Ruồi Trâu - Ethel Lilian Voynich

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Mocmeomeo, 13 Tháng ba 2022.

  1. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    TÁC PHẨM: RUỒI TRÂU

    TÁC GIẢ: ETHEL LILIAN VOYNICH


    Nguồn: Sachmoi.net

    [​IMG]

    Ruồi trâu là một tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới. Với số lượng hàng triệu bản, đã được xuất bản nhiều lần tại việt Nam và nhiều nước trên thế giới, được bạn đọc Việt Nam và thế giới hết sức yêu quý và mến mộ.

    Nội dung chính của câu chuyện là về cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa người cha và đứa con ngoài giá thú của ông. Hai con người này đại diện cho hai thế giới hoàn toàn đối lập nhau về lý tưởng sống, về chính trị và tôn giáo. Đến những giây phút cuối cùng, họ vẫn giữ vững niềm tin mà mỗi người đã lựa chọn, từ bỏ tiếng gọi của tình cảm ruột thịt mà đi theo tiếng gọi của lý trí. Cuộc đấu tranh bên ngoài dữ dội bao nhiêu thì cuộc giằng xé trong lòng mặc dù âm ỉ nhưng cũng không kém phần quyết liệt. Từ một con người hiền lành, cuộc đời đã biến Arthur thành một Ruồi trâu sắc sảo, khôn khéo và tài giỏi. Nhưng bản chất con người đầy tình yêu thương tha thiết, có một trái tim nhân hậu vẫn còn nguyên trong con người anh. Mặc dù cái chết đến với mình nhưng anh cảm thấy thanh thản vì đã có một cuộc sống hạnh phúc do đã được sống, chiến đấu và chết vì những lý tưởng, hoài bão cao đẹp mà cả cuộc đời anh đã theo đuổi cống hiến.

    "Những cuốn sách tả các chiến sĩ cách mạng dũng cảm đầy quyết tâm và ý chí, không biết sợ sệt, đem cả thể lực lẫn tinh thần hiến cho sự nghiệp của chúng ta, những cuốn sách đó để lại cho tôi một ấn tượng không bao giờ phai nhòa, nuôi trong người tôi một ý chí noi gương những anh hùng ấy". (Trích giới thiệu của cố nhà văn, nhà báo Thép Mới)
     
  2. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    PHẦN I

    Chương I

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Arthur ngồi trong thư viện Chủng viện thần học thành phố Pisa, đưa mắt tìm kiếm trong chồng bản thảo các bài giảng đạo viết tay. Đó là một buổi tối tháng sáu nóng bức, các cửa sổ chính được mở rộng toang, những cửa chớp được khép hờ cho mát. Cha Viện trưởng Chủng viện, Kinh sĩ Montanelli, dừng bút trên trang viết của mình trong giây lát, trìu mến nhìn mái tóc đen đang loay hoay cặm cụi trong đống giấy tờ.

    - Con không tìm thấy sao, con yêu dấu? Cha phải viết lại đoạn văn đó thôi, có lẽ trang giấy đó đã bị xé mất. Cha đã khiến con tốn thời gian vô ích rồi.

    Giọng Montanelli khá thấp, song vừa đủ nghe, uyển chuyển mà trong trẻo như tiếng bạc ngân; một giọng nói đã đem lại thứ sức hút đặc biệt cho các bài giảng đạo của ông. Đó là chất giọng của một nhà hùng biện bẩm sinh, giàu âm điệu và đầy sức thuyết phục. Khi trò chuyện cùng ông, Arthur luôn thấy lẫn trong đó sự vỗ về và âu yếm.

    - Không, thưa Cha, con phải tìm thấy nó, con chắc chắn Cha đã đặt nó ở ngay đâu đây. Dù có được Cha viết lại, đoạn văn đó chẳng thể nào giống như cũ được.

    Cha Montanelli tiếp tục quay trở lại với công việc của mình. Một con bọ hung ngái ngủ bay vo ve ngoài cửa sổ, và từ dưới phố vọng lên tiếng rao dài đầy buồn bã của người bán trái cây: "Dâu tây! Dâu tây đây!"

    - "Phép màu chữa lành cho những người bệnh phong" nó đây rồi!

    Arthur bằng qua căn phòng với phong thái nhẹ nhàng, dáng đi lướt nhẹ thanh lịch của anh luôn khiến những kẻ thô kệch nơi quê nhà cảm thấy gai mắt. Anh có vóc người nhỏ mảnh mai, giống như một người Ý trong bức chân dung từ thế kỉ XVI, hơn là một chàng trai trung lưu người Anh những năm ba mươi. Từ đôi lông mày dài, khuôn miệng tinh tế, cho tới đôi bàn tay bàn chân nhỏ nhắn, tất cả đều được tạo hóa khắc họa một cách khéo léo. Khi ngồi yên trên ghế, anh dễ bị nhầm với một cô nàng xinh đẹp trong bộ cánh nam nhi; nhưng bằng những cử động nhanh nhẹn uyển chuyển của mình, anh tạo ấn tượng như một lão hổ đã được thuần hóa để thu lại móng vuốt sắc bén.

    - Có thực là nó không? Cha biết làm gì khi không có con đây, Arthur? Cha luôn luôn để đồ đạc của mình ở loanh quanh đâu đó. Thôi, giờ Cha sẽ không viết nữa. Hãy ra ngoài vườn nhé, Cha sẽ giúp con học bài. Có điều gì con còn chưa hiểu không?

    Họ đi ra ngoài khu vườn riêng đầy bóng mát và yên tĩnh của tu viện. Chủng viện gồm nhiều tòa nhà cổ kính vốn là một tu viện dòng Dominic (*) hai trăm năm tuổi, có một khoảng sân vườn được chăm sóc chu đáo, những cây hương thảo và oải hương được trồng thành từng bụi và cắt tỉa thành những khối vuông vắn. Giờ đây, các tu sĩ áo chùng trắng từng chăm sóc cho khu vườn đã bị rơi vào lãng quên; và mặc cho việc chẳng ai hái chúng về làm thuốc nữa, các loại thảo mộc nơi đây vẫn tỏa hương hoa thơm ngát vào những đêm giữa hè. Các cây mùi tây và những cành hoa mọc dại xen đầy vết đá nứt trên lối đi, giếng nước ở giữa sân bị xâm chiếm bởi những khóm dương xỉ và cây vảy ốc, mọc dày như trải thảm. Những khóm hồng trở nên hoang dại do không có người cắt tỉa, nó thò những cành đầy gai góc lộn xộn của mình ra chặn mọi lối mòn, những bông hoa anh túc lớn khoe sắc đỏ rực rỡ trong luống hoa ngăn giữa vườn và lối đi. Những nhành hoa mao địa hoàng rũ mình hững hờ trên đám cỏ rối; và dàn nho cũ, vì không không được uốn cành chăm sóc nên đã sớm cằn cỗi chẳng cho ra trái. Chúng quấn lấy những cành sơn tra bị bỏ quên, đung đưa cành lá một cách chậm rãi và buồn chán.

    (*) Dòng Dominic: Dòng Anh Em Giảng Thuyết hay còn gọi là dòng Đa Minh.

    Trong góc vườn, một cây mộc lan lớn đang nở những đóa hoa đầu tiên cho mùa hè, trong tán lá um tùm điểm xuyết những đóa hoa trắng ngà như viên ngọc trai. Một chiếc ghế dài bằng gỗ được đặt dưới thân cây, Cha Montanelli ngồi xuống đó. Arthur đang học môn Triết học tại trường đại học, và mỗi khi gặp điều khó hiểu trong sách, anh đều đến xin Cha cố đạo một lời chỉ dẫn. Cha Montanelli như một cuốn bách khoa toàn thư tổng hợp với anh, dù cho anh không phải là một học trò của chủng viện.

    - Con xin phép phải đi ngay bây giờ, nếu cha không có điều gì dặn dò con nữa.

    Anh nói khi đã thông suốt đoạn văn khó hiểu.

    - Không, Cha cũng không muốn làm việc nữa, nhưng nếu con có thời gian, Cha muốn con ở lại một chút.

    - Ồ, thưa vâng!

    Anh ngả lưng vào thân cây và nhìn lên qua các cành lá rậm rạp, đưa mắt tìm kiếm ánh sáng le lói của vì tinh tú mờ ảo trên bầu trời yên tĩnh. Đôi mắt xanh anh sâu thẳm và mơ màng dưới hàng mi dày đen nhánh, được kế thừa trọn vẹn vẻ đẹp từ người mẹ xứ Cornwall của mình, Cha Montanelli quay đầu đi tránh nhìn vào đôi mắt ấy. Ông hỏi:

    - Con thấy mệt mỏi rồi sao, Carino?

    - Biết sao được thưa Cha.

    Sự mệt mỏi hiện lên trong giọng nới của Arthur, và Padre (*) nhận ra được điều đó.

    (*) Tiếng Ý: Cha cố đạo

    - Con không nên học đại học quá sớm như vậy. Những ngày chăm sóc mẹ đau bệnh và những đêm không ngủ đã làm con kiệt sức mất rồi. Đáng lẽ Cha nên kiên quyết bắt con nghỉ ngơi trước khi con rời khỏi Leghron.

    - Ôi, thưa Cha, việc đó liệu có ích gì không ạ? Con không thể ở lại trong căn nhà khốn khổ đó khi mẹ con đã qua đời. Chị Julia khiến con phát điên mất.

    Julia là vợ người anh trai cùng cha khác mẹ của Arthur, và là cái gai trong mắt anh.

    - Ý ta không phải muốn con ở với người thân của mình.

    Montanelli trả lời nhẹ nhàng.

    - Ta chắc đó là điều tồi tệ nhất con có thể nghĩ tới. Ta muốn con nhận lời mời của bạn con, vị bác sĩ người Anh ấy. Nếu con dành khoảng một tháng nghỉ ngơi ở nhà bạn mình, con sẽ có tâm trạng tốt hơn để học tập và nghiên cứu.

    - Không, thưa Cha, con cũng không muốn vậy. Gia đình Warren thực sự rất tử tế và tốt bụng, những họ không hiểu con, và trên hết họ thương hại con - con có thể nhìn thấy sự thương cảm trong khuôn mặt của tất cả họ. Họ sẽ cố gắng an ủi con, nói về mẹ con. Gemma thì tất nhiên không như vậy. Cô ấy luôn biết những gì không nên nói ngay cả khi chúng con còn nhỏ, nhưng những người khác sẽ như vậy. Và đó cũng không hẳn là lí do..

    - Vậy lí do là gì, con trai của ta?

    Arthur ngắt những bông hoa mới nở từ một cành mao địa hoàng đang rủ xuống, vò nát chúng trong tay một cách bực bội.

    - Con không thể chịu đựng được thành phố ấy nữa.

    Anh dừng lại khoảng vài giây, rồi tiếp tục.

    - Nơi đó hiển hiện những cửa hàng mẹ từng mua đồ chơi cho con khi còn nhỏ, nơi mẹ hay đi dạo dọc theo bờ biển, nơi con thường đưa mẹ đến chơi cho đến khi mẹ quá ốm. Bất cứ nơi nào con đến đều gợi những kí ức như thế. Các cô gái trong chợ vẫn mang hoa đến mời con mua như thể con cần phải mua hoa vậy. Rồi còn đó những khoảng sân nhà thờ.. Con phải đi thật xa, bởi nhìn những khung cảnh đó hàng ngày sẽ khiến con phát ốm..

