Thạch Sanh Diễn Nghĩa. Tên khác: Đại Cồ Việt nhất thống chí, Dẹp loạn mười hai sứ quân diễn chí. Tác giả: Cửu Long Thể loại: Cổ Đại, Diễn Nghĩa, Huyền Sử. Văn án * * * Loạn sứ quân tạo ra thảm cảnh Mười hai phe tranh đánh lẫn nhau Sứ quân tên họ như sau: Lý Khuê, Bạch Hổ, Đằng Châu chiếm thành Đất Thái Bình Nguyễn Khoan hùng cứ Đỗ Cảnh Thạc, Xương Xí, Nguyễn Siêu Lã Đường, Kiều Thuận tiếp theo Rồi Ngô Nhật Khánh lại gieo kinh hoàng Kiều Công Hãn giành dân với Tiệp Loạn sứ quân chém giết lẫn nhau Chiến tranh mãi đến năm sau Cuối cùng Bộ Lĩnh tóm thâu nước nhà. * * * Lời tác giả: Huyền sử là chuyện truyền thuyết có tính chất huyền hoặc, hoang đường. Nội dung có liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử. Ví dụ như các câu chuyện chép trong sách Việt Điện U Linh tập, Lĩnh Nam Chích Quái về Lạc Long Quân diệt ngư tinh, Thánh Gióng.. Thạch Sanh - Loạn 12 sứ quân. Đại Cồ Việt nhất thống chí. Là sự kết hợp giữa truyện cổ tích Thạch Sanh cùng lịch sử Việt Nam thời Ngô, Đinh. (918 - 969) Nếu độc giả chưa từng đọc qua tác phẩm diễn nghĩa nào. Xin đừng bấm đọc bộ truyện này. Link Thảo Luận - Góp Ý: -Here-
Hồi 1: Ba trăm năm lẻ Tuỳ, Đường, Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài, Hồng châu họ Khúc hùng tài, Gặp đời Thúc Quý toan bài bá vương. "Hồi 1" Lời dẫn: Tiên thần có thể tính quái tượng, đoán quá khứ vị lai, hiểu âm dương, luận luân hồi, biết được nhiều chuyện ly kỳ nơi trần thế. Nhân gian đồn thổi chuyện cổ, cho rằng có người bịa ra mà không biết rằng nó có thật. Chẳng qua đều bị kẻ gian che giấu, xóa nhòa lịch sử. Ấy thật là đáng tiếc. Mấy trăm năm trước, Ngọc Đế giáng chiếu, cho Thái Tử cùng năm vị thần tướng hạ phàm đầu thai làm người. Khi đó, có vị Tiên Thần cả gan trộm xé đi một tờ Thiên Thư. Bị Ngọc Đế phát giác, đem ra Lôi Thần Đài xử trảm. Có điều, tờ Thiên Thư kia không cánh mà bay, rơi xuống phàm giới. Được một vị kỳ nhân nhặt lấy. * * *o0o--- Thiên Thư chép thơ rằng: Cuối đời Hàm Thông Trung Quốc loạn, Chuyển vận đường xa bỏ bê trễ. Ngô Quyền, Khúc Hạo, Kiểu và Dương, Soán đoạt giành nhau, dân kiệt quệ Họ Đinh, đời Tống mới phong Vương. Thời loạn sinh anh hùng, hay anh hùng sinh vì trừ loạn thế? Nam Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt Thường, nhà Tần gọi là Tượng Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao Châu, Cửu Chân và Nhật Nam. Nhà Đường lại cải Giao Châu làm An nam phủ, quận Cửu Chân làm Ái Châu, quận Nhật Nam làm Hoan Châu. Năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm mười hai châu, năm mươi chín huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là năm mươi hai năm, gọi là đời Ngũ Quý hay là Ngũ Đại. Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở đất Nam Giao, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, nên thuận cho ông làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ và gia phong Đồng bình Chương sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu. Việt sử thông giám cương mục viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ.." Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Thu tiết năm đấy, vua Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Khúc Thừa Dụ thọ bảy mươi bảy năm thì mất, Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia sau này viết trong sách Sử giám Thông khảo tổng luận đều gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên chúa. Vào năm kỷ Mão, sau khi nhà Đường mất, nhà Lương lên thay, cho Quảng Châu Tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, tự xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau. Khúc Hạo kế nghiệp Khúc Thừa Dụ, đóng đô ở La Thành, vốn là trị sở cũ do nhà Đường xây dựng nên. Người đời nhận xét rằng Khúc Hạo có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, đã định ra hộ tịch và các chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất. Theo sử lược, Khúc Hạo lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch. Khúc Hạo vốn là người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: Đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam. Khi được tăng cường lực lượng từ các sĩ dân Trung nguyên di cư xuống phía Nam, Quảng Châu mạnh lên. Tiết thu tháng chín năm Đinh Sửu, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong mười nước thời Ngũ đại Thập quốc. Nhận thấy nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu, bề ngoài là để 'kết mối hòa hiếu', song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm Đinh Sửu, khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Thừa Mỹ kế nhiệm cha, tự xưng là 'Khúc Trung chủ', lại tự phong làm Tiết Độ Sứ Tĩnh Hải Quân. Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, Nam Hán không gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sau này, do Khúc Thừa Mỹ từ bỏ chính sách của cha, nhận chức Tiết độ sứ từ nhà Lương chứ không thừa nhận nhà Nam Hán nên có thể là nguyên nhân quân Nam Hán tiến quân xâm lược nước Việt. Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam Hán là "Nguỵ Đình". Một năm sau, tức năm Kỷ Mão, Khúc Thừa Mỹ sai sứ mang lễ trọng hậu sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt. Vua Lương là Mạt Đế Chu Hữu Trinh ưng thuận trao cho. Vua Nam Hán là Hán Cao Tổ, thụy hiệu Thiên Hoàng Đại Đế nghe tin thì giận lắm, xô đổ ngự tọa, quát mắng quan lại trong triều. Quan Thứ Sử Lý Tiến quỳ mà tâu rằng: - Xin vua tôi chớ giận mà ảnh hưởng long nhan. Đợi bình định được tộc Khiết Đan phía Bắc, an ổn nước Cao Ly phía Đông, rồi khi đó đem quân Nam chinh cũng chưa muộn. Hán Cao Tổ khen là phải, rồi cũng gác chuyện Tĩnh Hải Quân sang một bên. Cho đến mùa thu tháng bảy, năm Quý Mùi (923), tức năm Càn Hanh thứ sáu, Vua Hán sai tướng Lý Khắc Chính đem sáu vạn tinh binh thảo phạt Giao Châu. Thế binh hùng mạnh, Khúc Thừa Mỹ chống không được. Đến đầu năm Ất Dậu mới bị Lý Khắc Chính bắt sống đem về. Vua Hán cả mừng phong tước cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành. Khi Thừa Mỹ bị bắt, vua Hán thân ra đình Nghi Phượng nhận tù binh, hỏi rằng: - Ngươi cho ta là ngụy triều, nay lại bị trói đưa về đây là cớ sao? Nói rồi sai người mang ra Ngọ Môn xử trảm. Cũng cuối thời điểm đó, một bộ tướng dưới trướng Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ dấy binh nổi loạn. Binh lính Nhà Hán vì không quen thổ địa, bị quân của Nghệ mai phục đánh cho tan tác. Lý Khắc Chính thua trận liên tiếp, chống được hai năm thì đổ bệnh mà chết. Quân của Dương Đình Nghệ thừa thế chiếm lại Giao Châu, bắt sống Lý Tiến. Vua Hán khi đó là Lưu Nhiễm mới lên ngôi, đặt niên hiệu là Bạch Long, hay tin này không biết làm gì, bèn hỏi các quan trong triều. Tả Thị Lang Trần Bảo đứng ra, tâu rằng: - Bẩm Bệ Hạ, đất Nam Giao vốn dĩ cằn cỗi, nhưng lại nằm ở vị trí hiểm địa. Nếu đem quân cường công ắt bị phục binh vây đánh. Nay Bệ Hạ mới lên ngôi không lâu, nên an lòng dân trước. Chinh chiến, dẹp loạn phải để sau. Hán Đế gật đầu cho là phải, lại hỏi: - Thế theo ý khanh, ta nên làm sao? " Trần Bảo cung kính đáp: - Theo ý của bề tôi, nên phái sứ giả, sang đó cầu hòa. Lại mang lễ trọng hậu, chuộc Lý Thứ Sử về kinh. Không những được lòng đám thuộc hạ, mà dân chúng cũng sẽ tôn người là minh quân. Hán Đế lại hỏi: - Ta biết cử ai đi sứ bây giờ? Trần Bảo quỳ rạp xuống, tâu: - Bề tôi tài mọn, nguyện đi sứ lần này. Hán Đế cả mừng, truyền thái giám ban thưởng. Lại phong Trần Bảo làm Đại Học Sĩ, mang theo vải lụa gấm vóc, vàng bạc châu báu, cùng một ngàn con ngựa quý đi sứ Giao Châu. Năm Kỷ Sửu, tức Đại Hữu năm thứ hai (929), Trần Bảo bước vào địa phận Giao Châu, truyền người dâng sớ cho Dương Đình Nghệ, ý muốn cầu hòa. Dương Đình Nghệ đọc xong sớ, truyền cho Trần Bảo vào điện, nhưng bên cạnh lại mai phục sẵn đao phủ. Trần Bảo vừa bước vào, Dương Đình Nghệ liền trở mặt mà quát rằng: - Tụi bay giết hại cha con nhà họ Khúc, bây giờ lại muốn cầu hòa ư. Thật khinh người quá. Lời vừa dứt, xung quanh đao phủ nhảy xổ ra chặt luôn đầu Trần Bảo. Vua Hán bấy giờ nghe được tin này, đập bàn giận dữ, quan lại trong triều im thin thít, không dám nói lời nào. Một vị quan tên là Kiều Bình đứng ra hiến kế, âm thầm cho kẻ tài lẻn vào Giao Châu. Lại đầu quân dưới trướng Dương Đình Nghệ. Đợi khi nào lên làm chức to rồi thì hẵng dấy binh tạo phản, trong đánh ra ngoài đánh vào, đấy gọi là nội ứng ngoại hợp. Hán Đế nghe vậy thì cả mừng, lại hỏi cử người nào đi cho được? Kiều Bình liền tiến cử con mình là Kiều Công Tiễn đi. Năm Đại Hữu thứ tư, Dương Đình Nghệ lấy danh nghĩa là báo thù cho họ Khúc, chiêu binh mãi mã. Đánh chiếm lại quận Ái Châu và mấy tỉnh ở Hoan Châu. Ông nuôi ba ngàn giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ. Cho đến mùa xuân tháng ba, năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết. Sử Thần bàn rằng: Cuối đời Hán, Đường phần nhiều nuôi giả tử, là vì đương lúc trí, lực chọi nhau, hay là trong khi hoạn nạn cùng theo nhau, đắc lực trong lúc hoãn cấp, tức thì nhận làm giả tử, không biết rằng lòng lang khó dạ. Dấu của hớ hênh, là xui cho người lấy trộm, thiên tính như thế không thể làm khác được. Đình Nghệ nuôi giả tử đến ba ngàn người, thì bị nạn, còn hối sao được nữa. Thế mới có thơ rằng: Ba trăm năm lẻ Tuỳ, Đường, Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài, Hồng châu Khúc Hạo hùng tài, Gặp đời Thúc Quý toan bài bá vương. Cõi nhà hùng cứ nam phương, Cung cầu một lễ, Hán Lương hai lòng. Quy mô cũng rắp hỗn đồng, Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên. Thừa gia vừa được tái truyền, Bởi cầu Lương tiết hóa nên Hán tù. Dương Đinh Nghệ lại báo thù, Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong. Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng, Kiều Công Tiện lại nỡ lòng sao nên. Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, tự phong mình làm Tiết Độ Sứ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa vững chắc, lại làm điều phản nghịch nên nhiều người ghét bỏ. Bế tắc, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Hán. Bấy giờ, một bộ tướng dưới trướng Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, đang đóng binh ở Ái Châu. Nói về Ngô Quyền người này, sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ khen là bậc anh hùng tuấn kiệt," Trí dũng song toàn ". Nên được cắt cử canh giữ Ái Châu. Mùa xuân năm Mậu Tuất, Ngô Quyền đang ngồi đọc sách thì phía chân trời xẹt qua một tia sét, tiếng sấm động ầm ầm. Ngô Quyền có dự cảm chẳng lành, bèn sai người đến Giao Châu dò la tin tức. Vài ngày sau, thám báo trở về, Ngô Quyền nghe tin Dương Đình Nghệ chết dưới tay gian tặc, phun một ngụm máu ngay giữa sảnh đường. Thân tín xung quanh phải dìu đỡ, vuốt ngực bấm huyệt hồi lâu mới tỉnh lại. Vài tháng sau, Ngô Quyền kêu gọi binh lính từ các tỉnh lân cận, phát binh hướng Giao Châu mà tiến đánh. Sách sử viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sợ mất mật. Sai sứ không quản ngày đêm trở về Hán triều cầu cứu. Vua Hán nhân Giao Châu có loạn muốn chiếm lấy, liền phái Thái Tử Lưu Hoằng Tháo. Phong tước Vương, gọi là Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi binh Hán chưa sang, mùa thu năm ấy, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn rồi. Lưu Hoằng Tháo khi đó ý muốn tiến binh bằng đường thủy, bèn hỏi kế Sùng Văn sứ là Tiêu Ích. Tiêu Ích thưa rằng: - Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là bậc hùng tài, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến. Hoằng Tháo cười mà nói: - Chỉ là bọn giặc cỏ, còn chưa cần làm đến vậy. Nói rồi bỏ qua lời khuyên của Tiêu Ích, đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Ngô Quyền. Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá: - Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, không biết tin Công Tiễn đã chết, kế nội ứng ngoại hợp của chúng ấy là tan rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát. Quả nhiên y như lời Ngô Quyền nói, Hoằng Tháo lần ấy tử trận, toàn quân đại bại. Mười vạn quân binh chỉ còn chưa đến hai vạn trở về. Vua Hán đồn trú ở cửa biển nhưng không giúp gì được, nhìn trời mà khóc ròng hai ngày liền. Sau cùng thu thập tàn binh trở về Kinh. Người sau ca rằng: " Dương công xưa có rể hiền, Đường Lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô. Vì thầy, quyết chí phục thù, Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào. Hán sai thái tử Hoằng Thao, Đem quân ứng viện toan vào giúp công. Bạch Đằng một trận giao phong, Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu. Quân thân đã chính cương trù, Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương. Về Loa Thành mới đăng quang, Quan danh cải định, triều chương đặt bày. " Mùa xuân năm sau, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô. Đóng đô ở Cổ Loa Thành, cai trị tám châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ai, Diễn, Hoan, Phúc Lộc. Lại tôn Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Người xưa có câu rằng: Cực thịnh tất suy. Nhà Ngô cai trị được hai tám năm, đến thời Ngô Xương Xí thì bị phân chia. Các hùng trưởng đua nhau nổi dậy, chiếm giữ quận ấp, người sau gọi đó là loạn mười hai sứ quân. Tân Hợi năm thứ nhất (951), Ngô Quyền mất, ủy thác con trưởng là Ngô Xương Ngậpcho Dương Tam Kha là em của Dương hậu. Dương Tam Kha cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng - Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương, Nam Sách. Phạm Lệnh Công che chở cho Ngô Xương Ngập, đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào mà trú ẩn, Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được. Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Như Ngọc làm con nuôi. Người đời sau có thơ diễu Tam Kha rằng: " Nền vương vừa mới dựng xây, Tiếc cho hưởng nước chưa đầy sáu năm. Đến cơn loạn mệnh nên nhầm, Cán Long tuyền để trao cầm tay ai? Tam Kha là đứa gian hồi, Lấy bè thích lý chịu lời thác cô. Cành dương đè lấn chồi ngô, Bình vương tiếm hiệu, quốc đô tranh quyền. " Một năm sau, Ngô Xương Văn dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công. Ngô Xương Văn lên ngôi, xưng làm Nam Tấn Vương. Lại đón anh là Xương Ngập về kinh đô, cùng trông coi việc nước. Xương Ngập xưng làm Thiên Sách Vương. Một núi không thể chứa hai hổ, Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, vì thế nên hai Vương hiềm khích nhau, nhân gian cũng từ đó mà loạn.
