đi giải, nhưng lại âm thầm cứu Đinh Liễn.

Sách Vương đang ngồi ngâm thơ cùng các quan, bỗng có tiếng quạ kêu oang oác. Vương hỏi là điềm gì.

Các quan thưa:

- Quạ kêu canh tư chính là điềm lành.

Lời quan vừa dứt, bầu trời bỗng nhiên đỏ rực, trên trời lấm tấm điểm sáng tựa như hàng vạn ngôi sao bốc cháy. Sách Vương cả kinh, còn chưa kịp hỏi thì có người vào báo là hai bên tả hữu có địch tập kích, mang theo rơm khô đốt trại.

Thiên Sách Vương sợ tái mặt, chợt nghe tiền quân có tiếng quát tháo. Vương chạy ra xem thì thấy Đinh Bộ Lĩnh dẫn binh mã ào ào đánh tới rất gấp. Sách Vương vội lệnh đem Đinh Liễn mang ra trấn áp. Nhưng quân báo về Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng đã dẫn Liễn đi rồi.

Sách Vương bấy giờ mới biết mình trúng kế, vội cùng các quan và chư tướng lùi về phía sau trại mà chạy. Binh Ngô tuy có bảy vạn, nhưng bị đánh vào trời tối nên không tập kết được đội hình. Bị quân của Bộ Lĩnh tràn vào đánh tan tác. Vương mang theo ba vạn tàn quân chạy dài, phía sau truy quân đuổi tới rất gấp. Một tướng đứng ra tâu rằng:

- Để tôi chặn bọn chúng, bệ hạ hãy mau hồi kinh.

Nói rồi dẫn tám ngàn quân dưới trướng trở lại đánh nhầu.

Lúc ấy trời đã gần sáng, Sách Vương cùng quan văn võ chạy tới núi Phi Vân. Quân binh chạy mấy giờ liền, vốn đã mỏi mệt rã rời. Đột nhiên trên sườn núi có tiếng ngựa hí người kêu, một toán quân trọng giáp kỵ ào ào xông tới. Thiên Sách Vương cả sợ, vứt cả áo mão nhảy lên ngựa chạy dài. Hơn hai vạn quân Ngô còn lại bị trọng giáp kỵ binh đạp nhầu lên, chết không biết đếm bao nhiêu cho hết.

Thiên Sách Vương được chư tướng hộ tống chạy tới mé sườn núi bên tả thì lại bị một người cản lại. Sách Vương trỏ tay, quát:

- Ai chém tên cản đường kia thưởng vạn lượng vàng ròng, ngàn thớt gấm lụa. Phong quan chức lớn.

Ba tướng đi theo nghe vậy cả mừng, giục ngựa lên đánh. Nhưng chỉ mới đánh được mười hiệp, cả ba đều bị người kia chặt đầu. Người kia lạnh lùng nhìn Sách Vương, nạt rằng:

- Tên hôn quân kia, ngươi hại mẫu thân ta. Thù này hôm nay tất báo!

Sách Vương cả sợ, hỏi:

- Ngươi là ai?

Người kia đáp:

- Thạch Sanh, người chém Chằn là ta!

Lúc này, một vị thân tướng bên cạnh Sách Vương là Ngô Bình, phi ngựa lướt đến, quát:

- Điêu dân to gan, có ta ở đây đừng mơ làm hại bệ hạ!

Nói rồi mũi mâu hươi hươi nhắm ngay đầu Thạch Sanh đâm tới. Thạch Sanh vung đao đỡ khỏi, rồi đánh vùi đến tám mươi hiệp, Ngô Bình liệu bề dùng sức khó hơn, bèn đâm bậy một mâu, quày ngựa bỏ chạy, Thạch Sanh giục ngựa rượt theo chém một đao. Ngô Bình chết tuốt.

Lúc này Lý Thông cũng đã mang binh đuổi tới. Thạch Sanh tóm được Thiên Sách Vương, Lý Thông giận chém luôn một đao. Đầu Sách Vương lăn long lóc dưới đất. Giáp Dần, năm thứ tư (954), tức Chu Thế Tông Sài Vinh, Hiển Đức năm thứ nhất, Thiên Sách Vương mất.

Người sau có thơ rằng:

Anh hùng ra quân buổi mới đầu.

Một đao trảm tướng có gì đâu?

Mưu kế thâm sâu, báo thù mẹ.

Nhân nghĩa, ân tình đấng mày râu.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 6:

Nâng chén rượu, luận chuyện thiên hạ.

Đất Nam Giao, Thập Nhị sứ quân.


Sau khi Thiên Sách Vương chết trận, tàn binh chạy dài, kéo về Ái Châu. Con Sách Vương là Ngô Xương Xí đóng giữ ở Triệu Sơn, Ái Châu hay được tin cha mất, khóc lăn xuống đất ngất lịm đi. Binh sĩ xung quanh phải chạy tới dìu đỡ, bấm vào huyệt Nhân Trung mới chịu tỉnh lại.

Ngô Xương Xí vội truyền lệnh bắt mấy tên binh lính trốn chạy trở về, hỏi rõ ngọn ngành. Quan quân tra hỏi rồi thưa lên:

- Thiên Sách Vương bị trúng khổ nhục kế của Đinh Bộ Lĩnh. Khiến Phạm Cự Lạng trà trộn vào quân doanh cứu Đinh Liễn đi. Đồng thời nửa đêm dụng hỏa công trại. Sách Vương chạy đến chân núi Phi Vân thì bị một tướng chặn lại chém chết.

Xương Xí hỏi xem vị tướng kia hình dong thế nào.

Người kia đáp:

- Một vị tướng khôi ngô tuấn tú, tay cầm đao. Tên là Thạch Sanh.

Ngô Xương Xí cả giận, đập bàn quát:

- Ta phải cất quân báo thù rửa hận mới được!

Lúc đấy, một vị quan tên Đỗ Thắng chạy tới tâu rằng:

- Tướng quân xin bình tĩnh chớ đau lòng, chúng ta nên tính chuyện lớn trước mắt cái đã.

Ngô Xương Xí mặt * rười rượi, hỏi:

- Tính chuyện chi?

Đỗ Thắng đáp:

- Bây giờ Đinh Bộ Lĩnh mới công phá vòng vây, tuy thắng trận nhưng binh lực cũng hao hụt già nửa. Tạm thời không cần lo đến. Còn như chú của ngài Nam Tấn Vương còn đang ở Kinh đô. Nếu biết chuyện Thiên Sách Vương tử trận ắt điều quân đòi lại Vương quyền. Chúng ta nên lo đi là hơn.

Xương Xí giận mắng:

- Thù giết cha sao có thể không báo?

Đỗ Thắng khuyên:

- Không phải không báo mà chưa thể báo ngay được. Bộ Lĩnh có tướng giỏi, binh tinh, có kéo quân sang hỏi tội ngay cũng chưa làm gì nó được. Theo hạ quan nghĩ, ta nên chiếm được quyền hành trong triều, rồi hẵng viết thơ triệu tập anh hùng thiên hạ mà báo thù mới xong.

Xương Xí gật đầu khen phải, ngay ngày hôm đó liền điều binh điểm tướng chạy về Kinh. Quân lính đều để tang, đầu buộc khăn trắng, treo cờ giận, thanh thế ngợp trời.

Nói tới Đinh Bộ Lĩnh vừa công phá vòng vây vừa cứu được con, trong lòng mừng khôn xiết, ngày hôm sau liền mở tiệc khao ba quân. Lại cho gọi hai anh em Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng vào dưới trướng, kể lại mọi sự tình cho chư tướng cùng nghe.

Kể xong, Đinh Bộ Lĩnh trỏ Lý Thông rồi bảo:

- Liên hoàn kế là do Lý tiên sinh nghĩ ra đấy.

Chư tướng nghe rồi đều tỏ vẻ khâm phục lắm.

Phạm Cự Lạng đến trước bàn Lưu Cơ, cúi người nói:

- Tôi mấy ngày trước vì chứng minh cho Sách Vương khỏi sanh lòng nghi ngờ, nên bữa ra trận có chém ông một đao. Nay cho ông chém lại một đao coi như huề. Thế có được chăng?

Lưu Cơ đập bàn quát:

- Ông khinh ta là tài không bằng ông hay sao? Có giỏi đợi năm hôm nữa, cánh tay ta khỏi rồi lại đánh vài trăm hiệp?

Phạm Cự Lạng cười nói:

- Thế đợi ông khỏi tay rồi lúc đấy mình hẵng so tài.

Hai người nói rồi cùng nhìn nhau bật cười. Chư tướng xung quanh cũng cười ầm cả lên, tiệc rượu rất là vui vẻ.

Rượu qua được nửa tuần, Đinh Bộ Lĩnh chợt hỏi Lý Thông rằng:

- Tiên sinh nghĩ sao về thiên hạ đất Nam?

Lý Thông cười đáp:

- Cái đó thì tướng quân am hiểu hơn tôi, còn hỏi làm gì?

Đinh Bộ Lĩnh không tin, gặng hỏi tới ba lần, đều bị Lý Thông khước từ không đáp. Chư tướng xung quanh đều tỏ ra bất mãn, khốn nỗi có Thạch Sanh đứng hầu một bên nên cũng không ai dám đứng ra quát mắng. Thạch Sanh vẻ ngoài thoạt nhìn khôi ngô tuấn tú, nhưng vừa ra trận liền một đao trảm bốn tướng của Sách Vương. Quả là bậc dũng tướng trên đời.

Đinh Bộ Lĩnh lâm vào thế khó không biết làm sao, bèn lệnh cho chư tướng lui ra hết khỏi trướng. Rồi đến trước bàn của Lý Thông cúi người bái lễ.

Lý Thông giật mình, vội lánh sang một bên, bảo rằng:

- Tướng quân làm lễ như vậy, tôi sao dám nhận.

Đinh Bộ Lĩnh chân thành nói:

- Năm xưa Tề Hoàn Công muốn gặp hiền sĩ nơi Ðông Quách mà cần phải đi năm lần mới được thấy mặt. Lưu Huyền Đức ba lần lên lều tranh mới mời được Gia Cát Khổng Minh xuống núi. Tôi đây chỉ làm một cái lễ nhỏ thì có đáng gì?

Lý Thông không biết nói gì, đứng trơ ra đó, đợi Đinh Bộ Lĩnh bái lễ xong rồi mới thở dài, nói:

- Tướng quân đây là làm khó tôi ư?

Đinh Bộ Lĩnh đáp:

- Đất Nam Giao từ khi Tiền Ngô Vương băng hà, rồi Tam Kha truất ngôi cho đến Thiên Sách Vương lộng quyền. Khiến dân chúng lâm vào cảnh lầm than. Tôi đây lòng nuôi chí lớn, nhưng mưu nhỏ, thế không thành, cần người như tiên sinh tới bầu bạn cùng nhau làm việc đại sự. Chẳng hay, tiên sinh..

Bộ Lĩnh chưa nói xong, Lý Thông đã thở dài, đáp:

- Phàm là thế cuộc trong thiên hạ, ắt không tránh khỏi bốn chữ: Chia hợp, hợp chia. Tỷ như đất Trung Quốc thời nhà Châu mất, dẫn tới thất quốc phân tranh, sau đó Tần Thủy Hoàng triệt sáu nước, lập ra Tần Quốc. Rồi như khi nhà Hán suy; Tôn, Lưu, Tào ba nhà tranh nhau lập quốc tạo thành thế chân vạc. Nhưng cuối cùng bị họ nhà Tư Mã thâu về một mối.. Đất Nam Giao từ khi Ngô Quyền xưng Vương thì trị được loạn. Song từ khi Vua mất, cái thế loạn này còn ai trị được nữa?

Đinh Bộ Lĩnh gật đầu, nói:

- Vậy mới phải nhờ những người như chúng ta đứng lên dẹp loạn, thống nhất đất Nam lần nữa.

Lý Thông hỏi:

- Tướng quân nghĩ dễ lắm, nhưng ngài có biết đối thủ của mình là những ai hay chưa?

Bộ Lĩnh lắc đầu.

Lý Thông trầm tư một lúc rồi nói:

- Khi Dương Tam Kha truất ngôi Vua, lòng người không phục, hùng chủ các ấp nổi lên. Trong đấy Thông tôi thấy được mấy người. Tỷ dụ như:

1. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng làm Đỗ Cảnh Công trấn giữ Đỗ Động Giang.

2. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm.

3. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu.

4. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc.

5. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái.

6. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt.

7. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du.

8. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê.

9. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại.

10. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố.

11. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang."

! [] (Link )

Lý Thông đọc ra một loạt tên, Đinh Bộ Lĩnh ghi nhớ không chút sai sót, lát sau mới hỏi:

- Thế tiên sinh không tính Nam Tấn Vương vào hay sao?

Lý Thông lắc đầu, nói:

- Loạn thế chỉ dành cho kẻ hùng tài, người nhu nhược tính vào làm chi? Bất quá, tôi mấy ngày trước xem tinh tượng, thấy mệnh sao của Nam Tấn Vương lu mờ. Chắc là sống không được bao lâu nữa. Tấn Vương không có con, dòng dõi nhà Ngô cũng chỉ còn lại Ngô Xương Xí ở Triệu Sơn. Người này cũng có thể tính một chân vào.

Dừng một lát, Lý Thông đến trước án treo địa đồ, trỏ tay chỉ mà nói rằng:

- Theo như tôi dự tính, thế cục đất Nam sau này, sẽ có cả thảy mười hai lộ sứ quân. Tướng quân trấn giữ đất Hoa Lư, là nơi hội tụ đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nên tạm thời cứ để mặc cho Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Phạm Phòng Át, Trầm Lãm cùng các lộ sứ quân khác chiếm cứ phía Bắc. Việc của tướng quân nên làm hiện tại là chiếm đất Ái Châu, bình định vùng phía Nam. Cứ coi như đất Giao Châu bấy giờ là một miếng bánh lớn, mười một kẻ cùng ăn tất sinh sự tranh giành. Tướng quân một mặt gửi thơ xin hòa hoãn, một mặt bán lương thảo, làm sao khiến mấy lộ sứ quân kia tranh giành càng gắt càng tốt. Còn tướng quân ở Ái Châu an nhàn luyện binh, luyện khí giới, rồi lại giành miếng bánh này sau cũng chưa muộn. Tôi đã vì tướng quân mà vạch ra đường như thế, âu cũng là gắng hết sức rồi. Tướng quân hãy lo mà làm đi.

Đinh Bộ Lĩnh nghe nói, cúi đầu lạy tạ.

Chỉ qua cuộc đàm luận này đủ thấy Lý Thông tài trí hơn người. Có tầm nhìn xa trông rộng, quả là một bậc khoáng thế kỳ tài.

(*) Thế mới rõ là:

Đất Nam hiện thế vận gieo neo,

Đang lúc khó khăn thật rõ bèo.

Thiên hạ phân chia rồi sẽ thấy,

Kỳ nhân cười trỏ địa đồ treo.

Đinh Bộ Lĩnh vái mời Lý Thông và nói:

- Tôi đây tuy chí lớn nhưng khốn nỗi danh hèn đức kém, cũng xin tiên sinh chớ bỏ rơi kẻ ngu hèn này mà ra tay giúp đỡ, âu cũng là tạo phúc cho lê dân bá tánh. Tôi xin chắp tay cúi đầu nghe lời dạy bảo.

Lý Thông đáp:

- Hai anh em chúng tôi chém chằn tinh, nhưng lại bị Sách Vương ghi hận mà đuổi giết. Mẫu thân cũng vì đó mà chịu tai kiếp. Nay thù đã báo, cũng nên trở về quê nhà là hơn. Tướng quân xin hiểu cho.

Nói rồi cùng Thạch Sanh cáo từ, đi ra khỏi trướng.

Đinh Bộ Lĩnh đuổi theo, khóc mà nói rằng:

- Tiên sinh nỡ lòng nào nhìn lê dân bá tánh khắp thiên hạ chịu khổ?

Thạch Sanh thấy Đinh Bộ Lĩnh tỏ dạ chân thành, cũng không nhịn được hết lời khuyên lan.

Lý Thông thở dài, đáp:

- Thôi vậy, nếu Tướng Quân đã không chê bai thì hai anh em tôi xin đem hết tài khuyển mã ra phò tá.

Đinh Bộ Lĩnh mừng lắm, vội truyền lệnh ba quân phong Lý Thông làm Quân Sư, Thạch Sanh làm Đốc Thị Quân Mã. Lại dạy cho người dâng lễ vật vàng, lụa.. Lý Thông từ chối không nhận.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 7:

Trường diễn võ, Thạch Sanh so tài.


Khiển binh tướng, Lý Thông ra trận.

Nhắc tới chuyện Đinh Bộ Lĩnh phong thưởng cho Lý Thông và Thạch Sanh thật hậu, còn phong làm chức quan to. Chư tướng dưới trướng của Lĩnh xầm xì với nhau về việc này. Ai nấy đều mang lòng không phục.

Buổi sáng họp mặt hôm sau, Nguyễn Bặc cùng Lê Hoàn đều bước lên mà tâu rằng:

- Lý Thông cùng Thạch Sanh tuy là người tài, nhưng mới chỉ phá một trận nho nhỏ liền đã phong làm Quân sư cùng Đốc Thị Quân Mã e rằng quá gấp gáp. Nay các bọn thuộc hạ muốn tướng quân xa giá đến võ trường, cho thuộc hạ thử tài đối trận với hai người này một phen, nếu ai hơn thì được ngôi cao kém thì mất phẩm trật. Như vậy ba quân mới khỏi có lòng bất phục.

Đinh Bộ Lĩnh khen hay nhưng trong bụng vẫn còn lưỡng lự, bèn quay qua hỏi ý Lý Thông.

Lý Thông cười đáp:

- Tôi đây tài mọn có đáng chi, chỉ bêu xấu mà thôi. Nếu nhị vị tướng quân muốn so tài tôi phụng bồi tới cùng là được.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội hạ lệnh cho toàn bộ chư tướng tụ họp lại ở võ trường. Lại sai binh sĩ đắp giả sơn, trồng cây, đào mương.. làm thành một khu trận địa.

Thạch Sanh đi theo sau, ghé tai thì thầm với Lý Thông:

- Anh tài trí hơn người, so tài với bọn này làm chi?

Lý Thông đáp:

- Hiền đệ không biết rồi, muốn được người ta nể phục phải cho họ thấy cái tài của mình mới được. Hơn nữa, tướng mạo của gã Lê Hoàn kia..

Nói đến đây thì ngừng bặt.

Khi chư tướng họp đủ rồi, Đinh Bộ Lĩnh mới truyền đạt lại trận thử tài này. Nguyễn Bặc vội bước lên thưa:

- Bẩm tướng quân, thuộc hạ nghe nói rằng Thạch Sanh tối hôm trước một đao trảm bốn tướng địch. Muốn thử so tài võ nghệ trước, còn đánh trận giả thì hẵng đợi sau.

Đinh Bộ Lĩnh nói:

- Hai hổ đánh nhau ắt có một con bị thương.

Nguyễn Bặc lắc đầu quả quyết, đáp:

- Là hổ hay cừu còn chưa biết được, xin tướng quân cho phép.

Bộ Lĩnh thấy không khuyên lơn được nữa, lại quay qua thử hỏi ý Thạch Sanh. Thấy Thạch Sanh ưng thuận nên cũng không nỡ từ chối, bèn gật đầu cho phép.

Nguyễn Bặc cùng Thạch Sanh được lệnh, vào trướng nai nịt hẳn hòi, cầm binh khí, nhảy lên ngựa xông vào giữa võ đài. Xung quanh binh sĩ reo hò dậy sóng. Hai tướng không nói không rằng, giục ngựa chạy tới đánh nhau rất lẹ, tiếng binh khí vang lên xoang xoảng. Đánh được chừng tám mươi hiệp thì Nguyễn Bặc có vẻ đuối sức hơn.

Đại đao của Thạch Sanh vốn được rèn từ tinh thiết, lại dán bùa chú của tiên nhân. Trước đó chưa có linh tánh, nhưng sau khi trảm Chằn Tinh liền nhiễm vào yêu khí. Nguyễn Bặc đánh được một hồi thì đầu váng mắt hoa, cầm dây cương không vững nên té rớt khỏi ngựa. Thạch Sanh phi tới kề đao vào cổ gã, quát:

- Ngươi đã chịu phục ta chưa nào?

Nguyễn Bặc ngã ngựa gãy mất một rẽ xương sườn, nhưng vẫn cố đứng dậy, mặt hằm hằm quát lại:

- Ngươi dựa vào binh khí lợi hại thì có tài cán chi?

Thạch Sanh cười ha hả, vứt thanh đao của mình xuống, nói:

- Ngươi mà cầm được thanh đao này lên, coi như ngươi thắng trận này đó.

Nguyễn Bặc không tin lời, tưởng Thạch Sanh lừa phỉnh mình, liền thử cúi xuống cầm đao nhưng cho dù dùng sức đến mấy cũng không tài nào nhấc lên được. Nguyễn Bặc mặt đỏ bừng lên vì thẹn, lát sau mới lầm bầm:

- Không nhấc lên được.

Thạch Sanh cười lớn, rồi nhảy tót xuống ngựa cầm đao lên nói rằng:

- Thanh đao này nặng một trăm năm mươi cân. (~80kg)

Nguyễn Bặc nghe vậy mặt tái mét, lúc đó mới chịu phục Thạch Sanh hơn mình.

Lê Hoàn bước lên tâu:

- Thuộc hạ muốn thử sức điều binh khiển tướng của Lý tiên sinh một phen.

Lý Thông cười nói:

- So tài phải có cái chi đặt cược mới thú vị chớ?

Lê Hoàn hỏi:

- Tiên sinh muốn cược cái chi?

Lý Thông đáp:

- Nếu tôi thua thì mặc cho Lê tướng quân toàn quyền xử trí. Còn nếu như thắng, tôi chỉ tướng quân hứa với tôi làm một chuyện là đủ.

Lê Hoàn nghi hoặc, hỏi:

- Tiên sinh muốn tôi làm chuyện gì?

Lý Thông đáp:

- Thiên cơ bất khả lộ.

Lê Hoàn cả giận, nói:

- Tiên sinh chớ đòi hỏi quá, nếu tiên sinh bắt tôi làm điều thương thiên hại lý. Hoặc tỷ như bắt tôi tự sát thì phải làm sao?

Lý Thông lắc đầu, đáp:

- Tướng quân yên tâm, chuyện tôi muốn tướng quân làm không những tốt cho tướng quân mà còn tốt cho cả lê dân trăm họ.

Lê Hoàn nghĩ chút rồi cũng gật đầu ưng thuận. Hai người thỏa thuận xong rồi mới tâu lên. Đinh Bộ Lĩnh truyền cho hai người cờ lệnh, phát mỗi người một ngàn binh sĩ. Lý Thông cùng Lê Hoàn nhận cờ, lĩnh một ngàn người về bên phe mình.

Lê Hoàn về dinh phất cờ ra lệnh. Chẳng bao lâu quân đội đã đứng ra đúng hàng ngũ, thành một trận lớn. Trận này chia binh làm ba tốp cung, bộ, kỵ, lấy mười người làm một đội, mười đội làm một kỳ, hai kỳ làm một trận. Lại cho bộ binh xòe ra hai bên cánh, cung đứng sau bộ, kỵ đứng vào giữa. Chính là Điểu Sí Phong Tán trận.

Bên Lý Thông cũng chia quân ra làm ba, bộ binh dàn thành vòng tròn, cung thủ nấp phía trong, chỉ riêng kỵ binh là không thấy đâu. Khi hai bên chuẩn bị đã xong, Đinh Bộ Lĩnh ra hiệu bắt đầu. Quân của Lê Hoàn ùn ùn kéo đến, bộ binh hai cánh tràn ra như đại bàng giang cánh. Lý Thông thấy vậy liền phất cờ hiệu, tiễn thủ phóng tên. Quân kỵ của Lê Hoàn ngã hơn nửa. Nhưng tiễn thủ của Lê Hoàn bắn trả lại không ăn thua gì.