    Anh ngừng lời và ngồi lặng yên xé những cánh hoa mao địa hoàng tơi tả thành từng mảnh. Sự tĩnh lặng kéo dài rất lâu khiến anh ngước lên, tự hỏi tại sao Cha không lên tiếng. Dưới tán cây mộc lan xum xuê, bóng tối đổ xuống khiến khung cảnh như nhòe đi trong mờ ảo, nhưng ánh sáng leo lắt vẫn đủ để thấy khuôn mặt tái nhợt đầy đau khổ của Cha Montanelli. Ông đang cúi gằm, tay phải nắm chặt tay vịn của chiếc ghế bằng. Dáng vẻ của ông khiến Arthur sững sờ, dường như anh đã vô tình thấy được một góc của thế giới thần thánh.

    - "Trời ơi!" anh nghĩ. "Đứng trước Cha ta thật nhỏ bé và ích kỉ! Nỗi đau của ta cũng khiến Cha đau đớn như thể mang nó trong mình".

    Lúc này, Cha Montanelli ngẩng đầu và đưa mắt nhìn quanh, cất lời bằng giọng nói trìu mến nhất của mình:

    - Cha sẽ không ép con phải quay lại đó, trở lại nơi sẽ gợi con nhớ các kí ức đau buồn. Nhưng con phải hứa với Cha hãy nghỉ ngơi và thư giãn vào kì nghỉ hè tới. Theo Cha tốt hơn hết là con nên sắp xếp một kì nghỉ ngay tại vùng ngoại ô Leghorn. Cha không thể thấy sức khỏe của con tiếp tục suy sụp hơn nữa.

    - Cha sẽ đi đâu khi chủng viện đóng cửa nghỉ hè, thưa Cha kính mến?

    - Ta phải chịu trách nhiệm đưa các giáo sinh lên đồi như thường lệ hằng năm, trông chừng việc ăn ở của họ ở đó. Khoảng giữa tháng tám, sau khi Cha trợ lí Viện trưởng kết thúc nghỉ phép trở về, Cha sẽ cố gắng dành thời gian đến dãy Alps thay đổi không khí một chút. Con sẽ đi cùng Cha chứ? Cha có thể đưa con đi thăm thú núi non, và có lẽ con sẽ muốn nghiên cứu rêu và địa y ở núi Alps. Cha chỉ e con thấy buồn chán khi chuyến đi chỉ có hai chúng ta.

    Arthur siết chặt tay mình, một trong những cử chỉ Julia hay mỉa mai gọi là "hành xử kiểu ngoại quốc".

    - Thưa Cha, con sẽ đánh đổi bất cứ điều gì trên đời để được đồng hành cùng Cha. Chỉ là con còn chưa dám chắc..

    Anh ngập ngừng.

    - Con cho rằng ông Burton sẽ không cho phép sao?

    - Anh ấy sẽ không thích, tất nhiên, nhưng anh ấy cũng khó có thể can dự vào chuyện này. Giờ con đã mười tám tuổi, và con có thể làm bất cứ điều gì con muốn. Huống chi anh ấy cũng chỉ là anh trai cùng cha khác mẹ của con. Con không nghĩ mình có bổn phận phải vâng lời anh ấy, người này vẫn luôn chẳng tử tế gì với mẹ của con.

    - Nhưng nếu ông Burton phản đối, Cha thiết nghĩ tốt hơn con không nên bất chấp ý kiến của anh mình, vị thế của con trong gia đình sẽ gặp khó khăn hơn nếu..

    - Không có chút nào khó khăn cả!

    Arthur nóng nảy ngắt lời.

    - Không quan trọng là con làm điều gì, họ vẫn luôn ghét con và cũng sẽ luôn luôn như thế. Ngoài ra, anh James sẽ không thể phản đối mãi được khi con đồng hành cùng với Cha, Cha là Cha giải tội của con kia mà!

    - Con hãy nhớ anh ấy là một tín đồ Tin Lành. Tuy nhiên, tốt hơn hết con vẫn nên viết thư xin phép và chờ thư phúc đáp của anh ấy xem sao. Con trai của ta, con không nên thiếu kiên nhẫn như vậy. Mọi người ghét ta hay yêu ta không quan trọng, điều quan trọng là hành động và cách ứng xử của chúng ta.

    Những lời quở trách được đưa ra quá nhẹ nhàng, đến nỗi khiến Arthur đỏ cả mặt. Anh đáp lời trong tiếng thở dài:

    - Vâng, thưa Cha con hiểu. Nhưng điều đó thực sự rất khó..

    - Cha rất lấy làm tiếc vì tối thứ ba tuần trước con không thể đến thăm Cha.

    Cha Montanelli đột ngột đổi chủ đề.

    - Giám mục giáo phận Arezzo đã hiện diện ở đây, Cha đã muốn con có cơ hội gặp ngài ấy.

    - Con đã hẹn với một bạn học đến một buổi nói chuyện tại chỗ của cậu ấy, và bạn bè đều đã mong con đến.

    - Buổi nói chuyện về vấn đề gì vậy?

    Câu hỏi làm Arthur hơi bối rối.

    - Nó.. không hẳn là một buổi nói chuyện thông thường.

    Arthur lắp bắp, một chút lo lắng ẩn hiện trong giọng anh:

    - Một sinh viên đến từ Genoa đã có một bài phát biểu, một kiểu bài giảng.

    - Cậu ấy đã giảng về điều gì?

    Arthur do dự.

    - Thưa Cha, người sẽ không hỏi tên anh ấy được không ạ? Bởi con đã hứa..

    - Cha chẳng có câu hỏi nào bắt con trả lời cả đâu, và nếu con đã hứa giữ bí mật thì tất nhiên con chẳng cần kể cho Cha, nhưng Cha thiết nghĩ con có thể đặt niềm tin nơi Cha.

    - Thưa Cha, hẳn nhiên con luôn đặt niềm tin của mình nơi Cha. Người bạn đó đã nói về sinh viên chúng con và nghĩa vụ, trách nghiệm của chúng con đối với nhân dân, với bản thân mình; và về những điều ta có thể làm để cứu vớt..

    - Cứu vớt ai?

    - Contadini (Tiếng Ý: Nông dân, nhân dân) và..

    - Và?

    - Nước Ý..

    Một sự im lặng kéo dài.

    Montanelli quay sang Arthur và hỏi anh một cách rất nghiêm trọng.

    - Hãy nói cho Cha biết Arthur, con đã suy nghĩ về điều này bao lâu rồi?

    - Thưa Cha, từ.. mùa đông năm ngoái.

    - Trước cả khi mẹ con qua đời sao? Và bà ấy có biết gì về chuyện này?

    - Không, khi đó con không bận tâm đến điều đó.

    - Và bây giờ thì sao? Bây giờ con quan tâm đến nó?

    Arthur ngắt thêm vài bông hoa chuông nhỏ từ đám mao địa hoàng.

    - Thưa Cha, mọi chuyện diễn ra như thế này..

    Anh bắt đầu nói, đôi mắt nhìn chằm chằm vào mặt đất.

    - Khi con đang ôn tập cho kì thi tuyển sinh mùa thu năm ngoái, con đã quen rất nhiều bạn sinh viên, Cha còn nhớ chứ ạ? Vâng, một số trong đó bắt đầu nói chuyện với con về tất cả những điều này, và còn cho con mượn cả sách. Nhưng khi đó con không quan tâm nhiều về mấy điều họ nói. Lúc ấy con luôn muốn nhanh chóng về nhà để gặp mẹ. Cha hiểu mà, mẹ con đơn độc trong ngôi nhà địa ngục đó, và những lời tàn độc của Julia cũng đủ giết chết bà. Sau này vào mùa đông, khi bà lâm bệnh nặng, con chẳng còn chút ấn tượng gì về điều họ nói hay những gì cuốn sách kia đề cập đến nữa. Những chuyện về sau thì.. như Cha đã biết, con hầu như chẳng đến Pisa nữa. Đáng lẽ ra con sẽ có thể kể cho mẹ nghe những điều đó nếu lúc ấy con thực sự để tâm suy nghĩ về chúng, song lúc ấy chúng chẳng hề xuất hiện trong tâm trí con. Sau đó, khi con nhận ra mẹ con sắp qua đời.. Cha biết đấy, con hầu như luôn ở bên mẹ những phút cuối cùng, con thường chăm sóc mẹ mỗi tối và Gemma Warren sẽ giúp con mỗi sáng khi con tranh thủ chợp mắt. Vâng, chính trong những đêm dài đó con đã suy nghĩ về những thứ cấm kị kia.. rồi con tự hỏi nhiều điều, "Liệu họ có đúng hay không?" hay "Chúa sẽ phán bảo điều gì trước chuyện này?"

    - Con có hỏi Ngài không?

    Giọng Motanelli không còn sự điềm tĩnh nữa.

    - Thường xuyên, thưa Cha. Đôi khi con đã cầu nguyện xin Ngài chỉ lối cho con biết cần phải làm gì, hoặc ban cho con được chết cùng mẹ. Nhưng con không nhận được lời phán bảo nào.

    - Và con đã không nói một lời nào với Cha sao Arthur? Cha đã luôn hi vọng con có thể tin tưởng Cha.

    - Thưa Cha, Cha biết rõ con luôn tin tưởng Cha. Nhưng vẫn có những điều mỗi người chúng ta không thể thổ lộ cùng ai.. với con chuyện này kể cả Cha hay mẹ con.. Con phải tự tìm lời phán bảo của Chúa cho riêng con. Cha biết đấy, đó là lối đi cho cuộc sống cũng như toàn bộ linh hồn con.

    Montanelli quay mặt đi và nhìn đăm đăm vào góc tối rậm rạp của những cành mộc lan. Bóng tối mờ ảo của hoàng hôn phản chiếu vóc dáng âm u của ông, như một bóng ma tăm tối giữa các cành lá mịt mùng.

    - Và sau đó?

    Ông chậm rãi hỏi.

    - Và sau đó, mẹ con qua đời. Cha biết đấy, con đã thức trắng ba đêm cuối cùng bên cạnh bà..

    Anh nghẹn lời và dừng lại trong phút chốc, nhưng Montanelli vẫn bất động.

    - Suốt thời gian trước khi mẹ con được an táng..

    Arthur tiếp tục nói bằng một giọng trầm hơn:

    - Con không thể nghĩ về bất cứ điều gì, sau khi tang lễ, con đã bị bệnh, Cha còn nhớ không? Con đã không để đến buổi lễ xưng tội.

    - Phải, Cha nhớ.

    * * * Vâng, trong một đêm con đứng dậy và đi vào phòng của mẹ. Cả gian phòng trống rỗng, chỉ còn cây thánh giá lớn trong ô cửa vòm. Và khi con nghĩ có lẽ Chúa sẽ cứu vớt con, con quỳ xuống và chờ đợi.. thâu đêm. Vào buổi sáng khi con bừng tỉnh.. Thưa Cha, thực là vô ích vì con không cách nào giải thích cho Cha những gì con đã thấy.. vì chính con cũng hầu như không biết bản thân mình đã được khai sáng như thế nào. Nhưng con biết rằng Chúa đã ban lời phán bảo con.. và rằng con không dám không vâng lời Ngài.

    Trong một khoảnh khắc, cả hai đều im lặng trong bóng tối. Sau đó Montanelli quay lại và đặt tay lên vai Arthur. Ông cất lời:

    - Con trai của ta. Chúa không cho phép ta nói Ngài đã không phán truyền với linh hồn con. Nhưng hãy nhớ tâm trạng con khi ấy, và đừng lầm tưởng những ảo giác gây ra do nỗi đau hay bệnh tật với lời kêu gọi lớn lao từ Chúa. Và nếu thực sự Chúa đã phán bảo con thoát ra khỏi bóng đen của tử thần, hãy chắc chắn rằng con đã không lầm tưởng về lời phán bảo của Ngài. Vậy điều trong tâm tưởng mách bảo con phải làm gì?