Hồi 2: Thánh tổ tiên vương, Nhất bào bách noãn. Sinh hạ bách thần, Khai quốc an dân "Hồi 2" Tương truyền ở quận Cao Bình, có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con cái. Hai ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Lại đi cầu khấn chùa chiền khắp nơi, cầu sao cho sanh được quý tử. Quả nhiên trời không phụ lòng người, Thạch bà thụ thai ba năm, rồi sinh một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Thạch Sanh. Khi Thạch Sanh mới chào đời, trời sinh dị tượng. Bầu trời xuất hiện kim sắc, tiếng sấm rền vang vọng trời cao. Lúc bấy giờ có Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh cùng Đồ Sơn Thuỷ Thánh, đang đi dạo trên vừng mây, bỗng thấy luồng hào quang phía dưới bắn lên, sáng tỏa cả vùng trời. Tam Vị Tản Viên Sơn thánh gồm ba vị tiên hiền, từng phò tá Hùng Vương đánh bại giặc ngoại xâm. Nên khi mất, chân linh bay về trời được Thần Long Thánh Mẫu (Mẹ của Lạc Long Quân) phong tước thần. Cai quản mấy dãy núi vùng Ba Vì, Sơn Tây. Còn Đồ Sơn Thuỷ Thánh là tiên nhân ở động Gia Ninh, Phong Châu. Thấy đạo hào quang ấy, một vị gọi là Cao Sơn nói: - Nay số nhà Ngô sắp tận, hùng cứ khắp nơi bạo loạn. Đứa bé này mới sinh ra trời ban dị tượng. Sau này ắt hẳn sau này làm nên vị tướng. Chúng mình trước phò vua Hùng dựng nước, cốt là yên lành xã tắc, nay thế loạn sắp nổi lên chẳng lẽ không giúp đời. Vậy thì hiền huynh trước ban cho đứa nhỏ này sức lực hơn người, dời non lấp biển chẳng nói chơi. Đồ Sơn Thuỷ Thánh, Thuỷ Tinh cũng nói: - Đạo hữu đã nói như vậy chẳng lẽ ta lại keo kiệt. Nên ban cho đứa nhỏ này tài bơi lội dưới nước. Hễ cứ xuống nước thì như cá về biển lớn, mặc sức mà tung hoành. Thần Sơn Quý Minh gật đầu, nói: - Đệ chẳng có tài bơi lội như nhị huynh, cũng không có sức nâng sơn bổ núi như đại ca. Đệ bèn tặng đứa nhỏ này một con mắt, có thể nhìn rõ hết thảy thế gian yêu ma quỷ quái. Cũng tặng thêm tài nghệ bắn cung bách phát bách trúng. Sơn Thánh, Sơn Tinh nghĩ hồi lâu mà không biết tặng gì, bèn nói: - Đợi thêm mấy năm, khi đứa bé khai trí, bọn đệ lại tặng cũng chưa muộn. Bốn người quyết xong thì Cao Sơn, Thuỷ Tinh há miệng phun ra một ngụm chân khí nhập vào bụng của Thạch Sanh. Riêng Quý Minh thì móc một mắt bên phải của mình ra nhập vào đầu đứa nhỏ. Bốn vị thần tiên chỉ là chân linh nên vợ chồng Thạch Ông, Thạch Bà không diện kiến được tiên dung. Chỉ thấy có ba đạo hào quang nhập vào người Thạch Sanh. Biết được đó là điềm lành, bèn quỳ xuống hướng lên trời cúng bái. Qua được sáu tháng, Thạch Nghĩa bàn với vợ: - Con chúng ta khi sinh, trời nảy dị tượng. Điềm báo sau này không phải phàm nhân thông thường. Quanh vùng này chỉ có Lê Lương núi Đuôi Ong là có bản lĩnh cao cường. Chúng ta ngày mai sắm lễ vật, đưa Sanh nhi đi bái vị kia làm sư. Như thế được hay chăng? Thạch bà khen là phải. Tối hôm đó, vợ chồng hai người sửa đồ sắm lễ. Đợi đến sáng sớm liền ẵm Thạch Sanh lên đường. Hai vợ chồng vất vả ngày đêm, cuối cùng đến trước hồ Thanh Hen. Thấy xa xa có người vừa chèo đò vừa hát, Thạch ông cao giọng hỏi: - Xin hỏi nhà của Lê Lương núi Đuôi Ong ở đâu? " Người chèo đò đáp vọng lại: - Đi thêm một quãng, thấy có ngọn núi nhỏ, cao chóp vót như đuôi ong. Tiến vào nữa là thấy túp lều của Lương tướng quân đó. Lê Lương vốn là bộ tướng dưới trướng Ngô Quyền. Sau khi Ngô Quyền băng hà thì về núi ở ẩn. Người dân xung quanh vẫn thường gọi ông là Lương tướng quân. Thạch lão cảm tạ một tiếng rồi dẫn vợ cùng con mình đi lên. Nhưng mới đi được một quãng thì sương trắng nổi lên, che hết tầm nhìn. Rồi nghe vài tiếng lộc cộc, một lão tiều phu không biết từ đâu đi ra, xuất hiện trước mặt hai người. Thạch ông, Thạch bà thấy lão tiều phu môi đỏ răng hồng, quả là tiên phong đạo cốt ngỡ là tiên nhân hạ phàm, bèn quỳ xuống vái lạy. Lão già hỏi hai người: - Các ngươi là đưa thằng bé này tới bái Lê Lương học nghệ đấy ư? Thạch ông gật đầu đáp phải. Lão già nói: - Kẻ này tướng mạo kỳ tài, nhưng số đoản mệnh. Lê Lương thu nhận nó, nhưng không quản được mệnh của nó đâu." Thạch ông cùng Thạch bà sợ lắm, quỳ gối dập đầu mà rằng: - Xin tiên nhân giúp vợ chồng chúng con. Lão già thở dài, đáp: - Mệnh thiên chú định, không thể làm trái. Nói rồi ngâm: Kết bái huynh đệ, Tình nghĩa kim lan. Một đao một tiễn, Diệt yêu trừ tà. Phò Vua giúp nước, Bình thiên hạ. Trần đời tuấn kiệt, Mấy ai hơn? Bỏ mình vì tri kỷ, Dũng nhân, trượng nghĩa. Sử sách lưu tên, Xứng danh anh hùng! Thạch ông cùng Thạch bà chẳng hiểu gì, nhưng nghe chữ bỏ mình liền biết đó là điềm chẳng may. Liền lạy lục xin lão già nghĩ cách. Lão già lấy trong người ra một tấm giấy vàng, đưa cho vợ chồng Thạch Nghĩa rồi nói: - Thôi được rồi, niệm tình hai người làm nhiều việc thiện. Ta sẽ giúp một phen. Hai người đi về phía Nam tầm hai dặm, sẽ thấy một ngọn núi. Trong núi có hang, đi vào cứ lấy gậy sắt mà gõ xuống đất. Lõm chỗ nào thì đào lên, dưới đó chắc sẽ có bảo thiết. Đào được rồi thì đưa về làng Phúc Sen, nhờ thợ rèn đúc một thanh đao, lưỡi đao khắc Long Hình, cán đao vẽ Hổ Bộ. Lá bùa này thì cho vào túi đeo bên mình đứa trẻ. Khi nào gặp tai kiếp thì đốt nó lên, ta sẽ hiển linh giúp nó một phen. Lão già này chính là Sơn Thánh Sơn Tinh biến thành. Thạch ông, Thạch bà nghe vậy cả mừng, liền cúi đầu vái tạ. Nhưng vừa ngẩng đầu lên thì đã không thấy lão già kia đâu nữa. Hai ông bà đi thêm một đoạn thì gặp một ngôi đền, phía ngoài đền có ông lão tóc bạc đang ngồi ngâm nga: Thánh tổ tiên vương Nhất bào bách noãn Sinh hạ bách thần Khai quốc an dân Vạn xuân an lạc Hai ông bà nhìn ông lão này dong nhan mười phần tương tự lão thần tiên vừa rồi, vội tiến tới bái lạy. Ông lão đỡ hai người dậy rồi cười nói: - Ta biết hai người đứa đứa bé này tới bái nghệ Lê Lương. Năm đó khi đứa bé này mới sinh ra được Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh, cùng Đồ Sơn Thuỷ Thánh ban phước. Ta lúc đó không biết tặng gì, đến hôm nay mới nghĩ ra được. Nãy tặng nó một đạo bùa chú nghĩ lại cũng thấy hơi phèn. Bèn tặng thêm nó một giọt chân long huyết của Thánh Tổ Tiên Vương, Lạc Long Quân. Hy vọng nó sau này thành tài giúp đỡ thương sinh. Nói rồi lấy trong ngực ra một bình ngọc, rót chân long huyết vào miệng Thạch Sanh. Long huyết vừa vào miệng, trước ngực Thạch Sanh nổi lên một hình xăm ngũ trảo chân Long. Thạch Ông, Thạch Bà vui mừng không xiết, vừa định nói lời cảm tạ thì một trận gió quét qua. Khung cảnh trước mắt biến đổi trở về non cao rừng xanh, nào có đền thờ chùa miếu gì đâu? Hai người đem chuyện này kể lại với Lê Lương. Lê Lương nghe xong giật mình, nói rằng: - Lạc Tiên Vương là thủy tổ của người Việt ta, nay tiên thần hạ phàm ban phước cho đứa nhỏ này. Nó sau này ắt hẳn bất phàm. Nói rồi đồng ý nhận Thạch Sanh làm đệ tử, hứa là đợi khi nào đủ mười ba tuổi. Sẽ hạ sơn dạy hắn võ nghệ. Vợ chồng Thạch Nghĩa cảm tạ, để lại lễ vật rồi đi về. Thời gian cứ thế trôi đi, khi Thạch Sanh tròn tám tuổi thì ở Cao Bình, dịch bệnh nổi lên. Thạch ông Thạch bà bệnh nặng không qua khỏi mà mất. Thạch Sanh nhờ tiên thần ban phước mà bệnh tật không vướng thân. Lại qua năm năm, Thạch Sanh đủ mười ba tuổi. Lê Lương y lời hứa, hạ sơn dạy Thạch Sanh võ nghệ. Thạch Sanh học ba năm thì thuộc lòng hết sáu mươi đường đao pháp Hoành Tảo Thiên Quân, cùng một bộ Phục Ma Đao. Lê Lương cũng phải tấm tắc khen là người tài. Lại qua vài năm, khi Thạch Sanh tròn mười tám. Một hôm, Thạch Sanh đến gặp Lê Lương, quỳ xuống mà rằng: - Bẩm sư phụ, con nay đã tròn mười tám. Tuổi này đáng ra phải tòng quân, đánh giặc giúp nước nhà mới phải. Chứ không thể ở mãi trên núi này chăn dê chăn bò mãi được. Lòng con hướng về đất nước, xin người hiểu cho. Lê Lương nói: - Cha mẹ con khi đăng sơn núi Đuôi Ong thì gặp tiên nhân. Vị tiên nhân kia phán rằng con sau này mệnh đoản. Nếu xuống núi chớ có mang lòng hối hận. Thạch Sanh đáp: - Đại trượng phu sống ở đời đâu có thể hèn nhát mãi thế được. Con có chết cũng phải chết ở nơi sa trường. Chứ không muốn chết già nơi đây. Lê Lương bật cười, khen là phải. Lát sau lấy ra một phong thơ, trao cho Thạch Sanh rồi nói: - Thôi được rồi, mệnh thiên đã chú định, không thay đổi được. Con cầm lấy phong thơ này, đến động Hoa Lư, gặp một người tên Đinh Bộ Lĩnh. Người này với ta trước phò Tiền Ngô Vương, y thấy thơ này sẽ giúp đỡ con tận tình. Thạch Sanh mừng rỡ cảm tạ, vội làm lễ ba quỳ chín lạy. Sau cùng trở gót đi thẳng xuống núi.
Hồi 3: Bước chân vào Châu buổi mới đầu. Sinh tử giao ước nghĩa kim lan. "Hồi 3" Tự cổ chí kim, phàm là một nước không thể có hai vua. Cũng như một rừng không thể chứa hai hổ. Ấy thế mà đất Nam thời Hậu Nhà Ngô. Ngô Xương Văn hiệu Nam Tấn cùng Ngô Xương Ngập, hiệu Thiên Sách đều tự xưng là Vương. Tranh giành quyền vị, khiến dân chúng rơi vào cảnh lầm than. Hùng chủ các ấp, quận không cam chịu phận làm tôi, rục rịch muốn khởi binh tạo phản. Người đời sau than rằng: Nam Tấn Vương lật đổ Dương Tam Kha rồi, khôi phục cơ nghiệp cũ, nối được kỷ cương hoàng gia. Nhưng lại kính anh, câu nệ phận đích trưởng rước Xương Ngập về Kinh, muốn cho cùng hưởng phú quý. Mà lại không biết rằng lòng người khó đoán, Xương Ngập làm sự đến như vậy thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú rất là ti tiện. Tạm gác chuyện đó qua một bên, nhắc tới Thạch Sanh từ khi hạ sơn liền quay về nhà. Sắm sửa đồ cúng, ra thăm mộ cha mẹ, rồi lấy lương khô, vác đao cưỡi trâu hướng Trường Châu mà đi. Hôm nọ, Thạch Sanh tới Trường Châu, khi đó là vào tiết Hạ Chí, trời nóng nực bèn vào cái miếu gần đó nghỉ tạm. Đang tới gần thì chợt thấy một gã ất ơ đi ngang qua. Gã này đi đứng xiêu vẹo, trên tay cầm một bình hồ lô, mùi rượu nồng nặc. Hiển nhiên là một con ma men. Thạch Sanh liếc mắt nhìn, thấy người kia trán vồ, mũi lệch, hình dong xấu xí. Chỉ nhìn lát rồi cũng không đem lòng để ý. Trong lúc đó thì gã kia cũng đã nhìn thấy Thạch Sanh. Nói tới Thạch Sanh vốn dĩ khôi ngô tuấn tú, da dẻ sáng ngời. Người kia vừa nhìn vừa tấm tắc kêu lạ lắm, bèn tiến tới hỏi thăm tên họ. Thạch Sanh đáp: - Tôi họ Thạch, tên Sanh. Từ nhỏ lớn lên ở quận Cao Bình. Mẹ cha chỉ là nông phu. Không biết huynh đài hỏi làm chi? Người nọ nghe thế, bụng lại nghĩ, kẻ này gia thế bình thường nhưng tướng mạo khoáng thế kỳ tài, sau này ắt thành nghiệp lớn. Bèn nói: - Tôi họ Lý tên Thông, nhà mấy đời bán rượu. Nhân đi qua chỗ này gặp vị huynh đệ, thấy chẳng phải vật phàm trong ao, nên ngỏ lời hỏi thăm đấy thôi. Hai người mới gặp mà tựa như đã quen từ lâu. Lý Thông đem rượu của mình ra mời, Thạch Sanh không từ chối uống ngay. Luận đàm một hồi lâu, Thạch Sanh thấy Lý Thông kiến thức uyên bác, am hiểu sử sách. Bèn đem anh hùng trong đất Việt ra thử dò hỏi một hồi. Lý Thông đều trả lời được hết. Bấy giờ Thạch Sanh mới ngả mũ bái phục, ôm quyền nói: - Tôi vốn dĩ thấy tướng mạo của huynh nên đem lòng xem thường. Nay nghe lời vàng thước ngọc mới vỡ lẽ ra, huynh tài trí uyên bác, là bậc học sĩ mới phải. Lý Thông cười mỉm, đáp: - Chuyện đó có là chi đâu, tôi từ nhỏ bái được ân sư, đọc vài năm sách, lại coi binh pháp. Ý muốn sau này đứng ra giúp nước chống giặc ngoại xâm. Nhưng tiếc hận sinh ra lỡ thời, nay nhà Ngô phân chia thành hai vương, xưng là Nam Tấn cùng Thiên Sách. Hùng chủ vì thế mà không an phận bề làm tôi, quan quyền lộng hành triều chính. Thế sự như thế tôi thấy chán lắm, nên mới bỏ mấy kỳ khoa cử. Về quê làm một tên bán rượu đấy thôi. Thạch Sanh mới từ vùng quê núi đi ra, không hiểu thế thời, nghe vậy cũng chỉ gật gù khen là phải. Lý Thông lại nói: - Tôi tối hôm qua liếc nhìn trời, thấy tinh tượng nổi lên. Nghĩ chắc hôm nay sẽ gặp một vị có tướng thần dũng. Nên từ sáng sớm đã cắp rượu đi dạo chung quanh. Quả nhiên qua miếu này gặp được. Nếu huynh đài không chê tôi dong nhan xấu xí, chúng ta liền kết bái huynh đệ. Như thế có được hay chăng? Thạch Sanh nghe vậy cả mừng, bật dậy ôm quyền, nói: - Tôi từ nhỏ cha mẹ mất sớm, côi cút một thân một mình mấy chục năm trời. Hôm nay may mắn gặp huynh ở đây, đó là phúc phận chứ chẳng nói chơi. Từ xưa tới nay các bậc cao nhân đều tài trí hơn người, chứ dong nhan có kể gì. Hai người nhìn nhau, chốc lát đều bật cười ha hả. Thế là Lý Thông cùng Thạch Sanh đồng thời cắt máu ăn thề. Nơi này giữa miếu hoang, không có đồ cúng bái. Lý Thông lấy hai chiếc lá chụm lại thành chén, nhỏ máu rót rượu. Rồi hai người cùng quỳ trước tượng thần miếu, vái mỗi người ba cái cùng thề rằng: - Hai chúng tôi là Lý Thông cùng Thạch Sanh. Giữa miếu hoang gặp gỡ, lời nói hợp lòng nhau, ắt cũng là duyên trời ban. Tuy rằng khác họ nhưng nguyện kết làm anh em. Vì gặp nhau đột ngột, không có đồ tế bái, bèn lấy chén rượu nhạt nhỏ máu ăn thề. Thề rằng, cùng nhau đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt. Thề xong, hai người đem so tuổi thì Lý Thông làm huynh, Thạch Sanh làm đệ. Hai người xưng huynh gọi đệ, cùng cười lớn, lấy hồ lô rượu