Lê Hoàn tâm thần hoảng hốt, cờ hiệu trên tay lại phất lên, bộ binh ùa vào đánh xáp lá cà, kỵ binh đánh thẳng vào trung quân. Nhưng khốn nỗi bộ binh của Lý Thông đều là loại trọng giáp chống kỵ, quân kỵ của Lê Hoàn không húc vào được, phía sau lại bị tiễn thủ quân mình chẹn ngang mắc kẹt tiến thoái lưỡng nan. Đánh một hồi, chợt nghe phía sau có tiếng reo hò hô hoán. Một tốp kỵ binh của Lý Thông không biết từ đâu xông ra, đánh úp vào hậu quân. Hậu quân Lê Hoàn toàn cung tiễn thủ, chống không được, bị kỵ binh loại gần hết.

Quân của Lê Hoàn loạn thành một nùi, trận kỳ tan rã, binh bại như núi đổ. Lê Hoàn cũng bị bắt sống.

Khi hai người vào trướng ra mắt Đinh Bộ Lĩnh thuật lại mọi chuyện rồi. Bộ Lĩnh mới khen rồi đều ban thưởng cho cả hai.

Lý Thông nói rằng:

- Nay tôi đã thắng Lê tướng quân, lời hứa lúc nãy tướng quân ưng thuận chứ?

Lê Hoàn trong bụng vẫn chưa phục, nói:

- Trận này tiên sinh đánh thủ, tôi đánh công nên bị mất tiên cơ. Chứ nếu để tôi đánh thủ thì tiên sinh chưa chắc đã công được.

Lý Thông cười ha hả, nói:

- Xem ra tướng quân vẫn chưa phục. Vậy chúng ta so tài thêm lần nữa. Lần này tôi đánh công trận, tướng quân thua nhớ giữ lời đấy.

Lê Hoàn quả quyết, nói:

- Tôi nguyện lấy mạng mình ra thề.

Hai người thương lượng rồi lại xin Bộ Lĩnh so tài thêm lần nữa. Bộ Lĩnh chấp thuận, phát cờ hiệu cho cả hai. Lần này Lê Hoàn đánh thủ trận, học theo Lý Thông bày trận hình tròn, cho cung thủ nằm phía trong. Kỵ binh thì giấu đi làm kỳ binh. (Kỳ binh: Quân đội đặc biệt chuyên đánh bất ngờ, thường thì đánh vào hậu quân hoặc trung quân đối phương)

Lý Thông cưỡi ngựa về trận địa, dạy cho binh lính bày trận Ngũ Hổ Cáo Sơn, trận này chia binh làm năm tốp, mỗi tốp đều có cả cung lẫn bộ. Kỵ binh thì chạy theo sau sau hộ tống.

Hiệu lệnh vừa ra, bốn tốp binh mã của Lý Thông theo bốn hướng ùa tới đánh nhầu. Lê Hoàn đứng ở trung quân, không phân biệt được địch ở đâu làm chủ lực. Khi hai bên xáp gần, Lê Hoàn bí quá bèn phất cờ hiệu cho kỵ binh từ trong rừng ùa ra đánh úp. Nào ngờ Lý Thông biết trước, đã cho một tốp quân mai phục gần đó. Quân kỵ của Lê Hoàn bị chặn, không tài nào đánh thọc vào hậu quân được.

Mặt khác, cung tiễn thủ của phe Lý Thông chạy sát bộ binh, nên tránh được phần nào mũi tên của đối phương. Khi hai bên lại xáp gần, cung tiễn của Lý Thông mới giương cung lên bắn. Lê Hoàn bày trận tròn cho tiễn thủ đứng trong vòng vây của bộ binh, nên không chạy né tên được, bị tiễn thủ địch bắn loại hết sạch. Lý Thông lợi thế quân đông hơn, chẳng mấy chốc phá được trận. Lê Hoàn lại bị bắt sống một lần nữa.

Lê Hoàn bị bắt về dinh, Đinh Bộ Lĩnh cho đòi lại, nói:

- Hai trận Lý tiên sinh đều thắng cả hai, Lê tướng quân đã phục tòng rồi chứ?

Lê Hoàn mặt mày sượng trân vội bước tới trước mặt Lý Thông xá dài một cái, chân thành nói:

- Lý tiên sinh quả là người kỳ tài. Mạt tướng tâm phục khẩu phục.

Lý Thông hỏi:

- Thế lời hứa lúc nãy tướng quân chấp thuận rồi chứ?

Lê Hoàn đáp:

- Tôi đã mang tính mạng ra thế, chẳng lẽ nào không đáp ứng. Chẳng hay tiên sinh muốn mạt tướng làm chuyện chi?

Lý Thông lắc đầu cười xòa, đáp:

- Cái đó nói bây giờ hẵng còn sớm lắm. Đợi thêm vài năm nữa lúc đó tôi sẽ bày tỏ với tướng quân sau. Xin tướng quân cứ yên lòng, chuyện tôi muốn tướng quân làm không trái với đạo lý.

Lê Hoàn nghe vậy cũng thở dài một hơi.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 8:

Lý Thông bày kế, trấn bốn lộ sứ quân.

Lê Hoàn đi sứ, dùng độc diệt thủy yêu.


Tháng sáu, năm Ất Sửu, tức Đại Hữu năm tứ mười lăm, Nam Tấn Vương đem binh đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình. Vừa vào đến cõi, đỗ thuyền cho quân lên bộ đánh, bị phục binh tay nỏ bắn trúng chết. Tin này truyền khắp cả nước, hùng chủ các ấp hay biết đều rục rịch đứng ngồi không yên. Dòng dõi nhà Ngô còn lại một mình Ngô Xương Xí, nhưng lại không đăng cơ xưng vương. Tự nhận làm Ngô Sứ Quân đóng giữ ở Bình Kiều, Ái Châu.

Phần về Đinh Bộ Lĩnh, sau khi nghe tin nói với chư tướng rằng:

- Nam Tấn Vương đem binh dẹp loạn thảo khấu, lại chết bất đắc kỳ tử. E rằng trong này có ẩn mưu gì chăng?

Nguyễn Bặc thưa:

- Đao kiếm không có mắt, Nam Tấn Vương chết bởi ám tiễn có gì đâu mà kỳ?

Lê Hoàn không cho là đúng, toan đứng lên phản bác, nhưng lại chợt nhớ bên cạnh mình có Lý Thông, bèn quay qua hỏi:

- Không biết Lý tiên sinh với chuyện này có cao kiến gì chăng?

Mọi người đều nhìn về phía Lý Thông. Lý Thông cười đáp:

- Tôi tối qua ngồi xem tinh tượng, thấy phía chân trời sao Thiên Bao phai mờ ảm đạm, đã đoán chắc rằng nhà Ngô không giữ được bao lâu nữa. Còn như việc Nam Tấn Vương mất, thì người có lợi nhất là ai thì kẻ đó chính là kẻ chủ mưu.

Đinh Bộ Lĩnh giật mình, nói:

- Chẳng lẽ ý tiên sinh là Ngô Xương Xí?

Lý Thông không đáp mà nói rằng:

- Nam Tấn Vương chết chẳng ngoài dự đoán của tôi. Việc tướng quân cần làm không phải tìm kẻ chủ mưu. Mà chính là nghĩ cách bình định vùng phía Nam mới phải đạo. Tấn Vương mất rồi, Ngô Xương Xí lại không dám tự phong vương. Khí số nhà Ngô đã tận, ta nên nhân cơ hội đó mà thâu về thì hơn.

Đinh Bộ Lĩnh gật đầu, nói:

- Việc tiên sinh dạy bảo Lĩnh tôi vẫn ghi nhớ trong lòng. Tuy nhiên phía Bắc còn đang loạn thành một nùi. Chúng ta đem quân xuống Nam, lỡ như bọn hắn thọc một gậy sau lưng thế chẳng phải hung hiểm lắm ư?

Lý Thông đáp:

- Thế mới cần phải giao hảo với bọn họ.

Đinh Bộ Lĩnh đứng dậy, xá Lý Thông một cái, nói:

- Xin tiên sinh dạy bảo.

Chư tướng xung quanh cũng lật đật đứng dậy thi lễ.

Lý Thông hốt hoảng, không dám ngồi trên ghế, cũng đứng dậy đáp lễ, nói:

- Tướng quân làm vậy tôi đây tổn thọ mất.

Dứt lời, bèn nói với Lĩnh rằng:

- Mười lộ sứ quân đất Giao Châu thì chỉ có bốn lộ là nằm sát địa phận Hoa Lư. Gồm Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Phạm Phòng Ất, Trần Lãm. Trong đó ba người thì tôi đã nghĩ kế ra rồi. Chỉ còn mỗi Đỗ Cảnh Thạc hơi khó khăn một tý mà thôi.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, hỏi kế ấy ra làm sao.

Lý Thông đáp:

- Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt. Cùng với Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp vốn là ba anh em gốc Bắc Triều (Trung Quốc). Cha Nguyễn Nê, trước vâng mệnh Bắc Triều sang nước ta đòi triều cống. Sau cùng đóng quân ở Thành Quả. Người này giao hảo rất tốt với Tiết Độ Sứ, Khúc Thừa Mỹ. Còn tướng quân trước ở dưới trướng Tiền Ngô Vương. Tiền Ngô Vương lại là con rể của Dương Đình Nghệ. Dương Đình Nghệ là bộ tướng Khúc Thừa Mỹ. Cái dây chằng mối nhợ này tướng quân nên cố mà nắm lấy, ắt có thể trấn an được lộ sứ quân này.

Đinh Bộ Lĩnh gật đầu khen là hay. Lý Thông lại nói:

- Phạm Phòng Ất ở Đằng Châu, người gốc Nam Sách, Hải Dương. Cùng Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng đều con cháu công thần dưới triều Ngô Vương. Tình giao hảo không cạn. Tướng quân muốn hòa với người này chỉ cần cử Hạp với Cự Lạng đi là đủ. Còn Trần Lãm đóng giữ ở Bố Hải Khẩu, là vùng đất có vị trí quan trọng về kinh tế và quân sự, giao thông thuỷ bộ thuận lợi, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa. Tướng quân nên tự mình thân chinh đến đó kết giao hảo với người này chỉ có lợi chứ không có hại. Trần Lãm tự xưng làm Minh Công cũng không phải không có lý.

Đinh Bộ Lĩnh y kế, sai người sắm sửa đủ cả. Lại hỏi với Lý Thông rằng:

- Thế còn Đỗ Cảnh Thạc, tiên sinh tính sao?

Lý Thông đáp:

- Đỗ Cảnh Thạc từng là bộ hạ dưới trướng Dương Tam Kha sau quy hàng Nam Tấn Vương. Sau cùng Sách Vương lấn quyền làm uy, Đỗ Cảnh Thạc mới lui về trấn giữ Đỗ Động Giang, đào hào đắp lũy. Chúng ta mấy hôm trước đánh Thiên Sách Vương một trận lớn, chắc có thể cử sứ sang giao hảo được. Mặt khác, tôi nghe đồn ở vùng Đỗ Động Giang có thủy quái hoành hành. Tôi nguyện bày kế giết con thủy quái này, tạo cho tướng quân một cái tiền đề.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, hỏi nên cử ai đi sứ cho được. Lý Thông liền tiến cử Lê Hoàn.

Mấy ngày sau, Đinh Bộ Lĩnh y lời Lý Thông, sai Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng mang theo lễ vật quý báu tiến về Đằng Châu. Nguyễn Bặc thì mang lễ tới Tây Phù Liệt giao hảo với Nguyễn Siêu. Còn Lĩnh mang theo vài thân tín, tự mình tới Bố Hải Khẩu gặp Trần Lãm. Lê Hoàn thì đi sứ Đỗ Động Giang.

Nói tới Lê Hoàn, từ sau trận so tài thua về tay Lý Thông, trong bụng phục lắm. Nghe Lý Thông tiến cử mình đi sứ Đỗ Động Giang, đêm hôm đó liền tới phòng Lý Thông hỏi:

- Tiên sinh cử tôi đi sứ, nhưng tôi không có tài phép gì diệt thủy yêu. Đến lúc đó phải làm sao giờ?

Lý Thông trao cho Lê Hoàn một cái lọ, bảo phải làm thế này, thế này.. Lê Hoàn nghe xong thì mừng rỡ, nói lời cảm tạ rồi lui về.

Tháng tám năm đó, Lê Hoàn mang theo một ngàn thớt ngựa quý, vải lụa gấm vóc, cùng vàng bạc châu báu, tiến về Đỗ Động Giang. Vừa đến biên giới liền phái người dâng biểu lên, Đỗ Cảnh Thạc đọc biểu rồi cho mời vào.

Lê Hoàn vào dưới trướng, khi hai bên lễ tới sau đủ cả. Đỗ Cảnh Thạc mới nói:

- Xưa nay vẫn ngưỡng mộ tài của Lê tướng quân, được người đời xếp vào Giao Châu Thất Hùng mà chưa được bái kiến bao giờ. Nay may mắn được gặp, chẳng hay tướng quân có lời chi dạy bảo?

Lê Hoàn nói:

- Đỗ tướng công khách khí rồi, tôi đây tài mọn có tính là chi. Chẳng qua hôm nay tới đây là vâng mệnh chủ công, muốn giao hảo một thoáng với Đỗ tướng công mà thôi.

Đỗ Cảnh Thạc trong mắt có ý đề phòng, nhưng bên ngoài vẫn cười mà bảo rằng:

- Đinh Bộ Lĩnh trảm được Thiên Sách Vương chính là giúp ta hả cơn giận. Lẽ nào từ chối thiện ý này.

Lê Hoàn cảm tạ, lại nói:

- Nam Tấn Vương mấy bửa trước bị ám tiễn bắn chết, chủ tôi nghi ngờ là Ngô Xương Xí làm nên chuyện này. Nên ý định cất quân đánh xuống phía Nam, bắt Ngô Xương Xí hỏi tội. Ngặt một nỗi không an tâm chuyện Giao Châu, các thế lực đang nổi hên hùng cứ các nơi. Nên sai tôi sang đây kết mỗi hữu hảo với tướng công. Ắt cũng là phòng ngừa đó vậy.

Quả nhiên, Đỗ Cảnh Thạc nghe xong liền ngần ngừ không quyết.

Lê Hoàn thấy vậy, liền nói:

- Lễ vật của chủ tôi chỉ mấy món đồ này còn chưa đủ. Nhân nghe được gần đây vùng này có thủy yêu hoành hành, tôi vâng mệnh tới bày kế giết con yêu quái này. Âu cũng là một chút thành ý. Không biết ý của tướng công thế nào?

Cảnh Thạc nghe xong, cả mừng, nói:

- Nếu Lê tướng quân có thể trừ con yêu Ngạc Ngư này thì ta ắt đồng ý. (Ngạc Ngư: Cá Sấu)

Lê Hoàn vâng mệnh, xin một ít binh lính giúp việc. Đỗ Cảnh Thạc chấp thuận, truyền cho năm trăm tráng sĩ, rồi dẫn Hoàn tới hồ nước, nơi có yêu quái. Lê Hoàn lệnh cho binh sĩ bắt ba con heo lớn, rồi múc một hũ nước đổ cái bình lúc trước Lý Thông đưa cho. Xong xuôi mới sai người lấy chổi lông thấm nước quét vào thân heo. Cái bình kia chứa nọc độc của Chằn Tinh. Lý Thông cùng Thạch Sanh khi trảm được rồi thì thu thập một ít. Không ngờ có ngày lại đem ra sở dụng. Sau khi chuẩn bị đủ cả rồi, Lê Hoàn sai lính bện dây thừng thật chắc, cột vào chân lợn, tới đêm hôm đó bỏ mấy con lợn trên bờ.

Canh ba đêm ấy, một con Ngạc Ngư thật lớn từ trong hồ trồi lên bờ. Nó thấy trên bờ có ba con heo liền há miệng tớp luôn. Lê Hoàn thấy vậy liền huýt sáo ra hiệu. Đám binh sĩ nghe thấy liền nổi trống đốt đèn, hét hò inh ỏi. Ngạc Ngư cả giận, vung đuôi quạt ngang khiến cây cối ngã rào rào. Lê Hoàn không cho binh sĩ lao lên mà chỉ đứng hét hò phô trương thanh thế. Ngạc Ngư đứng trên bờ lâu quá, nọc độc cũng dần ngấm vào thân. Qua được nửa tuần hương liền ngã lăn ra chết.

Lê Hoàn ra hiệu cho binh lính bắn tên, thấy Ngạc Ngư không có phản ứng, lúc đấy mới cho người kéo dây về.

Hôm sau, Đỗ Cảnh Thạc nghe tin bèn chạy tới xem. Quả nhiên nằm trên bờ là một con Ngạc Ngư thật to. Cảnh Thạc bấy giờ mới phục, nói với Lê Hoàn:

- Tướng quân giúp tôi trừ con yêu này, chính là ân nhân của bô lão quanh vùng.

Ngay hôm đó, Đỗ Cảnh Thạc mời Lê Hoàn về dinh, truyền người mang giấy bút ký kết lệnh bất khả xâm phạm lãnh thổ của nhau. Lê Hoàn cầm giấy, tạ ơn rồi lui về. Thế là, bốn lộ sứ quân ở phía bắc tạm thời không cần phải lo đến nữa.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 9:

Sí Điểu hạ sơn, báo thù bạn.

Lý Thông mang binh, đánh Ái Châu.


Nhắc tới Ngô Xương Xí sau khi rút quân về Kiều Bình, được quan tham mưu Đỗ Thắng hiến kế. Cho một lộ binh sĩ toàn người thân tín, giả làm cường đạo, đánh úp vào hai thôn Nguyễn và Đường. Đợi Nam Tấn Vương đem quân dẹp loạn, thì cho phục binh tay nỏ nhằm bắn chết. Quả nhiên không bao lâu sau, tin Nam Tấn Vương chết trận truyền về, Ngô Xương Xí cười toét cả miệng, nói với các quan dưới trướng rằng:

- Nay Tấn Vương đã chết rồi, ngai vàng chắc chắn thuộc về ta.

Đỗ Thắng nói:

- Quả đúng như vậy. Chủ thượng bây giờ chỉ cần chiêu binh mãi mã, ngày diệt được Đinh Bộ Lĩnh báo thù không còn xa.

Chư tướng xung quanh cũng gật đầu đồng ý.

Còn đang chuyện văn, chợt cây đại kỳ bên ngoài cổng đổ ập xuống. Ngô Xương Xí cả kinh, vội truyền hỏi binh lính. Binh lính thưa rằng:

- Gió lớn nên làm đổ cờ.

Lúc đó có một vị quan đứng bên buột miệng nói:

- Cờ gãy là điềm chẳng lành.

Ngô Xương Xí cả giận, quát:

- Gió to cờ gãy là chuyện bình thường, sao ngươi dám buông lời yêu ngôn, nhiễu tâm hoặc chúng!

Nói dứt lời liền thét người lột áo mão của vị quan kia rồi lôi ra chém. Đao phủ vâng mệnh xông vào lôi vị quan kia ra xử tử, chư tướng dưới trướng im thin thít không dám nói một lời.

Đúng lúc đấy có quân vào cấp báo, thấy một con chim ưng lớn đang đậu ngoài cổng thành. Ngô Xương Xí kinh nghi, vội dẫn các quan chạy ra xem, quả nhiên ở trên cổng thành Kiều Bình có một con chim ưng lớn đang đậu trên nóc. Con Ưng Điểu này toàn thân lóng lánh kim sắc, nó vừa thấy Ngô Xương Xí liền vỗ cánh xà xuống.

Ngô Xương Xí biến sắc, đang không biết làm thế nào thì con Ưng Điểu bỗng nhiên nói tiếng người:

- Xin đại nhân chớ hoảng sợ, tôi là một con chim ưng ở núi Thạch Động, Hà Tiên. Vì tu thành phép thần thông nên đồng đạo gọi bằng Kim Sí Điểu. Nhân đi qua đây thấy đại nhân khí số hưng vượng, muốn ở dưới trướng tá túc. Như thế có được hay chăng?

Kim Sí Điểu hạ xuống đất rồi hóa thành một thanh niên khoảng độ hai mươi tuổi, môi hồng răng trắng da dẻ sáng ngời, đầu đội mão kim loan, lưng đeo bửu kiếm.

Ngô Xương Xí thấy Kim Sí Điểu hóa thành người, có vài phần đạo vận, mừng như mở cờ trong bụng, tiến lên nắm tay thân thiết, nói:

- Được đại tiên trợ giúp bổn quân, sợ gì không thâu phục được thiên hạ.

Nói rồi truyền người mở rộng cửa mời Kim Sí Điểu vào điện, bày trà nước thiết đãi. Lại sai người dâng lễ vật thật trọng hậu. Kim Sí Điểu nói:

- Tôi thấy tướng quân mặt mày ủ rũ, không biết là có chuyện gì phiền muộn chăng?

Ngô Xương Xí thở dài một hơi, cho tả hữu lui xuống hết rồi mới đáp:

- Đại tiên không biết rồi, tôi phiền muộn vì chưa báo được thù cha đấy thôi.

Kim Sí Điểu cười, nói:

- Tướng quân phiền muộn vì thù cha, hay là vì chưa đăng cơ xưng Vương được?

Ngô Xương Xí giật mình, mặt mày ngượng ngùng, nói:

- Đại tiên quả nhiên hiểu được lòng tôi thế nào.

Kim Sí Điểu nói:

- Tôi tuy tu luyện chốn non sơn, nhưng chuyện trần tục cũng am hiểu phần nào. Tướng quân muốn đăng cơ xưng Vương lúc này, e rằng chỉ có con đường chết.

Ngô Xương Xí cả kinh, hỏi:

- Sao đại tiên lại nói vậy?

Kim Sí Điểu đáp:

- Thiên hạ đất Nam hiện có mười một lộ sứ quân, nếu tính thêm cả Đinh Bộ Lĩnh nữa là mười hai. Ai nấy đều tự thu binh mã, cai quản một cõi, ý đồ thì ai cũng đoán được. Tuy nhiên không ai tự dám phong Vương. Chỉ cần một lộ quân nào tự phong Vương ắt khiến những lộ quân khác thù địch. Đến khi đó, cho dù đại nhân có tướng giỏi binh tinh đến mấy cũng không thể sống được. Đấy gọi là "Kiến nhiều cắn chết Voi".

Ngô Xương Xí nghe vậy mặt mày càng ủ rũ hơn. Kim Sí Điểu nói:

- Tuy nhiên, tôi có một kế có thể khiến đại nhân an tâm dưỡng quân. Chờ ngày đăng cơ.

Ngô Xương Xí mặt trở mừng, hỏi kế ấy ra làm sao. Sí Điểu đáp:

- Kế ấy chẳng có chi, đại nhân hiện tại chỉ xưng làm Sứ Quân, làm yên lòng mấy lộ sứ quân kia. Rồi lấy cớ báo thù cha mà mang quân đánh Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh chiếm cứ Hoa Lư, là nơi hiểm địa. Đại nhân chiếm được chỗ ấy rồi thì như Rồng gặp nước, chẳng mấy chốc mà chiếm lại được mấy quận ở Giao Châu thôi.

Ngô Xương Xí hỏi:

- Nhưng Đinh Bộ Lĩnh có Giao Châu Thất Hùng, tướng giỏi như vậy ta làm sao đánh thắng cho được?

Kim Sí Điểu cười cười, nói:

- Thắng không được đó là do đại nhân chưa gặp tôi đấy thôi. Mấy đứa Thất Hùng kia, tôi xem chỉ như trẻ con học múa. Muốn giết khi nào chả được?

Ngô Xương Xí nghe vậy cả mừng, y lời mà làm. Sai người mang lên lệnh kỳ, cho Kim Sí Điểu giữ chức Quân Sư kiêm luôn Đại Tướng Quân, phong làm Đại La Kim Tiên. Dưới trướng có Lý Tùng làm Phó Tướng Quân, tả hữu hơn mười vị khác. Cùng với tám vạn quân binh. Xong xuôi hết thảy, Ngô Xương Xí liền viết một phong thơ, sai người truyền đi khắp chốn.

Thơ kia truyền tới Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đọc được, bèn đem hội ý với Lý Thông. Lý Thông nói:

- Ta chưa đem quân đánh nó, mà nó đã cất quân đến trước. Đấy là khiến chúng ta mất đi tiên cơ rồi, e rằng phía bên kia cũng có quân sư tài cao.

Bộ Lĩnh hỏi nên làm sao cho được. Lý Thông đáp:

- Để tôi tối xem tinh tượng sẽ hiểu rõ ngay ấy mà.