    Arthur đứng dậy và chậm rãi đáp lời, như thể đang đọc kinh bổn (*) :

    (*) Kinh bổn: Các dòng giáo lý trong sách giáo lý của Công giáo.

    - Hiến dâng đời mình cho nước Ý, giúp giải phóng nước Ý khỏi cảnh nô lệ bất hạnh này, thoát khỏi nước Áo để trở thành một nước cộng hòa tự do, không còn vua chúa nào ngự trị ngoài Đức Chúa Cơ Đốc.

    - Arthur, hãy suy nghĩ những gì con đang nói! Con thậm chí còn không phải người Ý!

    - Đều đó không can hệ đến chuyện này. Con chính là con. Con đã được thị kiến điều này và đời con để phụng sự sứ mệnh đó.

    Sự im lặng một lần nữa kéo dài.

    - Con vừa nhắc lại những gì Chúa đã dạy..

    Montanelli chậm rãi cất lời nhưng Arthur cắt ngang ông:

    - Chúa nói: "Kẻ nào vì ta mà mất đi sự sống, kẻ đó sẽ tìm lại được sự sống".

    Montanelli nghiêng tay, tỳ vào một nhánh mộc lan và đưa tay còn lại lên che mắt. Cuối cùng, ông nói:

    - Hãy ngồi xuống một lát, con trai của ta.

    Arthur ngồi xuống, ông nắm lấy hai tay anh một cách mạnh mẽ và điềm tĩnh.

    - Cha không thể bàn luận về chuyện này với con đêm nay.. Chuyện này với Cha quá đột ngột. Cha chưa từng nghĩ tới điều này nên Cha cần thêm thời gian để suy nghĩ và cân nhắc lại. Sau đó, chúng ta chắc chắn sẽ có một buổi trò chuyện cặn kẽ hơn. Nhưng bây giờ, Cha muốn con hãy nhớ một điều: Nếu con vướng vào rắc rối nào, nếu con chết đi.. điều đó sẽ làm tan nát trái tim Cha.

    - Thưa Padre..

    - Không, hãy để Cha nói hết. Cha đã từng nói với con một lần, trên thế giới này Cha chẳng còn ai ngoài con nữa. Nhưng Cha nghĩ con không hoàn toàn hiểu hết điều Cha muốn nói, thực khó để đi tận nghĩa của nó khi con còn quá trẻ.. Ở tuổi của con Cha cũng chẳng thể nào hiểu nổi. Arthur, con như con trai ruột của Cha, con biết không? Con là ánh sáng của đôi mắt Cha, là ước vọng của trái tim Cha. Nếu có thể, Cha sẽ chết để tránh cho con đặt một bước chân lầm lỗi vào con đường sẽ hủy hoại cuộc đời con. Nhưng không, Cha chẳng thể làm được điều gì nữa, Cha cũng không yêu cầu con phải hứa điều gì đâu. Cha chỉ muốn con phải nhớ điều này và phải cẩn trọng: Hãy cân nhắc trước khi con đưa ra bất kì quyết định quan trọng nào, hãy suy nghĩ vì Cha, nếu không phải vì người mẹ trên thiên đàng của con.

    - Con sẽ cân nhắc.. còn Padre, xin Cha hãy cầu nguyện cho con và nước Ý.

    Anh lặng lẽ quỳ xuống và Cha Montanelli cũng lặng lẽ đặt tay mình lên đầu anh. Một lát sau, Arthur đứng dậy, hôn lên bàn tay ông và nhẹ nhàng băng qua bãi cỏ phủ đầy sương. Montanelli ngồi một mình dưới gốc hoa mộc lan, nhìn chằm chằm vào bóng tối trước mắt ông.

    - Đây chính là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời cho ta, sự trừng phạt cho kẻ mang tội David (*) đã làm ô uế đền thánh của Ngài, và làm nhơ Thánh thể bằng đôi bàn tay bẩn thỉu này. Ngài đã kiên nhẫn với ta, và giờ Ngài đang trừng phạt ta. "Ngươi đã vụng trộm làm điều đó, nhưng ta sẽ làm sự này trước toàn dân Isarael, và trước cả mặt trời; đứa con được sinh ra cho ngươi chắc chắn sẽ chết".

    (*) Vua David: Vua nước Isarel, mắc tội chiếm lấy vợ của tướng lĩnh dưới trướng mình.
     
    Đỗ Hoàng SangSunkii thích bài này.
  3. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    CHƯƠNG II

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngài James Burton chẳng vui vẻ gì khi em trai mình "đi nghỉ dưỡng tại Thụy Sĩ" cùng Montanelli. Nhưng cực chẳng đã nếu cấm đoán Arthur đi một chuyến du lịch vô thưởng vô phạt với một giáo sư già môn thần học, khi dường như Arthur chẳng biết gì về nguyên nhân thực sự phía sau thì thật ngớ ngẩn và gia trưởng. Ông ngay lập tức sẽ bị mang tiếng là có định kiến về tôn giáo hoặc phân biệt chủng tộc, trong khi gia tộc Burton luôn hãnh diện về sự khoan dung cũng như cởi mở của mình.

    Cả gia tộc đã là những tín đồ Tin lành và giữ quan điểm bảo thủ kể từ khi công ty Burton và các con trai thành lập, họ sở hữu nhiều tàu ở London, Leghorn và tham gia vào thương trường từ hơn một thế kỷ trước. Nhưng họ luôn cho rằng các quý ông người Anh phải luôn cư xử hào hiệp, ngay cả với những tín đồ Công giáo; kể cả khi người đứng đầu gia tộc thấy thật cô đơn khi góa vợ và kết hôn với cô gia sư xinh đẹp theo Công giáo của hai con trai mình, James và Thomas. Nhiều khi họ bực tức với sự hiện diện của một người mẹ kế không lớn hơn họ bao nhiêu tuổi, nhưng họ cũng chỉ có thể hờn dỗi mà tuân theo mong muốn của Chúa trời. Kể từ khi người cha qua đời, vị trí của người anh trai cả đã kết hôn trong gia đình vốn đã khó khăn nay còn phức tạp hơn; nhưng theo Arthur nghĩ cả hai anh em họ đã thực lòng cố bảo vệ Gldys khi bà còn sống khỏi miệng lưỡi cay độc của Julia, và làm tròn bổn phận theo cách của họ. Họ thậm chí không thèm giả vờ thích anh, và họ nhận sự hào phóng về mình khi chu cấp cho anh rất xa hoa, túi luôn rủng rỉnh tiền hay đặc biệt cho phép anh đi theo con đường riêng của mình.

    Trong bức thư hồi đáp, Arthur nhận được một chi phiếu đính kèm để trang trải chi phí của mình cùng một vài dòng cho phép lạnh nhạt rằng anh được tùy ý sử dụng kỳ nghỉ của mình. Anh chi một nửa số tiền thừa vào những cuốn sách thực vật và vài cặp bìa đựng mẫu vật rồi cùng Padre lên đường, bắt đầu chuyến du ngoạn đầu tiên của mình đến dãy Alps.

    Đã rất lâu Arthur không thấy Montanelli có được tinh thần nhẹ nhõm và thư thái đến thế. Sau cú sốc đầu tiên kể từ cuộc đàm thoại trong vườn, ông đã dần dần hồi phục và cân bằng lại tinh thần của mình, tới bây giờ ông đã nhìn vào thực tế với một con mắt bình tĩnh hơn. Arthur còn rất trẻ, non nớt và thiếu kinh nghiệm; quyết định của anh lúc này khó có thể coi là dứt khoát và vẫn có thể thu hồi. Song chắc chắn vẫn còn thời gian để giành lại anh từ con đường nguy hiểm khi anh vẫn chưa kịp bước vào bằng luân lý và sự thuyết phục nhẹ nhàng.

    Họ định dừng chân ở Geneva vài hôm. Nhưng khi Arthur vừa trông thấy những đường phố trắng lóa tràn đầy ánh nắng chói chang, cùng đám đông khách du lịch đầy ắp trên các nẻo đường lát đá bụi bặm, anh đã thoáng nhăn nhó khó chịu. Montanelli quan sát thái độ của Arthur với một nụ cười thích thú điềm tĩnh.

    - Sao? Con không thích nơi này sao, Carino?

    - Con cũng không biết nên nói thế nào nữa. Con vẫn mong được thấy một khung cảnh khác hẳn như thế này, kể ra thì cảnh hồ rất đẹp và con cũng thích hình bóng của đồi núi xinh tươi nơi đây.

    Lúc này họ đang đứng trên đảo Rousseauu (*), Arthur đưa tay chỉ lên những nét dài và khắc khổ của rặng núi phía Savoy.

    (*) Hòn đảo có dựng tượng của nhà tư tưởng và nhà văn Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778).

    - Nhưng thành phố thì thô kệch và chỉn chu quá, như đượm một vẻ gì đó.. của đạo Tin lành. Một bầu không khí có vẻ tự mãn. Không, con không ưa thành phố này, nó khiến con nghĩ đến Julia.

    Montanelli bật cười:

    - Thật không may, con đáng thương của Cha! Nhưng không hề gì, ta đi du lịch chỉ để tìm niềm vui mà thôi, chúng ta cũng không cần lưu lại ở đây lâu. Thôi, hôm nay chúng ta hãy dạo thuyền buồm chơi trên hồ, rồi sáng mai sẽ đi thẳng lên núi, được chứ?

    - Nhưng thưa Padre, Cha định ở lại đây nghỉ ngơi kia mà?

    - Con yêu quý, Cha đã ngắm những khung cảnh này hàng chục lần rồi. Kì nghỉ này Cha muốn con luôn được vui vẻ kia mà. Thế con muốn đi chơi đâu?

    - Nếu ý Cha đi đâu cũng được thì con muốn cùng Cha đi ngược dòng sông, đi tới tận thượng nguồn!

    - Đi ngược dòng sông Rhone ấy ư?

    - Không, ngược dòng Arve. Sông ấy chảy xiết lắm

    - Thế ta đi Chamonix vậy.

    Suốt buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Những cảnh hồ mĩ lệ không đủ sức hấp dẫn Arthur bằng dòng sông Arve xám đục đầy bùn. Anh lớn lên bên bờ Địa Trung Hải nên đã quá quen với làn sông xanh nước biếc. Bởi thế mà dòng nước xiết bao giờ cũng có sức lôi cuốn kì lạ với tâm hồn Arthur, đến nỗi mà dòng nước cuồn cuộn của sông Arve chảy về từ vùng băng giá lại làm anh say mê vô cùng. Arthur bật thốt lên: "Đây mới thật sự là một dòng sông chảy xiết đúng nghĩa chứ!"

    Sáng sớm hôm sau, họ lên đường đến Chamonix. Con đường chạy qua một thung lũng phì nhiêu. Đắm chìm vào cảnh vật xung quanh, Arthur thấy lòng mình phơi phới. Nhưng khi đến gần tới Cluses thì họ phải rẽ vào một đoạn đường núi quanh co. Những ngọn núi lớn hình răng cưa vây chặt lấy họ dường như khiến Arthur trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm hơn. Từ St. Martin họ chầm chậm leo lên những con đèo của thung lũng và dừng chân qua đêm tại một vài mái nhà gỗ ven đường, hoặc may mắn hơn là nghỉ nhờ những làng nhỏ ven đường, rồi họ tiếp tục lang thang mà không theo một lộ trình nhất định. Arthur đặc biệt ấn tượng với cảnh hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng hoang sơ, và khi gặp được con thác đầu tiên, anh vui sướng rộn ràng tới mức ai nhìn thấy anh cũng phải mỉm cười theo. Càng tới gần những ngọn núi tuyết bao nhiêu, Arthur càng trở nên mơ mộng bấy nhiêu, đây cũng là lần đầu tiên Montanelli thấy một Arthur như thế. Hình như giữa chàng thanh niên và những ngọn núi này có một sợi dây liên kết bí ẩn nào đó. Arthur có thể nằm lặng yên hàng giờ giữa tiếng vang của rừng thông âm u, bí ẩn, đưa mắt nhìn theo những thân cây cao thẳng để nhìn ra một thế giới đầy ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi và vách đá trơ trụi. Montanelli quan sát Arthur với một cảm xúc ghen tị đượm buồn.