chia nhau mà uống một bữa thật say. Thời gian trôi qua được mấy nén hương, Thạch Sanh hơi men nổi lên, nói: - Đại huynh, tiểu đệ từ nhỏ lớn lên ở vùng sông núi, bái được một vị cao nhân học võ. Nay gặp huynh ở đây liền trổ vài đường võ nghệ cho huynh xem. Nói rồi cầm đao bước ra giữa sân múa võ. Đao của Thạch Sanh nặng tới trăm năm mươi cân, múa lên khiến gió cát bay vù vù. Lý Thông tấm tắc khen hay, gật gù bảo: - Không giấu gì em, tôi từ nhỏ được Thánh Chèm, Lý Ông Trọng hạ phàm thu làm đồ. Học được hai món pháp thuật là Thông Linh và Kinh Dịch. Nay gặp được em có tài võ công cao cường, hai chúng ta mà hợp lực thì chẳng khác chi hổ mọc thêm cánh. Thạch Sanh giật mình, nói - Phải chăng là Uy mãnh Oanh liệt Phụ tín Đại vương, Lý Thân, Lý Ông Trọng? Người đời có câu sau: Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp Ông Trọng từ thâm vân đạm nùng Lý Thông cười đáp: - Hiền đệ còn biết danh tiếng của gia sư? Thạch Sanh nói: - Lý Ông Trọng trước phò Hùng Vương đời thứ mười tám, danh tánh truyền xa ai ai mà không biết. Hai người cùng cười lớn, uống rượu luận đạo tới khi trời trở tối mới về. Lý Thông nói: - Huynh nhà cũng chẳng giàu sang gì. Chỉ bán rượu kiếm sống qua ngày. Nếu đệ không chê thì đến nhà huynh ở tạm. Thạch Sanh cả mừng, gật đầu đồng ý. Hai người cùng cười rồi dắt tay nhau đi. Về tới nhà, Lý Thông đem chuyện kết bái huynh đệ nói với Lý mẫu, rồi lại bảo giết gà làm bữa tiệc khoản đãi. Lý mẫu nghe chuyện, trong bụng kêu lạ lắm. Bà biết rằng Lý Thông từ nhỏ đã kỳ lạ hơn những đứa trẻ khác, mới sinh ra đã mọc răng, lên bảy tháng tuổi thì đã biết mở miệng nói chuyện. Sau lớn lên lại ham đọc sách, học binh pháp. Khi rảnh rỗi thường lấy gạch đá làm kỳ, gỗ củi làm binh, bày trận giả trong sân mà chơi. Mới đầu người xung quanh còn chưa biết gì, nhưng sau này có một vị tướng quân đi qua nhìn Lý Thông bày trận trong sân, hỏi rằng: - Ngươi bày trận gì vậy? Lý Thông đáp: - Trận này gọi là Đồng Trụ Tàng Thiên (Trụ Đồng Giấu Trời). Vị tướng quân kia nhìn, thấy Lý Thông xếp đất cát thành hai hàng dài, ở giữa lại lấy củi gỗ đặt trên đá nhọn. Vị tướng quân nọ thấy thế thì nghi ngờ hỏi: - Đồng trụ đang cắm vào đâu? Lý Thông đáp: - Đang cắm ở giữa sông đấy? Tướng quân kia hỏi tiếp: - Sông kia sâu như thế, sức người làm sao cắm được? Lý Thông hỏi ngược lại: - Đợi thuỷ triều rút chẳng phải là cắm được ư? Nói rồi lại ngâm: - Dây giữ cọc, cọc giữ dây, dây giữ thuyền. Đấy là phép Đồng Trụ Tàng Thiên! Vị tướng quân kia nghe xong thì giật mình thất kinh, vội tụt khỏi yên ngựa, hướng Lý Thông xá dài một cái, nói: - Mấy vạn sinh mệnh đất Nam vì kế này mà được cứu rồi. Lý Thông cười nói: - Trò trẻ con chơi mà thôi, tướng quân chớ để ý. Nói rồi đi thẳng vào nhà. Vị tướng quân kia còn ngẩn ngơ, lát sau mới cảm thán, nói: - Kẻ này sau lớn lên, ắt khiến binh tướng thiên hạ mới nghe tới đã hãi hùng khiếp vía! Vị tướng quân kia chính là Tiền Ngô Vương, Ngô Quyền. Năm ấy nhà Nam Hán muốn công đất Nam, chiếm lại Giao Châu. Ngô Quyền dùng kế Đồng Trụ Tàng Thiên, chôn cọc gỗ dưới sông Bạch Đằng, lại lợi dụng thủy triều, quả nhiên thủy quân nhà Hán đại bại. Khi gặp Ngô Quyền, Lý Thông lúc đấy mới chỉ có ba tuổi. Sau này Vua Lê Thánh Tông có thơ rằng: **Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu, Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về chầu. Rửa không thay thảy thằng Ngô dại, Dịu một lâng lâng khách Việt hầu. Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó, Nào hôn Ô Mã lạc loài đâu? Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc. Thong thả dầu ta bủa lưới câu.. ** Nhắc tới Thạch Sanh được khoản đãi nhiệt tình, Lý mẫu lại xem và đối đãi như con ruột. Thạch Sanh cảm động rơi nước mắt, quỳ xuống lạy, nói rằng: Con vốn từ nhỏ mất cha mất mẹ, nay gặp huynh trưởng cùng Lý mẫu không chê nghèo hèn nhận làm giả tử. Cái ơn này có chết cũng không quên. Năm Nhâm Tý, mệnh sao Vân Hờn, ở Trường Châu có yêu quái hoành hành, am hiểu thần thông, quấy dân nhiễu chúng. Nam Tấn Vương cùng Thiên Sách Vương bấy giờ đang còn lo tranh đoạt ngôi Vua mà bỏ lơ chuyện này, không ngó ngàng gì đến. Nói tới vùng Lý Thông khi đó có con Chằn Yêu, đạo hạnh sáu trăm bảy trăm năm. Quan binh không trấn áp được. Thiên Sách Vương bèn viết lệnh rằng: Hằng tháng, cứ đến ngày âm khí nặng nhất, thì dâng tế người sống cho Chằn Tiên, đổi lại an bình. Tháng đó đến ngày dâng người, lại đúng lượt nhà Lý. Quan binh đưa văn trạng đến. Lý Thông đọc văn trạng xong, ngước lên trời thở dài mà oán rằng: - Thời thế loạn lạc, đất nước hai Vua, chỉ lo tranh giành quyền vị bỏ mặc dân chúng lầm than. Khiến yêu ma quỷ quái từ âm tào địa phủ ngoi lên nhân gian, hoành hành khắp nơi, Sách Vương thấy thế cũng bỏ mặc làm ngơ. Lại lập miếu thờ, đòi dâng người tế sống. Đó chẳng phải là hành vi của bậc hôn quân hay sao? Tên quan binh nghe Lý Thông buông lời nhục mạ Thiên Sách Vương thì giận lắm, tuốt gươm đòi chém. May thay mấy tên thân binh ngăn lại, nói rằng: - Tên này chuẩn bị làm vật tế cho Chằn tiên, không thể giết bây giờ được. Tên quan binh nọ còn căm giận, chưa chịu tha. Dân chúng xung quanh phải hết lời van lơn mãi, gã mới nói: - Tội ngươi đáng ra phải lăng trì xử tử đe chúng. Nhưng niệm tình mấy ngày sau làm tế lễ Chằn tiên nên ta tha cho. Tuy tội chết được tha, song tội sống khó tha. Dứt lời, truyền tả hữu quật Lý Thông xuống đánh năm chục roi. Thạch Sanh cả giận, toan rút đao đứng ra can ngăn thì bị Lý mẫu cản lại. Lý Thông không hề sợ hãi, cười mà nói rằng: - Hay cho câu: Tội chết được tha, tội sống khó tha. Tôi đây ba ngày nữa vào bụng Chằn Tinh rồi thì miễn tội sống làm chi nữa. Ông bây giờ giết tôi đi là hơn. Quân sĩ không nghe, đem Lý Thông đặt lên sập, lấy thừng trâu bện lại mà đánh đến thịt nát máu văng, chết đi sống lại mấy lần. Khi tả hữu đánh được năm mươi roi mới chịu thôi. Lý Thông đêm hôm đó không ngủ được, ngồi một mình ngoài sân than ngắn than dài. Thạch Sanh thấy vậy liền nói: - Huynh ơi, ba ngày sau huynh khỏi cần đi làm gì. Để đệ đi thay cho. Lý Thông nghe thế, mặt trở giận, quát: - Ngươi có coi ta là huynh trưởng nữa hay chăng mà nói lời như thế? Thạch Sanh đáp: - Đệ từ nhỏ luyện võ với bậc kỳ nhân. Tuy Chằn Tinh đạo hạnh cao lắm, nhưng đệ cũng có thể đánh ngang tay với nó một chầu. Lý Thông không nghe, lại quát: - Ngươi học võ nhưng đấu sao lại thần thông của yêu ma quỷ quái. Đến lúc đó bỏ mạng thì chí hướng hai ta còn ai làm nữa? Thạch Sanh đáp: - Trước đây chúng mình cắt máu ăn thề, nói có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nay huynh một mình vào chỗ chết, đệ còn sống làm sao? Đệ từ nhỏ được tiên nhân đoán mệnh, lại ban cho bùa chú, bảo là hễ gặp tai kiếp thì đốt lên ắt sẽ có tiên thân cứu giúp. Nói rồi đưa cán đao cho Lý Thông xem. Lý Thông xem lá bùa, lại đưa lên mũi ngửi, đoạn nói: - Bùa chú này làm từ vỏ cây Sến Mật, lại được hấp thụ nhật nguyệt tinh hoa. Quả là tấm phù chú hiếm gặp. Nhưng nó không dùng để đấu pháp với yêu quái được. Thạch Sanh ủ rũ, lại nói: - Đệ trước được Tiên Nhân Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh ban phước, xin huynh nhìn xem. Nói rồi vạch áo ra để lộ hình xăm chân long trước ngực Lý Thông thấy thì cả kinh, vội nói: - Chân long này dựa theo chân linh của Tiên Vương Lạc Long Quân mà phác thành. Chỉ có truyền nhân của Tiên Vương mới sở dụng. Lý Thông nói rồi đưa ngón tay lên miệng, cắn đầu ngón tay cho máu chảy ra, quệt lên mắt, niệm chú ngữ, lát sau mở ra nhìn trừng trừng vào Thạch Sanh. Chỉ thấy Thạch Sanh toàn thân toả ánh sáng chói mắt, trên đầu ngự đỉnh một con chân long, đầu lạc đà, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, chân hổ. Lý Thông sử mắt phép xong, cười nói: - Đệ đã có ý như vậy, huynh làm sao dám chối từ. Ba ngày sau là vào ngày âm khí nặng nhất. Ta phải nghĩ kế tiêu trừ âm khí của nó. Năm này thuộc mệnh Mộc, sao Vân Hờn, mai lại là ngày chẵn. Chúng mình lập đàn cầu âm quân, xin lệnh thu hồi âm khí, phong tỏa Hoàng Tuyền lộ. Không cho Chằn Yêu trốn xuống âm giới. Ngày hôm sau, Lý Thông đi ra chợ, mua hương vàng, đồ lễ tế đủ cả. Lại sắm một bộ tranh ngũ hổ, bốn bát muối, bột hùng hoàng.. Tối hôm đó trời trăng sáng tỏ, Lý Thông bày biện cờ xí lập đàn. Đúng canh hai, Lý Thông đi đến trước bàn cầm lấy kiếm gỗ đào, một tay vẽ bùa, miệng niệm chân ngôn, đốt bùa lên, lấy gươm chỉ xuống, xảy thấy trời trong trăng tỏ, giây phút mù đen mịt mịt, từ dưới đất hiện lên hai vị tôn thần. Một vị mặc áo bào màu trắng, đầu đội mũ cao, tay cầm xiềng xích; vị còn lại thì khoác bộ áo bào màu đen, đầu đội mũ tròn, tay cầm thẻ bài hình vuông, trên đó viết "Thiện ác phân minh". Hai người này chính là Hắc Bạch Vô Thường, chuyên dẫn linh hồn người chết về địa phủ. Bạch Vô Thường tới trước đài hỏi: - Vị chân nhân này gọi ta có việc chi? Lý Thông xá một cái, nói: - Bẩm Vô Thường nhị gia, nhân gian có Chằn Yêu hoành hành, nhiễu dân hại chúng. Tôi đây lập đàn cầu hai vị lên trấn áp con yêu này. Bạch Vô Thường lắc đầu, nói: - Con Yêu này đạo hạnh sâu quá, hai chúng tôi trấn áp không được. Xin chân nhân tha thứ. Lý Thông làm mặt buồn, nói: - Thế thì thôi vậy, có điều tôi cũng không thể kệ mà không lý đến. Ngày mai, tôi muốn dùng phép trấn áp nó thử một phen. Ngặt nỗi đúng vào ngày âm khí nặng quá. Mong nhị vị thu hồi âm binh, lại phong tỏa Hoàng Tuyền lộ. Không cho nó trốn xuống m Phủ, tôi ắt có cách giết nó. U cũng là tạo phúc cho nhân gian đó vậy. Bạch Vô Thường gật đầu, đưa âm binh lệnh cho Lý Thông rồi nói: - Âm Binh lệnh chưởng quản binh lính m Giới. Giơ nó ra rồi thét: Thu. Tức thì âm khí sẽ tán đi. Còn Hoàng Tuyền Lộ ngày mai sẽ được phong tỏa. Chân nhân yên lòng. Người đời có thơ kể về âm Binh rằng: Lệnh sai văn võ đôi hàng, Thiên tiên lực sỹ, Vạn vạn hùng binh, Âm binh các đội các cơ.. Lập thành chỉnh túc thủy bộ chư dinh, Binh trận bố giáp.. Tróc phọc bắt nhốt tà tinh.. Hai vị Hăc Bạch Vô Thường nói rồi hóa thành một luồng gió biến mất. Lý Thông đốt lá bùa thứ hai, miệng khẽ ngâm: **Nhớ xưa đang thuở triều Hùng Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa Trời thương Bách Việt sơn hà Trong nơi thảo mảng nẩy ra kỳ tài Lên ba đang tuổi anh hài Roi vàng ngựa sắt ra oai trận tiền Một phen khói lửa dẹp yên Sóc Sơn nhẹ bước thần tiên lên trời. ** Tức thì giữa trời sấm sét đùng đùng, một vị thần toàn thân mặc giáp sáng lóa, cưỡi kim mã, cầm long thương hạ xuống, nói: - Thánh Gióng ở đây, vị chân nhân này có gì sai khiến? Lý Thông nói: - Bẩm Thánh quân, nhân gian có Chằn Yêu hoành hành. Ngày mai tôi muốn dùng phép trấn áp nó. Xin cậy Thánh quân canh giữ bốn phương cửa miếu, chớ cho nó trốn thoát, để tôi trảm nó. Thánh Gióng chỉ gật đầu, rồi cưỡi ngựa về trời. Lý Thông cầu thần xong rồi, lại quay đến miếu Chằn, rải bột hùng hoàng xung quanh, lại đặt bốn bát muối quanh bốn góc tường, làm xong hết thảy rồi lúc đó mới về nhà. Tối ngày hôm sau, Lý Thông bị quan quân giải đến miếu Chằn Tinh để tế lễ. Thạch Sanh cầm đao âm thầm theo sau. Vào lúc canh ba, Lý Thông đang ngồi trên sập, một luồng gió lạnh thổi qua mang theo mùi tanh hôi nồng nặc, cây cối ngoài miếu ngã rào rào. Phía cửa vào chợt xuất hiện một con trăn lớn, há miệng nhằm Lý Thông mà táp tới. Thạch Sanh sớm đã mai phục sẵn ở bên, vung đao thét lớn: - Yêu vật to gan, có ta ở đây. Còn không mau chịu chết. Chằn Tinh cả giận, vung đuôi quật đến Thạch Sanh, một người một yêu quần ẩu ngay giữa miếu thờ. Thạch Sanh trên người có chân long hộ thể, Chằn Yêu cứ há miệng muốn cắn thì chân long trừng mắt khiến nó không dám làm liều, liền muốn thi triển thần thông. Nhưng quanh miếu rải đầy hùng hoàng, quanh bốn góc lại có muối. Thần Thông của nó không thi triển được. Chằn Tinh sợ quá, há miệng thâu nạp âm khí, muốn trốn xuống âm phủ. Lý Thông cả giận, giơ m Binh lệnh lên, quát: - Chạy đâu cho thoát. Thu! Tức thì âm khí xung quanh tán hết. Chằn Tinh không trốn được vội quay đầu chạy ra khỏi miếu. Thạch Sanh vác đao rượt theo. Nhưng Chằn tinh lướt đi nhanh quá, hắn đuổi không kịp. Lý Thông lại hét lớn: - Thánh quân ở đâu, còn không hiện thân thì con Yêu này chạy mất. Dứt lời, có tia sét từ trên trời đột nhiên bổ xuống, một vị thần tướng tay cầm long thương, thân mặc kim giáp, cưỡi ngựa kim ô hiện lên, chính là Thánh Gióng. Thánh Gióng vừa hạ phàm, vung long thương quát: - Yêu vật to gan, ải này bổn Thánh canh giữ, không qua được! Thần tiên vốn không được can dự vào chuyện phàm trần. Thánh Gióng thành tiên nên không thể giết Yêu ở phàm giới được. Nhưng ngăn cản nó chạy, lại là có thể. Chằn Tinh trốn không được, bí quá đành quay đầu lại đánh nhầu. Thạch Sanh sức lực hơn người, qua vài trăm hiệp liền chặt được đầu Chằn Tinh. Lý Thông cả mừng, cười ngớt không dứt. Sau cùng đốt hương tế lễ, trả Âm Binh lệnh cho Hắc Bạch Vô Thường, lại cảm tạ Thánh Gióng hạ phàm giúp đỡ. Sáng hôm sau, quan binh đến xem thì thấy Lý Thông cùng Thạch Sanh ở một chỗ đang uống rượu, bên cạnh cho thi thể Chằn Tinh. Chuyện này chẳng mấy chốc vang xa, người người đồn thổi rồi truyền vào tai hai vua. Thiên Sách Vương liền truyền lịnh ban thưởng, rồi phong cho Lý Thông làm Trảm Yêu Chân Quân. Nam Tấn Vương lại phong làm Hiển Thánh Chân Quân, lĩnh chức Đô đốc quận công. Người đời đều khen Lý Thông mà bỏ qua Thạch Sanh, sau có thơ rằng: **Thuở bước vào Châu bái nghĩa huynh. Cùng nhau bày trận trảm Yêu Tà. Cứu dân thoát khốn mừng khôn xiết. Hào kiệt oai danh buổi mới đầu. **