Tối hôm đó, Lý Thông cùng Thạch Sanh ngồi ngoài hiên ngắm sao. Chợt thấy sao Thiên Lang hiện ở ngôi Càn Tượng, soi vào đất Ái Châu. Sao Thiên Lang vốn là điềm gở, báo có yêu quái hiện thế nhân gian. Nhưng lại hiện ở ngôi Càn Tượng của bậc mưu sĩ. Hiển nhiên quân sư phía bên Ngô Xương Xí là một con yêu thành tinh. Lý Thông xem rồi nói với Thạch Sanh:

- Hiền đệ ơi, Lĩnh tướng quân muốn khởi binh công Ái Châu. Chuyến này chúng ta không thể không đi rồi.

Thạch Sanh hỏi cớ làm sao. Lý Thông nói:

- Hai ta trảm Chằn Tinh, hồn của nó bay về núi Thạch Động, Hà Tiên cầu cứu. Bây giờ đồng đạo của nó là Kim Sí Điểu hạ sơn, lấy cớ giúp Ngô Xương Xí mà báo thù hai ta. Nếu ta không đi thì binh của Lĩnh tướng quân chống sao lại với thần thông của con yêu này?

Sáng sớm hôm sau, Lý Thông đem chuyện này báo lại với Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh cả sợ, hỏi:

- Yêu quái thành tinh, người sao chống lại được?

Lý Thông cười đáp:

- Chẳng phải hai anh em chúng tôi lúc trước cũng chém một con Chằn Tinh đấy sao? Con yêu quái này so đến cũng khác gì. Tướng quân hãy cho thám báo trà trộn vào Ái Châu tìm hiểu sự tình. Tôi nguyện mang quân bắt giữ con yêu này, chiếm đất Ái Châu.

Đinh Bộ Lĩnh nghe vậy mới yên lòng, vội cho người đi thám báo tình hình. Qua được mấy hôm, có người về báo rằng:

- Cổng thành Kiều Bình lúc đó có một con chim ưng lớn, hóa thành người. Ngô Xương Xí phong làm Đại La Kim Tiên, nắm giữ tám vạn binh mã. Dưới trướng còn có Phó tướng Lý Tùng. Chẳng mấy chốc sẽ công đến Hoa Lư.

Lý Thông nghe xong, cười lớn, bảo:

- Một con yêu quái dám tự xưng tiên nhân. Nó không sợ bị trời khiển hay sao mà phách lối thế?

Đinh Bộ Lĩnh nói:

- Mọi chuyện nhờ tiên sinh chỉ đạo. Không biết tiên sinh cần bao nhiêu binh mã?

Lý Thông đáp:

- Bốn vạn là đủ. Tuy nhiên cần một số bộ hạ của tướng quân đi theo mới được.

Lĩnh ưng thuận, trao cho Lý Thông lệnh kỳ, điểm bốn vạn binh mã. Tướng tá đi theo gồm có: Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Phạm Cự Lạng, Trịnh Tú, Thạch Sanh. Khi binh mã vừa điểm xong, chợt có quân cấp báo, bên ngoài cồng thành Hoa Lư có hơn ba ngàn người ngựa, dẫn đầu là một vị tướng quân. Đinh Bộ Lĩnh cùng Lý Thông chạy ra xem, quả nhiên thấy phía dưới thành có một vị tướng quân trẻ tuổi cưỡi ngựa hồng mao, thân mặc kim giáp, tay cầm đại chùy. Đinh Bộ Lĩnh cất tiếng hỏi:

- Xin hỏi vị tướng quân phía dưới kia là ai?

Người kia đáp:

- Tiểu tướng Trình Minh, người phủ Lôi Dương, Triệu Sơn. Nghe đồn Đinh tướng quân đóng giữ ở Hoa Lư là người có chí lớn, chiêu hiền đãi sĩ nên dẫn theo ba ngàn bộ hạ đầu phục dưới trướng. Chẳng hay Đinh tướng quân ở đâu? Xin được yết kiến.

Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội sai người mở cổng thành, đích thân xuống đón. Trình Minh thấy Lĩnh ra đến nơi thì quỳ xuống, nói:

- Tiểu tướng không biết là Đinh tướng quân nên thất lễ.

Đinh Bộ Lĩnh cười, đáp:

- Tướng quân chớ khách khí.

Nói rồi lệnh cho người bày tiệc thiết đãi Trình Minh. Sắp xếp chỗ ở cho ba ngàn người ngựa.

Trình Minh thấy Lĩnh chào đón nồng nhiệt thì cảm động lắm, lại thấy phía bên kia có binh mã đang điểm quân không biết để làm gì nên mở miệng hỏi thăm. Đinh Bộ Lĩnh đáp:

- Ngô Xương Xí bày mưu hại chết Nam Tấn Vương, ta đang chuẩn bị binh mã bắt y về hỏi tội đấy.

Trình Minh giật mình, vội quỳ xuống tâu:

- Tiểu tướng gia nhập với tướng quân chưa có công lao gì. Nguyện dẫn bộ hạ đánh tiên phong trận này.

Đinh Bộ Lĩnh ưng thuận, dẫn Trình Minh ra mắt Lý Thông

Lý Thông xem tướng mạo, thấy Trình Minh lưng hùm vai gấu liền biết là kẻ có võ công cao cường, bèn hỏi:

- Không biết tướng quân là học trò của ai?

Trình Minh quan sát thấy Lý Thông trán vồ mũi lệch, hình dong xấu xí trong bụng đầy nghi hoặc, nhưng bên ngoài vẫn thản nhiên đáp:

- Tiểu tướng bái sư Hoàng tiên sinh, ở đất Hà Châu.

Lý Thông à một tiếng, nói:

- Có phải Hoàng Cự Phủ, Hoàng tiên sinh đấy ư?

Trình Minh gật đầu, tự nhủ:

- Sư phụ ta người đời đều không ai biết tên. Nhưng vị quân sư này vừa nghe là đoán ra ngay được, xem ra chẳng phải dạng tầm thường. Sư phụ ta nói, đừng nhìn mặt mà bắt hình dong, quả nhiên chẳng sai.

Ngay ngày hôm đó, Đinh Bộ Lĩnh triệu tập chư tướng, giới thiệu Trình Minh cho mọi người cùng biết rồi phong chức làm Đẳng Nhung Sự, bộ hạ dưới trướng đều giữ nguyên. Sáng hôm sau, các tướng tá đều nai nịt chỉnh tề, ra sân tụ họp. Lý Thông kiểm điểm rồi lãnh bốn vạn binh mã, tế cờ phát pháo, truyền lệnh kéo binh đi. Đi dọc đường quân luật uy nghiêm, đến đâu đều tỏ ra là đội quân tinh nhuệ. Độ vài ngày, Lý Thông đã kéo binh đến sát Ái Châu, liền truyền lệnh dừng binh, phát pháo an dinh hạ trại.

Bấy giờ, bên Ngô Xương Xí, từ lúc Kim Sí Điểu cầm binh, mãi đến mấy ngày sau mới chiêu tập đủ tám vạn binh mã. Đang lúc tập dượt thì bỗng có quân báo:

- Một đạo quân binh từ phía bắc kéo tới, đang hạ trại sát biên giới, gần dãy Cửu Noãn Sơn. Khí thế trông rất uy nghiêm.

Kim Sí Điểu nói với các tướng rằng:

- Xem ra Đinh Bộ Lĩnh biết kế của ta, cho quân đi tới trước. Vậy chúng ta cũng không nên thất lễ.

Nói rồi truyền lệnh ba quân, phất cờ nổi pháo, kéo tới Cửu Noãn Sơn, cách trại Lý Thông khoảng độ mười dặm.

Lý Thông nghe tin, cho Trình Minh đến, nói rằng:

- Tướng quân đánh hãy tiên phong trận này. Tuy nhiên nếu bên dinh địch mà có sở động gì thì phải rút quân về ngay.

Trình Minh lãnh mệnh, cầm chùy lên ngựa, dẫn theo ba ngàn bộ hạ, kéo tới trại địch, cách đấy chẳng xa. Xem thấy trong dinh cờ bay phấp phới, lá cờ đều vẽ hình một con chim ưng đang giương cánh. Trình Minh thấy địch khí thế uy nghiêm, trong lòng hơi hồi hộp. Đang lúc dò xét thì quân giữ cửa xem thấy, nạt lớn:

- Binh mã xứ nào mà dám đến đây dòm ngó? Mau khai tên họ.

Trình Minh nghe nói dừng ngựa, vung chùy chỉ quân giữ cửa, quát lớn:

- Ta là Trình Minh, bộ hạ dưới trướng Đinh tướng quân. Hôm nay được mệnh đem binh tới đây thâu phục Ái Châu, bắt Ngô Xương Xí về hỏi tội. Chủ tướng các ngươi là ai? Ra đây cho ta hỏi!

Lời vừa dứt, xảy đến trong dinh xông ra một vị tướng trẻ, mặc giáp vảy rồng, tay cầm bán nguyệt thương. Trình Minh thấy người này khí thế dũng mãnh, nạt lớn:

- Tướng địch là ai, mau khai tên họ.

Vị tướng kia giục ngựa chạy đến hươi mâu đâm một phát rồi nói:

- Ta là Nguyễn Thành Dũng đây!

Hai tướng xưng họ tên rồi lao vào nhau đánh hăng tiết, được độ khoảng ba mươi hiệp Thành Dũng liệu bề địch không lại quày ngựa chạy tuốt về dinh. Trình Minh giục ngựa rượt theo, rút cung sau lưng chắp tên bắn với một phát. Mũi tên bắn trúng sau ót Thành Dũng làm gã chết ngay trên lưng ngựa, nhưng con ngựa không biết vẫn cứ chạy dài. Mãi đến khi về đến dinh mới chịu dừng lại. Binh sĩ thấy vậy vội vào cấp báo cho Kim Sí Điểu.

Kim Sí Điểu đập bàn, giận dữ quát:

- Có vị tướng nào dám ra đánh?

Chư tướng dưới trướng đều im lặng. Kim Sí Điểu cả giận, phất áo đi ra khỏi trướng, hóa hình thành chim ưng bay tuốt lên trời.

Nhắc tới Lý Thông đang ngồi trong dinh, chợt thấy phía chân trời yêu khí nổi lên, giật mình hoảng sợ, vội truyền cho Thạch Sanh đến dặn rằng:

- Trình tướng quân đánh tiên phong trận này e rằng gặp bất trắc. Em phải đến cứu giúp thật mau, kẻo con yêu kia làm hại đến Trình tướng quân mất.

Thạch Sanh lĩnh mệnh, cầm đao tế ngựa chạy đi. Lý Thông vẫn chưa an tâm, chạy vào trướng lập đàn, đầu xõa tóc, tay cầm gươm, miệng đọc thần chú. Giây phút, đất trời tối tăm, bỗng thấy năm vị tôn thần hạ xuống, hỏi:

- Chẳng hay pháp sư triệu bọn tôi đến có việc chi?

Lý Thông nói:

- Bẩm ngũ vị Lôi thần, phía bên kia có con ưng điểu thành tinh, tự xưng làm Đại La Kim Tiên, đó thật là hống hách và xấc xược. Nay nó lại định giở thần thông hại người. Tôi thỉnh chư vị là vì muốn nhờ các vị dùng sấm sét đánh nó.

Một vị nói:

- *Yêu vật nhân gian chúng tôi không ra tay diệt trừ được, chỉ có thể đánh nó để nó sợ mà thôi.

Lý Thông nói:

- Thôi đánh nó một chầu để cảnh cáo cũng được.

Các thần vâng mệnh bay lên mây.

Phía bên trại của Kim Sí Điểu, Trình Minh cùng thuộc hạ đứng đợi bên ngoài mãi mà không thấy ai ra ứng chiến. Bỗng trời đất trở nên tối tăm, phía trên không một con chim lớn sà xuống lao vào giữa trung quân. Móng vuốt của nó sắc nhọn, vừa lao xuống quạt chết gần mấy trăm người. Trình Minh cả sợ, vội truyền lệnh thâu binh. Quân lính không có sức chống cự, vứt hết binh khí chạy dài.

Chợt thấy có một người từ xa cưỡi ngựa xông tới, vung đao chém Ưng Điểu, quát lớn:

- Yêu vật to gan, có ta ở đây còn không mau thu lại thần thông?

Trình Minh nhìn lại xem đó là ai, thì hóa ra là Thạch Sanh. Chỉ thấy Thạch Sanh múa đao đánh nhau với Ưng Điểu rất hăng. Đao pháp như rồng bay phượng múa. Sí Điểu thân hình to quá, bị Thạch Sanh chém trúng mấy nhát rất đau, nó la lên:

- Đao ngươi nhiễm yêu khí. Xem ra hung thủ giết Chằn lão huynh là ngươi. Hôm nay ta phải báo thù cho Chằn lão huynh mới được.

Thạch Sanh cười lớn, quát:

- Yêu vật lắm lời, bị ta chém mấy nhát mà còn chưa biết sợ ư?

Kim Sí Điểu giận quá, mỏ ưng muốn mổ vào mắt Thạch Sanh cho biết điều lợi hại. Nhưng Thạch Sanh trên đầu có chân long bảo hộ, gầm lên một tiếng khiến Sí Điểu khiếp vía. Nó rú lên kinh sợ:

- Ngươi là truyền nhân của Long Quân đấy ư?

Kim Sí Điểu biết Thạch Sanh là truyền nhân của Long Quân, có chân long bảo hộ trên đầu nên không giết được. Không làm được gì hơn, bèn vung cánh, khiến gió cát bay mịt mù. Thạch Sanh tâm thần hoảng hốt, nhất thời không nhìn thấy gì cả. Thần thông của Kim Sí Điểu bao trùm mấy trăm trượng, trong đó âm phong ngun ngút, khí lạnh như sương, sỏi đá bay tứ tung như đạn tạc. Quân sĩ của Trình Minh bị đá bắn trúng chết non nửa.

Giữa lúc đấy, trời bỗng dưng nổi sấm, phía trên cao hào quang rực rỡ. Một tia sét đột nhiên bổ xuống, như chẻ đôi đất trời. Thần Thông của Sí Điểu bị tia sét đánh trúng thì tan tác thành từng mảnh. Kim Sí Điểu đau quá, rên lên:

- Vị tôn thần nào hạ phàm đấy? Tiểu yêu có phạm tội gì đâu mà dùng lưới thiên lôi bủa đánh?

Trên trời không có ai đáp lại, nhưng có bốn tia sét đang dần ngưng thành mà đánh xuống. Kim Sí Điểu cả sợ, vội thâu hồi chân thân hóa thành hình người bay tuốt về dinh. Lúc đấy trời đất mới trở lại như thường.

* * *

Chú thích:

* Yêu vật nhân gian: Yêu quái ở nhân gian, tu hành mà thành đạo. Tiên thần không thể ra tay giết được. Nếu giết phải sẽ nhiễm máu hung vật, không thể quay về trời được.

* Trình Minh: Trình Minh – Wikipedia tiếng Việt

 
Chỉnh sửa cuối:
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 10:

Sí Điểu đốt nhang thỉnh đạo hữu.

Song Tinh hạ sơn báo thù xưa.


Thạch Sanh dẫn Trình Minh chạy về dinh, lúc kiểm điểm binh mã thấy chỉ còn một ngàn hai trăm người. Trình Minh nước mắt chảy dài, khóc rống lên, vào trướng ra mắt Lý Thông xin lĩnh tội.

Lý Thông khuyên rằng:

- Lỗi này không phải do tướng quân, là do tôi sơ suất. Không nghĩ con yêu kia tự thân ra trận. Tướng quân chém được đầu tiên phong tướng địch, như vậy là lập công rồi đâu có tội tình chi, bây giờ hãy về nghỉ ngơi dưỡng sức đi.

Nói rồi sai người vào dìu đỡ. Trình Minh nén đau thương, lạy tạ ơn rồi lui ra khỏi trướng.

Nguyễn Bặc đứng ra tâu:

- Bẩm quân sư, phía bên địch có yêu quái lãnh binh. Sao quân sư không thỉnh tiên thần hạ phàm mà bắt nó?

Lý Thông thở dài, đáp:

- Tiên thần dĩ nhiên bắt được, nhưng họ sợ nhiễm máu hung vật không thể quay về trời. Nên chẳng vị tiên thần nào giúp chúng ta đâu, có đi chăng nữa cũng chỉ trấn áp một phen. Nay tôi thỉnh Ngũ Lôi Chân Quân hạ phàm, dùng Lưới Thiên Lôi bủa vây trấn áp Kim Sí Điểu. Khiến nó không dám tung thần thông nữa. Các tướng có thể yên lòng.

Chư tướng đều mừng rỡ, nói:

- Nếu được vậy thì hay quá.

Lý Thông lại nói:

- Con yêu kia dựa vào thần thông, chứ tài cán thực ra chẳng có chi. Nó thua trận này tất mang lòng căm hận, tối nay ắt mang binh sang cướp trại. Bây giờ các vị hãy an theo lệnh của tôi mà làm theo.

Nói rồi lệnh cho Nguyễn Bặc lĩnh một vạn binh mã mai phục mé tả, gần Cửu Noãn Sơn. Thạch Sanh dẫn bảy ngàn trọng giáp kỵ, mai phục bên hữu. Trịnh Tú cầm một vạn quân mai phục xung quanh, Trình Minh dẫn thêm một vạn vòng qua chiếm trại địch. Còn trại bên mình thì để trống, cho mấy tên lính lâu la canh giữ, phía trên đèn đuốc đốt sáng trưng, lại lấy rơm bện thành người nộm bỏ trong dinh. Các tướng lĩnh mệnh vào trướng nai nịt hẳn hòi, đợi trời chập tối liền lĩnh binh mà đi. Người thì ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, buộc mõm.

Nói về Kim Sí Điểu bị thiên lôi bủa đánh, trong lòng kinh sợ không dám thi triển thần thông nữa, chạy tuốt về dinh. Trong bụng nó hận lắm, nổi trống họp chư tướng lại, bàn rằng:

- Phía bên quân của Đinh Bộ Lĩnh có quân sư tài phép thông thần, mời tiên nhân hạ phàm trấn áp ta. Vì thế nên không giở thần thông được, đành so tài binh pháp với nó một phen. Vậy tối nay ta định mang quân sang cướp trại, chiếm lại tiên cơ. Nó mới thắng trận đầu, ắt mở tiệc khao thưởng ba quân. Chúng ta nhân đó mà đánh một trận, ắt dành thắng lợi.

Nói rồi lệnh Lý Tùng mở kho lương thảo, khao binh lính ăn uống no đủ. Đợi đến canh ba liền dẫn quân đi. Lý Tùng dẫn ba ngàn kỵ binh nhẹ, chạy trước do thám. Quả nhiên thấy trại của Lý Thông đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, bên trong người ngựa nhan nhản. Bèn đem chuyện đó thuật lại.

Kim Sí Điểu nghe vậy thì hăm hở, cho tướng tiên phong là Trần Công dẫn một vạn quân đi trước. Bản thân thì dẫn theo đại quân theo sau. Quân của Sí Điểu đến cách trại Lý Thông chừng bốn trăm trượng thì phát một tiếng pháo, đại quân ùa đến công trại, ùn ùn như thác đổ.

Nào ngờ Lý Thông đã đoán được điều này, trước trại cho đào hào sâu, phía dưới cắm chông nhọn. Quân tiên phong của Trần Công sa hầm, người ngựa chết không biết đếm bao nhiêu cho hết. Kim Sí Điểu cả kinh, nghĩ bụng:

- Quân sư bọn này cũng thật có tài. Dựng thành hạ trại chắc chắn như vậy!

Nghĩ vậy, bèn phất cờ ra lệnh:

- Trung quân dẫm lên xác mà xông vào đánh tiếp.

Tiên phong một vạn quân chết gần hết, nhưng lại lấp kín hào. Trung quân dẫm lên xác đồng bạn mà ùa vào công trại. Nhưng khi đại quân xông vào rồi thì không thấy một ai, xung quanh chỉ toàn người nộm bằng rơm. Kim Sí Điểu hoảng sợ đến tái mét mặt mày, hét lên:

- Trúng kế rồi, mau thu binh.

Nhưng chậm một bước, phía bên ngoài truyền đến ba tiếng pháo hiệu, quân của Lý Thông từ ba hướng ùa vào đánh nhầu. Đại quân Kim Sí Điểu tan rã, không có chỗ trốn tránh. Phía trong trại chất đầy người nộm bằng rơm, quân Lý Thông bắn lửa vào làm cháy sáng rực cả một vùng. Đại quân Sí Điểu hơn một nửa chết vì bị lửa thiêu. Nửa còn lại thì bị trọng giáp kỵ binh đạp thành thịt vụn.

Bấy giờ Lý Tùng dẫn hai quân binh phía sau tiếp ứng, thấy trại địch ba phía lửa động tưng bừng, còn tưởng là quân mình đánh trại thành công. Đang lúc hăm hở thì thấy một đạo quân hướng chỗ này xông đến. Dẫn đầu là một vị tướng trẻ tuổi, đầu đội mão kim loan, tay cầm long thương, cưỡi ngựa kim ô. Lý Tùng kinh nghi, hét lớn:

- Vị tướng quân kia là ở xứ nào? Sao không xưng rõ tên họ? Có biết bổn tướng quân là ai không mà dám mang quân đến đây?

Người kia chính là Nguyễn Bặc, nghe vậy liền giơ thương nạt:

- Ta là Nguyễn Bặc, vâng lệnh quân sư đến lấy đầu Lý Tùng nhà ngươi!

Nói rồi giục ngựa lên đánh. Lý Tùng cả giận giơ đao đón đỡ. Hai tướng đánh được chừng mấy chục hiệp, Lý Tùng đánh không lại, giục ngựa bỏ chạy. Nguyễn Bặc đuổi theo đâm một thương thủng bụng, rồi thừa thắng dẫn một vạn quân tràn vào đánh nhầu. Quân binh Lý Tùng tuy đông gấp đôi, nhưng mất đi chủ soái nên thua chạy tan tác. Nguyễn Bặc cho quân tràn lên đuổi giết, không để lại tù binh.

Nhắc tới Kim Sí Điểu biết mình bị trúng kế, nhưng còn chưa kịp cho lui binh thì bên ngoài nổi lên ba tràng pháo hiệu. Rồi có ba nhánh quân từ ba phía tràn vào chém giết. Sí Điểu cả kinh, toan hóa thành chân thân nhưng phía trên trời lại nổi tiếng sấm vang rền. Kim Sí Điểu sợ quá, không dám biến thân nữa, vội hội họp cùng với chư tướng phá vòng vây, hướng phía Tây mà chạy.

Vừa chạy được một lúc, chợt thấy phía xa có một toán quân kỵ ùn ùn lao đến. Cầm đầu là một vị tướng trẻ tuổi, tay cầm đại đao, chính là Thạch Sanh.

Thạch Sanh vừa tới liền giơ đao lên trỏ về phía địch, quát rằng:

- Kim Sí Điểu ở đâu? Ta vâng mệnh quân sư, đợi ngươi ở đây đã lâu! Có dám cùng ta đối chiến một phen hay chăng?

Kim Sí Điểu cả sợ, nếu là bình thường nó có thể thi triển thân thông giết chết quân địch dễ như lấy đồ trong túi. Nhưng bây giờ chư thần đang ở trên mây dòm ngó, nó chỉ cần giở phép sẽ bị thiên lôi bủa đánh. Tuy Tiên Thần không dám đánh chết, nhưng nó chịu quá nhiều thương tích sẽ ảnh hưởng đến con đường tu hành sau này.

Thạch Sanh thấy đối phương không đáp, liền truyền lệnh cho kỵ binh xông lên. Bảy ngàn trọng giáp kỵ tuy số lượng không nhiều, nhưng lợi thế ở việc phục kích. Bên địch lại không biết ta có bao nhiêu quân. Hơn nữa mới bị phục kích một trận, Kim Sí Điểu trong lòng đã mang sợ hãi. Vội truyền lệnh thâu quân chạy về hướng Nam, không dám ứng chiến.