    Một hôm, Montanelli ngước lên từ cuốn sách nhìn Arthur, người đã nằm hơn một tiếng đồng hồ trên mặt đất đầy rêu đang mở to mắt chăm chú vào những ngọn núi chót vót và khoảng trời trong xanh, mà hỏi rằng:

    - Cha ước gì đoán được con đang thấy gì ở đó, Carino?

    Chiều nay họ đã rẽ khỏi con đường lớn, vì muốn qua đêm trong một xóm làng tĩnh mịch cách thác nước Diosaz không xa nên họ đã leo lên mỏm núi mọc đầy thông để ngắm hoàng hôn đang buông dần trên những ngọn núi lô nhô và trên đỉnh Mont Blanc. Arthur ngẩng đầu, với đôi mắt chứa nỗi hoài nghi bí ẩn, trả lời Montanelli:

    - Con trông thấy gì ư, Padre?

    - Con tưởng như nhìn thấy một sinh linh vĩ đại màu trắng trên khoảng không gian xanh thẳm vô cùng vô tận kia qua một tấm kính mờ sẫm. Hàng bao năm trôi qua, con thấy sinh linh ấy đã và vẫn đang chờ đội ơn Thánh linh Thiên Chúa.

    Montanelli thở dài.

    - Xưa kia Cha cũng đã từng thấy những cảnh tượng như con nói.

    - Thế bây giờ thì sao? Cha có còn thấy những cảnh đó không?

    - Giờ thì không. Không bao giờ Cha còn thấy những cảnh tượng như thế nữa. Cha biết rằng những cảnh tượng ấy vẫn còn đâu đóm nhưng Cha đã không còn đôi mắt có thể nhìn thấy cảnh tượng đó nữa rồi. Giờ Cha nhìn thấy những cảnh tượng khác hẳn.

    - Vậy Cha nhìn thấy gì?

    - Nhìn thấy gì ư, Carino? Khi nhìn lên cao Cha thấy khoảng trời xanh và đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, nhưng ở dưới kia Cha nhìn thấy một cảnh tượng trái ngược hẳn - Montanelli chỉ tay xuống dưới chân đèo.

    Arthur quỳ gối, cúi người trên bờ đứng của mép vực nhìn xuống những cây thông lớn đắm mình dưới ánh hoàng hôn, đứng thẳng tắp dọc theo hai bờ sông nhỏ hẹp như những người lính gác. Một lát sau, mặt trời như cục than hồng rực lửa đã khuất mình sau mỏm đá lô nhô, quang cảnh thiên nhiên tối sầm đi như bị tước mất cả sự sống và ánh sáng. Một thế lực đen tối dữ tợn trùm lên khắp thung lũng một không khí ảm đạm khủng khiếp bằng một thứ vũ khí ma quái nào đó. Nơi mỏm đá gập ghềnh phía tây, những vách đá dựng ngược chĩa thẳng lên trời như chiếc móng vuốt sắc nhọn của một con quái vật hung bạo nào đó, chực chờ nhảy xuống vồ lấy con mồi rồi tha xuống cửa miệng đang há hốc của vực thẳm, nơi tiếng rên xiết của gió rít đương phát ra. Những ngọn thông cao lớn vươn lên như những lưỡi dao nhọn, thầm thì trong tiếng reo vi vút: "Hãy rơi xuống đây!". Suối nước gầm thét ầm ầm trong đêm tối, tuyệt vọng xô mình vào những vách đá đứng sừng sững như vách nhà tù.

    - Cha! - Arthur nhỏm dậy rùng mình lui khỏi bờ vực thẳm - Thật giống địa ngục!

    - Không, con ạ! – Môngtaneli nhẹ nhàng nói – Nó giống như linh hồn con người.

    - Linh hồn của những kẻ đang chơi vơi trong tăm tối và dưới bóng đen của tử thần ư?

    - Linh hồn của những kẻ mà hàng ngày ta vẫn lướt qua trên đường phố!

    Arthur co rúm mình, nhìn vào bóng đêm phía dưới vực thẳm. Sương mù mờ trắng dần xâm lấn vào giữa rừng thông, chầm chậm len lỏi bên dòng suối đang tuyệt vọng hấp hối như một bóng ma ủ rũ, không đủ sức thốt ra một lời an ủi.

    Bỗng Arthur nói:

    - Trông kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã nhìn thấy Chúa trời rồi!

    Phía đằng đông, những đỉnh núi tuyết bừng cháy rực rỡ dưới ráng chiều. Nhưng rồi, ngay sau khi những tia nắng mờ đó tắt đi, Montanelli quay lại đặt tay lên vai Arthur:

    - Thôi về đi, Carino. Ánh sáng đang dần tắt hết rồi. Chúng ta sẽ lạc đường trong bóng tối nếu còn nán lại đây lâu hơn nữa.

    - Mỏm đá kia thật giống như một người đã chết.

    Arthur nói như vậy, mắt rời khỏi đỉnh núi tuyết còn lóng lánh ở đằng xa trong ánh hoàng hôn chạng vạng. Họ từ từ xuống núi, luồn lách giữa những hàng cây đen tối, tiến dần về phía ngôi nhà gỗ giữa núi mà họ dừng chân tối nay.

    Khi bước vào phòng ăn, nơi Arthur đang ngồi đợi, Montanelli thấy rằng cậu bé có vẻ đã lãng quên khung cảnh đen tối ảm đạm vừa qua và dường như đã biến thành một con người khác.

    - Cha, mời Cha lại đây xem này! Cha xem con chó ngộ nghĩnh chưa này! Nó nhảy nhót được bằng hai chân sau đấy!

    Chàng trai say mê con chó và những bước nhảy tung tăng của nó, chẳng khác gì một giờ trước đây cậu đã say mê cảnh hoàng hôn trên dãy Alpes.

    Bà chủ nhà, một người đàn bà má đỏ với chiếc tạp dề trắng cùng hai tay đẫy đà chống ngang hông, mỉm cười nhìn Arthur đùa nghịch với con chó. Bà nói với con gái bằng tiếng địa phương:

    - Trông cậu ấy nô nghịch như thế thì chắc chắn bình thường cậu ấy chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy xinh trai quá nhỉ.

    Arhtur đỏ mặt như một cô học trò, còn bà chủ nhà thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ đi, phá lên cười vì sự ngượng ngùng của anh.

    Trong bữa cơm anh chẳng nói gì ngoài bàn về kế hoạch du ngoạn sắp tới, bàn chuyện leo núi, chuyện tìm cây cỏ và các loài thực vật. Những hình ảnh huyền ảo vừa qua dường như chẳng có gì ảnh hưởng đến tâm tình hay khẩu vị của anh cả.

    Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy Montanelli đã không thấy Arthur đâu nữa. Trước lúc rạng đông, Arthur đã khởi hành lên trên đồng cỏ cao để "giúp Gaspard (*) chăn dê" rồi.

    (*) Tiếng Pháp: Mục đồng.

    Nhưng bữa sáng được dọn không bao lâu thì Arthur bất ngờ chạy ào vào phòng, đầu không đội mũ, trên vai anh cõng một cô bé nhỏ nhắn miền thôn dã chừng ba tuổi, và hai tay ôm bó hoa đồng nội lớn.

    Montanelli nhìn Arthur mỉm cười. Trông anh bây giờ trái ngược hẳn với một Arthur nghiêm nghị trầm lặng tại Pisa và Leghorn trước đây.

    - Đi đâu về thế, cậu bé tinh quái? Chưa ăn gì vào bữa sáng mà đã chạy khắp núi rồi sao?

    - A, thưa Cha, trên ấy hay lắm! Khi mặt trời mọc trời mọc trên đỉnh núi, cảnh vật thật tráng lệ làm sao! Sương xuống dày quá! Này, Cha trông!

    Arthur nhấc chân, giơ chiếc giày ướt át và lấm lem bùn đất lên.

    - Lúc đi chúng con có mang theo một ít bánh mì và pho mát, và lúc đến đồng cỏ chúng con được uống sữa dê.. Khiếp lắm cơ! Nhưng con lại thấy đã đói rồi. Vả lại con cũng muốn cho cô bé này ăn một chút gì nữa. Này, em có muốn uống mật không Annette?

    Arthur ngồi xuống, bế cô bé vào lòng rồi giúp cô bé xếp gọn hoa lại.

    Montanelli vội ngăn:

    - Thôi, thôi! Cha không thể để con bị cảm đâu. Hãy đi thay ngay quần áo đi.. Annette, lại đây con. Arthur, con thấy cô bé này ở đâu vậy?

    - Ở đầu làng ạ. Em ấy là con gái ông thợ sửa giày mà chúng ta gặp hôm qua đấy. Cha trông cô bé có đôi mắt đáng yêu không kìa! Trong túi bé còn có một con rùa nữa, em đặt tên nó là Caroline.

    Khi Arthur thay xong đôi tất ướt và trở xuống dùng bữa sáng, cô bé đã yên vị trên đầu gối vị linh mục và đang liến thoắng kể ông nghe câu chuyện về con rùa đang nằm ngửa trong lòng bàn tay mũm mĩm để "monsieur" (*) có thể thấy mấy cái cẳng của nó đang gắng hết sức ngọ nguậy.

    (*) Tiếng Pháp: Ông, ngài.

    Cô bé nói nghiêm trang với giọng địa phương khá khó nghe:

    - Monsieur trông này! Caroline nó đi giày này!

    Montanelli ngồi chơi với Annette, vuốt mái tóc của cô bé, xem con rùa ngộ nghĩnh và kể cho cô bé nghe những câu chuyện thú vị.

    Bà chủ nhà vào dọn bàn, khi thấy Annette đang nhét tay vào túi áo vị mặc đồ cố đạo trang nghiêm thì rất đỗi ngạc nhiên. Bà nói:

    - Đúng là Chúa soi đường cho con trẻ nhận ra người tốt. Annette tường hay sợ người lạ, thế mà bây giờ ở cùng với Cha con bé lại chẳng rụt rè chút nào. Thật là điều kì diệu! Annette, con mau quỳ xuống xin Cha ban phép lành trước khi Cha khởi hành đi. Cha sẽ ban ba điều phúc lành cho cháu đấy.

    Một giờ sau, khi hai người đi tản bộ ngang qua đồng cỏ chói nắng, Arthur nói:

    - Thưa Cha, con thật không ngờ Cha lại khéo vui đùa với trẻ con thế. Cô bé không dời mắt khỏi Cha. Cha biết không, con vừa nghĩ..

    - Sao nào?

    - Con chỉ vừa định nói rằng.. con rất tiếc tại sao Giáo hội lại cấm không cho các linh mục kết hôn. Con thật không hiểu vì sao. Giáo dục trẻ con là một việc quan trọng lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt thì hay biết bao. Con tưởng rằng, người nào sự nghiệp càng cao quý, cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu thì người đó càng xứng đáng với nhiệm vụ làm cha bấy nhiêu. Thưa Cha, con tin rằng nếu Cha không bị ràng buộc bởi lời thề, nếu Cha lập gia đình thì con cái của Cha chắc sẽ rất..