Hồi 4: Truyền phong thơ, Lý Thông phá trận. Kế khổ nhục, Cự Lượng trá hàng. "Hồi 4" Nói tới Lý Thông cùng Thạch Sanh trảm Chằn Yêu, nhân dân quanh vùng hết lời cảm tạ. Hai vua đều truyền lệnh ban thưởng thật hậu lại phong làm quan tước lớn. Hôm đó, chiếu chỉ của vua truyền đến làng, Lý Thông đọc xong chỉ ngồi thở dài. Thạch Sanh đứng hầu một bên, thấy thế liền hỏi: - Có chuyện gì mà huynh than ngắn than dài thế? Lý Thông đáp: - Hai ta chém Chằn Yêu, vốn là lập công giúp dân, giúp nước. Nhưng hiện tại đất nước hai vua, nếu ta nhận chiếu vua này lại đắc tội vua kia. Mà lại, ngày hôm dâng người tế Chằn, ta có buông lời mắng chửi Thiên Sách Vương là hôn quân. E rằng sau này nhập triều khó sống. Ta thở dài vì không biết phải làm thế nào đấy thôi. Thạch Sanh nói: - Nếu đã đắc tội Thiên Sách Vương rồi, không bằng chúng mình nhận chiếu của Nam Tấn Vương đi. Lý Thông lắc đầu, nói: - Nam Tấn Vương người này tánh tình nhu nhược, tuy trọng đạo nghĩa. Nhưng thời loạn ắt thành mồi cho kẻ khác, cứ xem việc vua không giết Dương Tam Kha, rồi chịu nhịn Ngô Xương Ngập kiêu xấc; là đủ biết kết cục người này ra sao rồi. Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc thay! Y nói đáng tiếc thay liền hai lần, không biết là tiếc vì Nam Tấn Vương hay là tiếc vì mệnh của mình nữa. Hai huynh đệ đều trầm ngâm hồi lâu, lát sau Thạch Sanh nói: - Thế.. hai anh em mình bỏ nhà, theo hùng chủ các ấp thì sao? Lý Thông cũng khen là phải, nhưng lại hỏi: - Hùng chủ các ấp nhiều lắm, nhưng mấy người đáng cho huynh đệ ta theo? Thạch Sanh vội lấy phong thơ mà Lê Lương lúc trước đưa cho mình khi hạ sơn, nói rằng: - Trước khi đệ xuống núi, sư phụ có đưa phong thơ này cho. Bảo là đến gặp một người tên Đinh Bộ Lĩnh, động Hoa Lư. Không biết người này thế nào? Lý Thông tiếp thơ, đọc xong rồi nói: - Đinh Bộ Lĩnh người này trước là bộ hạ của Ngô Quyền, trong lòng ôm chí lớn chỉ có điều bị Ngô Quyền lấn át nên người đời không biết đến. Khi Ngô vương chết rồi y mới lộ hùng tâm. Ta xem Đinh Bộ Lĩnh là người có tài, nhưng có mưu mà không quyết đoán, cứ như việc cử Đinh Liễn làm con tin ở triều đấy là biết. Hai ta đầu quân dưới trướng người này cũng coi như tạm ổn. Thạch Sanh gật đầu, nói: - Vậy huynh thưa lại chuyện này với mẫu thân, để đệ đi chuẩn bị đồ đạc. Hai người bàn chuyện xong rồi, y kế chia ra mà làm. Đêm hôm đó, Lý Thông đến trước Lý mẫu, quỳ lạy mà nói rằng: - Thưa mẹ, con cùng Thạch đệ muốn dời nhà đi Trường Châu tá túc. Mẹ hãy đi cùng chúng con. Lý mẫu lắc đầu, nói: - Nhà của ta ở đây, cha ngươi cũng chết ở đây. Ta không muốn đi đâu cả. Lý Thông lại muốn nói thêm, Lý mẫu đã ngắt lời, nói: - Mẹ biết tình cảnh bây giờ của con. Là nam nhi thì chí tại bốn phương, không thể cứ mãi ở chốn này được. Mẹ đã già rồi, lòng đã sớm muốn đi bồi cha con nơi chín suối, chỉ là còn vướng bận con ở trần thế côi cút một thân một mình. Bây giờ chí hướng con đã vươn xa, mẹ cũng yên lòng mát dạ. Lý Thông nước mắt chảy dài, muôn vàn lời muốn nói nhưng lại không thốt ra được. Lát sau làm lễ ba quỳ chín lạy, nói: - Con cảm ơn mẹ, kiếp này báo đáp không hết. Nguyện kiếp sau lại làm con hai người. Sáng hôm sau, Lý Thông cùng Thạch Sanh đóng cổng ở trong nhà sắm sửa đồ đạc, đến chiều thì ra ngoài mua hai con ngựa tốt, đợi trời trở tối liền lên đường đến động Hoa Lư mà đi. Lý Thông vừa rời nhà được ba ngày, quả nhiên Thiên Sách Vương đã sai quân binh tới nhà muốn giết. Nhưng lúc ấy vào nhà thì thấy vắng hoe không có một ai, quan binh sai người lục soát xung quanh. Chẳng mấy chốc tìm được Lý mẫu, nhưng không biết bà đã tắt thở từ bao giờ. Lý mẫu vì không muốn trở ngại sự nghiệp của con, tự vẫn ngay trong nhà. Người đời sau có thơ rằng: Vất vả từ thuở còn son, Nay ngày mẹ mất mà con không về. Đường dài con vẫn mải mê, Ân tình, nhân nghĩa, lời thề nặng vai. Nhắc tới Lý Thông đi tới gần Trường Châu, đột nhiên nôn ra một búng máu ngay trên lưng ngựa. Thạch Sanh cả kinh, vội tụt xuống ngựa chạy đến hỏi thăm. Lý Thông khóc mà rằng: - Mẹ chúng ta mất rồi. Thiên Sách Vương đã bất nhân thì chớ, nay đem binh soát nhà công thần đấy là thêm bất nghĩa. Kẻ bất nhân bất nghĩa như thế, trời tru đất diệt! Thạch Sanh nghe vậy thì kinh hãi, rút đao ra quát: - Để đệ quay về báo thù cho mẫu thân. Lý Thông vội cản lại, nói: - Sách Vương biết hai người chúng mình không phải dạng tầm thường, ắt có phái trọng binh đi theo. Đệ quay trở về chỉ có tìm đường chết. Thạch Sanh không cam lòng, nói: - Thù này không báo thì còn sống làm sao được. Lý Thông gạt lệ, xuống ngựa hướng nhà mình mà quỳ xuống, Thạch Sanh cũng vội quỳ theo. Hai người lạy mỗi người chín cái, Lý Thông quay qua, nghiến răng nói rằng: - Thù này không đội trời chung. Nếu hai ta đầu bình cho Đinh Bộ Lĩnh rồi mà y không chịu mang binh đánh Thiên Sách Vương. Thì ta quyết không theo y đâu. Thạch Sanh gật đầu, đáp: - Huynh đi đâu, đệ đi theo đó. Hai người trong lòng mang thù, ngựa chạy ngày đêm không dứt cuối cùng cũng vào địa phận Hoa Lư. Khi đó là vào đầu xuân, năm Giáp Dần (954), Đinh Bộ Lĩnh không vào triều chầu vua. Thiên Sách Vương lòng sinh nghi, sai người đến do thám mới biết ý tạo phản của Lĩnh. Sách Vương cả giận, sai người trói Đinh Liễn lại rồi mang quân tiến đánh Hoa Lư. Nhưng Hoa Lư là nơi hiểm địa, dễ thủ khó công, Sách Vương đánh hơn một tháng mà không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết. Đinh Bộ Lĩnh tức giận nói: - Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao? Nói rồi iền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Sách Vương kinh sợ, nhủ thầm: - Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì. Bèn không giết Liễn mà đem quân về trại. Lý Thông ở trong quán trà nghe người kể chuyện như vậy, liền vỗ tay Thạch Sanh cười nói rằng: - Trước ta nghĩa Đinh Bộ Lĩnh là người chí lớn nhưng có mưu mà không quyết đoán. Bây giờ y lại hướng cung bắn con là lập ý khởi nghĩa rồi. Đó là trời giúp ta báo thù. Đợi trời trở tối, Lý Thông cùng Thạch Sảnh lẻn đến trước thành Hoa Lư. Thạch Sanh định đem phong thơ giới thiệu cho lính trên cổng thành thì bị Lý Thông cản lại, nói rằng: - Mình chưa biết Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào, phong thơ này giữ lại đó cái đã. Nói rồi chỉ báo miệng cho binh sĩ, bảo muốn gặp Đinh Bộ Lĩnh. Một lát sau, binh lính kia trở ra, quát rằng: - Hai ngươi đi đi, tướng quân nói rằng không muốn gặp kẻ lạ. Lý Thông không giận, mà nói: - Xin huynh chờ chút đã, ta chỗ này có lời muốn nói với Lĩnh tướng quân, nhờ huynh chuyển cho vậy. Tên lính kia thấy Lý Thông ăn nói khép nép, cũng không nỡ lòng từ chối. Bèn nói: - Người chuyển khẩu dụ hay là lấy giấy viết? Lý Thông đáp: - Chuyện này cơ mật, nên giấy viết là hơn. Tên lính nghe vậy liền ném giấy bút xuống. Lý Thông cầm bút chấm mực, viết vào hai câu. Rồi bọc một thỏi bạc lại, ném lên tường thành, nói: - Phía trong có mười lượng bạc, coi như tiểu đệ mời huynh uống rượu. Còn tờ giấy kia phiền huynh đưa cho Lĩnh tướng quân. Tên lính cả mừng, quay trở vào trong. Nói tới Đinh Bộ Lĩnh đang cùng các tướng ở trong trướng bàn bạc, chợt có người vào báo. Lĩnh giận lắm, nói: - Ta nói ngươi không nghe hay sao? Bây giờ đang thời kỳ rối ren, lỡ có kẻ gian trà trộn vào thì làm sao? Nói rồi thét người lôi tên lính kia ra đánh. Tên lính sợ hãi, vội quỳ xuống nói: - Bẩm tướng quân, hai người kia có dâng một tờ giấy. Bảo là có chuyện cơ mật cần báo.. Bộ Lĩnh cầm giấy lên, đọc thơ thấy trên đó viết hai câu rằng: "Muốn cứu được con, bày kế khổ nhục. Trời giăng mây phủ, đánh trại nửa đêm." Bộ Lĩnh trong bụng mừng lắm, đọc xong thơ liền đốt đi, vội nói: - Hai người kia ở đâu? Mau mau truyền vào.. Không, để ta đích thân ra đón. Nói rồi cùng đám thân tín đi ra cổng thành đón người. Nhắc tới Lý Thông cùng Thạch Sanh vẫn đang đứng bên ngoài, đột nhiên cổng thành mở ra. Đinh Bộ Lĩnh cùng năm người khác chạy nhanh tới. Khi đôi bên thi lễ xong, Bộ Lĩnh liền hỏi luôn: - Lời ấy của tiên sinh có là thật? Người xung quanh không hiểu gì cả, Lý Thông cười nói: - Đương nhiên là thật, nhưng cần tướng quân giữ bí mật cho. Đinh Bộ Lĩnh khen là phải, rồi mời hai người đi vào thành. Khi Lĩnh hỏi đến danh tánh, hai anh em đều xưng rõ họ tên, dâng thơ của Lê Lương, còn kể tới lý do mình bỏ nhà trốn đi. Chư tướng nghe xong đều kinh ngạc, hóa ra kẻ chém Chằn Tinh lại là hai người trước mặt này. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, cho chư tướng lui xuống hết, lại hỏi Lý Thông rằng: - Kế mà tiên sinh chỉ ta, bây giờ phải làm sao? Lý Thông thưa: - Tình thế trước mắt, nếu tướng quân đem binh ra đánh thì thắng thua còn chưa rõ. Nhưng nếu thắng thì mệnh Đinh Liễn cũng không qua được. Khi đó người trong thiên hạ đều mắng tướng quân là kẻ vô tình. Ắt bất lợi cho đại nghiệp về sau. Còn nếu thua.. thì không cần phải bàn đến nữa rồi. Đinh Bộ Lĩnh buồn rầu, chỉ im lặng không nói năng gì. Lý Thông nói tiếp: - Cứ như ý của Thông, tướng quân chọn người thân tín. Lập kế khổ nhục, rồi đưa sang trá hàng Sách Vương. Nhân khi nó không đề phòng thì cứu Đinh Liễn ra. Thông xem tinh tượng, đoán rằng ba ngày nữa trời giăng mây mù, đánh mai phục là thích hợp nhất. Không biết binh lực tướng quân bây giờ còn lại bao nhiêu? Đinh Bộ Lĩnh đáp: - Chỉ còn ba vạn, trong đó có bảy ngàn trọng giáp kỵ binh. Một vạn tiễn thủ, còn lại đều là bộ binh hết. Lý Thông gật đầu, nói: - Theo ý của Thông, bộ binh tướng quân hãy chia làm ba đạo, một đạo cùng tiễn quân đánh thẳng cửa trại, hai đạo còn lại đánh thọc vào hai bên sườn, lại dụng hỏa công. Binh của Sách Vương công thành đã hơn một tháng, quân binh sinh lòng chán nản. Ta lợi dụng trời tối, ắt bọn chúng phải thua chạy tan tác. Ở phía sau trại Sách Vương có một gò đất nhô cao, cây cối thưa thớt. Tướng quân cho trọng giáp kỵ binh vòng qua mai phục nơi đó, lại tắt đèn giấu cờ, người ngậm tăm, ngựa buộc mõm. Khi tàn quân Sách Vương đi qua thì tràn xuống đánh nhầu. Đinh Bộ Lĩnh nghe xong mừng rỡ, cầm tay Lý Thông mà rằng: - Gặp được tiên sinh là trời giúp ta. Lý Thông lại nói: - Kế ấy có chi là đáng kể, chỉ có điều, khổ nhục kế phải thành thì Đinh Liễn mới sống được. Đinh Bộ Lĩnh hỏi: - Trong bộ tướng của ta biết chọn ai cho được? Lý Thông đáp: - Tôi thấy Phạm Cự Lạng là người được hơn cả. Lĩnh nghi hoặc, hỏi: - Sao không cử Lê Hoàn hay Nguyễn Bặc? Lý Thông đáp: - Hai người này từ nhỏ theo tướng quân. Người đời đều so chẳng khác gì Lưu, Quan, Trương thời Tam Quốc. Nếu trá hàng thì lộ mất. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội truyền cho Cự Lạng vào trướng truyền lại kế ấy. Phạm Cự Lạng quỳ xuống tâu: - Tôi đây coi Đinh Liễn như cháu của mình, dù cho phải xông núi đao cũng phải cứu Liễn ra được mới thôi. Ấy gọi là: Nhất phiến trung can huyện nhật nguyệt. Thiên thu chính khí tác sơn hà. Bộ Lĩnh nghe nói, chắp tay cảm tạ. Cự Lạng cũng gật đầu một cái rồi lui ra. Hôm sau, Lĩnh nổi trống nhóm hết chư tướng dưới trướng. Lý Thông cùng Thạch Sanh cũng có mặt. Bộ Lĩnh truyền rằng: - Sách Vương chuyên quyền làm uy, hại nhà Ngô suy sút. Ta mai đây phải đánh nó một chầu mới yên lòng Tiền Ngô Vương ở dưới hoàng tuyền.. Lời vừa dứt, Phạm Cự Lạng bước ra lớn tiếng nói: - Lương thảo trong thành sắp hết, chớ nói chi ngày mai. Cho dù sắm mấy tháng cũng không làm được việc gì. Binh quân Sách Vương bảy vạn, đều là tráng hán khắp nơi tụ hội về. Ba vạn quân thì làm sao đánh được. Lại nói Sách Vương là con cháu họ Ngô. Lên làm vua có gì sai trái. Còn như chuyện nhân gian lầm than đấy là do Nam Tấn Vương mới đúng chứ. Đinh Bộ Lĩnh cả giận, quát: - Hay cho tên này, chuyện thiên hạ đại sự mà cũng dám buông lời càn rỡ thế ư? Mắng rồi thét tả hữu lôi Cự Lạng ra chém. Chư tướng xung quanh phải hết lời van lơn mãi Lĩnh mới nguôi giận tha cho, chỉ truyền người quật Lạng ra đánh một trăm gậy. Chiều ngày hôm đó, Thiên Sách Vương lại mang binh công thành không được. Nhưng lại bắt được mấy tên lính, Sách Vương truyền lệnh tra hỏi tình hình trong thành thì biết được chuyện Cự Lạng bị đánh. Đêm đấy Sách Vương mừng lắm, hướng các tướng dưới trướng nói rằng: - Phạm Cự Lạng được gọi là Giao Châu Thất Hùng, nếu như được kẻ này thì Nam Tấn Vương bì sao được với ta. Chư tướng đều gật đầu khen là phải.