Chạy được tầm khoảng năm dặm lúc đó mới thoát khỏi truy binh của Thạch Sanh. Kim Sí Điểu cho kiểm điểm lại binh mã thì chỉ còn lại ba vạn quân. Lúc đấy không thấy Lý Tùng đâu, Sí Điểu giận hỏi:

- Tên Lý Tùng kia đâu? Tại sao lúc ta bị địch vây khốn thì nó không mang quân đến cứu?

Chợt có tên thám báo chạy về tâu:

- Bẩm đại tiên, Lý tướng quân bị Nguyễn Bặc phục kích, đã tử trận. Hai vạn quân không sống một ai.

Kim Sí Điểu cả giận, nhưng không biết nên làm sao cho phải, bèn lệnh thâu quân về trại. Nhưng khi về đến nơi thì thấy phía trên trại đã đổi cờ, lại có quân binh đóng giữ. Một vị tướng trẻ từ trong phi ngựa xông ra, vung thương nạt lớn:

- Yêu quái kia, trại này có Trình Minh ta chiếm giữ. Có bản lãnh cùng ta ứng chiến một trận hay sao?

Kim Sí Điểu biết mình lại bị trúng kế Lý Thông. Nhưng nó không có thần thông đấu không lại, đành cho quân đi đường vòng về thành Bình Kiều. Lúc về đến thành thì binh chỉ còn chưa đến hai vạn.

Than ôi! Tám vạn quân, chỉ trong vòng một đêm chết đến hơn sáu vạn. Dụng binh cầm quân như Kim Sí Điểu quả là tiền nhân không ai sánh kịp!

Lúc đấy Ngô Xương Xí đang ngồi trong điện, nghe quân vào báo liền dẫn văn võ bá quan ra ngoài đón tiếp, lại hỏi thăm tình hình chiến sự. Kim Sí Điểu thua trận, khi bị hỏi đến thì mặt mày sượng trân, gượng gạo đáp rằng:

- Tôi bị trúng kế không thành của quân sư bên nó. Quân binh thiệt hại non nửa.

Ngô Xương Xí nghe tới, trong bụng giận lắm. Nhưng ngại Kim Sí Điểu có phép thuật lợi hại nên không dám quát mắng, chỉ hỏi:

- Sao đại tiên không thi triển thần thông mà tiêu diệt bọn nó?

Sí Điểu đáp:

- Bẩm đại nhân, quân sư nó thỉnh Ngũ Lôi Chân Quân hạ phàm, tôi hễ cứ giở thần thông là bị Ngũ Lôi oanh đỉnh. Nên mới xảy ra cớ sự như vậy.

Ngô Xương Xí buồn rầu, nói:

- Đinh Bộ Lĩnh có quân sư tài ba như vậy. Ta làm sao thắng cho được? Nên truyền lệnh ba quân cởi áo giáp, hướng phương Bắc quy hàng thì hơn.

Kim Sí Điểu nghe thế, biết ý là Xương Xí khinh thường mình, cả giận nói:

- Xin đại nhân yên tâm. Tôi chỉ bị nó thỉnh tiên thần, thâu hồi thân thông. Chứ nếu đem binh dời khỏi đây ắt tiên thần quản không được. Đến lúc đó nó có tài cán cao đi chăng nữa cũng làm sao đánh lại tôi?

Ngô Xương Xí cười gằn rồi nói rằng:

- Ối thôi, toan mưu gì định kế chi, số mình biết người. Đại tiên là người chốn cao sơn, đâu nên hơn cùng đối thủ làm gì, mà làm cho hao binh tổn tướng của ta.

Kim Sí Điểu nghe nói đỏ mặt tía tai, thẹn thùng chẳng xiết, tâu rằng:

- Đại nhân! Xin chớ ưu phiền, tôi cùng quân sư bên nó có thù giết huynh sâu như biển, tuy tài dụng binh của tôi không bằng nó, nay để tôi thỉnh một vị đồng đạo, đặng cùng nó định bề cao thấp.

Nói rồi hối quân dọn bày hương án, Sí Điểu châm lửa đốt hương, nhắm Bạch Long sơn cúi lạy, khói hương nghi ngút, bay bổng trên không, thẳng tới núi Bạch Long Vĩ.

Nói về núi Bạch Long Vĩ thuộc xứ Đông, Hải Dương, có một con tinh ngư xà dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết. Nó tu hành trải qua ngàn năm thành đại yêu, luyện được thần thông, lấy tên là Lục Ngư Tinh.

Hôm đó, Lục Ngư Tinh đang nằm trong động thì thấy có hương khói bay vào, nó tiếp lấy đầu khói kê nơi mũi ngửi, rồi rõ biết sự tình thì giận lắm tự nhủ rằng:

- Chân Long hộ mệnh, quả nhiên truyền nhân của Lạc Long Quân vẫn còn ở thế gian. Sư tôn của ta chết về tay Lạc Long Quân. Nay ta phải giết truyền nhân của y để bào cừu mới được.

Nghĩ rồi hóa thành chân thân, bay bổng lên tít tầng trời hướng tới núi Tản Viên. Ở núi Tản Viên, vùng Lỗ Khước Thôn cũng có một con Hồ Yêu, tu luyện năm ngàn năm thành tiên, lấy tên là Bạch Y Man.

Lục Ngư Tinh bay tới đỉnh núi, chụm môi huýt sáo làm hiệu. Một cô gái áo trắng không biết ở đâu chợt hiện ra, Lục Ngư Tinh nói:

- Y Man đạo hữu, truyền nhân của Lạc Long Quân đã hiện thế ở nhân gian. Sư đệ Kim Sí Điểu của tôi đánh không lại nó nên đốt hương cầu cứu. Vậy nên tôi định hạ sơn giúp y một phen. Nhân tiện đi qua nơi đây nên báo cho đạo hữu một tiếng. Thù xưa hận cũ cũng nên chấm dứt rồi!

Y Man mắt phượng trừng lên, giận nói:

- Một ngàn năm trước Lạc Long Quân đánh nát của ta yêu thân, lại trấn áp dưới Kim Ngưu Tự chín trăm năm. Thù này không báo còn sống sao được!

Nói rồi cũng hóa thành một con hồ yêu chín đuôi, hướng thành Bình Kiều mà bay tới. Giây phút bay tới cổng thành, hai yêu đứng trên trời cao hóa thành hình người rồi mới hạ xuống. Quân lính trên thành hoảng hốt, hỏi xem là ai. Lục Ngư Tinh đáp:

- Phiền người vào báo giùm, hai chúng tôi ứng lệnh Kim Sí Điểu tới đây trợ giúp.

Quân nhân lật đật chạy vào thông báo. Ngô Xương Xí nói:

- Không biết hai vị này là người thế nào?

Kim Sí Điểu nghi ngờ, hỏi quân binh miêu tả lại từng người, nghe xong mới cả mừng nói rằng:

- Người đạo huynh của tôi đó cai quản mấy vùng cửa biển, thần thông lợi hại vô bì. Người ta vẫn gọi là Lục chân nhân. Còn vị đi cùng kia là được huynh tôi mời đến, gọi là Bạch tiên tử. Người này có thù với Thạch Sanh nên mới chịu hạ sơn giúp đỡ.

- Quả nhiên tiên nhân đến đây, hãy truyền mở cửa dinh, bổn quân phải đích thân nghinh tiếp.

Nói rồi Kim Sí Điểu cùng Ngô Xương Xí dẫn văn võ bá quan ra đến cửa dinh rước Lục Ngư Tinh, Bạch Y Man vào trong đại trướng mời ngồi. Xương Xí xem kỹ hai người, thấy Y Man thiệt là nữ nhân xinh đẹp, mặt mày sáng tựa trăng sao, quả là đúng với câu "Lưng ong, mắt phượng mày ngài. Cổ cao ba ngấn kém ai trong đời".

Còn Lục Ngư Tinh thì mặt hồng như son, râu trắng bồng bềnh, dáng vẻ tiên phong đạo cốt.

Ngư Tinh hỏi Kim Sí Điểu:

- Hiền đệ truyền lời ấy với ta có là thật hay chăng?

Kim Sí Điểu buồn bực đáp:

- Tên Thạch Sanh kia quấn bùa chú vào đại đao. Dùng nó chém chết nhị sư huynh, yêu khí hẵng còn lưu lại trên đao. Đệ giở thần thông muốn thâu phục hắn, nhưng quân sư phía bên kia thỉnh Ngũ Lôi Chân Quân hạ phàm trấn áp. Cực chẳng em phải đốt hương thỉnh cầu huynh trưởng đến giúp sức cùng em, xin anh có ra tài phép gì giúp em trả thù.

Lục Ngư Tinh gật đầu nói:

- Anh đã hạ sơn thì quyết ý giúp em rồi. Nhân tiện đi qua núi Tản Viên mời thêm được Bạch đạo hữu. Nay nơi này đã bị tiên thần dòm ngó, chúng ta không tiện giở trò. Vậy nên em hãy khuyên Ngô quân lùi binh về Hoan Châu. Vừa tiện đường chiêu mộ binh lính, anh lại giở phép che giấu Thiên Nhãn (Mắt trời) khiến cho quân sư bên nó không thỉnh tiên thần được.

Kim Sí Điểu nghe thế mừng khôn xiết, lạy ta rồi đi ngay.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 11:

Ham lập công, Nguyễn Bặc sa vây.

Bủa lưới câu, Lục Tinh bày trận
.

Nhắc tới chuyện Kim Sí Điểu khuyên Ngô Xương Xí rút quân về Hoan Châu. Ngô Xương Xí không ưng, bảo rằng:

- Thành này ta hối quân xây dựng, trú đóng cũng được mấy năm rồi. Cơ nghiệp này chẳng lẽ giờ lại bỏ đi?

Kim Sí Điểu nói:

- Đại nhân chớ vì tiếc bỏ mà lỡ chuyện đại sự. Nay huynh tôi là Lục chân nhân đã hạ sơn giúp đỡ. Ngặt nỗi quanh vùng này Tiên Thần đã ngó chừng nên không dám giở thần thông mà trái Thiên ý. Nếu đại nhân theo lời dời binh về Hoan Châu. Lục chân nhân ắt trổ tài, bày trận pháp che giấu Thiên Nhãn. Khiến quân sư bên nó không địch lại được!

Ngô Xương Xí thấy nhãn thần Sí Điểu ra chiều hăm dọa, trong bụng thở dài, nghĩ:

- Ôi thôi, ta đã trót leo lên lưng cọp. Bây giờ xuống sao cho đặng? Nếu không làm theo lời nó thì mạng ta ắt phải nguy trong sớm chiều.

Nghĩ vậy bèn nói:

- Thôi, vậy mọi chuyện nhờ cả vào đại tiên.

Kim Sí Điểu nghe thế, mặt mày hăm hở, nói cảm tạ rồi lui ra khỏi điện, đem chuyện kể lại với Lục Ngư Tinh.

Lục Ngư Tinh cười khẩy, nói:

- Ngô Xương Xí thế đã tận. Nay ta lợi dụng danh tiếng của nó mà chiêu binh, cốt sao phải bắt cho được cái tên truyền nhân của Lạc Long Quân. Báo mối thù xưa!

Nói rồi lệnh cho ba quân thu dọn đồ đạc, nhằm hướng Hoan Châu mà lui binh. Lại để cho xa giá của Ngô Xương Xí, cùng quan văn đi trước. Hậu quân thì theo sau. Binh của Ngô Xương Xí sau lần bại trận vừa rồi chỉ chừa lại gần ba vạn. Lục Ngư Tinh bèn phong Lý Thạc em của Lý Tùng làm tả trung lang tướng, dẫn năm ngàn khinh kỵ mai phục bên bờ sông Mau Giếng, gần cầu Bằng. Còn Trần Cung dẫn hai vạn quân mai phục xung quanh. Lại dặn với chư tướng rằng:

- Quân của Đinh Bộ Lĩnh vừa thắng một trận lớn, ắt thừa thế mà tiến công. Ta đã sớm truyền lệnh phao tin rằng sẽ lui binh về Hoan Châu. Bên nó mà biết tất sẽ mang quân đuổi giết. Nay ta đã cho ba quân mai phục gần cầu Bằng, đợi cho đại quân của Đinh Bộ Lĩnh qua cầu rồi thì hẵng phát hiệu mà tràn lên đánh. Binh của nó công thủ hai mặt dĩ nhiên phải rối loạn hàng ngũ. Lúc đó hãy hối quân bắt lấy thằng tướng tiên phong của địch. Ta đã có kế liệu sau!

Chư tướng đều nhận lệnh, theo đó mà làm.

Nói về bên trại của Lý Thông. Sau trận thắng lớn vừa rồi liền truyền lệnh mở tiệc khao thưởng ba quân. Lại cho quân thám báo chạy về đưa tin thắng trận. Đinh Bộ Lĩnh hay tin, trong lòng mừng khôn xiết. Bèn cho quan văn là Đỗ Hiếu viết một bài hịch văn đưa đến cổ vũ tinh thần ba quân.

Hịch văn đưa đến, Lý Thông ngay giữa tiệc rượu đọc lên cho mọi người cùng nghe. Ai nấy nghe xong thì mặt mày đỏ bừng, sĩ khí cao ngất trời. Lúc đấy Nguyễn Bặc đứng ra thưa:

- Bẩm Quân sư, bên Ngô Xương Xí thua một trận nặng. Sao không thừa thế mà mang binh tiến công. Hốt gọn một mẻ?

Lý Thông thu hồi hịch văn, nói:

- Binh pháp có câu: Địch cùng đường chớ đuổi. Tuy Ngô Xương Xí thiệt hại gần sáu vạn nhân mã. Nhưng trong thành của nó cũng giữ lại hơn một vạn thủ thành, cộng thêm tàn quân nữa. Ước chừng cũng phải ba vạn quân. Nếu ta nhân lúc này mà công thành chiếm trại thì địch mất ngàn, binh ta cũng tổn tám trăm. Không phải là lựa chọn tốt!

Nguyễn Bặc trong lòng không phục, nhưng ngoài miệng vẫn không nói gì. Đợi tiệc rượu tan, ai về trướng nấy. Nguyễn Bặc mới đem chuyện này bàn với Lê Hoàn.

Lê Hoàn bảo:

- Quân sư nói đúng đấy, bên địch có yêu quái biết phép thần thông. Nếu ta cố đánh ắt hao binh tổn tướng, không lợi cho đại nghiệp sau này của chủ công.

Nguyễn Bặc giận, hừ một tiếng, nói:

- Tôi xem ông như anh em kết nghĩa, nay mới chịu thua một keo mà ông đã đứng về phía hai anh em nó rồi. Để đó mà xem, tôi thể nào cũng phải bắt được Ngô Xương Xí.

Nói rồi phẩy áo đi ra khỏi trướng.

Đêm hôm ấy, Nguyễn Bặc triệu tập thân tín của mình là Nguyễn Đinh lại. Nói rằng:

- Lý Thông cơ mưu hơn người, sợ ta lập công lớn tranh giành với hắn trước chủ công nên không cho ta truy bắt Ngô Xương Xí. Theo như ta xem, thế của Ngô Xương Xí đã tận. Không bắt bây giờ đợi nó rút về Hoan Châu thể nào cũng chiêu binh mãi mã. Đến lúc đó bắt được thì bội phần khó khăn. Nay nhân lúc nó mới thua trận to, tinh thần ba quân hao tổn. Ngươi triệu tập binh mã dưới trướng theo ta lập công một phen. Tới lúc đó trước mặt chủ công thể nào cũng có phần ngươi.

Nguyễn Đinh nghe xong thì mừng rơn, lạy tạ rồi đáp:

- Tiểu nhân lập tức đi ngay. Nay tướng quân có một vạn binh tòng quyền. Không biết có đủ dùng hay chăng?

Nguyễn Bặc trầm ngâm một hồi, đáp:

- Chỉ ba vạn tàn binh, một vạn chắc đủ dùng rồi.

Nói rồi truyền cho Nguyễn Đinh binh phù, ra ngoài điểm tập binh mã. Đợi tới canh hai thì dẫn một vạn binh lẻn đi. Lúc đấy Lý Thông cùng Thạch Sanh đang ngủ trong trướng. Nghe tiếng người ngựa nhốn nháo thì bật dậy, hỏi xem lính gác coi có chuyện gì.

Tên lính thưa:

- Bẩm, Nguyễn Bặc tướng quân triệu tập binh mã nhằm hướng Nam mà đi, không biết có chuyện gì.

Lý Thông giật thót, bật thốt lên:

- Thôi chết rồi! Nguyễn Bặc tướng quân nguy mất.

Thạch Sanh cả kinh, hỏi tên lính:

- Nguyễn Bặc tướng quân đi được bao lâu rồi?

Tên lính hốt hoảng, thưa:

- Nguyễn Bặc tướng quân dùng binh phù triệu tập binh lính dưới trướng, đã đi được khoảng tầm nửa nén hương rồi.

Lý Thông nghe thế cả giận, nói:

- Nguyễn Bặc tính tình thật nóng nảy. Y không biết đó là lâm vào mưu kế của địch hay sao?

Thạch Sanh nói:

- Hay là để đệ đi cản lại?

Lý Thông gật đầu, nói:

- Đệ cầm lệnh kỳ của ta, dùng mọi biện pháp cản Nguyễn Bặc tướng quân lại.. Nếu như.. Nguyễn Bặc gặp chuyện chẳng may thì hãy quay về báo tin cho huynh biết. Nhất định không được đơn độc xông vào trận địch. Yêu quái bên kia không đơn giản như Chằn Tinh đâu!

Thạch Sanh gật đầu, nhận lấy lệnh kỳ rồi nhảy tót lên ngựa phóng đi như bay.

Còn nói tới Nguyễn Bặc, dẫn binh mã chạy xuyên suốt, dọc đường không có động tĩnh gì. Khi binh tới sông Mau Giếng thì thấy cờ xí quân Ngô vứt dưới đất nhan nhản. Nguyễn Bặc cười ha hả, nói:

- Nhìn mà xem, binh của Ngô Xương Xí nản chí vứt cả cờ soái như thế này đây.

Nói rồi truyện lệnh cho quân leo lên cầu Bằng mà sang sông. Binh của Nguyễn Bặc vừa bước được một nửa sang cầu thì một hồi còi dài vang lên. Trước mặt có hơn năm ngàn khinh kỵ ùa ra. Một vị tướng trẻ cầm liêm đao, bước ra quát:

- Kẻ tới là ai? Mau xưng tên họ?

Nguyễn Bặc thấy có binh mã đón đường, liền biết mình trúng kế phục kích mất rồi. Trong bụng nghĩ thầm:

- Ngô Xương Xí cho quân mai phục nơi đây, hẳn là biết ta sẽ cho quân sang cầu. Bây giờ quân mới chỉ sang được một nửa. Nếu như kẻ địch mai phục cả trước và sau thì thế quân ta hỏng mất. Ta phải nghĩ cách kéo dài thời gian cho binh qua hết cầu đã rồi hẵng tính!

Nghĩ vậy, Nguyễn Bặc giơ thương, đáp:

- Tại hạ Nguyễn Bặc..

Lời chưa nói xong thì người kia đã quát:

- Thì ra là tên cẩu tặc nhà ngươi! Lý Tùng anh ta chết dưới mâu của ngươi. Nay ta Lý Thạc đến để báo thù đây.

Nói rồi tế đao, giục ngựa xông lên đánh. Nguyễn Bặc cũng vác thương ra cự lại. Hai ngựa giao nhau, chưa được mười hiệp thì Lý Thạc bị Nguyễn Bặc đâm một mâu thủng bụng. Nguyễn Bặc ghìm cương ngựa, thét lớn một tiếng. Tiếng thét như sấm động, quân binh Lý Thạc bị dọa sợ, vội giật thây chủ soái mà bỏ chạy. Nguyễn Bặc cho quân tràn lên chém giết.

Lúc đó Lục Ngư Tinh đang đứng trên núi Nưa, thấy Nguyễn Bặc xông vào quân Ngô tựa như Hổ lạc đàn Dê, không khỏi tấm tắc khen tài, nói:

- Kẻ này có tướng hùng dũng, sau này ắt thành nghiệp đại tướng. Ta mà bắt gã thì thể nào tên quân sư bên kia cũng phải tới cứu. Khi đó hốt trọn một mẻ chẳng phải dễ dàng lắm ru?

Nghĩ rồi Lục Ngư Tinh phất cờ hiệu, quân mai phục bốn phía ùa ra như nước lũ. Bao vây một vạn quân của Nguyễn Bặc vào trong. Quân Nguyễn Bặc vốn mới chỉ sang sông được một nửa, lại bị giáp công cả trước sau, thật là liệu bề khó mà địch nổi.

Chợt thấy có bốn vị tướng cầm binh khí xông vào trận địa, không nói không rằng liền lao lên đánh với Nguyễn Bặc. Năm người quần nhau được chừng hai mươi hồi thì lại nghe một tiếng còi dài. Bốn người nọ nghe thấy liền vứt hết binh khí, quày ngựa bỏ chạy. Nguyễn Bặc cả giận, giục ngựa rượt theo. Nhưng quân nhà Ngô bao vây đông nghịt, chèn hết lối đi, Nguyễn Bặc không sao đuổi kịp được, đành huơ giáo đánh nhầu với quân lính.

Đánh được thêm một hồi, chẳng biết từ đâu lại xông ra bốn người khác. Bốn người này cũng chẳng nói chẳng rằng liền tế đao xông vào đánh. Nguyễn Bặc bị trước sau tám người quần ẩu, sức lực đã sớm kiệt, đâm bậy một mâu rồi bỏ chạy. Nhưng vừa quay lại thì thấy một đôi móng vuốt sắc bén như đao chộp tới. Nguyễn Bặc cả kinh, té nhào xuống ngựa. Quân Ngô hô hoán rồi chạy tới bắt trói lấy.

Lục Ngư Tinh hóa thành chân thân, cười nói:

- Ấy chà, vị tướng trẻ tuổi kia quả là bậc hùng dũng, mau xưng rõ tên họ cho bổn tọa biết.

Nguyễn Bặc bị móng sắc quắp vao vai đau quá, nhưng gã nhẫn nhịn, nạt lớn:

- Yêu vật to gan, bổn tướng họ Nguyễn, tên Bặc. Ngươi dùng phép thần thông bắt thì có tài cán chi mà huênh hoang quá lắm!

Lục Ngư Tinh cười ha hả, mặc kệ cho Nguyễn Bặc chửi bới thậm tệ ra làm sao cũng không thèm để ý, đoạn quay qua nói với bộ tướng rằng:

- Tên này quả là dũng tướng trên đời hiếm gặp. Bọn bay phải trói y thật chặt, nhốt vào chiến xa mà đi trước. Quân sư bên kia ắt hẳn giờ này đã biết tin và cho người tới tiếp viện. Vùng này tiên thần đang ngó chừng nên ta không phải đối thủ của chúng. Sau khi đi thì nhớ cho người phá cầu, kẻo truy binh đuổi kịp.

Nói rồi hóa thành một đạo bạch quang bay tít lên trời. Đám quân binh nhận lệnh, dùng thừng trâu trói Nguyễn Bặc vào sau một cỗ chiến xa. Lại dùng búa lớn phá cầu Bằng.

Khi Thạch Sanh chạy tới nơi thì mọi sự đã xong. Vội quày ngựa về báo cho Lý Thông biết.

Lý Thông được tin, nổi trống họp mặt chư tướng kể lại mọi chuyện. Lê Hoàn nghe Nguyễn Bặc bị quân Ngô bắt, lòng đau khôn xiết. Quỳ lạy, khóc mà nói:

- Nguyễn Bặc tướng quân vì ham lập công nên lâm vào nguy khốn. Cầu xin quân sư nể tình đều là người dưới trướng chủ công mà cứu huynh đệ tôi một phen. Lê Hoàn này nguyện dùng mạng mình báo đáp.

Lý Thông thở dài, thầm nghĩ:

- Nếu ta dẫn binh ra khỏi vùng đất này tiên thần không quản được, mà Yêu quái bên kia thì lắm thần thông. Mạo hiểm mà cứu người thì thể nào cũng lâm vào mưu kế địch nhân. Nhưng nếu không cứu thì lòng quân tan rã.. Không những thế còn liên lụy đến thanh danh của Đinh Bộ Lĩnh. Quả thật là tiến thối lưỡng nan.

Nhưng tình cảnh bây giờ không cứu cũng không được, nghĩ vậy hắn quay qua nói:

- Lê tướng quân an lòng, cứ để tôi nghĩ cách.