    - Đừng nói nữa con!

    Câu nói ấy thốt ra bằng một giọng thì thầm vội vã nên càng làm sâu sắc thêm sự im lặng.

    Thấy nét mặt Montanelli sa sầm, Arthur rất thất vọng bảo rằng:

    - Thưa Cha, Cha nghĩ con đã nói những điều sai ư? Tất nhiên, cũng có thể con lầm nhưng đây cũng chỉ là điều con tự nhiên nghĩ tới mà thôi.

    Montanelli dịu dàng đáp:

    - Có lẽ con chưa thật hiểu rõ những lời con nói. Vài năm nữa con sẽ biết nhiều điều khác nữa. Bây giờ tốt hơn hết là ta nên nói về chủ đề khác.

    Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong không khí thoải mái hòa hợp giữa hai người từ lúc bắt đầu kì nghỉ hè lí tưởng này.

    Từ Chamonix, Montanelli và Arthur vượt qua đỉnh Tete-Noire. Đến Martigny, họ tạm dừng chân vì thời tiết quá oi ả. Sau bữa ăn, họ lên sân thượng của khách sạn, nơi khuất khỏi ánh nắng gay gắt từ mặt trời. Ở đó, khung cảnh núi rừng mĩ lệ mở rộng trước tầm mắt. Arthur đem hộp mẫu cây cỏ ra nói chuyện với Montanelli về thực vật học, họ say sưa thảo luận bằng tiếng Ý.

    Hai họa sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người ngồi phác họa phong cảnh, người kia thì lười nhác tán dóc. Anh ta hoàn toàn không ngờ hai người kia hiểu được tiếng Anh. Anh ta nói:

    - Thôi nào, Willie, vứt cái trò vẽ phong cảnh lăng nhăng ấy vào góc đi! Vẽ cậu bé người Ý đẹp trai đang ngồi mải mê với mấy cái lá lưỡi mèo kia kìa! Chỉ cần nhìn đôi lông mày của cậu ấy thôi! Cậu ấy mà thay chiếc kính lúp trong tay bằng một cây thánh giá, rồi chiếc quần soóc và áo khoác bằng một bộ áo Rome thì ta sẽ có ngay một tín đồ Thiên chúa giáo điển hình của những thế kỉ đầu tiên.

    - Thiên chúa đầu tiên cái quái gì! Khi ăn tối tớ ngồi cạnh cậu bé đó. Nhóc thích gà gô quay như thích đám cỏ dại bẩn thỉu kia vậy. Cậu bé thực điển trai nhỉ, nước da màu ôliu kia thật là tuyệt hảo. Nhưng cậu nhóc không đáng vẽ bằng một nửa ông bố đâu.

    - Ông bố ấy à, ai thế?

    - Ông bố đang ngồi ngay trước mặt cậu ấy ấy. Đừng bảo cậu không chú ý đến ổng đấy nhé? Gương mặt ông ta hoàn hảo như thế cơ mà!

    - Gì cơ? Cậu đúng là đồ đầu đất! Đến cả cố đạo Thiên chúa cũng không nhận ra à?

    - Cố đạo ư! Chúa ơi! Đúng rồi nhỉ! Tớ quên mất, họ thề không phá giới và không gì gì ấy linh tinh nữa mà. Thôi thế thì ta cũng có thể rủ lòng từ thiện mà giả định thằng bé là cháu gọi ông ta bằng bác vậy.

    Với đôi mắt tươi cười, Arthur nhìn lên phía Montanelli và nói thầm:

    - Thật là những kẻ ngớ ngẩn nhỉ! Dù sao họ cũng khá hay khi thấy con giống Cha. Con cũng muốn làm cháu thật của cha.. Cha, sao thế! Sao mặt Cha tái đi?

    Monntanelli đứng dậy, đưa tay sờ trán. Giọng ông khàn khàn và yếu ớt khi cất lời:

    - Cha hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha đi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một lát nhé Carino. Không có vấn đề gì đâu, chỉ là trời nóng quá thôi.

    Sau hai tuần nghỉ ngơi bên bờ hồ Lucerne, Arthur và Montanelli vượt đèo St. Gothard trở về Ý. Nhờ thời tiết suốt chuyến đi khá thuận lợi nên họ đã có một cuộc dạo chơi thú vị. Nhưng niềm vui trong lòng họ dần vơi bớt và chẳng còn được như những ngày đầu tiên.

    Montanelli luôn luôn băn khoăn nghĩ cách nói với Arthur câu chuyện nghiêm túc mà ông cho rằng kì nghỉ này là dịp thích hợp nhất để giãi bày. Khi còn ở thung lũng Arve, Montanelli cố ý tránh nhắc tới đề tài họ đã bàn với nhau trong vườn, dưới cây mộc lan. Montanelli nghĩ rằng nếu đem câu chuyện nặng nề ấy làm tối đi những nguồn vui đầu tiên mà thiên nhiên vùng Alpes đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Arthur thì thật tàn nhẫn quá. Từ ngày ở Martigny đến nay, cứ mỗi buổi sáng Montanelli tự nhủ thầm: "Hôm nay phải nói với nó mới được", nhưng cứ đến khi màn đêm buông xuống thì lại "Thôi, để mai".

    Kì nghỉ hè sắp trôi qua hết mà Montanelli vẫn tự nhủ thầm "Mai, mai". Điều kìm hãm Montanelli chính là một cảm nghĩ mơ hồi, tê buốt trong lạnh giá khi thấy rằng quan hệ giữa hai người không còn như cũ nữa, mà dường như có một tấm màn vô hình ngăn cách họ. Mãi đến buổi chiều cuối cùng của kì nghỉ hè, Montanelli mới đột nhiên hiểu rằng hôm nay là cơ hội cuối cùng để ông nói về đề tài nhạy cảm này.

    Họ ở lại Lugano nghỉ đêm và dự định sáng hôm sau lên đường về Pisa. Montanelli định ít nhất cũng tìm hiểu xem đứa con yêu quý của mình đã sa vào vũng lầy chính trị tai họa ở nước Ý nhiều tới mức nào.

    Sau hoàng hôn, Montanelli nói:

    - Trời tạnh mưa rồi, con yêu quý ạ. Bây giờ sẽ là dịp duy nhất để chúng ta đi ngắm cảnh hồ. Đi nào, Cha muốn nói chuyện với con.

    Họ men theo bờ hồ, tới một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp, bên cạnh họ là một bụi hồng dại chi chít đầy quả đỏ tía. Trên cành cao còn run rẩy một vài đóa hồng nhỏ nở muộn màu trắng sữa đã phai tàn, ướt đầm những giọt mưa như đang rưng rưng khóc. Trên mặt hồ phăng lặng và xanh biếc là một con thuyền nhỏ với những cánh buồm trắng nhẹ, nó lung linh mờ ảo trong làn sương mờ trắng. Con thuyền trông nhẹ nhàng và mảnh khảnh tựa cành hoa thược dược màu bạc lãng đẵng trôi trên mặt nước. Cao cao trên ngọn Monte Salvatore, cửa sổ trên vài ngôi nhà cô quạnh của dân chăn cừu mở rộng, trông giống như những con mắt màu vàng đang phát sáng. Những đóa hồng cúi đầu mơ màng dưới bầu trời mây tháng chín; nước hồ rì rào xô từng đợt mềm mại lên những viên cuội ven bờ.

    Montanelli bắt đầu nói:

    - Đã lâu nay, chỉ tới giờ phút này cha mới có thể bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết rõ sự quan tâm của con dành cho Cha ra sao, và Cha cũng muốn con hiểu Cha quan tâm con đến nhường nào. Và nếu con..

    Montanelli ngừng một khoảng rồi chậm rãi tiếp tục:

    - Và nếu con cảm thấy rằng vẫn có thể tin Cha được như xưa thì Cha muốn con tâm sự với Cha rõ hơn về những điều chúng ta từng nói trong vườn của chủng viện, hãy nói thật cho Cha hay rằng con đã tham gia vào vấn đề này sâu tới mức độ nào.

    Arthur nhìn khắp mặt hồ, trầm ngâm lắng nghe và im lặng.

    Montanelli tiếp:

    - Nếu con có thể trả lời được thì Cha muốn biết liệu con có phải ràng buộc bản thân với sự nghiệp con đang theo đuổi bằng một lời thề hoặc.. bằng một cái gì khác.

    - Cha thân yêu, con chẳng có gì nói với Cha cả, con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng con vẫn bị ràng buộc.

    - Cha không hiểu..

    - Những lời thề có ý nghĩa gì? Thứ ràng buộc con người chưa bao giờ là một lời thề. Chỉ cần ta tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ để ràng buộc rồi. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì ràng buộc được ta cả.

    - Thế nghĩa là điều đó.. điều đó không thể thay đổi được ư? Arthur, con đã nghĩ kĩ về những lời con nói chưa?

    - Thưa Cha, Cha hỏi con có tin Cha không. Vậy thì Cha cũng có thể tin con không? Bởi vì nếu có gì thì con đã nói cho Cha nghe. Nhưng những chuyện ấy nói cũng chẳng ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời Cha nói với con chiều hôm ấy. Nhưng con phải đi theo con đường của con đi, tới phía ánh sáng đang bừng lên trước mặt con.

    Montanelli ngắt một đóa hoa khỏi bụi hồng, bứt từng cánh hoa và thả xuống mặt nước.

    - Con nói đúng, Carino. Chúng ta sẽ không nói thêm gì về chuyện ấy nữa. Dường như nhiều lời cũng chẳng ích gì.. Thôi nào, chúng ta hãy trở về thôi.
     
    Đỗ Hoàng SangSunkii thích bài này.
  4. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    CHƯƠNG III

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mùa thu và đông trôi qua mà không có việc gì đặc biệt xảy ra. Arthur dành thời gian đọc rất nhiều và hầu như không còn lúc nào rảnh rỗi. Tuy vậy, mỗi tuần một hoặc hai lần, anh vẫn bớt thời gian dù chỉ vài phút tới thăm Cha Montanelli. Đôi khi Arthur mang sách đến nhờ Cha giảng những đoạn khó, và những lúc ấy câu chuyện của hai người chỉ xoay quanh nội dung của đoạn văn thôi. Nhận thấy một hàng rào vô hình đã ngăn cách hai người, Montanelli cố tránh mọi điều, tỏ ra mình muốn giữ lại sự thân mật xưa kia. Việc Arthur đến thăm bây giờ chỉ đem lại cho Montanelli nhiều đắng cay hơn là vui vẻ. Ông luôn trong tình trạng căng thẳng và có vẻ thực khó khăn khi cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, làm như không có việc gì xảy ra. Về phía Arthur, dù không hiểu rõ song anh cũng lờ mờ nhận thấy được sự thay đổi tế nhị trong cách cư xử của Cha và phảng phất cảm thấy rằng điều đó có liên quan tới câu chuyện nặng nề về "những tư tưởng mới" của mình, nên cũng tránh nhắc tới điều mình hằng suy nghĩ ấy với Cha.

    Nhưng dù sao Arthur vẫn chưa bao giờ kính yêu Montanelli một cách sâu sắc như bây giờ. Trước kia, khi cảm thấy vướng mắc và trống rỗng trong tâm hồn thì Arthur dốc sức nghiên cứu khoa học thần học và giáo lí để xua tan những cảm giác ấy. Nhưng từ khi tiếp xúc với "nước Ý trẻ" (1) thì sự trống rỗng kia đã tan đi mà không để lại vết tích nào.

    (1) Nước Ý trẻ: Tên một đảng cách mạng của tiểu tư sản, dưới sự lãnh đạo của Giudéppê Mátdini lập ra năm 1831 ở Thuỵ Sĩ để đấu tranh giải phóng nước Ý khỏi ách thống trị của Áo, thống nhất đất nước và lập ra nền cộng hòa Ý.