Hồi 5: Dâng thư trá hàng, Cự Lạng cứu Liễn. Nửa đêm công trại, Lý Thông báo thù nhà. "Hồi 5." Nói tới Phạm Cự Lạng bị đòn nằm trong trướng, Phạm Hạp chiều hôm đó liền tới thăm. Cự Lạng vội truyền người dọn bàn dâng trà, rồi cho tả hữu lui hết ra ngoài. Hạp với Lạng vốn là anh em họ hàng xa, nên rất hiểu tình tình nhau. Phạm Hạp vừa ngồi xuống liền mở miệng hỏi: - Anh hôm nay sao lại buông lời càn rỡ luận việc quốc sự, để tướng quân giận như thế? Cự Lạng đáp: - Càn rỡ gì đâu, chẳng qua anh nhìn nó không ưa đấy thôi. Phạm Hạp cười ngất, nói: - Đến nước này rồi anh còn giấu em ư. Nhìn điệu bộ hai người, em đã đoán được tám chín phần rồi. Cái kế khổ nhục này có gì đâu mà lạ nữa. Cự Lạng giật mình, nói: - Vẫn là không giấu được em, ta cùng tướng quân bày kế khổ nhục này là để che mắt Sách Vương, cứu thiếu chủ ra đó. Phạm Hạp gật đầu, đáp: - Kế này cũng xem như ổn, nhưng anh quên em rồi ư? Cự Lạng không hiểu gì, Phạm Hạp lại nói tiếp: - Chúng mình vốn là anh em, dòng dõi quan lớn trong triều. Sách Vương công đến Hoa Lư, dĩ nhiên cũng tìm hiểu từng bộ hạ dưới trướng Tướng quân. Nếu anh dâng biểu trá hàng, em mà không đi theo thì Sách Vương tất mang lòng sinh nghi. Đến lúc đó không những lợi người mà còn thiệt mình. Cự Lạng nghe thế cả mừng, nói: - Em nói vậy là muốn đem thư trá hàng cho Sách Vương chứ gì? Phạm Hạp khẳng khái gật đầu. Hai người nhìn nhau rồi cùng bật cười ha hả. Tuy cả hai đều là người làm tướng, nhưng Phạm Hạp từ nhỏ theo học thầy nho, nên có tài ăn nói biện luận. Cự Lạng biết điều đó nên mới nhờ việc. Phạm Hạp viết biểu hàng xong, đợi trời chập tối liền lẻn ra khỏi thành đến trước trại của Sách Vương. Quân của Sách Vương bắt được, hỏi rõ danh tánh rồi báo lên. Sách Vương đang ngồi cùng chư tướng trong trướng bồng, nghe tin cả mừng, bụng thầm nhủ: - Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng là anh em họ hàng xa. Nó nửa đêm lén sang đây chắc hẳn là dâng thư hàng! Sách Vương bụng nghĩ vậy, nhưng bên ngoài vẫn giả bộ làm ngơ. Lát sau mới truyền lệnh dẫn Phạm Hạp vào dưới trướng. Phạm Hạp vừa bước vào dưới trướng, Sách Vương liền trỏ tay mà quát rằng: - Phải chăng Đinh Bộ Lĩnh sai ngươi sang đây do thám? Chư tướng xung quanh nghe thế, đều rút đao soạt soạt cả ra. Phạm Hạp sắc mặt không đổi, bình tĩnh đáp: - Tôi đây là anh em với Phạm Cự Lạng, sao đây dâng thư quy hàng Sách Vương. Thiên Sách Vương giả bộ ngạc nhiên, đập bàn quát: - Láo xược, ngươi khinh tài trí của ta quá, dám sang dâng thư trá hàng! Phạm Hạp cười, tâu: - Xin Sách Vương minh xét cho, thơ hàng này là thật. Vốn là anh tôi Cự Lạng theo Bộ Lĩnh hơn mười năm, công lao có đủ. Vậy mà lúc sáng nay, anh tôi chỉ vì một câu nói, mà nó lỡ lòng nào sai người lột áo, đánh đòn ngay giữa mặt ba quân.. Nên anh tôi nản chí, không muốn theo nó nữa. Bèn kêu tôi sang đây gặp Sách Vương, dâng biểu xin hàng. Nói đến đây rồi dâng thư trình lên. Sách Vương đọc thư xong, lúc đó mới đổi giọng, nói: - Xin Hạp tướng quân thứ lỗi cho. Hai bên đang thế thù địch, nên ta mới gặng hỏi như thế. Phạm Hạp vội thưa: - Xin Sách Vương nhanh chân cho, Bộ Lĩnh là người đa nghi. Nó mà biết tôi sang đây thể nào cũng bắt anh tôi đem ra chém. Sách Vương ân cần nói: - Việc đó xin yên tâm, Cự Lạng khi nào sang, chỉ cần mật báo một tiếng. Ta sẽ mang đại quân đến tiếp đón. Phạm Hạp cả mừng, gật đầu ưng thuận. Sau đó rời khỏi trướng quay về. Phạm Hạp vừa đi, liền có người đứng ra hỏi: - Bẩm bệ hạ, hai người này phục tòng dưới trướng Đinh Bộ Lĩnh đã lâu. Nay tự dưng đến hàng, ắt có điều ám muội. Sách Vương cười, đáp rằng: - Nếu người dâng thơ hàng không phải Phạm Hạp hay Phạm Cự Lạng. Mà là Lê Hoàn hay Nguyễn Bặc, ta ắt sai ngươi lôi ra chém tuốt. Thế nhưng Cự Lạng, người này rất khác. Người kia nói: - Bề tôi không hiểu, nguyện được nghe rõ tường trình. Sách Vương nói: - Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng vốn là dòng dõi quan lại trong triều. Nhưng tiền nhân đắc tội quan lớn, sau cùng bị cách chức đày làm thứ dân. Đến đời Phạm Cự Lạng thì lên núi làm sơn tặc. Năm đó Đinh Bộ Lĩnh được lệnh Vua, điều quân thanh trừ thảo khẩu thì bắt được Cự Lạng. Cự Lạng đánh không lại nên mới chịu phục tòng dưới trướng Đinh Bộ Lĩnh. Ta xem Cự Lạng người này tâm vốn không phục, nếu ta cho hắn đủ lợi lộc ắt sẽ thành cánh tay đắc lực cho ta. Chư tướng xung quanh đều gật đầu khen phải. Thế mới nói là: Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, lợi dụng lòng ân nghĩa của Nam Tấn Vương mà tranh giành ngôi Vua. Nên trong đầu lúc nào cũng suy bụng ta ra bụng người, dẫn tới trúng kế khổ nhục của Phạm Cự Lạng. Đấy là muốn hối cũng không được. Phạm Hạp trở về kể lại chuyện với Cự Lạng. Cự Lạng cả mừng, cảm ơn rối rít rồi liền sắm sửa đồ đạc muốn đi ngay. Hai người mặc đồ dạ hành cải trang, nửa đêm cưỡi ngựa đến cổng thành thì lại gặp một viên tướng, môi son răng trắng, đầu đội mão kim loan, tay cầm bán nguyệt thương, cưỡi ngựa kim ô, hầm hầm giục ngựa chạy lại. Phạm Cự Lạng nhận ra người này, bèn lên tiếng chào hỏi: - Nguyễn Bặc tướng quân, nửa đêm rồi mà huynh vẫn canh gác ở đây ư? Có thơ khen rằng: "Hoa Lư kết nghĩa anh hùng chúa. Đại Hữu ân khâm tướng quốc công." Nguyễn Bặc đáp: - Tôi vâng mệnh chủ quân, trấn thủ ở đây để đề phòng có người lẻn ra đó. Vừa nói ánh mắt gã nhìn trừng trừng hai người. Nguyễn Bặc vốn là con Nguyễn Thước, một nha tướng dưới trướng Dương Đình Nghệ. Tương truyền là người giỏi võ nghệ và có sức khỏe phi thường, từng dùng tay không bắt sống cọp. Là thân tín của Đinh Bộ Lĩnh. Phạm Cự Lạng cười nói: - Tướng quân nói vậy là muốn ám chỉ tôi đây hay sao? Nguyễn Bặc vung mâu một vòng, nói: - Nói kẻ nào tự kẻ đó biết. Phạm Cự Lạng cả giận, cũng vác đao lên quát: - Ngươi khinh ta quá lắm, tiếp ta một đao! Nói dứt lời liền giục ngựa chạy đến chém một đao. Nguyễn Bặc hươi mâu đón đỡ, nạt: - Phản đồ, có ta ở đây ngươi chớ làm càn! Hai người đánh vùi đến hai, ba mươi hiệp, quần nhau ngay trước cổng thành. Binh lính trên thành hoảng hốt, vội cho người đi cấp báo. Phạm Hạp bắn pháo hiệu, vội nói: - Anh ơi, chúng mình đi mau kẻo đại quân kéo đến. Pháo hiệu nổ oành một tiếng, lập tức phía bên ngoài thành hơn một dặm Thiên Sách Vương dẫn theo binh mã ào ào chạy tới. Nguyễn Bặc thất kinh, đâm bậy một mâu rồi chạy vào trong thành, rồi truyền binh lính đóng cửa thành lại. Quân của Sách Vương tiến đến, nhưng chỉ đứng cách cổng thành Hoa Lư tầm ba bốn trăm trượng, ngoài tầm tên bắn. Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng cũng cưỡi ngựa chạy tới trước Thiên Sách Vương, rồi xuống ngựa quỳ tâu rằng: - Hai anh em Cự Lạng cùng Hạp ra mắt bệ hạ. Sách Vương mừng lắm, vội đỡ hai người dậy, truyền: - Hai vị tướng quân chớ đa lễ, có được hai vị trợ giúp chính là phúc của bổn vương. Nói rồi truyền tả hữu rút về trại, lại lệnh ban thưởng anh em họ Phạm thật hậu. Sáng hôm sau, quân Sách Vương lại tới công thành. Cự Lạng xin đánh trận đầu lập công, Sách Vương cả mừng liền ưng thuận. Cự Lạng phi ngựa chạy tới trước cổng khiêu khích. Chư tướng đứng trên thành giận lắm, Bộ Lĩnh hỏi: - Có ai dám xuống trảm tên phản đồ này cho ta? Một người đứng ra tâu: - Mạt tướng nguyện xuống ngựa, ra trận chém đầu tên này. Bộ Lĩnh nhìn xem người vừa tâu là ai, hóa ra là Lưu Cơ, liền gật đầu chấp thuận. Lưu Cơ sắm sửa áo mão, ngựa giáp, rồi vác thương xông ra đánh nhầu với Phạm Cự Lạng. Hai người ngang tài ngang sức, đánh được tám mươi hiệp thì ai nấy đều mỏi rã rời. Đánh thêm mấy hiệp nữa, Lưu Cơ liệu bề chống không được, bèn quay ngựa chạy về. Cự Lạng ngó thấy, quát: - Mi chạy đâu cho thoát! Nói dứt lời đã giục ngựa rượt theo. Lưu Cơ thúc ngựa chạy được một đoạn, thấy Cự Lạng đuổi theo không ngớt. Trong bụng hoảng quá, liền dùng phép hồi mã thương, quay phắt lại đâm ra một mâu. Cự Lạng cười ha hả, gạt đao đỡ được rồi chém lại một đao, quát rằng: - Chỉ là trò mèo mà muốn đâm ai? Lưu Cơ bị trúng một đao ở vai, sâu tới tận xương. May thay chạy tới tầm cung bắn nên Phạm Cự Lạng không đuổi theo nữa. Cự Lạng cưỡi ngựa chạy về trung quân, Sách Vương nghe tin mừng không sao tả xiết. Truyền lệnh ban thưởng rồi rút quân về. Đêm đó, Sách Vương mở tiệc thiết đãi ba quân. Cự Lạng cùng Hạp mừng thầm, nghĩ bụng: Đây quả là thời cơ tốt để cứu Đinh Liễn. Cùng thời điểm đó, Đinh Bộ Lĩnh y kế của Lý Thông; sai Lê Hoàn, Nguyễn Bặc chia làm hai cánh quân tả hữu, khi có tên hiệu thì đánh vào trại của Sách Vương. Mỗi tên lính phải mang theo một bó rơm, hễ thấy trại địch thì xông vào mà đốt. Lại truyền lệnh cung thủ đợi sẵn, tên tẩm dầu hỏa bắn lửa làm hiệu. Còn Lý Thông cùng Thạch Sanh được lệnh mang trọng giáp kỵ binh vòng qua mai phục phía sau trại. Nói tới Sách Vương buổi sáng công thành trảm tướng, trong lòng vui vẻ bèn bảo dọn tiệc rượu dưới trăng, cho đàn ca hát xướng tưng bừng, lòng người bâng khuâng như ở chín tầng mây. Tiệc đến nửa tuần, Cự Lạng cùng Hạp xin ra đi giải, nhưng lại âm thầm cứu Đinh Liễn. Sách Vương đang ngồi ngâm thơ cùng các quan, bỗng có tiếng quạ kêu oang oác. Vương hỏi là điềm gì. Các quan thưa: - Quạ kêu canh tư chính là điềm lành. Lời quan vừa dứt, bầu trời bỗng nhiên đỏ rực, trên trời lấm tấm điểm sáng tựa như hàng vạn ngôi sao bốc cháy. Sách Vương cả kinh, còn chưa kịp hỏi thì có người vào báo là hai bên tả hữu có địch tập kích, mang theo rơm khô đốt trại. Thiên Sách Vương sợ tái mặt, chợt nghe tiền quân có tiếng quát tháo. Vương chạy ra xem thì thấy Đinh Bộ Lĩnh dẫn binh mã ào ào đánh tới rất gấp. Sách Vương vội lệnh đem Đinh Liễn mang ra trấn áp. Nhưng quân báo về Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng đã dẫn Liễn đi rồi. Sách Vương bấy giờ mới biết mình trúng kế, vội cùng các quan và chư tướng lùi về phía sau trại mà chạy. Binh Ngô tuy có bảy vạn, nhưng bị đánh vào trời tối nên không tập kết được đội hình. Bị quân của Bộ Lĩnh tràn vào đánh tan tác. Vương mang theo ba vạn tàn quân chạy dài, phía sau truy quân đuổi tới rất gấp. Một tướng đứng ra tâu rằng: - Để tôi chặn bọn chúng, bệ hạ hãy mau hồi kinh. Nói rồi dẫn tám ngàn quân dưới trướng trở lại đánh nhầu. Lúc ấy trời đã gần sáng, Sách Vương cùng quan văn võ chạy tới núi Phi Vân. Quân binh chạy mấy giờ liền, vốn đã mỏi mệt rã rời. Đột nhiên trên sườn núi có tiếng ngựa hí người kêu, một toán quân trọng giáp kỵ ào ào xông tới. Thiên Sách Vương cả sợ, vứt cả áo mão nhảy lên ngựa chạy dài. Hơn hai vạn quân Ngô còn lại bị trọng giáp kỵ binh đạp nhầu lên, chết không biết đếm bao nhiêu cho hết. Thiên Sách Vương được chư tướng hộ tống chạy tới mé sườn núi bên tả thì lại bị một người cản lại. Sách Vương trỏ tay, quát: - Ai chém tên cản đường kia thưởng vạn lượng vàng ròng, ngàn thớt gấm lụa. Phong quan chức lớn. Ba tướng đi theo nghe vậy cả mừng, giục ngựa lên đánh. Nhưng chỉ mới đánh được mười hiệp, cả ba đều bị người kia chặt đầu. Người kia lạnh lùng nhìn Sách Vương, nạt rằng: - Tên hôn quân kia, ngươi hại mẫu thân ta. Thù này hôm nay tất báo! Sách Vương cả sợ, hỏi: - Ngươi là ai? Người kia đáp: - Thạch Sanh, người chém Chằn là ta! Lúc này, một vị thân tướng bên cạnh Sách Vương là Ngô Bình, phi ngựa lướt đến, quát: - Điêu dân to gan, có ta ở đây đừng mơ làm hại bệ hạ! Nói rồi mũi mâu hươi hươi nhắm ngay đầu Thạch Sanh đâm tới. Thạch Sanh vung đao đỡ khỏi, rồi đánh vùi đến tám mươi hiệp, Ngô Bình liệu bề dùng sức khó hơn, bèn đâm bậy một mâu, quày ngựa bỏ chạy, Thạch Sanh giục ngựa rượt theo chém một đao. Ngô Bình chết tuốt. Lúc này Lý Thông cũng đã mang binh đuổi tới. Thạch Sanh tóm được Thiên Sách Vương, Lý Thông giận chém luôn một đao. Đầu Sách Vương lăn long lóc dưới đất. Giáp Dần, năm thứ tư (954), tức Chu Thế Tông Sài Vinh, Hiển Đức năm thứ nhất, Thiên Sách Vương mất. Người sau có thơ rằng: Anh hùng ra quân buổi mới đầu. Một đao trảm tướng có gì đâu? Mưu kế thâm sâu, báo thù mẹ. Nhân nghĩa, ân tình đấng mày râu.