Nói rồi truyền lệnh ba quân cảnh giới, lại gửi mật thư về cho Đinh Bộ Lĩnh.

Nói về Lục Ngư Tinh bay về Hoan Châu hội họp cùng Kim Sí Điểu và Bạch Y Man. Rồi ra mắt Ngô Xương Xí, tâu rằng:

- Nhờ có hồng phúc của đại nhân, tôi đây đã bắt được một viên đại tướng của Đinh Bộ Lĩnh.

Ngô Xương Xí đang ủ rũ, nghe xong thì mừng rơn, hỏi:

- Không biết kẻ mà tiên sinh bắt được là ai?

Lục Ngư Tinh đáp:

- Là một trong Giao Châu thất hùng. Người này họ Nguyễn, tên Bặc. Quả là một tên dũng tướng trên đời khó gặp.

Ngô Xương Xí trong bụng vừa mừng vừa sợ, vội hỏi:

- Quân sư bên nó lợi hại như thế, nếu bắt được đại tướng thì thể nào cũng cất quân tới cứu. Lúc đó phải biết làm sao?

Lục Ngư Tinh đáp:

- Xin đại nhân yên tâm. Quân sư nó chỉ giỏi thỉnh thần tiên hạ phàm giúp đỡ. Chứ so tài thực sự thì cho nó có mọc thêm mười cái chân nữa cũng chắc gì là đối thủ của tôi. Nay tôi muốn trổ tài cho đại nhân xem, bày một cái hung trận ở phía Tây Bắc che giấu Thiên Nhãn, khiến tiên thần không dám hạ phàm vùng Hoan Châu. Đến lúc đó quân sư nó tới thì cũng chẳng làm gì được.

Ngô Xương Xí rất mừng, dạy quân mang lệnh tiễn cho Lục Ngư Tinh, lại hỏi rằng:

- Không biết tiên sinh định bày trận gì? Có cần bổn quân giúp đỡ gì chăng?

Lục Ngư Tinh nhận lệnh kỳ, cười đáp:

- Trận tôi muốn bày có tên là "Tứ Hung Tượng Trận". Xin đại nhân hãy chọn một vùng đất trống phía Tây Bắc, cho quân cất một cái đài cao, mặt đài hướng phía Bắc. Xung quanh đài đào hào sâu cắm chông nhọn, bốn phía quanh đài dựng cờ lớn, vẽ hình tứ đại hung thú Thao Thiết, Hỗn Độn, Đào Ngột và Cùng Kỳ làm vật áp trận. Và chọn ba sáu người thật gan dạ, đầu để xõa tóc, giả dạng quỷ thần cầm gươm đứng canh. Chuẩn bị xong thì nhốt Nguyễn Bặc vào đó.

- Cách một dặm về phía Đông pháp đài thì ngài hãy cho người lập một tòa cửa ghi "Hãm Tiên Môn". Cửa này phải dùng sắt mà làm, cao bảy thước tám, trên cửa treo một sợi xích. Trước của đào một cái hầm, hầm ấy dựng một cây cờ, trên cờ vẽ hình Đào Ngột, trong hầm đựng kim sa. Lại sai người dùng chín mươi tên tử tù, giết rồi chôn hai bên cửa. Sí Điểu hiền đệ lãnh binh mã trấn thủ nơi đó, hễ binh địch sa trận Kim Sa thì phất cờ nổi gió, chẳng được trái lệnh.

Ngô Xương Xí hỏi:

Đào Ngột hình dáng như thế nào, tôi làm sao biết được?

Lục Ngư Tinh nói:

Tây Hoang có giống thú dáng to như hổ, lông dài hai thước, chân hùm mặt người, đuôi dài một trượng tám thước, nhiễu loạn Tây hoang, tên là Đào Ngột.

Đoạn lại nói tiếp:

Phía Bắc cũng lập tòa cửa như thế tên là "Trảm Tiên Môn", nhưng phía trên treo bửu kiếm cùng kim chung, phía dưới chôn vàng bạc, ngọc quý. Cho người giết chín mươi con dê, chín mươi đứa trẻ, sau lại dùng chín mươi người cắt tay, gọt mặt, móc mắt chia đều rồi chôn hai bên cửa. Cửa này cắm cờ vẽ hình hung thú, nó thân dê mặt người, mắt nằm dưới nách, răng hổ móng người, tiếng như hài nhi, gọi là Thao Thiết. Xin Ngô quân phái một vị tướng lãnh binh trấn thủ, binh địch vào trận phất cờ. Chẳng được trái lệnh.

- Cửa phía Nam phải làm bằng gỗ, cao thấp tùy ý, gọi là "Triệt Tiên Môn", phía dưới thì bày trận địa lôi. Cửa này xin ngài cho người giết chín mươi con chó, cũng một vị hiền thần trong triều chôn ngay trước cửa. Bên cạnh cũng cắm cờ vẽ hình Hỗn Độn, nó giống thú dáng như chó, lông dài, bốn chân, giống như gấu mà không có vuốt, có mắt mà không mở được, không thấy được, có tai mà không thể nghe, có bụng mà không có ngũ tạng. Cửa này Y Man đạo hữu lãnh binh canh giữ, binh địch sa trận ắt thịt nát xương tan, chỉ phòng hờ Tiên Thần tới giúp thì đạo hữu phất cờ. Chẳng luận Tiên Phàm đều phải tan hồn nát phách. Chẳng đặng trái lệnh.

- Cửa còn lại ở phía Tây, gọi "Tru Tiên Môn". Trên cửa treo Thần Tiễn, dưới đất cắm trận chông. Dùng chín mươi người, cắt mũi, cắt tai chôn sống trước cửa, cắm cờ vẽ hình hung thú Cùng Kỳ, đó giống thú như hổ, có cánh, bay được. Cửa này để tôi trấn giữ là được.

Ngô Xương Xí nghe tường thuật xong, trong lòng run lên, hỏi:

- Chúng ta bày trận mà giết nhiều nhân mạng như vậy, quả là điều thương thiên hại lý.

Lục Ngư Tinh cười khẩy, đáp:

- Hung trận đương nhiên cần hung vật trấn áp. Thao Thiết, Hỗn Độn, Đào Ngột và Cùng Kỳ được xưng làm "Tứ Đại Hung Thú". Tương truyền có thể thôn thiên phệ nguyệt. Dùng chúng nó làm áp trận có thể không những có thể che giấu Thiên Nhãn. Mà Thần Tiên thấy cũng e sợ, không dám hạ phàm. Còn nói như giết mấy người mà thôi, cần chi để ý quá lắm?

Ngô Xương Xí nghe xong xương sống lạnh run, trong bụng không khỏi khiếp vía. Nhưng lỡ đưa lệnh kỳ cho Lục Ngư Tinh rồi nên cũng không thể rút lời được. Hơn nữa Lục Ngư Tinh có pháp thuật lợi hại, nếu phật ý hắn thì mạng ô hô ngay.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 12:

Bày Trận Tứ Quỷ, Ngư Tinh Đệ Chiến Thơ.

Lập Điện Lạc Thần, Y Man Thâu Hồn Phách.


Ở Hoan Châu thời bấy giờ được chia làm bốn quận là Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường và Hoài Hoan.

Lục Ngư Tinh cùng Ngô quân lui binh về quận Cửu Đức. Lại hối quân dọn một khu đất trống dùng để bày trận.

Trận pháp vừa lên Tứ Đại Hung Thú hiện hình canh giữ bốn cổng Đông Tây Nam Bắc. Hắc phong ngập trời, nghịt mùi sát khí.

Thế mới có thơ rằng:

Bày trận tứ quỷ thật là hung

Oán khí tung hoành nhiễu thương khung

Mấy vị thần tiên vào trận ấy

Rơi miệng quái thú nhập Sát cung.

Ngô Xương Xí thấy trận pháp vừa thành, hung sát chi khí tỏa ra tứ phía, trong bụng không khỏi mừng khấp khởi, nói:

- Nay nhờ ba vị đến đây giúp sức, chắc không bao lâu quân binh của Bộ Lĩnh sẽ bị phá. Dầu cho hắn có trăm binh ngàn tướng cũng không thể chống lại phép mầu.

Kim Sí Điểu nói:

Tôi xem quân binh của Đinh Bộ Lĩnh là cung tên, quân sư của tụi nó như mũi tên. Không trừ được hắn quả là mối họa cực lớn.

Bạch Y Man đứng bên hừ nhẹ, đáp lời:

- Ta coi Sí Điểu hiền đệ bị quân sư địch đánh dọa một phen khiếp vía. Chứ phàm nhân người trần mắt thịt, há có thể phá vỡ trận này.

Lục Ngư Tinh nói:

- Lời xưa có câu: Quân không tướng như rắn không đầu. Nếu có cơ hội cũng nên giết đi để trừ hậu hoạn.

Bạch Y Man thấy hai người đã nói thế cũng không dám dấu tài, bèn nói:

- Nếu hai người có ý đó, tôi đây có phép mọn giết riêng quân sư địch, làm cho quân binh nó sợ vỡ mật!

Lục Ngư Tinh mừng rỡ, nói:

- Nếu đạo hữu đã có tài thần thông như thế, còn không giở ra cho huynh đệ chúng ta chiêm ngưỡng?

Bạch Y Man đáp:

- Phép tôi được truyền từ Trung Thổ, chỉ cần lập một cái đài cao gọi là Lạc Thần Điện, trên đài để một bàn hương án, một bên dựng con bù nhìn bằng cỏ, trước bụng đề tên quân sư địch, ghi rõ ngày tháng năm sinh. Trên đầu con bù nhìn có treo ba ngọn Câu Hồn đăng, dưới chân thắp bảy ngọn Tróc Phách đăng. Mỗi ngày thắp đèn niệm chú ba lần. Đợi đủ bảy ngày thì hồn đăng dập tắt, đó cũng là lúc câu được hồn phách quân sư địch.

Kim Sí Điểu quay qua hỏi:

- Ngô Vương có biết hộ tịch của quân sư địch hay chăng?

Ngô Xương Xí đáp:

- Tôi với quân sư bên nó có thù giết cha, nào dám ngó lơ. Nó họ Lý, tên Thông. Sinh ngày mười lăm tháng chạp, năm Canh Tý.

Bạch Y Man cười đáp:

- Như vậy là đủ, các vị cứ coi tôi làm phép đây.

Nói rồi hối quân lập đài, dọn án.

- Bạch Y Man bước lên đài, xõa tóc cầm gươm, miệng niệm chú, đốt bùa. Cứ mỗi ngày làm phép ba lần như vậy, mãi cho đến khi Lý Thông chết mới thôi.

Bấy giờ Lý Thông ngồi trong doanh trướng, bỗng thấy tâm huyết dâng trào, trong lòng hồi hộp, bứt rứt tâm thần, vội vàng lần tay đoán quẻ, biết được bên doanh địch có kẻ làm phép trù yểm mình. Không khỏi bàng hoàng, vội nổi trống họp mặt chư tướng.

Khi chư tướng có mặt đông đủ, Lý Thông nói:

- Bên doanh địch có đứa làm phép trù yểm ta, không quá bảy ngày ta ắt phải hồn xiêu phách lạc.

Thạch Sanh nghe tới sợ quá đỗi, bước ra hằm hằm nói:

- Xin quân sư cho ta lãnh quân binh, tới doanh địch mà phá cái phép này!

Lý Thông gạt tay, nói:

- Ta có có kế sách chu toàn, đệ không cần quá nóng nảy. Nay quân ta đến sát Hoan Châu, địch thể nào cũng gửi chiến thiếp. Ta nhìn hướng nam mây gió mịt mù, toàn mùi sát khí. Ắt hẳn bên nó bày hung trận bắt ta phá. Vậy nên..

Lời chưa nói hết thì bên ngoài có người vào báo:

- Địch quân cho người đem thơ đến.

Lý Thông truyền mời vào.

Quân binh vào trước trướng trình chiến thơ cho Lý Thông xem

Trong thơ viết như sau:

"Nguyên Soái Lục Ngư chân nhân đệ thơ cho Quân Sư Lý Thông được rõ.

Lời xưa nói: Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung. Ngô Tiên hoàng trước dùng lễ đối đãi quần thần, mà chiếm được lòng trung của kẻ bầy tôi. Nay Ngô vương là dòng dõi tiên hoàng, đáng lý ra Đinh Bộ Lĩnh phải dập đầu bái tướng, phò vua giúp nước mới phải lẽ. Sao lại dấy binh làm phản, bốn bề chiến hỏa liên miên, khiến dân chúng lầm than. Nay ta thay Ngô Vương lập trận đồ, sai người đi hạ chiến thơ. Phải định ngày giao công cho biết ai thắng bại".

Lý Thông xem rồi, đề sau chiến thơ rằng:

- Ba ngày nữa sẽ phá trận

Quân tốt về dâng thơ lại Lục Ngư Tinh xem rõ, truyền dọn tiệc đãi tướng khao binh, chờ đợi ba ngày sẽ cùng nhau ra sức.

Phía bên doanh trại Lý Thông, chư tướng biết sau bảy ngày quân sư sẽ hồn lìa khỏi xác, tâm trạng không thể nào vui vẻ cho được. Nhìn món ăn bày trước mặt mà nuốt không trôi.

Lê Hoàn nhịn không được, bước ra tâu:

- Bẩm quân sư cho hay, phải chăng có đối pháp gì không? Bên nó có yêu vật quấy phá. Mất đi quân sư chúng tôi đánh sao được?

Lý Thông cười nói:

- Tướng quân yên tâm, tôi tự có đối pháp. Nay mệnh cho tướng quân lập một đài cao. Đài hướng phía Đông, trên cắm bốn ngọn cờ, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Quy. Trên đài phải chuẩn bị hương lễ đầy đủ, bên cạnh có gươm gỗ đào, phù chú, cùng một bát máu gà. Lại lệnh cho binh sĩ cởi giáp, cầm gươm đứng hầu xung quanh. Tôi sẽ có kế liệu sau!

Lê Hoàn mừng rỡ, rời dinh truyền chỉ cụ bị những đồ ứng dụng sẵn sàng, và lập pháp đài cho chóng, rồi dẫn ba ngàn binh ra cửa đông cởi giáp cầm gươm đứng hầu.

Lê Hoàn chuẩn bị đầy đủ, vào trướng báo với Lý Thông:

- Pháp đài làm rồi, các việc đều đầy đủ, nên tôi phải vào mà thỉnh lệnh.

Lý Thông gật đầu, đứng dậy rửa mặt, bước lên đài thành tâm đối hương, khấn vái trời đất, lạy đủ ba lần rồi đứng dậy. Đoạn cầm gươm gỗ, dùng máu gà vẽ bùa đốt lên, miệng niệm thơ:

Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,

Vạn An thành lũy khói hương xông,

Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,

Trăm trận Lý Đường phục võ công.

Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,

Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.

Đường đi cống vải từ đây dứt,

Dân nước đời đời hưởng phúc chung.

Lời vừa dứt, xảy thấy đất trời rung chuyển, hào quang lóe sáng, một vị tiên thần từ trên trời hạ xuống. Vị này mặt mày đen xì, đầu đội Mão Đâu Mâu, mình mặc giáp trụ Long lân, tay cầm một thanh Triều Dương Xán Kim Thương.

Lý Thông vội quỳ xuống bái lạy, nói:

- Hậu nhân Lý Thông bái kiến Mai Hắc Đế.

Vị tôn thần này là Mai Hắc Đế, tên thật Mai Thúc Loan. Khi còn sống là người làng Hương Lãm, huyện Nam Đường. Từng khởi nghĩa chống lại nhà Đường, sau tự lập xưng Đế. Khi chết đi chân linh về trời, được phong làm Hắc Đế, cai quản một cõi Hoan Châu.

Mai Hắc Đế tới trước đài, hỏi:

- Không biết vị chân nhân này có chuyện gì mà triệu kiến ta?

Lý Thông quỳ lạy, khóc ròng mà đáp:

- Bẩm Hắc Đế, hậu nhân Lý Thông có lời cho hay. Tôi vốn là học trò của Thánh Chèm Lý Ông Trọng, nay tới phò tá Đinh Bộ Lĩnh. Nhà Ngô trước có Ngô Quyền yêu dân như con, quản lý việc nước đâu vào đấy, nhưng đời sau không biết học tập tiên hiền, chỉ lo tranh quyền đoạt vị khiến dân chúng lầm than. Nay bọn chúng dựa hơi tàn mà chống cự, mời yêu ma quỷ quái giúp đỡ. Bày một cái hung trận phía Nam, giết người chôn sống, thật quá đáng lắm. Nay hậu nhân có việc nhờ Hắc Đế đằng vân tới xem trận ấy là trận gì. Để hậu nhân còn liệu bề chống cự.

Mai Hắc Đế gật đầu, nói:

- Được, để ta đi xem.

Nói rồi đằng vân lên trời, nhắm hướng Nam mà bay đi.

Đợi Hắc Đế đi rồi, Lý Thông cho dọn hương án, bày biện đồ mới. Đoạn lại thắp hương lễ bái, nhằm phía Đông mà ngâm:

Ngày xưa có thần Kim Quy

Người cầm quy cách, khác chi khuôn vàng

Hẳn là trí thức Văn Lang

Giúp dân giúp nước không màng lợi danh

Giúp vua xây dựng Loa thành

Khiến bao ma lực tan tành khói sương

Từ đây mở rộng biên cương

Nỏ thiêng nghìn mũi là đường tương lai

Chỗ quê ẩn tích hiền tài

Rùa thiêng giấu vuốt không ngoài vàng son

Luật trời hưng phế mất còn

Còn dân còn trí cũng còn đường lên.

Vừa dứt lời, một trận gió Đông nổi lên. Phía trước đài xuất hiện một lão già, đầu đội mão đuôi cá, mình mặc áo lam bào, lưng đeo mai rùa lớn, mắt xanh như biển, râu dài đến rốn, một tay cầm mộc trượng, một tay cầm nỏ thần, tiến tới trước đài nói:

Không biết vị chân nhân này gọi ta có việc chi?

Lý Thông đáp:

- Bẩm thần Kim Qui, tôi là Lý Thông, học trò của Thành Chèm Lý Ông Trọng. Nay bị yêu nhân dùng phép trù yểm mà sắp toi mạng. Vì thế nên tôi gọi thần đến là có chuyện nhờ giúp!

Thần Kim Quy nói:

- Phép trù yểm là Tà đạo, xuất từ Trung thổ. Đất này là đất Nam Giao, yêu vật nào gan lớn như thế?

Lý Thông đáp:

- Nó là một con yêu hồ, đạo hạnh năm ngàn năm. Trước bị Long Quân trấn áp dưới núi Kim Ngưu Tự. Nay truyền nhân của Long Quân xuất thế. Nó giận chó đánh mèo mà trù yểm tôi. Xin nhờ thần giúp đỡ.

Thần Kim Qui hỏi lại:

- Ta giúp chân nhân thế nào được?

Lý Thông đáp:

- Năm đó nước Văn Lang, An Dương Vương được ngài tặng cho một cái móng vuốt làm nỏ thần, vì thế mà chấn nhiếp được ngoại bang. Sau An Dương Vương chủ quan mà mất nước, một đường chạy trốn tới Mộ Dạ. Bởi Mỵ Châu thả lông ngỗng làm dấu để Trọng Thuỷ tìm đường lần theo. An Dương Vương giận dữ chém con, sau khi hóa thần rồi lại hối không kịp. Nên lưu giữ cái áo Lông Ngỗng xem như kỷ niệm. Nay tôi muốn mượn ngài một cái móng tay chế cung thần, lại mượn thêm cái áo lông ngỗng làm bùa cứu mạng.

Thần Kim Quy nói:

- Áo Lông Ngỗng có thể bảo hộ hồn phách bất diệt, chân nhân muốn mượn có thể. Nhưng chân nhân muốn lấy ta móng vuốt thì ta khó mà đáp ứng.

Lý Thông nói:

- Xin ngài hay khoan từ chối, tôi có một người đệ kết nghĩa. Đang đứng ở kia, xin thần hẵng nhìn rồi lại nói.

Nói rồi chỉ tay hướng Thạch Sanh.

Thần Kim Qui nhìn sang, thấy Thạch Sanh toàn thân kim quang chói mắt, phía trên đỉnh đầu ngự một con chân long. Trong lòng không khỏi kinh hãi, nói:

- Kẻ này là truyền nhân của Long Quân đấy ư?

Đoạn quay qua nói:

- Chân nhân đã có lời tôi nào dám không tuân theo. Một ngày sau chân nhân hãy tới cửa biển phía Đông, tìm lấy điện thờ của tôi. Móng vuốt cùng áo lông ngỗng sẽ chôn dưới bức tượng Rùa. Chân nhân cứ đào lên mà sử dụng. Áo Lông Ngỗng chân nhân dùng xong cứ cho người thả vào biển là được. Tôi ắt có cách thu về.

Lý Thông nói lời cảm tạ. Thần Kim Quy gật đầu rồi thối lui.

Thần Kim Quy vừa đi, Mai Hắc Đễ đã đằng vân trở về. Lý Thông hỏi trận pháp ra làm sao. Mai Hắc Đế đáp:

- Hung trận này thật ghê gớm lắm, nó bày cái trận Tứ Hung. Dùng Hỗn Độn, Đào Ngột, Cùng Kỳ, Thao Thiết làm vật áp trận. Trận gồm bốn cửa, phía Đông có cửa sắt là Hãm Tiên Môn, trước cửa có hầm, trong hầm chứa Kim Sa, hễ người thường bước vào thì bị Kim Sa chôn sống, Tiên Thần bước vào thì bị Thiết Xích trói buộc. Sau bị Đào Ngột ăn tươi.

- Phía Bắc có 'Trảm Tiên Môn ", trên treo bửu kiếm cùng một cái chuông, dưới chôn bạc vàng, ngọc quý. Người thường bước vào thì chuông đánh ba tiếng, chẳng luận khoẻ mạnh đến nhường nào cũng phải hôn mê té nhào xuống đất. Còn Tiên Thần bước vào thì bửu kiếm hiện linh, bay bổng trên không, chém đặng đầu người. Cho dù thân thể bất tử cũng bị Cùng Kỳ ăn tươi nuốt sống.

- Phía Nam bày" Triệt Tiên Môn "trên có cờ đỏ, dưới có Địa Lôi. Người vào thì Địa Lôi nổ thịt nát xương tan, Tiên vào thì hồn phách lìa thân, bị Hỗn Độn thôn tánh.

- Phía Tây bày" Tru Tiên Môn", trên cửa cắm mũi tên, dưới bày trận chông. Người sa trận chông đâm thủng trăm lỗ. Tiên sa trận bị mũi tên áp hồn. Chẳng luận tiên phàm đều vào bụng Thao Thiết.

- Giữa trận có đài cao, xung quanh đào hào cắm chông. Quân binh xõa tóc cầm gươm đứng hầu. Ta thấy trong đài có chân linh Bạch Hổ tỏa sáng. Hẳn là vị tướng nào đang bị cầm giữ bên trong.

Lý Thông cả giận, mắng:

- Chân linh Bạch Hổ, hẳn là Nguyễn Bặc tướng quân. Yêu đạo này thật ác độc quá thay, bày trận Tứ Hung chôn người sống, trấn tiên linh. Ta không giết hắn thì sống sao cho đặng.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 13:

Xông Trận Đồ, Thạch Sanh bỏ mạng.

Phép Thông Linh, Lý Thông cầu Sơn Thánh.


Ba ngày sau y như chiến thơ, Lý Thông nổi trống nhóm họp chư tướng, phát binh tới sát biên giới Cửu Đức. Quân sĩ hành quân nghiêm cẩn, giáo gươm chơm chởm, cờ xí phất phới, tiếng chân người vang dội cả một góc trời.

Có thơ đề rằng:

Rực rỡ cờ hồng tựa sóng xao

Quân binh nghiêm chỉnh lộ anh hào

Hoa Lư hào kiệt nơi chốn ấy

Mặc sức tung hoành có làm sao?

Bấy giờ bên trại địch, quân thám thính được tin vội về báo với Lục Ngư Tinh:

- Lý Thông dẫn muôn binh tiến sát quận thành.