    Tất cả những mộng tưởng yếu ớt sinh ra do nỗi cô đơn trong những đêm săn sóc mẹ bên giường bệnh trước kia đã trôi mất, và những mối hoài nghi trước kia Arthur vẫn dùng lời cầu nguyện để trốn tránh nay cũng không còn nữa. Cùng lúc đó một sự say mê mới, với một lí tưởng mới và rõ hơn về tôn giáo được khơi dậy trong anh. Không chỉ được khai sáng tư tưởng về chính trị trong phong trào sinh viên, Arthur còn tìm thấy nhiều điều hơn về cơ sở của tôn giáo. Anh thấy trong mình ngập tràn sự bình yên, thấy lòng thoải mái, thấy tâm hồn thảnh thơi, thấy yêu mến tất vả mọi người.

    Đối với Arthur lúc này, toàn thế giới chói lòa ánh sáng mới. Arthur đã tìm thấy những khía cạnh rất mới, rất đáng yêu trong con người, ngay cả ở những người mà trước kia anh chẳng hề ưa mắt. Về Montanelli, người mà năm năm qua đối với anh là một người anh hùng lí tưởng, thì nay anh như thấy một vầng một vầng hào quang trong mắt mình khi nhìn ông - nhà lãnh đạo niềm tin đầy hứa hẹn của tương lai. Arthur say sưa nghe Cha giảng đạo, cố tìm ra mối quan hệ huyết mạch của những câu giảng đạo ấy với những lí tưởng cộng hòa. Arthur cố gắng nghiên cứu kinh thánh và rất vui sướng với khuynh hướng dân chủ của đạo Cơ đốc nguyên sơ.

    Một ngày tháng giêng, Arthur ghé qua chủng viện để trả sách. Thấy Cha viện trưởng đi vắng, anh bèn vào phòng làm việc riêng của Montanelli. Arthur đặt sách lên giá, định bước ra thì bỗng thấy một quyển sách nằm trên bàn giấy. Đó là tuyển tập "De Monarchia" (2) của Dante. Arthur cầm lấy đọc và chỉ trong phút chốc đã mê mải đến nỗi cửa mở ra rồi đóng lại mà anh vẫn không hề hay biết. Chỉ mãi tới khi sau lưng vang lên tiếng nói của Montanelli thì Arthur mới ngừng đọc.

    (2) Luận về chính thể quân chủ: Tác phẩm của nhà thơ người Ý Alighieri Dante (1265 – 1321).

    Cha liếc nhìn tựa sách rồi nói:

    - Cha không ngờ hôm nay con lại đến. Cha vừa định cho người hỏi xem tối nay con có thời gian ghé qua không.

    - Có việc gì quan trọng sao Cha? Tối nay con có hẹn nhưng có thể hủy nếu..

    - Thôi, mai cũng được. Cha muốn được gặp con vì thứ ba này Cha đi rồi. Cha được triệu về Rome.

    - Về Rome ư? Bao lâu vậy thưa Cha?

    - Trong thư chỉ nói là "tới sau lễ Phục sinh" thôi. Thư của Vatican. Cha đã định cho con biết, nhưng lúc thì Cha bận rộn với việc trong viện, lúc thì chuẩn bị đón Viện trưởng mới.

    - Thưa Cha, hẳn là Cha sẽ không rời bỏ chủng viện này?

    - Đành phải đi thôi. Nhưng Cha còn về Pisa nữa. Ít nhất là về một thời gian.

    - Nhưng tại sao Cha lại đi?

    - Ấy.. Bề trên định phong Cha làm giám mục, nhưng lệnh đó còn chưa được công bố chính thức!

    - Nhưng Cha được bổ nhiệm ở đâu cơ?

    - Chính vì thế mà phải về Rome mới biết được. Các Cha bề trên chưa quyết định hẳn là Cha sẽ làm giám mục ở địa phận vùng núi Apennies hay làm giám mục tại đây, Suffargagan.

    - Thưa Cha, Cha Viện trưởng mới được bổ nhiệm chưa?

    - Rồi, đó là Cha Cardi. Ngày mai ông ấy sẽ đến.

    - Chuyện này không phải quá đột ngột sao Cha?

    - Ừ.. nhưng quyết định của Vatican thường đến phút cuối cùng mới được công bố.

    - Cha có quen Cha Viện trưởng mới không?

    - Cha không quen biết riêng, nhưng nghe người ta khen Cha ấy tốt lắm. Đức giám mục Belloni viết thư cho Cha, nói học vấn Cha Cardi rất uyên thâm.

    - Cha mà đi thì mọi người ở chủng viện sẽ nhớ Cha nhiều lắm.

    - Cha cũng không biết trường sẽ như thế nào, nhưng con thân yêu, chắc con sẽ cảm thấy thiếu Cha. Có lẽ cũng nhiều như Cha cảm thấy thiếu con vậy.

    - Con sẽ nhớ Cha lắm. Nhưng dù sao con cũng mừng rất cho Cha.

    - Mừng ư con? Còn Cha thì Cha không biết mình có mừng không nữa.

    Montanelli ngồi vào bàn, vẻ mặt bơ phờ như thực sự không vui mừng gì về chức trọng quyền cao mà mình sắp được bổ nhiệm.

    Sau giây lát yên lặng, Montanelli bắt đầu nói:

    - Arthur, chiều nay con có bận gì không? Nếu không con hãy ở lại với Cha, vì tối nay con không đến thăm Cha được. Cha thấy chút khó chịu trong người. Cha muốn trước khi đi còn được gần con nhiều hơn.

    - Được ạ. Nhưng đến 6 giờ con sẽ phải đi..

    - Một buổi họp kiểu đó phải không?

    Arthur gật đầu, Montanelli vội chuyển ngay đầu đề câu chuyện:

    - Cha muốn nói đến việc của bản thân con. Khi Cha không ở đây con cần có một Cha giải tội cho con.

    - Khi nào Cha trở về thì con sẽ có thể xin Cha giải tội cho cơ mà?

    - Sao con lại nói thế, Carino? Đương nhiên là Cha chỉ nói khoảng thời gian ba bốn tháng mà Cha đi vắng. Con có muốn một Cha ở nhà thờ Đức bà Catarina giải tội cho con không?

    - Thưa vâng ạ.

    Họ nói chuyện với nhau chút ít về những việc khác. Rồi Arthur đứng dậy:

    - Thưa Cha, con đi đây. Anh em họ đang đợi con.

    Một vẻ thẫn thờ lại hiện trên gương mặt Montanelli.

    - Con đi ngay ư? Con đã vừa giúp Cha thoát khỏi tâm trạng nặng nề. Thôi được, tạm biệt con.

    - Kính chào Cha. Nhất định mai con sẽ đến.

    - Con có thể đến sớm một chút để Cha kịp gặp riêng con. Mai Cha Cardi tới.. Arthur yêu quý, Cha xin con hãy thận trọng, điều gì chưa nghĩ kĩ thì chưa nên làm, ít nhất là cho tới khi Cha trở lại. Con không hiểu rằng lòng Cha lo cho con biết chừng nào khi Cha không ở đây!

    - Thưa Cha, Cha đừng lo. Vạn sự đều bình yên cả, và còn bình yên lâu.

    - Thôi, con đi đi.

    Montanelli giật giọng nói như vậy rồi cúi đầu trên bàn viết.

    * * *

    Bước vào phòng họp của sinh viên, người mà Arthur trông thấy đầu tiên lại chính là con gái bác sĩ Warren, người bạn gái của Arthur từ thời còn để chỏm. Cô ngồi bên cửa sổ tận góc phòng, đang chăm chú nghe một thanh niên cao lớn mặc bộ quần áo cũ kiểu Lombard nói chuyện. Anh ta là một trong "những người khởi xướng" của phong trào. Mới qua mấy tháng mà cô bé khác hẳn trước: Lớn lên và trở thành một thiếu nữ phổng phao. Chỉ còn đôi bím tóc to và đen sau lưng cô là gợi lại hình ảnh hồi cô còn là một nữ sinh. Cô mặc một cây đen, đầu cũng quàng một chiếc khăn đen vì gió lạnh vẫn đang lùa vào phòng họp. Trên ngực cô đeo một cành bách nhỏ, đó chính là huy hiệu của "Nước Ý trẻ". Anh thanh niên người Lombard đang say sưa nói về những nỗi đói khổ của nông dân vùng Calabrian. Còn cô gái thì ngồi nghe trong im lặng, tay chống cằm, mắt nhìn xuống sàn. Với Arthur, cô trông như một phiên bản đau buồn của nữ thần Tự do đang khóc thương cho nền cộng hòa đã mất. Vậy mà Julia cứ chê bai nào là một cô gái cao quá khổ, nào mặt tái, mũi hếch, nào chiếc áo ngoài đã cũ và ngắn cũn cỡn.

    Khi có người gọi chàng thanh niên Lombard ra đầu phòng kia, Arthur lại gần cô gái nói:

    - Jim, cũng ở đây à?

    Jim – đó là tên hồi nhỏ và là tên gọi tắt của Jennifer, tên rửa tội của cô. Bạn học người Ý thường gọi cô ta là Gemma.

    Jim ngẩng đầu và ngạc nhiên:

    - Arthur! Ồ, tôi không biết là anh cũng ở đây!

    - Tôi cũng không ngờ lại gặp Jim ở đây. Jim ạ! Từ hồi nào..

    Cô vội ngắt lời:

    - Không, anh không hiểu đâu. Tôi chưa phải là đảng viên. Tôi mới làm được vài ba công tác nhỏ thôi. Tôi có quen với Bini.. Chắc anh biết Carlo Bini chứ?

    - Tất nhiên là có.

    Bini là người lập ra chi bộ Leghorn, trong "nước Ý trẻ" mọi người đều biết anh ta.

    - Ấy, chính Bini nói chuyện với tôi về việc này. Tôi liền đề nghị Bini cho mình dự cuộc hội nghị sinh viên. Sau đó Bini có viết thư đến Florence cho tôi.. tôi có dự lễ Giáng sinh tại Florence, anh có biết không nhỉ?

    - Không, dạo này tôi không hay nhận được tin nhà cho lắm.

    - À, ừ nhỉ.. Dù sao thì tôi cũng đi Florence và ở cùng với gia đình nhà Wright (chị em Wright là bạn học cũ của Gemma, họ đã chuyển đến Florence). Khi đến nơi Bini lại viết thư cho tôi lúc về thì ghé qua Pisa, vì thế hôm nay tôi mới đến đây.. Kìa họ bắt đầu rồi..

    Bài nói chuyện có chủ đề về nền Cộng hòa lí tưởng và nói rằng thanh niên có trách nhiệm phải sẵn sàng phấn đấu cho nền cộng hòa Ý. Bản báo cáo cũng còn đôi chút mơ hồ trong diễn đạt chủ đề nhưng Arthur vẫn nghe với một lòng cảm phục chân thành. Trong giai đoạn này điều gì Arthur cũng tin theo, và bất cứ cái gì gọi là lí tưởng luân lí mới, anh cũng đều nốc cạn một hơi, không hề nghĩ ngợi. Sau khi nghe bản báo cáo và phần thảo luận dài tiếp theo cũng đã xong, các sinh viên bắt đầu giải tán thì Arthur trở lại chỗ Gemma lúc nãy, cô vẫn ngồi trong góc phòng.

    - Tôi đưa Jim về nhé. Jim đang ở đâu?

    - Tôi ở nhà Marietta.

    - Bà quản gia cũ nhà Jim đấy ư?