Hồi 6: Nâng chén rượu, luận chuyện thiên hạ. Đất Nam Giao, Thập Nhị sứ quân. "Hồi 6" Sau khi Thiên Sách Vương chết trận, tàn binh chạy dài, kéo về Ái Châu. Con Sách Vương là Ngô Xương Xí đóng giữ ở Triệu Sơn, Ái Châu hay được tin cha mất, khóc lăn xuống đất ngất lịm đi. Binh sĩ xung quanh phải chạy tới dìu đỡ, bấm vào huyệt Nhân Trung mới chịu tỉnh lại. Ngô Xương Xí vội truyền lệnh bắt mấy tên binh lính trốn chạy trở về, hỏi rõ ngọn ngành. Quan quân tra hỏi rồi thưa lên: - Thiên Sách Vương bị trúng khổ nhục kế của Đinh Bộ Lĩnh. Khiến Phạm Cự Lạng trà trộn vào quân doanh cứu Đinh Liễn đi. Đồng thời nửa đêm dụng hỏa công trại. Sách Vương chạy đến chân núi Phi Vân thì bị một tướng chặn lại chém chết. Xương Xí hỏi xem vị tướng kia hình dong thế nào. Người kia đáp: - Một vị tướng khôi ngô tuấn tú, tay cầm đao. Tên là Thạch Sanh. Ngô Xương Xí cả giận, đập bàn quát: - Ta phải cất quân báo thù rửa hận mới được! Lúc đấy, một vị quan tên Đỗ Thắng chạy tới tâu rằng: - Tướng quân xin bình tĩnh chớ đau lòng, chúng ta nên tính chuyện lớn trước mắt cái đã. Ngô Xương Xí mặt * rười rượi, hỏi: - Tính chuyện chi? Đỗ Thắng đáp: - Bây giờ Đinh Bộ Lĩnh mới công phá vòng vây, tuy thắng trận nhưng binh lực cũng hao hụt già nửa. Tạm thời không cần lo đến. Còn như chú của ngài Nam Tấn Vương còn đang ở Kinh đô. Nếu biết chuyện Thiên Sách Vương tử trận ắt điều quân đòi lại Vương quyền. Chúng ta nên lo đi là hơn. Xương Xí giận mắng: - Thù giết cha sao có thể không báo? Đỗ Thắng khuyên: - Không phải không báo mà chưa thể báo ngay được. Bộ Lĩnh có tướng giỏi, binh tinh, có kéo quân sang hỏi tội ngay cũng chưa làm gì nó được. Theo hạ quan nghĩ, ta nên chiếm được quyền hành trong triều, rồi hẵng viết thơ triệu tập anh hùng thiên hạ mà báo thù mới xong. Xương Xí gật đầu khen phải, ngay ngày hôm đó liền điều binh điểm tướng chạy về Kinh. Quân lính đều để tang, đầu buộc khăn trắng, treo cờ giận, thanh thế ngợp trời. Nói tới Đinh Bộ Lĩnh vừa công phá vòng vây vừa cứu được con, trong lòng mừng khôn xiết, ngày hôm sau liền mở tiệc khao ba quân. Lại cho gọi hai anh em Phạm Hạp cùng Phạm Cự Lạng vào dưới trướng, kể lại mọi sự tình cho chư tướng cùng nghe. Kể xong, Đinh Bộ Lĩnh trỏ Lý Thông rồi bảo: - Liên hoàn kế là do Lý tiên sinh nghĩ ra đấy. Chư tướng nghe rồi đều tỏ vẻ khâm phục lắm. Phạm Cự Lạng đến trước bàn Lưu Cơ, cúi người nói: - Tôi mấy ngày trước vì chứng minh cho Sách Vương khỏi sanh lòng nghi ngờ, nên bữa ra trận có chém ông một đao. Nay cho ông chém lại một đao coi như huề. Thế có được chăng? Lưu Cơ đập bàn quát: - Ông khinh ta là tài không bằng ông hay sao? Có giỏi đợi năm hôm nữa, cánh tay ta khỏi rồi lại đánh vài trăm hiệp? Phạm Cự Lạng cười nói: - Thế đợi ông khỏi tay rồi lúc đấy mình hẵng so tài. Hai người nói rồi cùng nhìn nhau bật cười. Chư tướng xung quanh cũng cười ầm cả lên, tiệc rượu rất là vui vẻ. Rượu qua được nửa tuần, Đinh Bộ Lĩnh chợt hỏi Lý Thông rằng: - Tiên sinh nghĩ sao về thiên hạ đất Nam? Lý Thông cười đáp: - Cái đó thì tướng quân am hiểu hơn tôi, còn hỏi làm gì? Đinh Bộ Lĩnh không tin, gặng hỏi tới ba lần, đều bị Lý Thông khước từ không đáp. Chư tướng xung quanh đều tỏ ra bất mãn, khốn nỗi có Thạch Sanh đứng hầu một bên nên cũng không ai dám đứng ra quát mắng. Thạch Sanh vẻ ngoài thoạt nhìn khôi ngô tuấn tú, nhưng vừa ra trận liền một đao trảm bốn tướng của Sách Vương. Quả là bậc dũng tướng trên đời. Đinh Bộ Lĩnh lâm vào thế khó không biết làm sao, bèn lệnh cho chư tướng lui ra hết khỏi trướng. Rồi đến trước bàn của Lý Thông cúi người bái lễ. Lý Thông giật mình, vội lánh sang một bên, bảo rằng: - Tướng quân làm lễ như vậy, tôi sao dám nhận. Đinh Bộ Lĩnh chân thành nói: - Năm xưa Tề Hoàn Công muốn gặp hiền sĩ nơi Ðông Quách mà cần phải đi năm lần mới được thấy mặt. Lưu Huyền Đức ba lần lên lều tranh mới mời được Gia Cát Khổng Minh xuống núi. Tôi đây chỉ làm một cái lễ nhỏ thì có đáng gì? Lý Thông không biết nói gì, đứng trơ ra đó, đợi Đinh Bộ Lĩnh bái lễ xong rồi mới thở dài, nói: - Tướng quân đây là làm khó tôi ư? Đinh Bộ Lĩnh đáp: - Đất Nam Giao từ khi Tiền Ngô Vương băng hà, rồi Tam Kha truất ngôi cho đến Thiên Sách Vương lộng quyền. Khiến dân chúng lâm vào cảnh lầm than. Tôi đây lòng nuôi chí lớn, nhưng mưu nhỏ, thế không thành, cần người như tiên sinh tới bầu bạn cùng nhau làm việc đại sự. Chẳng hay, tiên sinh.. Bộ Lĩnh chưa nói xong, Lý Thông đã thở dài, đáp: - Phàm là thế cuộc trong thiên hạ, ắt không tránh khỏi bốn chữ: Chia hợp, hợp chia. Tỷ như đất Trung Quốc thời nhà Châu mất, dẫn tới thất quốc phân tranh, sau đó Tần Thủy Hoàng triệt sáu nước, lập ra Tần Quốc. Rồi như khi nhà Hán suy; Tôn, Lưu, Tào ba nhà tranh nhau lập quốc tạo thành thế chân vạc. Nhưng cuối cùng bị họ nhà Tư Mã thâu về một mối.. Đất Nam Giao từ khi Ngô Quyền xưng Vương thì trị được loạn. Song từ khi Vua mất, cái thế loạn này còn ai trị được nữa? Đinh Bộ Lĩnh gật đầu, nói: - Vậy mới phải nhờ những người như chúng ta đứng lên dẹp loạn, thống nhất đất Nam lần nữa. Lý Thông hỏi: - Tướng quân nghĩ dễ lắm, nhưng ngài có biết đối thủ của mình là những ai hay chưa? Bộ Lĩnh lắc đầu. Lý Thông trầm tư một lúc rồi nói: - Khi Dương Tam Kha truất ngôi Vua, lòng người không phục, hùng chủ các ấp nổi lên. Trong đấy Thông tôi thấy được mấy người. Tỷ dụ như: 1. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng làm Đỗ Cảnh Công trấn giữ Đỗ Động Giang. 2. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm. 3. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu. 4. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc. 5. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái. 6. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt. 7. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du. 8. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê. 9. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại. 10. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố. 11. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang." ! [] (Link ) Lý Thông đọc ra một loạt tên, Đinh Bộ Lĩnh ghi nhớ không chút sai sót, lát sau mới hỏi: - Thế tiên sinh không tính Nam Tấn Vương vào hay sao? Lý Thông lắc đầu, nói: - Loạn thế chỉ dành cho kẻ hùng tài, người nhu nhược tính vào làm chi? Bất quá, tôi mấy ngày trước xem tinh tượng, thấy mệnh sao của Nam Tấn Vương lu mờ. Chắc là sống không được bao lâu nữa. Tấn Vương không có con, dòng dõi nhà Ngô cũng chỉ còn lại Ngô Xương Xí ở Triệu Sơn. Người này cũng có thể tính một chân vào. Dừng một lát, Lý Thông đến trước án treo địa đồ, trỏ tay chỉ mà nói rằng: - Theo như tôi dự tính, thế cục đất Nam sau này, sẽ có cả thảy mười hai lộ sứ quân. Tướng quân trấn giữ đất Hoa Lư, là nơi hội tụ đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nên tạm thời cứ để mặc cho Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Phạm Phòng Át, Trầm Lãm cùng các lộ sứ quân khác chiếm cứ phía Bắc. Việc của tướng quân nên làm hiện tại là chiếm đất Ái Châu, bình định vùng phía Nam. Cứ coi như đất Giao Châu bấy giờ là một miếng bánh lớn, mười một kẻ cùng ăn tất sinh sự tranh giành. Tướng quân một mặt gửi thơ xin hòa hoãn, một mặt bán lương thảo, làm sao khiến mấy lộ sứ quân kia tranh giành càng gắt càng tốt. Còn tướng quân ở Ái Châu an nhàn luyện binh, luyện khí giới, rồi lại giành miếng bánh này sau cũng chưa muộn. Tôi đã vì tướng quân mà vạch ra đường như thế, âu cũng là gắng hết sức rồi. Tướng quân hãy lo mà làm đi. Đinh Bộ Lĩnh nghe nói, cúi đầu lạy tạ. Chỉ qua cuộc đàm luận này đủ thấy Lý Thông tài trí hơn người. Có tầm nhìn xa trông rộng, quả là một bậc khoáng thế kỳ tài. (*) Thế mới rõ là: Đất Nam hiện thế vận gieo neo, Đang lúc khó khăn thật rõ bèo. Thiên hạ phân chia rồi sẽ thấy, Kỳ nhân cười trỏ địa đồ treo. Đinh Bộ Lĩnh vái mời Lý Thông và nói: - Tôi đây tuy chí lớn nhưng khốn nỗi danh hèn đức kém, cũng xin tiên sinh chớ bỏ rơi kẻ ngu hèn này mà ra tay giúp đỡ, âu cũng là tạo phúc cho lê dân bá tánh. Tôi xin chắp tay cúi đầu nghe lời dạy bảo. Lý Thông đáp: - Hai anh em chúng tôi chém chằn tinh, nhưng lại bị Sách Vương ghi hận mà đuổi giết. Mẫu thân cũng vì đó mà chịu tai kiếp. Nay thù đã báo, cũng nên trở về quê nhà là hơn. Tướng quân xin hiểu cho. Nói rồi cùng Thạch Sanh cáo từ, đi ra khỏi trướng. Đinh Bộ Lĩnh đuổi theo, khóc mà nói rằng: - Tiên sinh nỡ lòng nào nhìn lê dân bá tánh khắp thiên hạ chịu khổ? Thạch Sanh thấy Đinh Bộ Lĩnh tỏ dạ chân thành, cũng không nhịn được hết lời khuyên lan. Lý Thông thở dài, đáp: - Thôi vậy, nếu Tướng Quân đã không chê bai thì hai anh em tôi xin đem hết tài khuyển mã ra phò tá. Đinh Bộ Lĩnh mừng lắm, vội truyền lệnh ba quân phong Lý Thông làm Quân Sư, Thạch Sanh làm Đốc Thị Quân Mã. Lại dạy cho người dâng lễ vật vàng, lụa.. Lý Thông từ chối không nhận.
Hồi 7: Trường diễn võ, Thạch Sanh so tài. Khiển binh tướng, Lý Thông ra trận. "Hồi 7" Nhắc tới chuyện Đinh Bộ Lĩnh phong thưởng cho Lý Thông và Thạch Sanh thật hậu, còn phong làm chức quan to. Chư tướng dưới trướng của Lĩnh xầm xì với nhau về việc này. Ai nấy đều mang lòng không phục. Buổi sáng họp mặt hôm sau, Nguyễn Bặc cùng Lê Hoàn đều bước lên mà tâu rằng: - Lý Thông cùng Thạch Sanh tuy là người tài, nhưng mới chỉ phá một trận nho nhỏ liền đã phong làm Quân sư cùng Đốc Thị Quân Mã e rằng quá gấp gáp. Nay các bọn thuộc hạ muốn tướng quân xa giá đến võ trường, cho thuộc hạ thử tài đối trận với hai người này một phen, nếu ai hơn thì được ngôi cao kém thì mất phẩm trật. Như vậy ba quân mới khỏi có lòng bất phục. Đinh Bộ Lĩnh khen hay nhưng trong bụng vẫn còn lưỡng lự, bèn quay qua hỏi ý Lý Thông. Lý Thông cười đáp: - Tôi đây tài mọn có đáng chi, chỉ bêu xấu mà thôi. Nếu nhị vị tướng quân muốn so tài tôi phụng bồi tới cùng là được. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội hạ lệnh cho toàn bộ chư tướng tụ họp lại ở võ trường. Lại sai binh sĩ đắp giả sơn, trồng cây, đào mương.. làm thành một khu trận địa. Thạch Sanh đi theo sau, ghé tai thì thầm với Lý Thông: - Anh tài trí hơn người, so tài với bọn này làm chi? Lý Thông đáp: - Hiền đệ không biết rồi, muốn được người ta nể phục phải cho họ thấy cái tài của mình mới được. Hơn nữa, tướng mạo của gã Lê Hoàn kia.. Nói đến đây thì ngừng bặt. Khi chư tướng họp đủ rồi, Đinh Bộ Lĩnh mới truyền đạt lại trận thử tài này. Nguyễn Bặc vội bước lên thưa: - Bẩm tướng quân, thuộc hạ nghe nói rằng Thạch Sanh tối hôm trước một đao trảm bốn tướng địch. Muốn thử so tài võ nghệ trước, còn đánh trận giả thì hẵng đợi sau. Đinh Bộ Lĩnh nói: - Hai hổ đánh nhau ắt có một con bị thương. Nguyễn Bặc lắc đầu quả quyết, đáp: - Là hổ hay cừu còn chưa biết được, xin tướng quân cho phép. Bộ Lĩnh thấy không khuyên lơn được nữa, lại quay qua thử hỏi ý Thạch Sanh. Thấy Thạch Sanh ưng thuận nên cũng không nỡ từ chối, bèn gật đầu cho phép. Nguyễn Bặc cùng Thạch Sanh được lệnh, vào trướng nai nịt hẳn hòi, cầm binh khí, nhảy lên ngựa xông vào giữa võ đài. Xung quanh binh sĩ reo hò dậy sóng. Hai tướng không nói không rằng, giục ngựa chạy tới đánh nhau rất lẹ, tiếng binh khí vang lên xoang xoảng. Đánh được chừng tám mươi hiệp thì Nguyễn Bặc có vẻ đuối sức hơn. Đại đao của Thạch Sanh vốn được rèn từ tinh thiết, lại dán bùa chú của tiên nhân. Trước đó chưa có linh tánh, nhưng sau khi trảm Chằn Tinh liền nhiễm vào yêu khí. Nguyễn Bặc đánh được một hồi thì đầu váng mắt hoa, cầm dây cương không vững nên té rớt khỏi ngựa. Thạch Sanh phi tới kề đao vào cổ gã, quát: - Ngươi đã chịu phục ta chưa nào? Nguyễn Bặc ngã ngựa gãy mất một rẽ xương sườn, nhưng vẫn cố đứng dậy, mặt hằm hằm quát lại: - Ngươi dựa vào binh khí lợi hại thì có tài cán chi? Thạch Sanh cười ha hả, vứt thanh đao của mình xuống, nói: - Ngươi mà cầm được thanh đao này lên, coi như ngươi thắng trận này đó. Nguyễn Bặc không tin lời, tưởng Thạch Sanh lừa phỉnh mình, liền thử cúi xuống cầm đao nhưng cho dù dùng sức đến mấy cũng không tài nào nhấc lên được. Nguyễn Bặc mặt đỏ bừng lên vì thẹn, lát sau mới lầm bầm: - Không nhấc lên được. Thạch Sanh cười lớn, rồi nhảy tót xuống ngựa cầm đao lên nói rằng: - Thanh đao này nặng một trăm năm mươi cân. (~80kg) Nguyễn Bặc nghe vậy mặt tái mét, lúc đó mới chịu phục Thạch Sanh hơn mình. Lê Hoàn bước lên tâu: - Thuộc hạ muốn thử sức điều binh khiển tướng của Lý tiên sinh một phen. Lý Thông cười nói: - So tài phải có cái chi đặt cược mới thú vị chớ? Lê Hoàn hỏi: - Tiên sinh muốn cược cái chi? Lý Thông đáp: - Nếu tôi thua thì mặc cho Lê tướng quân toàn quyền xử trí. Còn nếu như thắng, tôi chỉ tướng quân hứa với tôi làm một chuyện là đủ. Lê Hoàn nghi hoặc, hỏi: - Tiên sinh muốn tôi làm chuyện gì? Lý Thông đáp: - Thiên cơ bất khả lộ. Lê Hoàn cả giận, nói: - Tiên sinh chớ đòi hỏi quá, nếu tiên sinh bắt tôi làm điều thương thiên hại lý. Hoặc tỷ như bắt tôi tự sát thì phải làm sao? Lý Thông lắc đầu, đáp: - Tướng quân yên tâm, chuyện tôi muốn tướng quân làm không những tốt cho tướng quân mà còn tốt cho cả lê dân trăm họ. Lê Hoàn nghĩ chút rồi cũng gật đầu ưng thuận. Hai người thỏa thuận xong rồi mới tâu lên. Đinh Bộ Lĩnh truyền cho hai người cờ lệnh, phát mỗi người một ngàn binh sĩ. Lý Thông cùng Lê Hoàn nhận cờ, lĩnh một ngàn người về bên phe mình. Lê Hoàn về dinh phất cờ ra lệnh. Chẳng bao lâu quân đội đã đứng ra đúng hàng ngũ, thành một trận lớn. Trận này chia binh làm ba tốp cung, bộ, kỵ, lấy mười người làm một đội, mười đội làm một kỳ, hai kỳ làm một trận. Lại cho bộ binh xòe ra hai bên cánh, cung đứng sau bộ, kỵ đứng vào giữa. Chính là Điểu Sí Phong Tán trận. Bên Lý Thông cũng chia quân ra làm ba, bộ binh dàn thành vòng tròn, cung thủ nấp phía trong, chỉ riêng kỵ binh là không thấy đâu. Khi hai bên chuẩn bị đã xong, Đinh Bộ Lĩnh ra hiệu bắt đầu. Quân của Lê Hoàn ùn ùn kéo đến, bộ binh hai cánh tràn ra như đại bàng giang cánh. Lý Thông thấy vậy liền phất cờ hiệu, tiễn thủ phóng tên. Quân kỵ của Lê Hoàn ngã hơn nửa. Nhưng tiễn thủ của Lê Hoàn bắn trả lại không ăn thua gì. Lê Hoàn tâm thần hoảng hốt, cờ hiệu trên tay lại phất lên, bộ binh ùa vào đánh xáp lá cà, kỵ binh đánh thẳng vào trung quân. Nhưng khốn nỗi bộ binh của Lý Thông đều là loại trọng giáp chống kỵ, quân kỵ của Lê Hoàn không húc vào được, phía sau lại bị tiễn thủ quân mình chẹn ngang mắc kẹt tiến thoái lưỡng nan. Đánh một hồi, chợt nghe phía sau có tiếng reo hò hô hoán. Một tốp kỵ binh của Lý Thông không biết từ đâu xông ra, đánh úp vào hậu quân. Hậu quân Lê Hoàn toàn cung tiễn thủ, chống không được, bị kỵ binh loại gần hết. Quân của Lê Hoàn loạn thành một nùi, trận kỳ tan rã, binh bại như núi đổ. Lê Hoàn cũng bị bắt sống. Khi hai người vào trướng ra mắt Đinh Bộ Lĩnh thuật lại mọi chuyện rồi. Bộ Lĩnh mới khen rồi đều ban thưởng cho cả hai. Lý Thông nói rằng: - Nay tôi đã thắng Lê tướng quân, lời hứa lúc nãy tướng quân ưng thuận chứ? Lê Hoàn trong bụng vẫn chưa phục, nói: - Trận này tiên sinh đánh thủ, tôi đánh công nên bị mất tiên cơ. Chứ nếu để tôi đánh thủ thì tiên sinh chưa chắc đã công được. Lý Thông cười ha hả, nói: - Xem ra tướng quân vẫn chưa phục. Vậy chúng ta so tài thêm lần nữa. Lần này tôi đánh công trận, tướng quân thua nhớ giữ lời đấy. Lê Hoàn quả quyết, nói: - Tôi nguyện lấy mạng mình ra thề. Hai người thương lượng rồi lại xin Bộ Lĩnh so tài thêm lần nữa. Bộ Lĩnh chấp thuận, phát cờ hiệu cho cả hai. Lần này Lê Hoàn đánh thủ trận, học theo Lý Thông bày trận hình tròn, cho cung thủ nằm phía trong. Kỵ binh thì giấu đi làm kỳ binh. (Kỳ binh: Quân đội đặc biệt chuyên đánh bất ngờ, thường thì đánh vào hậu quân hoặc trung quân đối phương) Lý Thông cưỡi ngựa về trận địa, dạy cho binh lính bày trận Ngũ Hổ Cáo Sơn, trận này chia binh làm năm tốp, mỗi tốp đều có cả cung lẫn bộ. Kỵ binh thì chạy theo sau sau hộ tống. Hiệu lệnh vừa ra, bốn tốp binh mã của Lý Thông theo bốn hướng ùa tới đánh nhầu. Lê Hoàn đứng ở trung quân, không phân biệt được địch ở đâu làm chủ lực. Khi hai bên xáp gần, Lê Hoàn bí quá bèn phất cờ hiệu cho kỵ binh từ trong rừng ùa ra đánh úp. Nào ngờ Lý Thông biết trước, đã cho một tốp quân mai phục gần đó. Quân kỵ của Lê Hoàn bị chặn, không tài nào đánh thọc vào hậu quân được. Mặt khác, cung tiễn thủ của phe Lý Thông chạy sát bộ binh, nên tránh được phần nào mũi tên của đối phương. Khi hai bên lại xáp gần, cung tiễn của Lý Thông mới giương cung lên bắn. Lê Hoàn bày trận tròn cho tiễn thủ đứng trong vòng vây của bộ binh, nên không chạy né tên được, bị tiễn thủ địch bắn loại hết sạch. Lý Thông lợi thế quân đông hơn, chẳng mấy chốc phá được trận. Lê Hoàn lại bị bắt sống một lần nữa. Lê Hoàn bị bắt về dinh, Đinh Bộ Lĩnh cho đòi lại, nói: - Hai trận Lý tiên sinh đều thắng cả hai, Lê tướng quân đã phục tòng rồi chứ? Lê Hoàn mặt mày sượng trân vội bước tới trước mặt Lý Thông xá dài một cái, chân thành nói: - Lý tiên sinh quả là người kỳ tài. Mạt tướng tâm phục khẩu phục. Lý Thông hỏi: - Thế lời hứa lúc nãy tướng quân chấp thuận rồi chứ? Lê Hoàn đáp: - Tôi đã mang tính mạng ra thế, chẳng lẽ nào không đáp ứng. Chẳng hay tiên sinh muốn mạt tướng làm chuyện chi? Lý Thông lắc đầu cười xòa, đáp: - Cái đó nói bây giờ hẵng còn sớm lắm. Đợi thêm vài năm nữa lúc đó tôi sẽ bày tỏ với tướng quân sau. Xin tướng quân cứ yên lòng, chuyện tôi muốn tướng quân làm không trái với đạo lý. Lê Hoàn nghe vậy cũng thở dài một hơi.