Lục Ngư Tinh nói

- Trước kia ta nghe Sí Điểu sư đệ bại về tay một kẻ phàm nhân, song chưa biết mặt kẻ đó, nay người đã kéo binh đến đây, để ta xem thử thế nào cho biết.

Nói rồi hối quân dọn trại, nổi trống lệnh chư binh lên đường.

Khi hai quân cách nhau độ một dặm, Lý Thông thấy binh Ngư Tinh nghiêm trang tề chỉnh, chắt miệng khen thầm:

- Lục Ngư Tinh là yêu quái tu đạo, ta tưởng hắn chỉ biết phép thần thông. Chứ so tài dụng binh thua ta mấy bậc. Nay nhìn lối cầm binh nghiêm trang tề chỉnh như thế quả là bực tài cao.

Khi ấy Lý Thông cho người phất cờ, lập trận Tứ Phương. Trận này đặt trọng binh nằm ở hai cánh, kỵ binh ở trung tâm dàn thành trận Phong Thỉ. Cung binh mé tả, hữu thành trận Nhạn Hành. Binh tướng có thứ lớp, trận đồ sắp đặt oai nghiêm.

Lại có Thạch Sanh cầm đao dẫn đầu ba quân. Cánh hữu có Trình Minh, cánh tả có Cự Lạng. Còn lại Lê Hoàn, Lưu Cơ.. đồng bảo hộ Lý Thông đứng giữa trận.

Lý Thông xem thấy Lục Ngư Tinh râu tóc bạc phơ, đầu đội mão cánh chuồn, mình khoác áo bát quái, lưng nịt đai ngọc, quả có đạo cốt tiên phong, liền giục ngựa tới nói:

- Bên kia phải chăng là Lục Ngư chân nhân? Hậu bối Lý Thông hữu lễ. Tôi nghe chân nhân là người tu hành chốn non cao, sao không biết trọng lẽ phải? Hạ sơn giúp đỡ kẻ gian, khiến ba quân uổng mạng!

Lục Ngư Tinh cười lớn, nói:

- Thường nghe rằng: Hễ làm thần phản Vua thì mang tội bất trung. Trước Tiền Ngô Vương oai vang bốn bể, đến đời sau chẳng hề kém cạnh. Nay Ngô Vương, Ngô Sứ Quân là dòng dõi hoàng tộc, Đinh Hoàn (Tên huý của Đinh Bộ Lĩnh) chẳng kiêng quốc pháp. Chủ ta sai binh vấn tội, ngươi nghịch lại thiên oai, dám lãnh binh phản kháng, chẳng vị lòng trung. Dẫu bằm da xé thịt tội ấy chưa đền.

Lý Thông nghe lời Ngư Tinh hùng hồn lắm, bụng tự nhủ: "Ta chẳng mắng hắn thì thôi, hắn lại dám lấy lòng trung ra mà dò xét. Nay ta miệng nở hoa sen một lần, xem hắn có đàng nào mà chối cãi."

Nghĩ rồi trỏ tay hướng Ngư Tinh mà mắng rằng:

- Ngô Xương Xí lỗi đạo, ám toán cậu ruột mình mà tranh ngôi hoàng thất, đấy là bất nhân. Chém đầu trung thần đấy là mang danh bất nghĩa. Nghe lời yêu ngôn, một trận đánh tổn thất sáu vạn quân binh, thêm cái bất tài. Thử xem trên đời này có bậc quân Vương nào kém đến thế chăng? Thôi, ta bảo ngươi rằng, số nhà Ngô vốn đã tận nay lại dựa nơi hiểm yếu mà chống lại thiên quân, nghịch lý ấy sao dung cho đặng. Còn chủ công nhà ta phước đức chói ngời, lẽ nào lập không hướng phần vinh hiển. Đấy là thuận theo lòng trời, thuận theo lòng người, phò người hiền mà diệt kẻ ác đó là chính lý. Còn ngươi vì thù xưa mà hạ sơn đấy là lấy chuyện công mà trả thù tư, lấy yêu thân đi quản chuyện quốc sách, đi nghịch với lý số trời đất, nên phải diệt vong. Ta khuyên một câu chân thật, nếu ngươi hiểu chuyện thì nên lui về núi ở ẩn, chớ ra can chuyện đất Nam nữa. Bằng không ta đánh một phát, bao năm tu hành trở về con số không!

Lý Thông mắng một hơi dài thật hăng tiết, tướng sĩ phía sau máu nóng sôi sùng sục. Giơ binh khí nạt lớn:

- Phò người hiền, diệt kẻ ác!

Lục Ngư Tinh giận tím mặt, quát:

- Được cái mồm mép dẻo quẹo, nay ta lập một cái trận ở phía Tây Bắc, trên có thiên la, dưới giăng địa võng. Nguyễn Bặc bị ta nhốt trong trận, ngươi có dám phá trận ứng cứu?

Lý Thông cười khẩy, đáp:

- Chỉ cái tiểu trận làm sao làm khó được ta. Nhưng ta đi rồi các ngươi dùng pháp thuật hại ta thì thế nào thoát được?

Lục Ngư Tinh đáp:

- Đừng quá khinh người, mặc dầu bọn ta là Bàng môn tả đạo, nhưng vẫn không bao giờ có hành động tiểu nhân như vậy. Đã mất công bày trận nỡ nào lại không có kẻ phá trận?

Lý Thông nghĩ lát rồi cũng gật đầu ưng thuận.

Hai bên kéo quân tới sát trận đồ, Lý Thông liền dắt Lê Hoàn, Thạch Sanh, Cự Lạng.. đồng thời đến xem trận.

Bấy giờ Lục Ngư Tinh đứng ngoài cửa trận để xem thái độ của Lý Thông.

Các tướng phò Lý Thông vào xem, thấy quả nhiên có bốn cổng, mỗi cổng đều treo một tấm bản để ba chữ:

Hãm Tiên Môn

Trảm Tiên Môn

Triệt Tiên Môn

Tru Tiên Môn

Đợi đám người xem xong rồi, Lục Ngư Tinh hỏi:

- Lý quân sư biết trận này không?

Lý Thông đáp:

- Trận này có gì đâu mà lạ, phương Tây có tứ thú gọi là Hỗn Độn, Đào Ngột, Cùng Kỳ, Thao Thiết. Trận này lấy bốn con đấy làm linh áp trận, gọi là Tứ Hung Tượng Trận. Phàm nhân vào thì tan xương nát thịt, Tiên Thần tới thì hồn xiêu phách tán.

Lục Ngư Tinh cả kinh, nghĩ bụng: "Trận này ta học từ sư phụ, nay mới bày lần đầu. Nó đã biết rõ như thế, quả là bực thiên tài."

Chỉ nghe, Lý Thông nói tiếp:

- Bất quá hôm nay chúng ta hội quân chỉ để diện kiến nhau, không thích hợp phá trận. Ðợi chừng nào chuẩn bị đầy đủ, tôi sẽ đến phá.

Lục Ngư Tinh nói:

- Được, nhưng hạn chỉ có bảy ngày, nếu ngươi không phá được trận. Nguyễn Bặc tướng quân ở trong sẽ hồn về địa phủ. Dù có Bạch Hổ chân linh bảo hộ cũng chẳng tài nào thoát khỏi!

Lý Thông gật đầu, đáp:

- Đã thế, bây giờ xin giã biệt.

Dứt lời, Lý Thông dẫn chư tướng về dinh.

Lý Thông về dinh ngồi ôm đầu buồn bã, Lê Hoàn thấy vậy bước đến hỏi:

- Khi nãy quân sư xem trận ấy thế nào?

Lý Thông nói:

- Trận ấy tôi chỉ nghe Hắc Đế thuật lại, chứ hôm nay đi xem mới thấy nó bao trùm một phương, sát khí thao thiên, tôi chưa từng nghe tới bao giờ.

Lê Hoàn nói:

- Sao quân sư nói với chúng nó là ngài đã rõ hết, và hẹn ngày phá trận.

Lý Thông nói:

- Tuy không biết, song ta không thể để mất sĩ khí ba quân được.

Lê Hoàn nghe vậy chỉ biết ngồi lặng thinh.

Lý Thông ngồi cau mày rầu rĩ.

Giữa lúc ấy có quân binh vào báo:

- Bẩm quân sư, Thạch Đốc Quân dẫn ba ngàn binh mã xông tới trận địch.

Lý Thông nghe thế giật nảy mình, quát:

- Tụi bay sao không cản lại?

Tên quân binh thưa:

- Đốc quân sức lực hơn người, ai cản lại đều bị đánh hết.

Lý Thông cả giận, đập bàn mắng lớn:

- Binh phù ở tay ta, Đốc Quân làm sao điểm quân cho được? Ngươi sao dám xàm ngôn xao động ba quân!

Nói rồi thét tả hữu lôi ra chém.

Lê Hoàn vội đứng ra can, nói:

- Xin quân sư bình tĩnh, kẻ cầm quân tâm trí phải lặng yên như nước, khi hỗn loạn mới nhìn thấu sự việc. Cứ để tôi cho thám báo đi trước dò xét đã.

Nói rồi sai người cấp tốc đi tra xét.

Quân thám báo chạy đi, xong trở về báo:

- Bẩm chư vị tướng quân, Thạch Đốc Quân đã xông vào trận địch. Chúng tôi ở ngoài không nhìn thấy chi hết, sống chết không rõ.

Lý Thông nghe thế bụm miệng nôn ra một cục máu tươi ngay giữa sảnh đường, chư tướng hoảng quá phải chạy tới dìu đỡ.

Lý Thông nhìn trời mà than rằng:

- Đệ ơi là đệ ơi, chúng ta từng thề sống chết có nhau. Nay đệ sa hung trận, huynh đây sống sao cho đặng. Để huynh chết quách đi cho xong!

Nói rồi toan đập đầu vào cột. Chư tướng phải nói kéo mãi Lý Thông mới chịu thôi.

Lê Hoàn nói:

- Xin quân sư nghĩ lại, ngài là thống lãnh, thường nói: Quân không tướng như rắn không đầu. Bây giờ Thạch Đốc Quân sống chết chưa rõ, quân sư nên..

Lời chưa nói xong thì lại có thám báo vào tâu:

- Bẩm chư vị tướng quân, Thạch Đốc Quân sa trận đồ, bị bửu kiếm cửa Trảm Tiên chém rơi đầu.

Lý Thông nghe thấy rụng rời, dường như vạn tiễn xuyên tâm, bất giác té xỉu ngất lịm đi, tả hữu vội phò cứu, giây lâu tỉnh lại mới khóc rống lên.

Lê Hoàn hỏi tên thám báo:

- Thạch Đốc Quân sao mà tử trận?

Tên thám báo thưa:

- Khi Đốc Quân sa cửa Trảm Tiên chúng tôi không thấy được. Một hồi lâu sau ánh sáng loé lên thì Đốc Quân đã rơi đầu rồi. Ba ngàn binh sĩ đều hôn mê té nhào xuống đất. Chúng tôi phải liều mình mới giật thây Đốc Quân về được.

Lý Thông sa nước mắt nói rằng:

- Bọn nó bày cái trận này bắt tôi phá, nhưng thực ra là nhằm vào huynh đệ tôi là Thạch Sanh. Thạch Sanh là hậu duệ của Thần Long Tiên Vương. Sa trận ấy chẳng khác chi Long xuống đồng bằng tôm bỡn cợt, khí linh chân long giúp đỡ không được.

Lê Hoàn nói:

- Trước lúc sáng tôi có nghe Đốc Quân muốn vào trận phá đi cái đài chiêu hồn ấy để cứu quân sư. Còn ba ngàn binh mã kia là thân binh của Nguyễn Bặc tướng quân, chắc muốn xông trận cứu chủ tướng. U cũng là có nghĩa khí đó vậy!

Lý Thông nghe tới đấy lại đau lòng khôn xiết, nói:

- Tôi mấy hôm trước cầu Thần Kim Quy lấy được áo lông để bảo toàn tánh mạng. Do không có thời gian nên chưa kể với chư vị đấy thôi. Phép trù yểm đấy bị phá rồi còn đâu.

Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng đứng ra tâu:

- Xin quân sư điểm cho chúng tôi binh mã, thề quyết phá trận này, báo cừu cho Thạch Sanh.

Lý Thông nhìn chư tướng, nói:

- Trước tôi đã có kế phá trận, ngặt một nỗi cửa Triệt Tiên chưa biết cách phá làm sao. Nay Thạch Sanh hãm trận mà tử nạn. Tôi đây còn muốn báo cừu hơn chư vị. Đất Hoan Châu này bị Hung Trận áp chế, chướng khí mịt mù, tôi không thể làm phép Thông Linh được. Nên nhờ Lê Tướng Quân điểm xem trong muôn binh lấy ra một trăm tên công tượng, theo tôi rời Hoan Châu. Trăm tên này dùng để dựng đài cho tôi làm phép.

Lê Hoàn vâng lệnh đi ra điểm binh.

Lý Thông lại nói:

- Cự Lạng tướng quân thì trấn giữ ở dinh, đề phòng tặc nhân đánh lén. Năm ngày sau đợi tôi về thì điểm binh phá trận.

Nói xong rồi, Lý Thông sai binh làm quan tài, đặt thây Thạch Sanh vào trong.

Đợi Lê Hoàn điểm đủ một trăm tên công tượng, hướng biên giới Hoan Châu đi suốt ngày đêm.

Bốn ngày sau, khi ra khỏi Hoan Châu rồi, Lý Thông mới truyền lệnh cắm trại. Lại cho công tượng chặt gỗ lập đài. Đài hướng phía Bắc, xung quanh cắm đầy phướng hồng. Trên đài bày biện mâm Ngũ Quả, một bát hương lớn cùng đồ tế lễ đủ cả. Xong xuôi mọi chuyện, Lý Thông sai binh lính nhấc quan tài Thạch Sanh đặt một bên, mình thì xõa tóc, cầm bùa chú trước đây của Thạch Sanh, đốt lên rồi niệm phép rằng:

Nơi núi thảnh thơi ngàn vạn trượng

An nhàn ba sáu điện cung quang

Thế thời vua trị, Đường Nghiêu thịnh

Quảng đại Sơn Tinh, Ngu Thuấn vang.

(Phiên âm:

Sái lạc ức thiên vạn trượng nhạc

Tiêu dao tam thập lục cung xuân

Quốc vương long đại Đường Nghiêu thịnh

Sơn thánh hồng hoằng Thuấn Ngu nhân)

Nói tới vùng núi Ba Vì, Sơn Tây, Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh đang ngồi uống rượu đàm đạo với nhau, chợt có khói hương nghi ngút bay tới. Sơn Tinh bắt lấy khói, kê nơi mũi mà ngửi, xong nói:

- Hạ giới có người đốt nhang thỉnh tôi đến. Không biết là có chuyện chi?

Tam đệ Thần Sơn, Quý Minh hiểu tài bói toán, nói:

- Để tôi bói một quẻ thử xem.

Nói rồi bấm đốt tay tính toán, lát sau giận dữ mắng:

- Hạ giới có con yêu làm loạn, bày Hung Trận ở đất Hoan Châu. Đứa bé được chúng ta ban phước, xông trận bị bửu kiếm chém rơi đầu. Thù này sống sao cho đặng! Nay có chơn nhơn làm phép triệu kiến, ắt là nhờ giúp đỡ ấy mà.

Sơn Tinh sầu não nói:

- Tôi chỉ biết làm phép đánh nhau, chứ cứu người chưa thử bao giờ.

Cao Sơn nói:

- Tôi biết trên cung trăng có chú Cuội canh giữ một gốc Đa thần. Nghe bảo rằng gốc Đa này có thể cải tử hoàn sinh. Đệ nếu cầu được một cái lá Đa, sợ gì không cứu được người?

Sơn Tinh cả mừng, nói:

- Đa tạ đại ca bày diệu sách này, để tôi hạ phàm đáp lại một tiếng.

Nói rồi dứng dậy toan đằng vân mà đi.

Cao Sơn vội kéo lại, bảo rằng:

- Đệ cứ đi trước một bước, ta cùng tam đệ sắm sửa pháp bảo. Lại sang động Gia Ninh, Phong Châu gọi Đồ Sơn Thủy Thánh hội hợp. Mấy người chúng ta hạ giới giúp chân nhân phá cái hung trận ấy. Cho con yêu kia biết tài thần thánh đất Nam một phen.

Ba người bàn xong, rồi để Sơn Tinh đi trước. Còn Cao Sơn, Quý Minh thì về động chuẩn bị pháp bảo, đằng vân đi tới Phong Châu.

Lại nói về Lý Thông, niệm phép mãi mà không thấy ai hiển linh, còn tưởng rằng phép thuật mất linh. Đang định dọn hương án bày biện đồ mới để thử lại thì xảy thấy đất rung núi lở, từ dưới mặt đất trồi lên một vị tiên thần, mình khoác áo da hổ, tay cầm thanh cự chuỳ, uy vũ vô cùng.

Lý Thông cả mừng, quỳ xuống bái lạy, tâu:

- Hậu nhân Lý Thông, bái kiến Tản Viên Sơn Thánh, Sơn Tinh!

Tản Viên Sơn Thánh tổng có ba vị, trước phò các đời vua Hùng. Vị Sơn Tinh này phò chính là Vua Hùng đời thứ mười sáu, Hùng Duệ Vương. Sau vì Mỵ Nương mà tranh giành với Đồ Sơn Thuỷ Thánh, Thuỷ Tinh.

Hai bên đánh nhau long trời lở đất, lũ lụt triền miên làm dân chúng khổ sở. Đến khi Lạc Long Quân can thiệp mới dừng lại.

Người đời có thơ rằng:

* * *

Tốn vị phương cầu Hoa Mị phối

Kết nhân quang bản thuỷ tinh thần

Kình côn nhậm hướng sơn đầu đoạn

Miết ngạc không đầu thảo lý phân.

Sơn Tinh hiển thánh, hỏi Lý Thông:

- Chân nhân gọi ta lên ắt cầu ta cứu mạng Thạch Sanh chứ gì.

Lý Thông đáp:

- Sơn Thánh soi xét lòng này, tôi với Thạch Sanh kết bái huynh đệ. Sao có thể thấy chết mà không cứu? Tôi nguyện lấy mạng này mà đổi mạng cho đệ ấy.

Sơn Tinh nói:

- Ta đã dự trước Thạch Sanh sẽ có tai kiếp, nên ban cho nó chân long huyết bảo mệnh. Mặc dù đầu lìa khỏi cổ nhưng linh hồn vẫn được chân long lưu giữ. Chỉ cần nối đầu với thân là sống lại như thường.

Lý Thông mừng quá, lạy lục rồi nói:

- Xin Sơn Thánh niệm tình con cháu đất Nam mà ra tay cứu giúp. Tôi sẽ ngày đêm cúng bái.

Sơn Tinh đáp:

- Ngươi ở đây chờ ta, ta sẽ lên cung Trăng một bận.

Nói rồi bay vút lên tầng trời.

Sơn Tinh đằng vân bay tới Nguyệt Tinh cung, bước thẳng vào Quảng Hàn cung gặp Hằng Nga tiên tử.

Hằng Nga thấy Sơn Tinh giá lâm, vội hỏi:

- Chẳng hay Sơn Thánh tới đây có chuyện gì chăng?

Sơn Tinh đáp:

- Tôi có chuyện muốn nhờ chú Cuội nên tới đây gặp mặt. Xin tiên tử cho phép.

Hằng Nga cười đáp:

- Nguyệt Tinh là nơi tự do, Sơn Thánh muốn đến gặp, cứ đi tự nhiên là được.

Sơn Tinh lắc đầu nói:

- Quốc có quốc pháp, gia có gia quy. Nguyệt Tinh được Thần Long Thánh Mẫu ban cho tiên tử. Tôi tới dĩ lẽ nhiên phải yết kiến trước mới đúng.

Hằng Nga chẳng biết phải nói sao, bèn gật đầu đáp:

- Thôi vậy, để ta cho người đi báo.

Sơn Tinh cám ơn một tiếng rồi lui ra. Hướng phía Tây mà đằng vân đi, chốc sau đã thấy một gốc cây Đa, bèn hạ xuống, hướng cổ thụ nói lớn:

- Tản Viên Sơn Thánh, Sơn Tinh có chuyện gấp, mời Cuội ra đây thương nghị.

Lời vừa dứt, cây Đa rung lắc dữ dội, từ trong thân cây một thanh niên bước ra. Chỉ thấy người này mặt mày chất phác, đầu đội khăn quấn, chân đi dầy cỏ, hướng Sơn Tinh bái lễ rồi nói:

- Tiều Phu Cuội ra mắt Sơn Thánh, chẳng hay ngài có việc chi mà triệu hoán tôi?

Sơn Tinh nói:

- Tôi có vị hậu nhân, bị kẻ gian ám toán mà bêu đầu. Nên tôi tới đây muốn mượn một cái lá Đa xuống cứu giúp.

Cuội đáp:

- Tưởng chuyện chi lớn lắm, Sơn Thánh muốn lá Đa cứ tự nhiên hái là được. Nhưng tôi phải nhắc nhở Sơn Thánh rằng, lá Đa chỉ chữa vết thương chứ không chữa được linh hồn. Linh hồn vị kia nếu đã mất thì chữa khỏi cũng trở nên đần độn ngu ngốc.

Sơn Tinh nói:

- Chuyện đó yên tâm, tôi đã lưu giữ hồn phách rồi. Chỉ cần nối đầu rồi làm phép khiến hồn phách nhập thân thì trở lại bình thường.

Cuội thấy Sơn Tinh lo xa đến thế rồi cũng không nói thêm nữa. Trèo lên cây hái một cái lá đưa xuống.

Sơn Tinh lấy được lá Đa rồi liền hạ phàm đưa cho Lý Thông. Bảo phải nghiền cho nhuyễn ra, bôi vào vết thương.
 
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 14:

Lý Thông thỉnh Thần cầu tứ bảo.

Chư Tiên hạ phàm, tróc kẻ gian.


Lấy được lá của cây báu rồi, Lý Thông hối quân đỡ thây Thạch Sanh dậy, cho hai người giữ đầu và thân cố định với nhau. Sau đó lại sai người múc một chén nước lấy lá Đa ra, mài bét nhừ, thoa vào vết cắt ở cổ Thạch Sanh và bắt tay ấn niệm chơn ngôn, giây phút trong cổ khò khè, chỗ vết thương ấy chảy ra dịch đờm đen nhớt.

Giây lát vết thương lành lặn, Sơn Tinh hướng thinh không hét lớn:

- Chân long ở đâu? Không để linh hồn quy vị, còn đợi đến khi nào?

Chân Long hiện hình, lượn một vòng ở phía trên rồi bỗng chốc há miệng, phun ra một đạo hào quang nhập vào người Thạch Sanh.

Đạo hào quang ấy nhập vào, Thạch Sanh liền mở mắt tỉnh lại, thấy có Lý Thông đứng chầu một bên, ánh mắt tràn đầy lo lắng. Lại thấy ở đài Thông Linh có vị thần tiên đang ngự tọa, lơ lửng trên thinh không.

Thạch Sanh hỏi:

- Ta nhập địa phủ rồi sao?

Lý Thông trầm mặt, quát:

- Thạch Sanh còn không mau lạy Sơn Thánh mà đền ơn cứu ngươi được sống?

Thạch Sanh bấy giờ mới tỉnh hồn, đưa tay sờ cổ chỉ thấy còn ngấn thịt trồi lên, sững sờ hỏi:

- Đại ca, ta bị thanh kiếm kia chém rơi đầu. Làm sao mà sống được?

Lý Thông nói:

- Nhờ lá bùa lúc trước đệ lưu lại ta mời được Sơn Thánh hạ phàm giúp đỡ. Ngài lên cung trăng cầu được một cái lá Đa của Cuội nên mới cứu được đệ đấy.

Thạch Sanh nước mắt chảy ròng, hướng Sơn Tinh bái lạy, nói:

- Tôi mang ơn cứu Sơn Thánh cứu sống, thật là cái ơn tái tạo dầu chết cũng chẳng quên.

Rồi lại hướng Lý Thông quỳ nói:

- Do cái ngu dốt của đệ khiến huynh bôn ba vất vả như thế, ơn này trả sao cho đặng?