    - Phải, cũng khá xa đấy.

    Họ đi bộ trong trầm ngâm im lặng một hồi lâu. Arthur bỗng hỏi:

    - Jim bao nhiêu tuổi rồi, mười bảy phải không nhỉ?

    - Tháng mười năm ngoái tôi đã tròn mười bảy tuổi rồi.

    - Lúc nào tôi cũng nghĩ rằng khi lớn lên Jim chẳng say mê khiêu vũ nhảy nhót như các cô gái khác. Jim thân yêu, tôi luôn tự hỏi không biết Jim sẽ có trong hàng ngũ của chúng ta không nhỉ?

    - Tôi cũng nghĩ như thế đấy.

    - Jim nói Bini đã giao công tác cho Jim. Vậy mà tôi không hề biết là Jim có quen cả Bini.

    - Có phải tôi làm giúp Bini đâu, làm giúp người khác kia.

    - Giúp ai?

    - Giúp Bolla, người nói chuyện với tôi lúc nãy.

    - Jim có quen Bolla lắm không?

    Giọng nói của Arthur có chút ghen tị. Anh chẳng ưa các chủ đề về Bolla. Hai người đã có sự cạnh tranh ngấm ngầm vì đều muốn nhận một công tác, nhưng sau cùng Ban chấp hành "nước Ý trẻ" giao cho Bolla làm vì cho rằng Arthur còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm.

    - Cũng khá thân. Tôi mến anh ấy lắm. Anh ấy đang ở Leghorn.

    - Tôi biết.. Anh ấy đến Leghorn vào khoảng tháng một.

    - Phải, đến đợi tàu. Arthur, anh có nghĩ rằng dùng chỗ nhà anh ở để làm việc này thì an toàn hơn không? Không ai nghi ngờ một nhà chủ hãng tàu giàu có như nhà anh. Với lại anh còn quen biết mọi người trên bến nữa.

    - Khẽ chứ, đừng nói to thế, Jim thân yêu! Thế ra tài liệu từ Marseilles tới vẫn giấu ở nhà Jim ư?

    - Chỉ để ở đấy một ngày thôi.. Ôi nhưng có lẽ tôi không nên nói với anh chuyện này thì phải nhỉ?

    - Sao lại không được? Jim cũng biết tôi là người của đoàn thể kia mà. Gemma thân yêu, nếu Gemma và.. đức Cha cùng đi theo chúng tôi thì tôi không có gì sung sướng hơn trên đời này!

    - Đức Cha của anh ấy à, chẳng lẽ ông cũng..

    - Không, cách nghĩ của đức Cha khác hẳn. Nhưng đôi khi tôi vẫn nghĩ.. Tôi hi vọng rằng..

    - Arthur, ông ấy là cố đạo kia mà!

    - Thì đã sao? Trong tổ chức của chúng ta cũng có cả các Cha chứ. Có hai Cha đang viết báo cho chúng ta (3). Mà như thế có sao đâu! Vì sứ mệnh của giáo sĩ là dẫn thế gian tới những lí tưởng và mục đích cao cả. Đoàn thể của chúng ta chẳng phải cũng nhằm tiến tới mục đích đó hay sao? Rốt cuộc đây chính là vấn đề giữa tôn giáo và luân lí hơn là vấn đề về chính trị. Vì nếu người ta muốn trở thành công dân tự do và có trách nhiệm thì không ai có thể nô dịch họ được.

    (3) Tức là tờ báo "Nước Ý trẻ".

    Gemma nhíu mày lại:

    - Arthur, tôi có cảm tưởng là lí tưởng của anh có chỗ nào lầm lẫn đấy. Cha cố cổ động học thuyết tôn giáo. Tôi thấy cái đó chẳng dính dáng gì đến việc chúng ta tự giải phóng mình khỏi ách nước Áo cả.

    - Các Cha là người truyền đạo cho đạo chúa Giêsu; mà chúa Giêsu là người vĩ đại nhất trong các nhà cách mạng.

    - Anh biết không, tôi có nói chuyện với Cha tôi về vấn đề Cha cố, ngay cả Cha tôi cũng..

    - Nhưng cha Gemma theo đạo Tin lành kia mà.

    Sau khoảnh khắc im lặng, cô mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt Arthur:

    - Thôi đừng nói chuyện ấy nữa thì tốt hơn. Hễ nói về đạo Tin lành là bao giờ anh cũng có vẻ khó chịu lắm.

    - Không phải thế đâu. Chính người theo đạo Tin lành khó chịu khi nghe nói tới người theo đạo Thiên chúa thì có.

    - Thôi thì cứ coi là như thế. Nhưng chúng ta đã tranh cãi quá nhiều vấn đề này rồi, không cần nhắc lại thêm nữa.. Anh có thích buổi nói chuyện hôm nay không?

    - Thích lắm, nhất là đoạn cuối. Hay nhất là lúc báo cáo viên nhấn mạnh: Chúng ta không nên chỉ mơ ước một nền cộng hòa, mà phải hiện thực những lí tưởng cộng hòa! Điều đó đúng với học thuyết của chúa Giêsu: "Thiên đàng là ở trong lòng chúng ta".

    - Chính đoạn ấy tôi lại không thích. Báo cáo viên nói quá nhiều về những điều kì diệu mà chúng ta phải suy nghĩ, nhưng không vạch ra cụ thể những cái mà chúng ta phải làm.

    - Khi thời cơ đến chúng ta sẽ có khối việc mà làm. Chúng ta phải kiên nhẫn. Thành Rome đâu có được xây trong một ngày đâu, phải tích tiểu thành đại chứ.

    - Nhiệm vụ càng lâu dài càng phức tạp thì càng có lí do để bắt đầu ngay từ lúc này. Anh nói cần phải chuẩn bị mình đầy đủ để hưởng tự do. Thế nhưng anh nói xem, có ai là người xứng đáng được hưởng tự do hơn mẹ anh? Bà chẳng phải là một người hiền hậu bậc nhất thế gian đó sao? Nhưng lòng tốt của bà đã đưa bà đến đâu? Bà chỉ sống như một người nô lệ dù cho tới ngày cuối cùng của đời mình. Vì vợ chồng James anh trai anh mà bà đã phải chịu đựng bao nhiêu dằn vặt đay nghiến. Nếu bà không dịu dàng, không kiên nhẫn chịu đựng đến thế thì chắc bà đã sống dễ chịu hơn, người ta chẳng bao giờ dám đối xử với bà tệ bạc đến thế! Nước Ý cũng vậy: Không phải là nhẫn nhục mà phải là đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình.

    - Jim thân yêu, nếu tức giận và nhiệt tình có thể cứu vãn được nước Ý thì nước Ý đã tự do từ lâu rồi. Nước Ý không cần hận thù mà cần tình yêu.

    Máu nóng bỗng bốc mạnh lên mặt anh rồi lại lắng xuống khi anh nói lên câu cuối cùng. Nhưng Gemma lại không nhận ra. Nàng nhìn thẳng về phía trước, nhíu mày, mím môi.

    Sau giây lát im lặng, Gemma nói:

    - Arthur, chắc anh cho là tôi sai. Nhưng không, tôi đúng chứ không sai đâu. Rồi một ngày kia anh sẽ rõ.. Tới nhà Marietta rồi. Anh có vào chơi không?

    - Không, khuya quá rồi. Thôi, chào Jim thân yêu!

    Anh đứng ở thềm, hai tay anh nắm chặt lấy tay Gemma.

    - "Vì thượng đế và nhân dân.."

    Và Gemma cũng chậm rãi và trịnh trọng đọc tiếp câu khẩu hiệu:

    - ".. trung thành suốt đời".

    Rồi nàng rút tay ra lại và chạy vào nhà. Khi cánh cửa đã khép lại, Arthur cúi người nhặt cành bách nhỏ vừa rơi xuống từ ngực nàng.
     
    SunkiiĐỗ Hoàng Sang thích bài này.
  5. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    Chương IV

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lòng lâng lâng nhẹ nhàng như được chắp thêm đôi cánh, Arthur trở về nhà. Anh cảm thấy mình tràn ngập một nỗi niềm vui sướng, tâm trạng như bầu trời được gột rửa sau cơn mưa, trong xanh không một áng mây gợn buồn. Trong buổi họp mặt đã có những dấu hiệu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, Gemma giờ đây đã là đồng chí của Arthur, và Arthur đương ôm ấp một mối tình thắm đượm với cô. Hai người sẽ cùng nhau công tác, xa hơn là cùng nhau chiến đấu, và có lẽ họ sẽ cùng nhau hi sinh trong cuộc đấu tranh cho nền cộng hòa đang lớn dần này. Hi vọng đã nở hoa và đang đến trước mắt kia rồi! Cha cố sẽ thấy và sẽ tin thôi.

    Nhưng sáng hôm sau, khi Arthur bừng tỉnh dậy, lòng anh đã tỉnh táo hơn. Anh sực nhớ rằng Gemma sắp đi Leghorn còn Đức cha sẽ đến Rome. Tháng giêng, tháng hai, tháng ba.. còn ba tháng dài nữa mới tới lễ Phục sinh! Gemma sẽ trở về với gia đình, và có thể lại rơi vào tầm ảnh hưởng của đạo Tin lành thì sao? (trong ngữ vựng của Arthur, "tín đồ Tin lành" và "Philistanh" (1) chỉ là một nghĩa).. Không, Gemma sẽ không đua đòi thói mơn trớn, làm đỏm dáng hòng quyến rũ các tay ăn chơi và những lão chủ tàu hói trán như những tiểu thư Anh khác ở Leghorn, cô ấy hoàn toàn khác với họ. Nhưng Gemma chắc sẽ rất đau lòng. Nàng tươi trẻ đầy sức sống như kia, lại không có bạn bè bên cạnh, Gemma hẳn sẽ cảm thấy cô đơn lắm giữa rừng nguời gỗ đá vô tâm ấy.. Ôi, giá mà mẹ còn sống..

    (1) Do Thái (từ cũ) - trước kia người Do Thái thường bị coi là nhỏ nhen, ích kỉ, thiếu văn hóa.

    Vào buổi chiều, Arthur vào chủng viện và bắt gặp Montanelli đang tiếp đón cha Viện trưởng mới. Vẻ mặt Montanelli vừa mệt mỏi vừa cau có, trông thật buồn bã chán nản làm sao. Thấy Arthur, thay vì bừng lên ánh sáng vui vẻ như mọi ngày, nét mặt của ông dường như sầm tối lại.

    Khi giới thiệu Arthur với cha Viện trưởng mới, Montanelli nói bằng một giọng khô khan:

    - Đây là cậu sinh viên tôi vừa nói với cha. Tôi rất cảm kích nếu Cha có thể cho phép cậu ấy dùng sách của thư viện như trước.

    Cha Cardi là một giáo sĩ có tuổi, vẻ mặt phúc hậu. Cha nói chuyện ngay với Arthur về trường học Sapienza. Bằng một giọng nói tự nhiên đầy thân mật, cha nhanh chóng chứng tỏ được sự hiểu biết của mình về các hoạt động của sinh viên. Câu chuyện nhanh chóng chuyển tới một vấn đề nóng hổi đương thời là những quy định quá nghiêm ngặt tại trường đại học. Điều làm Arthur rất vui mừng là cha Viện trưởng mới phê bình ban giám hiệu nhà trường kịch liệt vì đã hạn chế các sinh viên bằng những đìều hết sức vô lí, khiến cho các sinh viên cực kì bất bình.