Hồi 8: Lý Thông bày kế, trấn bốn lộ sứ quân. Lê Hoàn đi sứ, dùng độc diệt thủy yêu. "Hồi 8" Tháng sáu, năm Ất Sửu, tức Đại Hữu năm tứ mười lăm, Nam Tấn Vương đem binh đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình. Vừa vào đến cõi, đỗ thuyền cho quân lên bộ đánh, bị phục binh tay nỏ bắn trúng chết. Tin này truyền khắp cả nước, hùng chủ các ấp hay biết đều rục rịch đứng ngồi không yên. Dòng dõi nhà Ngô còn lại một mình Ngô Xương Xí, nhưng lại không đăng cơ xưng vương. Tự nhận làm Ngô Sứ Quân đóng giữ ở Bình Kiều, Ái Châu. Phần về Đinh Bộ Lĩnh, sau khi nghe tin nói với chư tướng rằng: - Nam Tấn Vương đem binh dẹp loạn thảo khấu, lại chết bất đắc kỳ tử. E rằng trong này có ẩn mưu gì chăng? Nguyễn Bặc thưa: - Đao kiếm không có mắt, Nam Tấn Vương chết bởi ám tiễn có gì đâu mà kỳ? Lê Hoàn không cho là đúng, toan đứng lên phản bác, nhưng lại chợt nhớ bên cạnh mình có Lý Thông, bèn quay qua hỏi: - Không biết Lý tiên sinh với chuyện này có cao kiến gì chăng? Mọi người đều nhìn về phía Lý Thông. Lý Thông cười đáp: - Tôi tối qua ngồi xem tinh tượng, thấy phía chân trời sao Thiên Bao phai mờ ảm đạm, đã đoán chắc rằng nhà Ngô không giữ được bao lâu nữa. Còn như việc Nam Tấn Vương mất, thì người có lợi nhất là ai thì kẻ đó chính là kẻ chủ mưu. Đinh Bộ Lĩnh giật mình, nói: - Chẳng lẽ ý tiên sinh là Ngô Xương Xí? Lý Thông không đáp mà nói rằng: - Nam Tấn Vương chết chẳng ngoài dự đoán của tôi. Việc tướng quân cần làm không phải tìm kẻ chủ mưu. Mà chính là nghĩ cách bình định vùng phía Nam mới phải đạo. Tấn Vương mất rồi, Ngô Xương Xí lại không dám tự phong vương. Khí số nhà Ngô đã tận, ta nên nhân cơ hội đó mà thâu về thì hơn. Đinh Bộ Lĩnh gật đầu, nói: - Việc tiên sinh dạy bảo Lĩnh tôi vẫn ghi nhớ trong lòng. Tuy nhiên phía Bắc còn đang loạn thành một nùi. Chúng ta đem quân xuống Nam, lỡ như bọn hắn thọc một gậy sau lưng thế chẳng phải hung hiểm lắm ư? Lý Thông đáp: - Thế mới cần phải giao hảo với bọn họ. Đinh Bộ Lĩnh đứng dậy, xá Lý Thông một cái, nói: - Xin tiên sinh dạy bảo. Chư tướng xung quanh cũng lật đật đứng dậy thi lễ. Lý Thông hốt hoảng, không dám ngồi trên ghế, cũng đứng dậy đáp lễ, nói: - Tướng quân làm vậy tôi đây tổn thọ mất. Dứt lời, bèn nói với Lĩnh rằng: - Mười lộ sứ quân đất Giao Châu thì chỉ có bốn lộ là nằm sát địa phận Hoa Lư. Gồm Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Phạm Phòng Ất, Trần Lãm. Trong đó ba người thì tôi đã nghĩ kế ra rồi. Chỉ còn mỗi Đỗ Cảnh Thạc hơi khó khăn một tý mà thôi. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, hỏi kế ấy ra làm sao. Lý Thông đáp: - Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt. Cùng với Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp vốn là ba anh em gốc Bắc Triều (Trung Quốc). Cha Nguyễn Nê, trước vâng mệnh Bắc Triều sang nước ta đòi triều cống. Sau cùng đóng quân ở Thành Quả. Người này giao hảo rất tốt với Tiết Độ Sứ, Khúc Thừa Mỹ. Còn tướng quân trước ở dưới trướng Tiền Ngô Vương. Tiền Ngô Vương lại là con rể của Dương Đình Nghệ. Dương Đình Nghệ là bộ tướng Khúc Thừa Mỹ. Cái dây chằng mối nhợ này tướng quân nên cố mà nắm lấy, ắt có thể trấn an được lộ sứ quân này. Đinh Bộ Lĩnh gật đầu khen là hay. Lý Thông lại nói: - Phạm Phòng Ất ở Đằng Châu, người gốc Nam Sách, Hải Dương. Cùng Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng đều con cháu công thần dưới triều Ngô Vương. Tình giao hảo không cạn. Tướng quân muốn hòa với người này chỉ cần cử Hạp với Cự Lạng đi là đủ. Còn Trần Lãm đóng giữ ở Bố Hải Khẩu, là vùng đất có vị trí quan trọng về kinh tế và quân sự, giao thông thuỷ bộ thuận lợi, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa. Tướng quân nên tự mình thân chinh đến đó kết giao hảo với người này chỉ có lợi chứ không có hại. Trần Lãm tự xưng làm Minh Công cũng không phải không có lý. Đinh Bộ Lĩnh y kế, sai người sắm sửa đủ cả. Lại hỏi với Lý Thông rằng: - Thế còn Đỗ Cảnh Thạc, tiên sinh tính sao? Lý Thông đáp: - Đỗ Cảnh Thạc từng là bộ hạ dưới trướng Dương Tam Kha sau quy hàng Nam Tấn Vương. Sau cùng Sách Vương lấn quyền làm uy, Đỗ Cảnh Thạc mới lui về trấn giữ Đỗ Động Giang, đào hào đắp lũy. Chúng ta mấy hôm trước đánh Thiên Sách Vương một trận lớn, chắc có thể cử sứ sang giao hảo được. Mặt khác, tôi nghe đồn ở vùng Đỗ Động Giang có thủy quái hoành hành. Tôi nguyện bày kế giết con thủy quái này, tạo cho tướng quân một cái tiền đề. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, hỏi nên cử ai đi sứ cho được. Lý Thông liền tiến cử Lê Hoàn. Mấy ngày sau, Đinh Bộ Lĩnh y lời Lý Thông, sai Phạm Hạp với Phạm Cự Lạng mang theo lễ vật quý báu tiến về Đằng Châu. Nguyễn Bặc thì mang lễ tới Tây Phù Liệt giao hảo với Nguyễn Siêu. Còn Lĩnh mang theo vài thân tín, tự mình tới Bố Hải Khẩu gặp Trần Lãm. Lê Hoàn thì đi sứ Đỗ Động Giang. Nói tới Lê Hoàn, từ sau trận so tài thua về tay Lý Thông, trong bụng phục lắm. Nghe Lý Thông tiến cử mình đi sứ Đỗ Động Giang, đêm hôm đó liền tới phòng Lý Thông hỏi: - Tiên sinh cử tôi đi sứ, nhưng tôi không có tài phép gì diệt thủy yêu. Đến lúc đó phải làm sao giờ? Lý Thông trao cho Lê Hoàn một cái lọ, bảo phải làm thế này, thế này.. Lê Hoàn nghe xong thì mừng rỡ, nói lời cảm tạ rồi lui về. Tháng tám năm đó, Lê Hoàn mang theo một ngàn thớt ngựa quý, vải lụa gấm vóc, cùng vàng bạc châu báu, tiến về Đỗ Động Giang. Vừa đến biên giới liền phái người dâng biểu lên, Đỗ Cảnh Thạc đọc biểu rồi cho mời vào. Lê Hoàn vào dưới trướng, khi hai bên lễ tới sau đủ cả. Đỗ Cảnh Thạc mới nói: - Xưa nay vẫn ngưỡng mộ tài của Lê tướng quân, được người đời xếp vào Giao Châu Thất Hùng mà chưa được bái kiến bao giờ. Nay may mắn được gặp, chẳng hay tướng quân có lời chi dạy bảo? Lê Hoàn nói: - Đỗ tướng công khách khí rồi, tôi đây tài mọn có tính là chi. Chẳng qua hôm nay tới đây là vâng mệnh chủ công, muốn giao hảo một thoáng với Đỗ tướng công mà thôi. Đỗ Cảnh Thạc trong mắt có ý đề phòng, nhưng bên ngoài vẫn cười mà bảo rằng: - Đinh Bộ Lĩnh trảm được Thiên Sách Vương chính là giúp ta hả cơn giận. Lẽ nào từ chối thiện ý này. Lê Hoàn cảm tạ, lại nói: - Nam Tấn Vương mấy bửa trước bị ám tiễn bắn chết, chủ tôi nghi ngờ là Ngô Xương Xí làm nên chuyện này. Nên ý định cất quân đánh xuống phía Nam, bắt Ngô Xương Xí hỏi tội. Ngặt một nỗi không an tâm chuyện Giao Châu, các thế lực đang nổi hên hùng cứ các nơi. Nên sai tôi sang đây kết mỗi hữu hảo với tướng công. Ắt cũng là phòng ngừa đó vậy. Quả nhiên, Đỗ Cảnh Thạc nghe xong liền ngần ngừ không quyết. Lê Hoàn thấy vậy, liền nói: - Lễ vật của chủ tôi chỉ mấy món đồ này còn chưa đủ. Nhân nghe được gần đây vùng này có thủy yêu hoành hành, tôi vâng mệnh tới bày kế giết con yêu quái này. Âu cũng là một chút thành ý. Không biết ý của tướng công thế nào? Cảnh Thạc nghe xong, cả mừng, nói: - Nếu Lê tướng quân có thể trừ con yêu Ngạc Ngư này thì ta ắt đồng ý. (Ngạc Ngư: Cá Sấu) Lê Hoàn vâng mệnh, xin một ít binh lính giúp việc. Đỗ Cảnh Thạc chấp thuận, truyền cho năm trăm tráng sĩ, rồi dẫn Hoàn tới hồ nước, nơi có yêu quái. Lê Hoàn lệnh cho binh sĩ bắt ba con heo lớn, rồi múc một hũ nước đổ cái bình lúc trước Lý Thông đưa cho. Xong xuôi mới sai người lấy chổi lông thấm nước quét vào thân heo. Cái bình kia chứa nọc độc của Chằn Tinh. Lý Thông cùng Thạch Sanh khi trảm được rồi thì thu thập một ít. Không ngờ có ngày lại đem ra sở dụng. Sau khi chuẩn bị đủ cả rồi, Lê Hoàn sai lính bện dây thừng thật chắc, cột vào chân lợn, tới đêm hôm đó bỏ mấy con lợn trên bờ. Canh ba đêm ấy, một con Ngạc Ngư thật lớn từ trong hồ trồi lên bờ. Nó thấy trên bờ có ba con heo liền há miệng tớp luôn. Lê Hoàn thấy vậy liền huýt sáo ra hiệu. Đám binh sĩ nghe thấy liền nổi trống đốt đèn, hét hò inh ỏi. Ngạc Ngư cả giận, vung đuôi quạt ngang khiến cây cối ngã rào rào. Lê Hoàn không cho binh sĩ lao lên mà chỉ đứng hét hò phô trương thanh thế. Ngạc Ngư đứng trên bờ lâu quá, nọc độc cũng dần ngấm vào thân. Qua được nửa tuần hương liền ngã lăn ra chết. Lê Hoàn ra hiệu cho binh lính bắn tên, thấy Ngạc Ngư không có phản ứng, lúc đấy mới cho người kéo dây về. Hôm sau, Đỗ Cảnh Thạc nghe tin bèn chạy tới xem. Quả nhiên nằm trên bờ là một con Ngạc Ngư thật to. Cảnh Thạc bấy giờ mới phục, nói với Lê Hoàn: - Tướng quân giúp tôi trừ con yêu này, chính là ân nhân của bô lão quanh vùng. Ngay hôm đó, Đỗ Cảnh Thạc mời Lê Hoàn về dinh, truyền người mang giấy bút ký kết lệnh bất khả xâm phạm lãnh thổ của nhau. Lê Hoàn cầm giấy, tạ ơn rồi lui về. Thế là, bốn lộ sứ quân ở phía bắc tạm thời không cần phải lo đến nữa.