Lý Thông cười đáp:

- Hai huynh đệ ta cắt máu ăn thề cùng chung hoạn nạn, chẳng nhẽ trong lúc nguy nan mà bỏ mặc nhau. Cũng do vi huynh đãng trí. Quên nhắc nhở đệ, cái phép trù yểm đó đối ta chẳng dùng được nữa. Nên khiến sự ra thế này, giờ hối cũng chẳng kịp.

Hai huynh đệ nói rồi ôm chầm lấy nhau mà khóc. Một hồi sau, Lý Thông mới đứng dậy, bước tới trước hướng Sơn Tinh thi lễ, nói rằng:

- Sơn Thánh cầu được lá tiên giúp đệ tôi sống lại, cái ơn đấy lớn không sao trả nổi. Nhưng vì tánh mạng của bá tánh đất Hoan Châu, tôi không thể mặt dầy mà có việc nhờ Sơn Thánh ngài giúp đỡ. Ngài ở trên cao cho Thông tôi bái lạy!

Nói rồi quỳ xuống dập đầu bịch bịch liền chín cái.

Sơn Tinh nói:

- Việc ngài định nhờ, tam đệ tôi là Thần Sơn Quý Minh đã tiên đoán được trước. Con Yêu Vật này lại dám khinh tài Tiên Thần đất Nam ta quá, cả gan đặt cái Hung Trận như thế. Dầu có bằm thây nó thành trăm ngàn mảnh, dùng Ngục Hoả thiêu hồn, cũng không đền hết tội nghiệt. Nay Đại huynh ta là Cao Sơn Đại Thánh cùng Thần Sơn Quý Minh đã sang động phủ Gia Ninh ở Phong Châu, cầu thêm Đồ Sơn Thuỷ Thánh hạ sơn cùng nhau phá trận. Chỉ cần chân nhân nói một tiếng, bọn tôi chung tay góp sức. Há không phá nổi cái trận ấy?

Lý Thông mừng rỡ, tạ rồi nói:

- Nhờ thần thông của chư vị, tôi lòng tin mười phần phá được trận này, nhưng vẫn còn thiếu một điều. Bốn con Hung Thú đấy từ thời Viễn Cổ, không e sợ Tiên Thần. Nếu mạo hiểm xông trận, các vị nhiễm phải kiếp khí không về Trời được. Nên tôi có ý, muốn cầu Công Đức linh bảo của chư vị tiên hiền, dùng làm vật áp trận. Xin nhờ Sơn Thánh đến lúc đó đỡ cho một hai lời.

Sơn Tinh gật đầu ưng thuận.

Lý Thông nói rồi đi đến trước đài, thắp nhang niệm thơ:

"Đất Việt ta xưa có Đồng Chung.

Cầu mưa, đuổi tặc, rõ oai hùng,

Văn minh ấy định truyền muôn kiếp.

Một gõ vừa lên, khắp chốn mừng."

Lời vừa dứt, trời đất nổi lên ba tiếng tiếng oanh minh. Trên thinh không chợt bắn xuống một đạo hào quang sáng chói, chiếu tới Thông Thiên Đài. Lại có muôn chim khắp nơi bay về đảo lượn mấy tầng trời, mặt đất muôn loài nhảy múa, quang cảnh mỹ lệ cực kỳ.

Lý Thông ngước đầu nhìn lên, lại ngâm:

"Văn Lang vốn nước biết làm nông,

Dao Đá mài dùng thật bõ công.

Liềm Đồng tạo ra, gặt vạn thóc,

Ấm miệng dân đói, phúc nhà nông."

Thơ vừa niệm xong, từ trên tầng trời hạ xuống một vị Tiên Thần, người cao thước tám, mắt hổ, trán rồng, da đỏ như gà chọi. Lại thấy, vị này đầu đội mão Tam Liên, thân khoác Đồng Trụ Tỏa Kim Giáp. Một tay quắp Đông Sơn Cổ Đồng Chung to như cái sọt, một tay khác thì cầm Thâu Mục Đồng Liêm. Oai nghi lẫm liệt vô cùng!

Ánh kim quang tỏa ra từ hai món bửu bối, khiến ba người phía dưới không dám nhìn thẳng, phải lấy tay che mắt đi.

Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh vội sụp xuống bái lạy, hô lớn:

- Chúng hậu nhân Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh bái kiến Hùng Vương.

Nguyên lai, hai món bửu bối đấy là Công Đức Linh Bảo, hấp thụ tín ngưỡng trăm vạn con dân. Lại có công khai phá trí tuệ dân tộc, cải thiện đời sống con người. Bởi thế, Thiên Địa tạo hóa lấy trăm vạn tín ngưỡng chi lực, ngưng luyện mà thành hai kiện Công Đức Linh Bảo. Còn vị kia chính là Hùng Vương Đời thứ nhất, Hùng Đức Công.

Hùng Vương hạ xuống tới đài, gật đầu, cho ba người miễn lễ, rồi nói:

- Các ngươi thỉnh ta đến là có chuyện chi?

Lý Thông nói:

- Hậu nhân Lý Thông bẩm cho Hùng Vương được hay. Số là chúng tôi gặp nạn, bị yêu vật làm phép trù yểm, đã thế nó còn bày cái Hung Trận ở đất Hoan Châu. Khiến đại địa Ô uế, trăm họ lầm than. Nay hậu nhân Lý Thông muốn mượn ngài hai kiện Công Đức Linh Bảo, trấn áp Hung Thú.

Sơn Tinh nói:

- Bọn Yêu Vật này dám bày hung trận, giết người đất Nam mình. Thù này không báo, nó lại tưởng Thần Tiên chốn này sợ nó!

Hùng Vương nghe thế cũng giận lắm, từ đời Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân, rồi mấy đời Vua Hùng kế sau, muôn dân trăm họ nơi nào mà không hưởng an lộc phúc, ca múa mừng vui? Há sợ yêu quái quấy phá?

Ngư Tinh Xà đấy? Bị Lạc Long Quân chặt làm ba khúc, yêu thân nát, yêu hồn vong, ngay cả đầu thai chuyển kiếp cũng chẳng được. Quỷ Thụ Yêu đâu? Chặt làm củi đốt, nướng Ngư Tinh rồi. Thế còn Cửu Vĩ Yêu Hồ? Đánh nát một nửa đạo hạnh, nhốt dưới Kim Ngưu Tự năm ngàn năm. Tiền nhân oai hùng như thế, bọn họ lẽ phải nên noi gương học tập?

Vua Hùng càng nghĩ càng giận, hừ lạnh một tiếng rồi mắng:

- Yêu Vật to gan thật! Ta phải đánh cho chúng nát yêu thân! Lại đày vào Trấn Yêu Ngục của cha ta, cho bọn chúng biết thế nào là ghê gớm.

Nói rồi ưng thuận cho mượn bảo trấn yêu.

Lý Thông mừng rơn, lại cho dọn đồ cúng mời chân linh hai vị thần thượng tọa.

Hùng Vương nhìn về đất Hoan Châu, thấy chướng khí mù mịt, sát khí thao thiên. Cho dù lần tay bấm độn cũng không tính ra trận này dáng vẻ thế nào. Bèn quay qua hoir ba người, Lý Thông tả rõ chi tiết. Giây lâu sau Hùng Vương mới nói:

- Trận này chuyên dùng đối phó Tiên Thần, nó có bốn cổng tuân theo đại khai đại hợp, nếu như không phá tất cả cùng một lúc thì trận bạo người vong. Bây giờ mới chỉ có hai kiện Công Đức Linh Bảo, phải kiếm thêm hai kiện nữa thì may ra mới trấn áp được!

Lý Thông đáp:

- Hùng Vương nói có lý, tôi đây đã nghĩ đến điều đấy. Nhưng đi đâu mà tìm cho ra hai kiện Công Đức linh bảo?

Hùng Vương nói:

- Ta có đứa chắt, tên Lang Liêu. Vào đời Hùng Vương thứ sáu, có công sáng tạo ra bánh chưng bánh giầy làm từ hạt gạo, bánh chưng là thiên, bánh giầy là địa. Hai bánh đấy giúp bá tánh biết cách dùng gạo, sau nó lại dạy dân trồng trọt canh tác. Bởi thế, Thiên Địa tạo hóa lấy tín ngưỡng mà đúc thành một hạt bửu bối chứa Công Đức chi lực. Mặc dù không phải công phạt pháp bảo, nhưng Hung Trận này chỉ cần Công Đức trấn áp. Ta mượn dùng vật ấy cũng được!

Lý Thông cả mừng, hỏi:

- Nếu vậy thì hay quá. Mời Hùng Vương thi pháp.

Hùng Vương ừm một tiếng, vỗ tay vào trống. Xảy thấy ở trên đại địa cây cối như nhảy múa reo vang, một vị tiên thần từ trên mấy tầng mây hạ xuống. Chỉ thấy vị này mặt mày hiền lành, tai dài, cằm rộng, mũi cao, quả là người có tướng phúc hậu.

Lang Liêu đến giữa đài, làm lễ bái kiến Hùng Vương mà nói:

- Tiểu chắt bái kiến ông kỵ.

Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh cũng vội tiến tới làm lễ.

Hùng Vương nói:

- Tiểu chắt, ông kỵ hôm nay gọi ngươi tới là có việc nhờ.

Lang Liêu đáp:

- Ông kỵ cứ việc phân phó, tiểu chắt sẵn sàng phục mệnh.

Hùng Vương nói:

- Đất Nam ta từ thời Kinh Dương Vương đến các đời Hùng Vương, nhân dân khắp nơi an lạc. Yêu quái cho dù gan lớn cũng chẳng dám quấy phá. Nay đến đời hậu nhân, không có bậc tiên hiền phù hộ. Nên yêu vật cả gan làm loạn, nó bày cái Hung Trận ở đất Hoan Châu. Mê hoặc dân của ta, chôn sống người dân của ta, thù này không trả, ta ở trên Cửu Thiên sống yên sao đặng?

Lang Liêu giận mắng:

- Yêu vật thật to gan quá. Tiểu chất mặc dù không biết công phạt chi thuật. Nhưng chỉ cần ông kỵ nói một câu, cho dù liều mạng tiểu chắt cũng không chối từ!

Hùng Vương gật đầu ưng thuận, trỏ tay hướng Lý Thông mà rằng:

- Ở phàm giới có vị chân nhân này, là học trò của Thánh Chèm. Chân nhân biết cách phá trận, bày cho bọn ta. Khốn nỗi Hung trận kia có bốn cổng, cần bốn kiện Công Đức pháp bảo mới áp chế nổi Hung Thú. Ta đã có hai kiện rồi, nay gọi chắt tới là muốn mượn Công Đức Linh Bảo của chắt. Âu cũng là tạo phước cho con cháu mình một phen.

Lang Liêu nói:

- Chuyện đó có khó gì, Linh Bảo đó chắt mang theo bên người. Nhưng cho dù có Linh Bảo của chắt thì cũng mới chỉ đủ ba kiện. Một kiện nữa không biết ở đâu?

Mấy người đều lặng thinh!

Giữa lúc đấy, phương Đông có ba đạo hào quang bay xẹt tới, là Cao Sơn, Quý Minh cùng Thủy Tinh.

Sơn Tinh thấy huynh đệ mình tới, bụng cả mừng vội đi lên rước bái.

Khi mấy người xuống đến nơi, chào hỏi lễ trước sau đủ cả, Cao Sơn thấy ai nấy mặt mày rũ rượi, hỏi ra mới biết chuyện gì.

Quý Minh cười nói:

- Đại ca xem tiểu đệ nói có đúng chăng?

Thấy Quý Minh cười xòa, Sơn Tinh giận mắng:

- Tam đệ chớ vô lễ, các vị tiên hiền không ngại gian truân mà hạ phàm giúp đỡ. Nay gặp khó mà đệ còn cười được ư!

Mấy người khác không nói gì cả, nhưng mặt cũng tỏ ra bất mãn.

Cao Sơn vội can, nói:

- Nhị đệ chớ giận, chẳng qua Tam đệ cá cược với ta một phen. Bảo là Nhị đệ cùng Lý Thông chân nhân ắt cầu đến Hùng Vương cùng Lang Liêu. Bất quá lại thiếu một kiện Linh Bảo mới phá trận được, ta không tin nên mới cá với đệ ấy. Bây giờ nhìn lại quả là thế thật.

Quý Minh nói:

- Đệ cùng với đại ca vì phòng hờ nên quyết định ghé qua chùa Linh Quang, mượn nhờ Thất Thải Ngũ Liên Đăng của Phật Mẫu Man Nương.

Nói rồi hóa phép lấy ra một kiện Linh Bảo, chỉ thấy vật ấy là một đóa sen năm màu, từ trên chảy xuống một dòng thất thải quang mang sáng chói lạ thường.

Lý Thông cả mừng, tiến lên quan sát, hồi lâu sau mới nói:

- Đây là một kiện công đức pháp bảo của Phật Môn, hấp thụ tín ngưỡng dân chúng mà đúc thành, có vật này rồi thì phá trận dễ lắm!

Bấy giờ mọi người đã tập trung đông đủ, Lý Thông mới đem kế phá trận của mình nói ra.

- Cửa Hãm Tiên, hai vị Cao Sơn, Quý Minh cầm theo Thất Thải Ngũ Liên Đăng, cùng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục tướng quân dẫn theo ba ngàn binh mã chiếu ứng. Cửa này phía trước có hầm Kim Sa, nhờ Cao Sơn Đại Thánh làm phép Chỉ Địa Thành Cương, phá đi cái hầm đấy. Còn phía trên có Câu Hồn Xích, Thần Sơn Quý Minh hãy lấy Linh Bảo mà chống đỡ. Riêng Đào Ngột sợ công đức không dám hiện thân, các vị chẳng cần lo đến.

- Cửa Triệt Tiên, nhờ Thủy Thánh dâng nước sông Lam, phá đi cái trận địa lôi. Còn ở trên có cờ đỏ, cờ này gọi là Chiêu Hồn Phướng, có thể thâu nạp hồn phách. Nhờ Lang Liêu Đại Thánh mang theo Công Đức Hạt Giống trấn áp, hễ thấy Hỗn Độn xông ra cứ lấy Hòa hạt mà nện xuống, nó ắt không dám làm càn. Cửa này tôi sẽ sai Lưu Cơ dẫn theo ba ngàn binh mã tiếp ứng.

- Cửa Tru Tiên, nhờ Sơn Tinh Đại Thánh mang theo Thâu Mộc Đồng Liêm tới áp trận. Nơi này bày chông nhọn, Đại Thánh có thể làm phép Dời Sơn Lấp Bể, phá đi cái hố chông đấy. Thông lại cho binh mã tiếp ứng. Phía trên cổng có treo một cây Tru Thiên Tiễn, thấy tiễn này Đại Thánh chớ lo. Cây Tiễn đó, nó mũi làm từ Vẫn Tiên Thạch, thân đúc từ Diệt Hồn Mộc, mặc dù ghê gớm là thế. Nhưng Thâu Mộc Đồng Liêm ngài cầm theo là khắc chế thiên hạ cỏ cây hoa lá, nó mà thấy Đồng Liêm chẳng khác gì chuột thấy mèo cả. Cửa này có Hung Thú Hỗn Độn, Đại Thánh cứ cầm Đồng Liêm mà chém, chẳng nên sợ hãi.

- Cửa cuối cùng là Trảm Tiên, nhờ Hùng Vương xa giá, mang theo trống đồng tới đó. Đông Sơn Cổ Đồng Chung là ông tổ của nhạc cụ, cửa Trảm Tiên có treo cây Thâu Hồn Chung, nó không reo thì thôi, một khi reo, Hùng Vương chỉ cần vỗ trống một cái. Món Thâu Hồn Chung ấy ắt vỡ nát thành từng mảnh. Còn như Hung Thú Cùng Kỳ canh giữ cổng này, nó vốn thích kẻ ác, ghét người hiền. Hùng Vương có công đức hộ thân nó trông thấy thì sợ vỡ mật, làm gì dám tung hoành?

Bày kế xong rồi, Tiên Thần ai nấy đều hăng hái, chỉ chờ đến ngày phá trận. Lý Thông hướng Sơn Tinh, nói:

- Trận này bày chỉ có bảy ngày, sau bảy ngày thì Nguyễn Bặc tướng quân ở trong sẽ có tử kiếp giáng lâm. Mặc dù Nguyễn Bặc là thiên tướng hạ phàm, có chân linh Bạch Hổ bảo vệ, nhưng cũng không thoát khỏi cái kiếp ấy. Tính từ lúc Ngư Tinh bày cái trận ấy đến bây giờ đã qua năm ngày. Tôi sợ cước lực của mã không về tới kịp, vậy nên muốn mượn nhờ Sơn Thánh con Thiên Mã Cửu Hồng Mao.

Sơn Tinh gật đầu ưng thuận, chụm môi huýt sáo một cái. Chợt ở phía xa có hai bóng trắng phi nhanh đến, nhìn kỹ lại thì quả nhiên thấy hai con ngựa. Điều kỳ lạ là hai con ngựa này, mỗi con đều có chín cái long màu hồng.

Lý Thông chậc lưỡi khen:

- Tôi nghe chuyện xưa kể lại rằng, vì cưới được mỹ nhân. Sơn Thánh đi khắp thiên hạ tìm được ba con vật quý, là Voi chín ngà, Gà chín cựa và Ngựa chín hồng mao. Nay thấy được hai con thiên mã nầy mới hiểu được ngựa quý là như thế nào!

Đồ Sơn Thủy Thánh, Thủy Tinh cười khẩy, nói:

- Con ngựa ấy có chi ghê gớm, chân nhân hôm nào rảnh qua động phủ ta chơi. Thiên tài địa bảo, của lạ thú hiếm đầy rẫy cho chân nhân tùy ý chọn lựa. Chỉ là con ngựa có tính là gì?

Vốn là Thủy Tinh trước đây không rước được Mỵ Nương về, nên trong lòng vẫn ấm ức chuyện cũ. Tuy đã bắt tay giảng hòa, nhưng khi thấy con Thiên Mã Cửu Hồng Mao, vẫn không nhịn được mà mở miệng xoi mói. Sơn Tinh tính tình nóng nảy, nghe thế liền nổi giận, trợn trừng trừng mắt mà nhìn Thuỷ Tinh.

Lý Thông mắt thấy hai người sắp cãi nhau tới nơi, vội nói:

- Chư vị thành hiền, đất Hoan Châu chướng khí mù mịt. Thông sợ rằng chư vị không đằng vân giá vụ được, không biết phải làm cách nào?

Quý Minh đáp:

- Chân nhân cứ cưỡi ngựa trở về, cho chúng tôi trốn trong ống tay áo ngài là được.

Dứt lời, chư vị tiên thần hóa thành đạo ánh sáng, nhập vào ống tay áo của Lý Thông.

Sau đấy, Lý Thông cho người lưu lại dọn đài. Mình thì cùng Thạch Sanh cưỡi Thiên Mã Cửu Hồng Mao chạy gấp trở về.

Thiên Mã cước bộ nhanh như gió, một đạp đã phi được bảy dặm.

Người đời sau có thơ rằng:

"Đường dài mới biết sức ngựa hay

Cước bộ tung hoành, phóng như bay

Cửu sắc mao hồng, Thiên Mã ấy

Đất Hoan hướng tới, hết đêm ngày."
 
Chỉnh sửa cuối:
19 ❤︎ Bài viết: 32 Tìm chủ đề
Hồi 15:

Dùng pháp bảo, phá trận câu hồn.


Sử phép lạ, tam yêu đào mạng.

Nói tới phía bên doanh trại Lục Ngư Tinh, từ lúc bố trận đến bây giờ đã trôi qua năm ngày. Kim Sí Điểu không quên được mối thù bị thiên lôi bủa đánh ngày trước. Bèn đem chuyện trù yểm ấy hỏi ra làm sao.

Bạch Y Man nói:

- Đạo hữu chớ lo, tôi học phép này từ phương Bắc. Giờ Tý ngày thứ bảy, hồn nó chắc chắn hôi phi yên diệt.

Kim Sí Điểu trong bụng yên tâm phần nào, đoạn lại hỏi:

- Bửa trước tôi thấy thằng Thạch Sanh xông trận ấy, vào cửa Trảm Tiên bị bửu kiếm chém rơi đầu, hai vị có thù với nó sao không cho quân giật thây về mà băm vằm cho hả giận?

Bạch Y Man chưa kịp trả lời, Lục Ngư Tinh đã cắt ngang, nói:

- Không phải không muốn cướp, mà là không dám cướp. Trên đầu nó có chân long hộ thể, mặc dù đã rơi đầu nhưng hồn phách bị chân long thu lại. Tôi với Y Man đạo hữu giật thây nó về trút giận, ắt bị thần tiên đất Nam căm hờn. Sau này không có đất dung thân.

Gã thở dài một cái, lại nói:

- Bửa hai quân đăng tràng gặp nhau, tôi trông thấy Lý Thông tướng mạo xấu xí. Vốn mang bụng khinh thường nó, nhưng không ngờ nó biết cái trận tôi bày, kiến thức uyên bác như thế trên đời quả hiếm gặp. Tôi sợ là Lý Thông có phép nối đầu, bây giờ thằng Thạch Sanh lành lặn rồi cũng nên. Cách tốt nhất hiện tại là đợi cho qua hết ngày mai, khi phép trù yểm của Y Man đạo hữu hoàn tất, cùng hạn bảy ngày của Tứ Hung Tượng Trận. Quân binh bên nó không có thủ lãnh, lại toàn một đám mãng phu. Chúng nó xông trận thì chỉ có chết hết cả lũ.

Sí Điểu, Y Man gật đầu cho là phải. Rồi cả ba người rời dinh mà kiểm tra lại trận pháp các thứ, đề phòng có điều bất trắc.

Lại nhắc tới Lý Thông cùng Thạch Sanh cưỡi Thiên Lý Cửu Hồng Mao chạy gấp trở về. Sau vào đại trướng nổi trống gặp mặt chư tướng. Ai nấy vừa vào tới nơi, trông thấy Thạch Sanh đầu đứt nay được nối lại thì hoảng kinh, còn tưởng âm hồn hiện về.

Lý Thông phải đem việc tỏ tường ra mọi người mới chịu yên.

Lát sau Lê Hoàn nói:

- Quân sư có tài phép thông thần như thế quả là phước lớn cho chủ công. Nhưng hiện tại Nguyễn Bặc tướng quân bị nhốt, tới hôm nay đã là ngày thứ sáu rồi, không biết có biện pháp gì chăng?

Lý Thông nói:

- Biện pháp tôi đã có, chư vị về trướng mình chuẩn bị sẵn sàng đợi lệnh là đủ.

Chư tướng thấy Lý Thông nắm chắc như thế cũng không dám hỏi nhiều. Rồi ai về trướng nấy đợi lệnh.

Khi mọi người giải tán rồi, Lý Thông mới gọi chư thần ra, bẩm rằng:

- Bẩm chư vị thánh hiền, Thông tôi có việc muốn nhờ. Chư vị nếu xông phá trận, xin hãy chường ra một góc ở hướng Đông Nam thả cho ba con yêu kia đường lui.

Sơn Tinh hỏi:

- Sao chân nhân lại bảo chúng tôi thả bọn nó thế? Nó khinh thường chúng mình, không giết thì sao hả được cơn giận này?

Lý Thông cười nói:

- Tôi có muốn thả chúng nó đâu? Ngặt một điều, chư vị là thần thánh trên vầng trời. Chúng nó là yêu quái tu đạo dưới mặt đất, thiên địa tương sinh đấy là hợp đạo. Các vị giết nó sao đặng?

Dứt lời, Lý Thông vào sâu trong trướng, lấy ra một bộ áo lông nghỗng, nói:

- Tôi có lợi bảo phá được cái phép trù yểm của địch. Khiến bọn nó tưởng lầm tôi chết, chúng ba quân ắt nổi giận mà công trận. Nay địch đã ngoài sáng, ta trong tối ấy là chiếm được lợi thế rồi. Trong tam yêu thì Kim Sí Điểu có tài độn pháp cao minh, bọn nó vỡ trận ắt phải nhờ Kim Sí Điểu thi triển thần thông mà chạy trốn. Vậy nên, tôi muốn bày một cái trận ở hướng Đông Nam chẹn chúng đường lui, gọi là Bát Hoang Tứ Linh Tượng Trận.