Hồi 9: Sí Điểu hạ sơn, báo thù bạn. Lý Thông mang binh, đánh Ái Châu. "Hồi 9" Nhắc tới Ngô Xương Xí sau khi rút quân về Kiều Bình, được quan tham mưu Đỗ Thắng hiến kế. Cho một lộ binh sĩ toàn người thân tín, giả làm cường đạo, đánh úp vào hai thôn Nguyễn và Đường. Đợi Nam Tấn Vương đem quân dẹp loạn, thì cho phục binh tay nỏ nhằm bắn chết. Quả nhiên không bao lâu sau, tin Nam Tấn Vương chết trận truyền về, Ngô Xương Xí cười toét cả miệng, nói với các quan dưới trướng rằng: - Nay Tấn Vương đã chết rồi, ngai vàng chắc chắn thuộc về ta. Đỗ Thắng nói: - Quả đúng như vậy. Chủ thượng bây giờ chỉ cần chiêu binh mãi mã, ngày diệt được Đinh Bộ Lĩnh báo thù không còn xa. Chư tướng xung quanh cũng gật đầu đồng ý. Còn đang chuyện văn, chợt cây đại kỳ bên ngoài cổng đổ ập xuống. Ngô Xương Xí cả kinh, vội truyền hỏi binh lính. Binh lính thưa rằng: - Gió lớn nên làm đổ cờ. Lúc đó có một vị quan đứng bên buột miệng nói: - Cờ gãy là điềm chẳng lành. Ngô Xương Xí cả giận, quát: - Gió to cờ gãy là chuyện bình thường, sao ngươi dám buông lời yêu ngôn, nhiễu tâm hoặc chúng! Nói dứt lời liền thét người lột áo mão của vị quan kia rồi lôi ra chém. Đao phủ vâng mệnh xông vào lôi vị quan kia ra xử tử, chư tướng dưới trướng im thin thít không dám nói một lời. Đúng lúc đấy có quân vào cấp báo, thấy một con chim ưng lớn đang đậu ngoài cổng thành. Ngô Xương Xí kinh nghi, vội dẫn các quan chạy ra xem, quả nhiên ở trên cổng thành Kiều Bình có một con chim ưng lớn đang đậu trên nóc. Con Ưng Điểu này toàn thân lóng lánh kim sắc, nó vừa thấy Ngô Xương Xí liền vỗ cánh xà xuống. Ngô Xương Xí biến sắc, đang không biết làm thế nào thì con Ưng Điểu bỗng nhiên nói tiếng người: - Xin đại nhân chớ hoảng sợ, tôi là một con chim ưng ở núi Thạch Động, Hà Tiên. Vì tu thành phép thần thông nên đồng đạo gọi bằng Kim Sí Điểu. Nhân đi qua đây thấy đại nhân khí số hưng vượng, muốn ở dưới trướng tá túc. Như thế có được hay chăng? Kim Sí Điểu hạ xuống đất rồi hóa thành một thanh niên khoảng độ hai mươi tuổi, môi hồng răng trắng da dẻ sáng ngời, đầu đội mão kim loan, lưng đeo bửu kiếm. Ngô Xương Xí thấy Kim Sí Điểu hóa thành người, có vài phần đạo vận, mừng như mở cờ trong bụng, tiến lên nắm tay thân thiết, nói: - Được đại tiên trợ giúp bổn quân, sợ gì không thâu phục được thiên hạ. Nói rồi truyền người mở rộng cửa mời Kim Sí Điểu vào điện, bày trà nước thiết đãi. Lại sai người dâng lễ vật thật trọng hậu. Kim Sí Điểu nói: - Tôi thấy tướng quân mặt mày ủ rũ, không biết là có chuyện gì phiền muộn chăng? Ngô Xương Xí thở dài một hơi, cho tả hữu lui xuống hết rồi mới đáp: - Đại tiên không biết rồi, tôi phiền muộn vì chưa báo được thù cha đấy thôi. Kim Sí Điểu cười, nói: - Tướng quân phiền muộn vì thù cha, hay là vì chưa đăng cơ xưng Vương được? Ngô Xương Xí giật mình, mặt mày ngượng ngùng, nói: - Đại tiên quả nhiên hiểu được lòng tôi thế nào. Kim Sí Điểu nói: - Tôi tuy tu luyện chốn non sơn, nhưng chuyện trần tục cũng am hiểu phần nào. Tướng quân muốn đăng cơ xưng Vương lúc này, e rằng chỉ có con đường chết. Ngô Xương Xí cả kinh, hỏi: - Sao đại tiên lại nói vậy? Kim Sí Điểu đáp: - Thiên hạ đất Nam hiện có mười một lộ sứ quân, nếu tính thêm cả Đinh Bộ Lĩnh nữa là mười hai. Ai nấy đều tự thu binh mã, cai quản một cõi, ý đồ thì ai cũng đoán được. Tuy nhiên không ai tự dám phong Vương. Chỉ cần một lộ quân nào tự phong Vương ắt khiến những lộ quân khác thù địch. Đến khi đó, cho dù đại nhân có tướng giỏi binh tinh đến mấy cũng không thể sống được. Đấy gọi là "Kiến nhiều cắn chết Voi". Ngô Xương Xí nghe vậy mặt mày càng ủ rũ hơn. Kim Sí Điểu nói: - Tuy nhiên, tôi có một kế có thể khiến đại nhân an tâm dưỡng quân. Chờ ngày đăng cơ. Ngô Xương Xí mặt trở mừng, hỏi kế ấy ra làm sao. Sí Điểu đáp: - Kế ấy chẳng có chi, đại nhân hiện tại chỉ xưng làm Sứ Quân, làm yên lòng mấy lộ sứ quân kia. Rồi lấy cớ báo thù cha mà mang quân đánh Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh chiếm cứ Hoa Lư, là nơi hiểm địa. Đại nhân chiếm được chỗ ấy rồi thì như Rồng gặp nước, chẳng mấy chốc mà chiếm lại được mấy quận ở Giao Châu thôi. Ngô Xương Xí hỏi: - Nhưng Đinh Bộ Lĩnh có Giao Châu Thất Hùng, tướng giỏi như vậy ta làm sao đánh thắng cho được? Kim Sí Điểu cười cười, nói: - Thắng không được đó là do đại nhân chưa gặp tôi đấy thôi. Mấy đứa Thất Hùng kia, tôi xem chỉ như trẻ con học múa. Muốn giết khi nào chả được? Ngô Xương Xí nghe vậy cả mừng, y lời mà làm. Sai người mang lên lệnh kỳ, cho Kim Sí Điểu giữ chức Quân Sư kiêm luôn Đại Tướng Quân, phong làm Đại La Kim Tiên. Dưới trướng có Lý Tùng làm Phó Tướng Quân, tả hữu hơn mười vị khác. Cùng với tám vạn quân binh. Xong xuôi hết thảy, Ngô Xương Xí liền viết một phong thơ, sai người truyền đi khắp chốn. Thơ kia truyền tới Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đọc được, bèn đem hội ý với Lý Thông. Lý Thông nói: - Ta chưa đem quân đánh nó, mà nó đã cất quân đến trước. Đấy là khiến chúng ta mất đi tiên cơ rồi, e rằng phía bên kia cũng có quân sư tài cao. Bộ Lĩnh hỏi nên làm sao cho được. Lý Thông đáp: - Để tôi tối xem tinh tượng sẽ hiểu rõ ngay ấy mà. Tối hôm đó, Lý Thông cùng Thạch Sanh ngồi ngoài hiên ngắm sao. Chợt thấy sao Thiên Lang hiện ở ngôi Càn Tượng, soi vào đất Ái Châu. Sao Thiên Lang vốn là điềm gở, báo có yêu quái hiện thế nhân gian. Nhưng lại hiện ở ngôi Càn Tượng của bậc mưu sĩ. Hiển nhiên quân sư phía bên Ngô Xương Xí là một con yêu thành tinh. Lý Thông xem rồi nói với Thạch Sanh: - Hiền đệ ơi, Lĩnh tướng quân muốn khởi binh công Ái Châu. Chuyến này chúng ta không thể không đi rồi. Thạch Sanh hỏi cớ làm sao. Lý Thông nói: - Hai ta trảm Chằn Tinh, hồn của nó bay về núi Thạch Động, Hà Tiên cầu cứu. Bây giờ đồng đạo của nó là Kim Sí Điểu hạ sơn, lấy cớ giúp Ngô Xương Xí mà báo thù hai ta. Nếu ta không đi thì binh của Lĩnh tướng quân chống sao lại với thần thông của con yêu này? Sáng sớm hôm sau, Lý Thông đem chuyện này báo lại với Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh cả sợ, hỏi: - Yêu quái thành tinh, người sao chống lại được? Lý Thông cười đáp: - Chẳng phải hai anh em chúng tôi lúc trước cũng chém một con Chằn Tinh đấy sao? Con yêu quái này so đến cũng khác gì. Tướng quân hãy cho thám báo trà trộn vào Ái Châu tìm hiểu sự tình. Tôi nguyện mang quân bắt giữ con yêu này, chiếm đất Ái Châu. Đinh Bộ Lĩnh nghe vậy mới yên lòng, vội cho người đi thám báo tình hình. Qua được mấy hôm, có người về báo rằng: - Cổng thành Kiều Bình lúc đó có một con chim ưng lớn, hóa thành người. Ngô Xương Xí phong làm Đại La Kim Tiên, nắm giữ tám vạn binh mã. Dưới trướng còn có Phó tướng Lý Tùng. Chẳng mấy chốc sẽ công đến Hoa Lư. Lý Thông nghe xong, cười lớn, bảo: - Một con yêu quái dám tự xưng tiên nhân. Nó không sợ bị trời khiển hay sao mà phách lối thế? Đinh Bộ Lĩnh nói: - Mọi chuyện nhờ tiên sinh chỉ đạo. Không biết tiên sinh cần bao nhiêu binh mã? Lý Thông đáp: - Bốn vạn là đủ. Tuy nhiên cần một số bộ hạ của tướng quân đi theo mới được. Lĩnh ưng thuận, trao cho Lý Thông lệnh kỳ, điểm bốn vạn binh mã. Tướng tá đi theo gồm có: Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Phạm Cự Lạng, Trịnh Tú, Thạch Sanh. Khi binh mã vừa điểm xong, chợt có quân cấp báo, bên ngoài cồng thành Hoa Lư có hơn ba ngàn người ngựa, dẫn đầu là một vị tướng quân. Đinh Bộ Lĩnh cùng Lý Thông chạy ra xem, quả nhiên thấy phía dưới thành có một vị tướng quân trẻ tuổi cưỡi ngựa hồng mao, thân mặc kim giáp, tay cầm đại chùy. Đinh Bộ Lĩnh cất tiếng hỏi: - Xin hỏi vị tướng quân phía dưới kia là ai? Người kia đáp: - Tiểu tướng Trình Minh, người phủ Lôi Dương, Triệu Sơn. Nghe đồn Đinh tướng quân đóng giữ ở Hoa Lư là người có chí lớn, chiêu hiền đãi sĩ nên dẫn theo ba ngàn bộ hạ đầu phục dưới trướng. Chẳng hay Đinh tướng quân ở đâu? Xin được yết kiến. Đinh Bộ Lĩnh cả mừng, vội sai người mở cổng thành, đích thân xuống đón. Trình Minh thấy Lĩnh ra đến nơi thì quỳ xuống, nói: - Tiểu tướng không biết là Đinh tướng quân nên thất lễ. Đinh Bộ Lĩnh cười, đáp: - Tướng quân chớ khách khí. Nói rồi lệnh cho người bày tiệc thiết đãi Trình Minh. Sắp xếp chỗ ở cho ba ngàn người ngựa. Trình Minh thấy Lĩnh chào đón nồng nhiệt thì cảm động lắm, lại thấy phía bên kia có binh mã đang điểm quân không biết để làm gì nên mở miệng hỏi thăm. Đinh Bộ Lĩnh đáp: - Ngô Xương Xí bày mưu hại chết Nam Tấn Vương, ta đang chuẩn bị binh mã bắt y về hỏi tội đấy. Trình Minh giật mình, vội quỳ xuống tâu: - Tiểu tướng gia nhập với tướng quân chưa có công lao gì. Nguyện dẫn bộ hạ đánh tiên phong trận này. Đinh Bộ Lĩnh ưng thuận, dẫn Trình Minh ra mắt Lý Thông Lý Thông xem tướng mạo, thấy Trình Minh lưng hùm vai gấu liền biết là kẻ có võ công cao cường, bèn hỏi: - Không biết tướng quân là học trò của ai? Trình Minh quan sát thấy Lý Thông trán vồ mũi lệch, hình dong xấu xí trong bụng đầy nghi hoặc, nhưng bên ngoài vẫn thản nhiên đáp: - Tiểu tướng bái sư Hoàng tiên sinh, ở đất Hà Châu. Lý Thông à một tiếng, nói: - Có phải Hoàng Cự Phủ, Hoàng tiên sinh đấy ư? Trình Minh gật đầu, tự nhủ: - Sư phụ ta người đời đều không ai biết tên. Nhưng vị quân sư này vừa nghe là đoán ra ngay được, xem ra chẳng phải dạng tầm thường. Sư phụ ta nói, đừng nhìn mặt mà bắt hình dong, quả nhiên chẳng sai. Ngay ngày hôm đó, Đinh Bộ Lĩnh triệu tập chư tướng, giới thiệu Trình Minh cho mọi người cùng biết rồi phong chức làm Đẳng Nhung Sự, bộ hạ dưới trướng đều giữ nguyên. Sáng hôm sau, các tướng tá đều nai nịt chỉnh tề, ra sân tụ họp. Lý Thông kiểm điểm rồi lãnh bốn vạn binh mã, tế cờ phát pháo, truyền lệnh kéo binh đi. Đi dọc đường quân luật uy nghiêm, đến đâu đều tỏ ra là đội quân tinh nhuệ. Độ vài ngày, Lý Thông đã kéo binh đến sát Ái Châu, liền truyền lệnh dừng binh, phát pháo an dinh hạ trại. Bấy giờ, bên Ngô Xương Xí, từ lúc Kim Sí Điểu cầm binh, mãi đến mấy ngày sau mới chiêu tập đủ tám vạn binh mã. Đang lúc tập dượt thì bỗng có quân báo: - Một đạo quân binh từ phía bắc kéo tới, đang hạ trại sát biên giới, gần dãy Cửu Noãn Sơn. Khí thế trông rất uy nghiêm. Kim Sí Điểu nói với các tướng rằng: - Xem ra Đinh Bộ Lĩnh biết kế của ta, cho quân đi tới trước. Vậy chúng ta cũng không nên thất lễ. Nói rồi truyền lệnh ba quân, phất cờ nổi pháo, kéo tới Cửu Noãn Sơn, cách trại Lý Thông khoảng độ mười dặm. Lý Thông nghe tin, cho Trình Minh đến, nói rằng: - Tướng quân đánh hãy tiên phong trận này. Tuy nhiên nếu bên dinh địch mà có sở động gì thì phải rút quân về ngay. Trình Minh lãnh mệnh, cầm chùy lên ngựa, dẫn theo ba ngàn bộ hạ, kéo tới trại địch, cách đấy chẳng xa. Xem thấy trong dinh cờ bay phấp phới, lá cờ đều vẽ hình một con chim ưng đang giương cánh. Trình Minh thấy địch khí thế uy nghiêm, trong lòng hơi hồi hộp. Đang lúc dò xét thì quân giữ cửa xem thấy, nạt lớn: - Binh mã xứ nào mà dám đến đây dòm ngó? Mau khai tên họ. Trình Minh nghe nói dừng ngựa, vung chùy chỉ quân giữ cửa, quát lớn: - Ta là Trình Minh, bộ hạ dưới trướng Đinh tướng quân. Hôm nay được mệnh đem binh tới đây thâu phục Ái Châu, bắt Ngô Xương Xí về hỏi tội. Chủ tướng các ngươi là ai? Ra đây cho ta hỏi! Lời vừa dứt, xảy đến trong dinh xông ra một vị tướng trẻ, mặc giáp vảy rồng, tay cầm bán nguyệt thương. Trình Minh thấy người này khí thế dũng mãnh, nạt lớn: - Tướng địch là ai, mau khai tên họ. Vị tướng kia giục ngựa chạy đến hươi mâu đâm một phát rồi nói: - Ta là Nguyễn Thành Dũng đây! Hai tướng xưng họ tên rồi lao vào nhau đánh hăng tiết, được độ khoảng ba mươi hiệp Thành Dũng liệu bề địch không lại quày ngựa chạy tuốt về dinh. Trình Minh giục ngựa rượt theo, rút cung sau lưng chắp tên bắn với một phát. Mũi tên bắn trúng sau ót Thành Dũng làm gã chết ngay trên lưng ngựa, nhưng con ngựa không biết vẫn cứ chạy dài. Mãi đến khi về đến dinh mới chịu dừng lại. Binh sĩ thấy vậy vội vào cấp báo cho Kim Sí Điểu. Kim Sí Điểu đập bàn, giận dữ quát: - Có vị tướng nào dám ra đánh? Chư tướng dưới trướng đều im lặng. Kim Sí Điểu cả giận, phất áo đi ra khỏi trướng, hóa hình thành chim ưng bay tuốt lên trời. Nhắc tới Lý Thông đang ngồi trong dinh, chợt thấy phía chân trời yêu khí nổi lên, giật mình hoảng sợ, vội truyền cho Thạch Sanh đến dặn rằng: - Trình tướng quân đánh tiên phong trận này e rằng gặp bất trắc. Em phải đến cứu giúp thật mau, kẻo con yêu kia làm hại đến Trình tướng quân mất. Thạch Sanh lĩnh mệnh, cầm đao tế ngựa chạy đi. Lý Thông vẫn chưa an tâm, chạy vào trướng lập đàn, đầu xõa tóc, tay cầm gươm, miệng đọc thần chú. Giây phút, đất trời tối tăm, bỗng thấy năm vị tôn thần hạ xuống, hỏi: - Chẳng hay pháp sư triệu bọn tôi đến có việc chi? Lý Thông nói: - Bẩm ngũ vị Lôi thần, phía bên kia có con ưng điểu thành tinh, tự xưng làm Đại La Kim Tiên, đó thật là hống hách và xấc xược. Nay nó lại định giở thần thông hại người. Tôi thỉnh chư vị là vì muốn nhờ các vị dùng sấm sét đánh nó. Một vị nói: - *Yêu vật nhân gian chúng tôi không ra tay diệt trừ được, chỉ có thể đánh nó để nó sợ mà thôi. Lý Thông nói: - Thôi đánh nó một chầu để cảnh cáo cũng được. Các thần vâng mệnh bay lên mây. Phía bên trại của Kim Sí Điểu, Trình Minh cùng thuộc hạ đứng đợi bên ngoài mãi mà không thấy ai ra ứng chiến. Bỗng trời đất trở nên tối tăm, phía trên không một con chim lớn sà xuống lao vào giữa trung quân. Móng vuốt của nó sắc nhọn, vừa lao xuống quạt chết gần mấy trăm người. Trình Minh cả sợ, vội truyền lệnh thâu binh. Quân lính không có sức chống cự, vứt hết binh khí chạy dài. Chợt thấy có một người từ xa cưỡi ngựa xông tới, vung đao chém Ưng Điểu, quát lớn: - Yêu vật to gan, có ta ở đây còn không mau thu lại thần thông? Trình Minh nhìn lại xem đó là ai, thì hóa ra là Thạch Sanh. Chỉ thấy Thạch Sanh múa đao đánh nhau với Ưng Điểu rất hăng. Đao pháp như rồng bay phượng múa. Sí Điểu thân hình to quá, bị Thạch Sanh chém trúng mấy nhát rất đau, nó la lên: - Đao ngươi nhiễm yêu khí. Xem ra hung thủ giết Chằn lão huynh là ngươi. Hôm nay ta phải báo thù cho Chằn lão huynh mới được. Thạch Sanh cười lớn, quát: - Yêu vật lắm lời, bị ta chém mấy nhát mà còn chưa biết sợ ư? Kim Sí Điểu giận quá, mỏ ưng muốn mổ vào mắt Thạch Sanh cho biết điều lợi hại. Nhưng Thạch Sanh trên đầu có chân long bảo hộ, gầm lên một tiếng khiến Sí Điểu khiếp vía. Nó rú lên kinh sợ: - Ngươi là truyền nhân của Long Quân đấy ư? Kim Sí Điểu biết Thạch Sanh là truyền nhân của Long Quân, có chân long bảo hộ trên đầu nên không giết được. Không làm được gì hơn, bèn vung cánh, khiến gió cát bay mịt mù. Thạch Sanh tâm thần hoảng hốt, nhất thời không nhìn thấy gì cả. Thần thông của Kim Sí Điểu bao trùm mấy trăm trượng, trong đó âm phong ngun ngút, khí lạnh như sương, sỏi đá bay tứ tung như đạn tạc. Quân sĩ của Trình Minh bị đá bắn trúng chết non nửa. Giữa lúc đấy, trời bỗng dưng nổi sấm, phía trên cao hào quang rực rỡ. Một tia sét đột nhiên bổ xuống, như chẻ đôi đất trời. Thần Thông của Sí Điểu bị tia sét đánh trúng thì tan tác thành từng mảnh. Kim Sí Điểu đau quá, rên lên: - Vị tôn thần nào hạ phàm đấy? Tiểu yêu có phạm tội gì đâu mà dùng lưới thiên lôi bủa đánh? Trên trời không có ai đáp lại, nhưng có bốn tia sét đang dần ngưng thành mà đánh xuống. Kim Sí Điểu cả sợ, vội thâu hồi chân thân hóa thành hình người bay tuốt về dinh. Lúc đấy trời đất mới trở lại như thường. * * * Chú thích: * Yêu vật nhân gian: Yêu quái ở nhân gian, tu hành mà thành đạo. Tiên thần không thể ra tay giết được. Nếu giết phải sẽ nhiễm máu hung vật, không thể quay về trời được. * Trình Minh: Trình Minh – Wikipedia tiếng Việt