Quý Minh nghe tới, vỗ đùi cười lớn, nói:

- Diệu quá thay, diệu quá thay, Lục Ngư Tinh bày Tứ Hung Tượng Trận. Chân nhân bày Bát Hoang Tứ Linh Tượng trận. Hung Trận đối Linh Trận, Tứ Hung đối Tứ Linh. Cái này gọi là gieo nhân nào gặp quả nấy, có hối cũng chẳng được!

Lý Thông ngạc nhiên, hỏi:

- Thần Sơn biết trận này ư?

Quý Minh đáp:

- Trận này quả là ghê gớm, tôi không biết thì uổng cái tài thần toán lắm.

Chư vị thần tiên tuy pháp lực cao siêu, nhưng không có tài về bày bố trận đồ. Thấy Lý Thông, Quý Minh kẻ xướng người họa thì lấy làm kỳ, Cao Sơn hỏi:

- Tam đệ, cái trận mà chân nhân bày có chi kỳ diệu chăng mà đệ mừng thế?

Quý Minh hứng khởi, đáp:

- Bát Hoang Tứ Linh Tượng trận lấy chơn linh Tứ Đại Thần Thú, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Quy mà bố thành. Kẻ nào sa trận thì mất hết phương hướng, trên không có Tử Mộc Thanh Phong thổi như vạn tiễn xuyên tâm, dưới đất trồi lên Bạch Sát Canh Kim đâm thấu da thịt. Bốn phương đều có Hồng Liên Nghiệp Hỏa thiêu đốt linh hồn. Bát hướng tràn đầy Huyền Nguyên Trọng Thuỷ, một giọt mà nặng tựa thiên nhạc! Kẻ nào dính phải thì thân xác tanh bành, trốn thoát không đặng!

Chư vị thần tiên nghe kể xong thì ai nấy mặt mày khiếp vía. Trận Tứ Hung dầu cho ghê gớm đến mấy cũng phải bảy ngày bảy đêm mới rõ kết quả. Nhưng Bát Hoang Tứ Linh Tượng trận khắp nơi đều là chốn hung hiểm, bất luận tiên phàm sa trận đều chết không toàn thây!

Lý Thông nói:

- Chư vị biết tới trận này, cứ y như kế của tôi mà làm. Ắt thắng lợi vậy!

Nói rồi dạy quân đi về hướng Đông Nam, cách tầm một trăm dặm, chọn khu đất trống, khuông viên bốn đến năm dặm. Ở đấy bày bốn cái đài, đặt ở bốn góc đông tây nam bắc.

Đài Thanh Long đặt ở phía Đông, trên đài cắm kỳ phướng, đại biểu cho gió. Đài này Lý Thông cắt cử Lê Hoàn trấn giữ, cùng một trăm binh tốt cầm tù và. Lại dạy rằng, hễ tam yêu sa trận thì phất cờ thổi tù, chẳng đặng trái lệnh!

Đài Bạch Hổ thì đặt ở phía Tây, đại biểu cho kim và thổ, đài này dựng phải thấp hơn đài của Thanh Long.

Thường nói: "Khí thế Bạch hổ ngẩng đầu quá cao sẽ lấn át Thanh Long. Ấy là mất linh vậy!"

Đài này Cự Lạng trấn giữ, mang theo binh tốt một trăm. Ai nấy đều phải cầm trống, hễ yêu quái sa trận thì đánh trống hò reo. Chẳng được lơ là!

Còn phía bên đài Chu Tước thì cắt cử Phạm Hạp tọa trấn. Đài này đặt ở phía Nam, đại biểu cho hỏa, bốn góc đài mỗi góc dựng một chậu lửa thật to, ở giữa treo một cây Thâu Hồn Đăng, chuẩn bị củi lửa đủ dùng. Lại dạy cho Hạp cầm chung đồng, hễ thấy tín hiệu thì đánh chung ba tiếng. Chẳng được sơ suất!

Đài cuối cùng là Huyền Vũ, đại biểu cho thuỷ. Lý Thông lệnh cho Thạch Sanh đứng chầu. Nơi đây đơn giản hơn, chỉ cần chuẩn bị một bồ nước thật to là được, chẳng cần binh tốt canh giữ. Lý Thông dặn riêng Thạch Sanh vài điều, lấy ra một bộ cung tên bằng vàng, chế từ lẫy của Kim Quy rồi nói:

- Cung tên này làm từ lẫy của thần Kim Quy, có thể giết được bọn chúng. Trận vi huynh bày ấy là trận Thông Linh, nên không có mắt trận, thay bằng đài chủ sát. Em hãy giữ lấy cái cung này đứng trên đài, hễ thấy ba con yêu kia sa trận thì kéo cung bắn tên. Chẳng được trái lệnh!

Đấy gọi là:

"Tứ Hung mà đối trận Tứ Linh

Cầu khấn Tiên Thần, lại dụng binh

Long, Hổ, Phượng, Quy tứ thú ấy

Tam Yêu sa trận, chắc bỏ mình!"

Dặn dò đủ điều rồi, Lý Thông mới hướng chư tướng, nói:

- Lục Ngư Tinh khinh tài thiên thần đất Nam, bày cái trận Tứ Hung. Nay tôi thỉnh được chư vị tiên hiền hạ phàm giúp đỡ, ngặt nỗi chúng nó là yêu quái tu đạo, hợp đạo trời nên tiên thần giết nó không đặng. Nên tôi mới phải bày thêm cái trận đồ, hòng thâu mệnh chúng nó. Chư vị nghe được, y lệnh mà làm. Chẳng được buông lời ba hoa mà lộ mất tiên cơ!

Chúng tướng đều vâng dạ đáp lời, rồi ai nấy lãnh lệnh kỳ đi ra khỏi trướng chuẩn bị.

Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng, Phạm Hạp, Thạch Sanh điểm đủ binh mã, công tượng. Rồi hướng phía Đông Nam mà chạy đi. Đến hết ngày thứ sáu mới tới nơi, rồi cho binh tốt hạ trại. Mấy người thì dạo quanh chọn khu đất trống để bày trận. Hết ngày hôm đấy, cả bốn người mới xong xuôi mọi việc, bèn cho một tên thám báo về để truyền tin.

Sang ngày thứ bảy, đúng giờ Tý, Lý Thông dậy thật sớm, cắm hương tế lễ, rồi lấy cái áo lông ngỗng mà Thần Kim Quy đưa cho mặc vào. Xảy thấy có đạo hào quang bao phủ toàn thân, một sợi dây xích màu đỏ nối từ mi tâm của hắn kéo về hướng doanh trại Lục Ngư Tinh.

Lý Thông hoảng sợ, nghĩ bụng:

- May thật, ta thỉnh được thần Kim Quy cho mạn áo lông ngỗng. Chứ nếu không linh hồn đã bị sợi huyết xích này kéo đi mất rồi!

Đợi đến giờ Mão, khi sợi xích dần biến mất vào hư không. Lý Thông mới an lòng, vội nổi trống cho gọi chư tướng còn lại vào dinh, truyền lời rằng:

- Kỳ hạn bảy ngày phá trận đã đến, bây giờ tôi lệnh cho chư vị, mỗi người điểm ba ngàn binh mã tới các trận môn. Lệnh cho huynh đệ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang* dẫn theo binh mã tới cửa Tru Tiên. Hai vị phó tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục* dẫn binh tới cửa Trảm Tiên. Phạm Công Đinh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Thành* thì tới cửa Triệt Tiên. Lưu Cơ* tướng quân dẫn binh tới cửa Hãm Tiên. Chư vị chẳng cần lo trận pháp giở trò quấy phá, tôi đã thỉnh Tiên Thần trợ giúp. Việc của các vị là đánh vào mắt trận, ở đài trung ương. Chổ đó giam giữ Nguyễn Bặc tướng quân! Chỉ được thành, không được phép bại.

Nói rồi cho riêng từng người một túi gấm, dặn phải làm thế này, thế này..

Chư tướng vâng mệnh, đồng loạt lui ra khỏi dinh. Ai nấy trở về trướng nài nịt hẳn hòi, rồi cầm lệnh kỳ đi điểm binh mã.

Đợi mọi người chuẩn bị xong xuôi, Lý Thông phất tay áo lên, các vị thần tiên giấu trong ống áo hóa thành từng đạo hào quang. Nhập vào dưới mão chư tướng.

Đến giờ Ngọ, chư quân phát một tiếng pháo hiệu, binh mã nhằm hướng Tứ Hung Tượng trận mà đi.

Ở phía dinh của Lục Ngư Tinh, quân thám báo chạy về tâu:

- Địch quân dẫn binh mã tới phá trận.

Lục Ngư Tinh hỏi

- Bên kia quân tình ra sao?

Tên thám báo kia đáp:

- Binh mã địch tầm vạn quân, đều mang cờ trắng. Không biết xảy ra chuyện chi.

Lục Ngư Tinh cười lớn, hướng Bạch Y Man nói:

- Bọn nó để cờ trắng ấy là cờ tang. Xem ra phép trù yểm của đạo hữu đã linh nghiệm. Quân sư nó bị câu hồn rồi, nay chúng nó không người lãnh đạo, chẳng khác chi rắn mất đầu, cái chết chỉ trong sớm chiều!

Kim Sí Điểu, Bạch Y Man cùng chư tướng nghe vậy thì mừng lắm.

Lục Ngư Tinh lại nói:

- Binh mã của chúng đã kéo tới, ta cũng không nên chậm trễ nghinh tiếp. Vậy nên ta lệnh cho chư tướng rằng: "Lý Cung, Lý Mẫn dẫn hai vạn quân binh dọc theo đường Truông Lương mà tới cướp doanh địch. Còn Ngô Bình, Ngô Tuấn, Ngô Văn Nhạc, Ngô Vinh, mỗi người dẫn năm ngàn binh canh giữ đài trận ở trung ương, nơi đấy là mắt trận. Chớ để binh địch tới gần.

Dặn dò xong xuôi, Lục Ngư Tinh phát pháo cho binh mã vào trận dàn quân chỉnh tề. Rồi cùng Sí Điểu, Y Man cầm kỳ phướng tọa trấn các cổng.

Ở phía bên kia nơi cổng Tru Tiên, hai huynh đệ Lê Viết Quang, Lê Viết Nghĩa dẫn binh tới gần sát. Chỉ thấy cửa này trước mặt có hầm chông sâu không biết bao nhiêu trượng, rộng không biết bao nhiêu khuông? Ở phía trên vầng mây, có đạo thân ảnh ngự tọa, chính Lục Ngư Tinh.

Lục Ngư Tinh ngồi trên ngó xuống, thấy ba muôn binh tới trước cổng, dẫn đầu là hai vị tướng trẻ. Đầu đội mão đâu mâu, thân khoác Tỏa Kim giáp trụ, thần thái sáng láng lạ kỳ. Ngư Tinh lại nhìn thấy phía trên đầu hai người có chân linh Song Hùng, bụng tấm tắc khen tài, nghĩ:

- Hai tên tiểu tướng kia sau này đều là bậc quan lớn, có chân linh hộ thể. Ta đắc tội không đặng, nhưng nếu chúng dám cả gan bước vào trận, cũng đừng trách ta hạ thủ vô tình.

Nghĩ vậy, Lục Ngư Tinh cho vầng mây sà xuống, nói lớn:

- Tiểu tướng xứ nào? Tới đây phá trận hay chăng?

Lê Viết Hưng giơ mâu lên nạt lớn:

- Yêu quái to gan, ta vâng mệnh Lý Quân sư tới trận này mà phá cái cổng của ngươi. Còn không mau xuống cởi giáp quy hàng thì may ra giữ được mệnh. Chứ trái lời này binh ta dày xéo tan xương nát thịt!

Lục Ngư Tinh giận tái mặt, quát:

- Vô danh tiểu tướng dám buông lời ngông cuồng, đừng tưởng các ngươi mệnh lớn mà ta không dám giết. Có gan xông vào cổng này cho biết tài phép ta lợi hại ra sao!

Viết Hưng nói:

- Tiểu trận có chi ghê gớm mà huênh hoang, xem bọn ta phá cổng của ngươi đây!

Nói rồi dẫn theo Viết Quang cùng ba ngàn binh mã xông tới.

Lục Ngư Tinh giận quá hóa cười, phất kỳ phướng lên quát lớn:

- Ngu xuẩn mất khôn, đã tới thì giữ mệnh lại!

Lệnh kỳ vừa phất, gió cát nổi lên mịt mù, trên cổng trận một con Hung Thú chợt xuất hiện. Nó thân cao mấy chục trượng, mình giống như Hổ, sau lưng mọc cánh, vuốt như vuốt ưng, nanh dài ba tấc, hai tai vểnh ngược. Gọi là Thao Thiết!

Thao Thiết hiện chân linh, há miệng to như kim đấu, muốn nuốt hai huynh đệ Quang, Hưng cùng ba ngàn binh mã. Viết Quang, Viết Hưng trong bụng kinh hãi không biết để đâu cho hết, tưởng mệnh mình ô hô ai tai rồi. Thì đột nhiên, một đạo ánh chớp từ mão của Viết Quang bắn ra xông thẳng về phía Thao Thiết. Tức thì chặt con hung linh ấy thành hai đoạn.

Ngư Tinh hoảng kinh, thét lớn:

- Tiên Thần chốn nào? Sao dám phá trận ta đặng!

Sơn Tinh từ trong mão Viết Quang hiện lên, nói:

- Bổn Thánh Sơn Tinh, tu luyện ở dãy Tản Viên. Người đời gọi bằng Tản Viên Sơn Thánh. Yêu vật kia đã nghe danh ta thì cởi áo mão quỳ lạy xin hàng. Chớ mất khôn chống cự, ta đánh cho nát yêu thân, bao năm tu hành chẳng bõ công!

Lục Ngư Tinh thấy vị tiên thần này thân cao hai thước, mình khoác áo da hổ, chân đi giày cỏ, tay cầm búa chuỳ cực lớn, sau lưng có bức Tản Sơn Lưu Thuỷ Đồ. Liền biết ngay tiên thần đứng hàng Thánh. Trong bụng nó cả kinh, nói:

- Tiên Thần to gan dám hạ phàm quản chuyện hạ giới, chả nhẽ không sợ luật trời trách phạt?

Sơn Tinh mặt giận, quát:

- Mi còn dám nói tới luật trời ư? Ta cho mi hay, mi dám bày cái hung trận chốn đất Nam, giết người chôn sống, khiến đại địa ô uế. Mi đã là yêu tộc thì chớ, lại là kẻ tu đạo mà dám làm điều thương thiên hại lý như thế. Ta không giết mi đặng thì uổng cái danh Sơn Thánh này.

Lục Ngư Tinh cũng giận, cầm kỳ phướng phất lên, nói:

- Nếu bình thường ta kính sợ Tiên Thần tám phần. Nhưng ngươi dám bước vào trận đồ thì sống chết về tay ai còn chưa biết được. Đừng tỏ vẻ huênh hoang!

Lệnh kỳ phất lên, nhưng hung thú Thao Thiết bị chém làm hai đoạn không lành vết thương được. Lục Ngư Tinh kinh nghi, loay hoay chả biết làm sao cho đặng.

Sơn Tinh cười ha hả, nói:

- Con hung linh này bị Công Đức Linh Bảo chém thành hai nửa mà còn muốn lành lại ư.

Nói rồi hóa phép lấy ra một cái liềm bằng đồng. Chính là Thâu Mộc Đồng Liêm!

Lục Ngư Tinh thấy Đồng Liêm tỏa ra hào quang chói lóa, hai mắt nó nhìn vào thì nhâm nhẩm như bị kim đâm. Ngư Tinh sợ hãi, lại phất kỳ phướng muốn triệu hồi Tru Thiên Tiễn đâm chết Sơn Tinh. Nhưng Đồng Liêm khắc chế thiên hạ cỏ cây hoa lá, cây Tru Thiên Tiễn thấy nó thì sợ không dám rung động.

Lục Ngư Tinh cả sợ, vứt cả kỳ phướng độn phong mà chạy. Sơn Tinh ngó thấy chẳng thèm đuổi theo, dùng phép dời sơn lấp bể nâng một tảng đá to tướng lấp đi hố chông trước mặt.

Người đời sau có thơ khen Sơn Tinh rằng:

" Dời Sơn Lấp Bể phép thần thông.

Một tay nâng đá, lấp hố chông.

Tản Viên Sơn Thánh lừng oai đức

Giúp quân phá trận, chẳng kể công. "

Sơn Tinh làm phép xong rồi, mới quay qua dặn huynh đệ Quang, Hưng rằng:

- Hai vị cứ y kế quân sư mà hành động. Tôi phải ở đây chẹn đường lui của chúng nó.

Viết Hưng, Viết Quang vâng dạ, rồi hướng ba quân hỏi:

- Cờ Thao Thiết cắm chỗ nào?

Một tên lính hô:

- Cờ cắm chỗ này!

Nói rồi, Lê Viết Quang hối quân đào hố chặt cờ, lại lấy trong túi gấm ra một lá bùa, cho người chôn xuống. Xảy thấy, chân linh Thao Thiết tan thành hư vô; rồi từ dưới đất trồi lên mấy trăm xác người nằm la liệt, tất cả đều bị gọt tai cắt mũi. Cảnh tượng trông ghê rợn cực kỳ!

Lê Viết Quang, Lê Viết Hưng không đành nhìn thẳng, lâu sau mới kìm lòng đặng, hướng về mấy trăm cái xác xá người một cái rồi nói:

- Hôn quân vô đạo, giết người hiền nghe kẻ ác. Vì bày hung trận mà chôn sống các vị ở đây, thù này không báo thiệt khó xuống nơi hoàng tuyền yên giấc ngàn thu. Nay tôi vâng mệnh quân sư, dẫn binh tới phá trận, ngặt nỗi binh lực có hạn, nên nhờ chư vị giúp sức, âu cũng là báo mối cừu chặt tai cắt mũi, chôn sống đó vậy!

Lời vừa dứt, từ trong mỗi cái xác có oán linh trồi lên. Ai nấy mặt mày dữ tợn, bọn chúng cúi người bái tạ hai huynh đệ Viết Quang, Viết Hưng, giọng the thé nói:

- Cảm ơn hai vị tướng quân chôn bùa giải thoát. Trước khi âm linh tiêu tán trở về địa phủ, chúng tôi giúp ngài một phen.

Cả đám nói rồi hóa thành luồng gió xanh, bay thẳng vào nơi trung tâm trận pháp.

Ba cổng khác cũng xảy chuyện tương tự như vậy, cửa Trảm Tiên thì xuất hiện một đám Quỷ Anh. Cửa Triệt Tiên thì có một lão Thi Sát Quỷ, trước từng làm quan trong triều, bị chôn sống trước cửa. Cửa Hãm Tiên thì có một đám quỷ linh. Tất cả đều hướng về phía trung tâm mà bay đi.

Bấy giờ, xung quanh đài trung tâm, bốn hướng đều có ba ngàn binh mã canh giữ. Chợt có từng đoàn âm linh hiện hồn báo oán, đám binh sĩ ai nấy hồn vía bị thâu hết, chết như ngả rạ, mạnh ai nấy chạy. Chợt nghe một tiếng pháo nổ, từ bốn hướng có bốn cánh quân kéo vào, gặp người giết người, gặp cờ chặt cờ.. Chẳng mấy chốc đã bao vây quanh đài mắt trận.

Chư tướng hò quân xông vào, giết hết mấy tên giả dạng quỷ thần mới cứu được Nguyễn Bặc ra.

Nói tới Lục Ngư Tinh, Kim Sí Điểu cùng Bạch Y Man hội hợp ở trên vầng mây, thấy trận mình bị phá thì giận lắm, nhưng không biết làm sao cho đặng. Ngư Tinh hỏi:

- Trận này tôi bày theo đại khai đại hợp, nó dùng Công Đức Linh Bảo phá được cổng của tôi thì chớ, chẳng lẽ hai cổng của các vị cũng bị phá!

Kim Sí Điểu nói:

- Cổng do đệ canh giữ cũng bị Công Đức Linh Bảo trấn áp, không tài nào thi pháp được.

Y Man cũng nói:

- Cổng của tôi cũng thế. Không biết bọn nó làm cách nào thỉnh được thần tiên hạ phàm, dùng bốn kiện Công Đức Linh Bảo mà phá trận. Bây giờ các vị thần ấy canh giữ muôn phương. Ba người chúng ta thoát sao được!

Sí Điểu nói:

- Tôi nãy bay qua xem xét mấy phương, chỉ duy có góc Đông Nam địa thế hiểm trở, tiên thần không quản đến. Ta chạy hướng đấy có cơ may thoát khốn.

Y Man nói:

- Ngư Tinh đạo hữu có tài bói toán tiên liệu trước tương lai, không biết có bấm độn xem hướng đấy có chạy được hay chăng?

Lục Ngư Tinh buồn rầu đáp:

- Tôi bày hung trận che giấu thiên nhãn, nhưng cũng khiến thiên địa nhiễm kiếp khí trở nên ô uế. Tương lai mịt mờ nên không bấm độn được. Bất quá muôn hướng đều là tử môn, duy có hướng Đông Nam là sinh môn. Cầu phú quý trong nguy hiểm, chúng ta không thử thì chết nơi chốn này mất.

Sí Điểu nói:

- Tôi có cái phép thần thông, hễ đập cánh một cái có thể bay mấy trăm dặm. Hai vị nấp dưới cánh của tôi, để tôi thi pháp. Dầu tiên thần có lợi hại đến mấy họa chăng đã đuổi kịp?

Ngư Tinh cùng Y Man nghe tới thì mừng lắm, bái tạ rồi nói:

- Mạng chúng tôi nằm trong tay đạo hữu vậy!

Hai người nói xong thì Kim Sí Điểu hóa thành một con đại bàng dài tới mấy trăm trượng, còn Ngư Tinh cùng Y Man hóa thành hai điểm sáng nấp phía dưới cánh. Kim Sí Điểu vỗ cánh, nhằm hướng Đông Nam bay vút đi. Chư Tiên ngự trên vầng mây chỉ thấy có đạo ánh chớp lóe lên, khi tỉnh hồn lại thì ba con yêu đã chạy thoát mất rồi.

Thế mới có thơ khen rằng:

" Hậu duệ Điểu Vương, chính Quỷ Tiên.

Cánh dài trăm trượng, phép vô biên

Hoành không trăm dặm, như chớp giật

Thoát đặng chư thần, chốn Cửu Thiên. "

* * *

Chú thích:

1 - Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang: Lê Viết Hưng cùng em trai Lê Viết Quang tình nguyện theo Đinh Bộ Lĩnh, hưng binh trấn giữ vùng châu thổ, đánh thắng nhiều trận ở vùng Chí Linh, Thanh Lâm. Do có công với nước, hai ông được Vua Đinh phong tước, nhân dân lập đền thờ tôn làm Thành hoàng làng Ngọc Uyên, Hải Dương. Đức Thánh Cả Lê Viết Hưng được phong là Đương cảnh thành hoàng quan hà Đại vương" Trưởng tả đạo binh nhung kiêm tham tán mưu sự ". Đức Thánh Hai Lê Viết Quang được phong là Dương cảnh thành hoàng Đinh triều phong tước" Thiếu tử Thái Bảo tiền quân ".

2 - Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục: Ba anh em họ Nguyễn. Nguyễn Bồ anh cả, Nguyễn Bặc là em thứ, Nguyễn Phục là em út Cả ba anh em ông đều là tướng nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng trong công cuộc đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Vợ ông là công chúa Quế Hương, chị gái Đinh Tiên Hoàng

3 - Phạm Công Đinh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Thành: Nhờ sự giúp sức của ba anh em, Đinh Bộ Lĩnh đánh bại quân lính của sứ quân Phòng Át. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi phong Phạm Công Thanh là Thanh Lãng Đại Vương chức Pháp sư; phong Phạm Công Hoài là Hoài Nhân Đại Vương chức Võ quan Đại Vương, phong Phạm Công Đinh là Thượng Thiên Đại Vương chức Viên quan thị bộ Thái y viện, ban cho cha là Phạm Công Hoàng là Thân vương.

4 - Lưu Cơ: Là tướng của Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân, trực tiếp đánh dẹp sứ quân Lý Khuê và làm quan nhà Đinh. Ông cùng với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú được coi là Tứ trụ triều đình của nhà Đinh.

* * *
 
Chỉnh sửa cuối:
Từ khóa: Sửa

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back