    Ông nói:

    - Về việc hướng dẫn thanh thiếu niên, tôi có khá nhiều kinh nghiệm. Nguyên tắc của tôi là bất cứ việc gì không có lí do xác đáng thì nhất định không nên cấm. Nếu đối xử tốt với thanh niên, tôn trọng nhân cách của họ, thì số thanh niên làm cho bề trên phải phiền lòng cũng rất ít thôi. Bởi đương nhiên ai bị chèn ép quá quắt cũng sẽ vùng lên, con giun xéo lắm cũng quằn nữa là.

    Arthur tròn xoe mắt ngạc nhiên. Anh thực không ngờ cha Viện trưởng mới lại bênh vực quyền lợi của sinh viên đến thế. Montanelli không tham gia vào câu chuyện, mà dường như ông cũng chẳng quan tâm gì đến vấn đề ấy. Trông ông phờ phạc và thiếu sức sống đến nỗi cha Cardi phải thăm hỏi:

    - Thưa đức cha, chắc tôi làm phiền đức cha lắm nhỉ. Đức cha thứ lỗi cho, tính tôi hay nói nhiều, nhất là khi quá chú tâm vào một vấn đề cấp thiết như này, thành thử tôi không để ý đến việc người khác có thể thấy chán.

    - Trái lại kia, tôi cũng rất quan tâm vấn đề ấy.

    Trước kia, Montanelli chẳng bao giờ tỏ vẻ khách sáo như vậy cả, nên giọng điệu lúc này của ông làm Arthur thấy không thoải mái chút nào.

    Khi cha Cardi đi khỏi, Montanelli quay về phía Arthur, nhìn anh với vẻ lo lắng đăm chiêu ông đã lộ ra suốt buổi chiều hôm nay. Ông chậm rãi nói:

    - Arthur, con thân yêu, cha có việc cần nói với con.

    Arthur lo ngại nhìn bộ mặt đờ đẫn của Montanelli, một suy nghĩ vụt lóe trong đầu: "Chắc lại có tin chẳng lành đây". Im lặng hồi lâu. Montanelli bỗng hỏi:

    - Con có thích cha Viện trưởng mới không?

    Câu hỏi đột nhiên đến nỗi Arthur không biết trả lời ra sao cả.

    - Con.. con rất thích.. Con nghĩ.. ít nhất là.. à không, con cũng chưa biết chắc là con có thích cha ấy không. Rất khó để nhận xét khi ta mới gặp ai đó lần đầu.

    Montanelli ngồi gõ tay vào ghế, đây là một cử chỉ rất quen thuộc mỗi khi ông có điều gì phải lo nghĩ hay bối rối, rồi ông nói tiếp:

    - Còn về việc cha đi, nếu con không muốn.. Ờ.. Arthur nếu con muốn, thì cha sẽ viết thư về Rome và nói rằng cha không thể đi được.

    - Thưa cha! Nhưng Vatican..

    - Vatican sẽ tìm người khác. Cha có thể viết thư xin lỗi.

    - Nhưng sao lại thế? Con không hiểu được.

    Montanelli đưa tay lên vuốt trán.

    - Cha lo cho con lắm. Cha không thể không ngừng nghĩ đến chuyện của con.. Trên tất cả, có lẽ cha cũng không nhất thiết phải đi chuyến này..

    - Thế còn chức giám mục thì sao?

    - Ồ, Arthur! Còn sung sướng nỗi gì nếu cha được thăng chức giám mục mà lại mất mất..

    Montanelli bỗng ngừng bặt, Arthur thấy bối rối vô cùng. Chưa bao giờ Arthur thấy cha như vậy cả. Anh luống cuống nói:

    - Thưa cha con chẳng hiểu thế nào cả.. Cha, cha nói rõ đi, cha hãy cho con biết cha lo lắng điều gì?

    - Cha không lo nghĩ điều gì cả. Chỉ là.. cha bị một mối lo khủng khiếp ám ảnh. Con hãy cho cha hay, liệu con có gặp một mối nguy hiểm đặc biệt nào không?

    Arthur nhớ tới những lời xì xào bàn tán về chuẩn bị khởi nghĩa và nghĩ thầm: "Chắc cha nghe thấy rồi đây?" Nhưng biết rằng không thể lộ bí mật, Arthur chỉ trả lời bằng một câu hỏi:

    - Có điều gì đặc biệt nguy hiểm được thưa cha?

    - Đừng hỏi lại cha, hãy trả lời đi – Vì quá xúc động, lúc này Montanelli nói gần như gay gắt. – Con có đang gặp điều gì nguy hiểm không? Cha không quan tâm hay muốn moi móc những bí mật của con đâu. Con chỉ cần trả lời cho cha một điều ấy thôi.

    - Thưa cha, tất cả chúng ta đều được che chở trong tay Chúa cả. Bất kì điều gì cũng đều có thể xảy ra. Nhưng con thấy rằng không có lí gì con lại không thể bình yên vô sự cho đến khi cha trở về.

    - Cho tới khi cha trở về.. hãy nghe đây, Carino. Cha để cho con tự quyết định lấy. Cha cũng không cần con phải giải thích nhiều. Chỉ cần con nói: "Cha hãy ở lại" là cha sẽ từ chối không đi nữa. Điều đó chẳng tổn hại gì đến ai cả, và ta nghĩ con sẽ cảm thấy an toàn hơn nếu ta ở cạnh.

    Tâm trạng kì quặc của Montanelli hôm nay cực kì khác với thường ngày, và nó đang khiến Arthur nhìn ông với một vẻ hết sức lo âu.

    - Cha, con nghĩ cha đang không được khỏe. Dĩ nhiên cha phải đi Rome chứ, cha chỉ cần cố gắng tĩnh dưỡng và thư giãn hết mức thôi, để tránh mất ngủ với đau đầu..

    - Được rồi. – Montanelli lập tức cắt ngang lười Arthur, dường như ông đã quá mệt mỏi khi câu chuyện chuyển sang hướng này. – Sáng mai cha sẽ khởi hành bằng chuyến xe đầu tiên.

    Arthur ngơ ngác nhìn Montanelli:

    - Hình như cha còn điều gì muốn nói với con?

    - Không, không, không có gì nữa.. Không có gì quan trọng nữa cả.

    Trong đôi mắt sững sờ của Montanelli là một vẻ lo âu, gần như hoảng sợ.

    * * *

    Vài ngày sau khi Montanelli ra đi, Arthur đến thư viện của chủng viện để mượn sách và bất ngờ gặp cha Cardi ở cầu thang. Cha Viện trưởng kêu:

    - A, cậu Burton. Tôi đang cần cậu đây. Mời cậu lên phòng tôi, tôi có chút rắc rối đang định nhờ cậu giúp.

    Ông mở cửa phòng làm việc, và Arthur bước theo ông ta với một cảm giác khó chịu ngấm ngầm. Nhìn căn phòng làm việc thân yêu, nơi thánh thất của cha Montanelli nay bị người khác chiếm mất, Arthur cảm thấy chua xót trong lòng. Cha Viện trưởng nói:

    - Tôi là một con mọt sách đấy. Khi tôi đến đây, việc đầu tiên là xem thư viện. Đó là một việc rất thú vị, nhưng tôi chẳng hiểu gì về bản kê sách sắp xếp theo hệ thống nào cả.

    - Bản thư mục chưa được đầy đủ, phần lớn các sách quý đều mới đưa đến.

    - Cậu có thể để độ nửa giờ giảng giúp tôi hệ thống thư mục không? Hai người bước vào thư viện, và Arthur tỉ mỉ nói rõ, mọi điều cần thiết. Khi Arthur cầm mũ định đi ra thì cha Viện trưởng ngăn lại với một nụ cười:

    - Không, không. Tôi không thể cho cậu vội về như thế đâu. Hôm nay thứ bảy, để đến sáng thứ hai học cũng được. Cậu ở lại đây, ăn cơm với tôi, đằng nào cũng muộn rồi còn gì. Bây giờ tôi chỉ có một mình thôi, thật vui khi cậu có thể dùng bữa cùng tôi.

    Thái độ xởi lởi và đon đả của cha làm cho Arthur thấy dễ chịu ngay từ phút đầu. Sau mấy câu chuyện phiếm, cha Viện trưởng hỏi Arthur biết Montanelli từ lâu chưa.

    - Gần bảy năm. Năm đức cha ở Trung Quốc về, con mới mười hai tuổi.

    - À phải. Bên ấy cha nổi tiếng là một nhà truyền đạo xuất sắc. Và từ đó trở đi cha hướng dẫn cho cậu học ư?

    - Một năm sau đức cha mới dạy con học, vào khoảng con bắt đầu nhận cha là cha linh hồn. Khi con vào đại học Sapienza thì cha tiếp tục bảo con học những môn không có trong chương trình đại học. Cha đối xử với con tốt lắm! Tốt không thể tưởng tượng được!

    - Tôi thực tin điều đó lắm. Con người ấy ai mà chẳng mến phục, thật là một tâm hồn đẹp đẽ cao quý làm sao. Nhiều lần tôi có dịp gặp các nhà truyền giáo đã từng làm việc với đức cha tại Trung Quốc, họ cũng tìm đủ lời để khen ngợi nghị lực, tinh thần dũng cảm trong những giờ phút khó khăn và lòng thành không gì lay chuyển nổi của đức cha. Cậu nên cảm ơn số mệnh đã cho cậu một người như thế để dìu dắt cậu trong thời niên thiếu. Nghe đức cha nói hình như cậu mồ côi từ sớm.

    - Thưa vâng, cha con mất từ khi con còn bé, mẹ con qua đời cách đây một năm.

    - Cậu có anh chị em gì không?

    - Không, chỉ có hai anh cùng cha khác mẹ thôi.. Nhưng khi con còn phải ẵm ngửa thì các anh ấy đã lập nghiệp cả rồi.

    - Chắc rằng vì cậu mồ côi từ nhỏ nên cậu mới càng thêm quý mến lòng tốt của đức cha Montanelli như vậy. Thế khi đức cha Montanelli đi vắng thì cậu có cha nào giải tội không?

    - Nếu các cha xứ Đức bà Catarina không có nhiều người đến xưng tội quá thì con định xin một cha giải tội cho.

    - Thế cậu có muốn tôi giải tội cho không? Arthur trố mắt ngạc nhiên:

    - Thưa cha kính mến, tất nhiên, con.. con rất sung sướng, nhưng chỉ sợ..

    - Chỉ sợ cha Viện trưởng chủng viện thường không giải tội cho người ngoài đời phải không? Đúng thế, nhưng tôi biết là Montanelli rất chăm sóc cậu và nếu tôi không lầm, cha rất lo lắng cho sự bằng an của cậu thì phải. Nếu tôi phải xa học trò yêu của tôi thì tôi cũng lo lắng như vậy. Nếu đức cha Montanelli biết rằng có đồng nghiệp chăm sóc cho phần hồn của cậu thì chắc cha vui lòng lắm. Hơn nữa, con của cha, cha nói thật với con là cha ưa con lắm. Điều gì giúp được con thì cha rất sẵn lòng.

    - Nếu vậy thì con rất cảm tạ cha cha che chở.

    - Thế đến tháng sau cha sẽ đợi con tới xưng tội nhé? Tốt lắm! Ngoài ra chiều nào rảnh rang con cứ lại đây với cha, con của cha ạ!

    Trước lễ phục sinh không lâu, có tin chính thức Montanelli bổ nhiệm làm giám mục và đi cai quản địa phận Brisighella, một khu nhỏ vùng núi Etruscan Apennines (2). Đọc những lời lẽ bình tĩnh và phấn khởi trong thư ông gửi cho Arthur từ Rome cũng thấy nỗi u buồn của ông đã qua rồi. Montanelli viết: "Mỗi kì nghỉ hè con phải đến thăm cha và cha hứa sẽ luôn đến thành Pisa. Cha hi vọng được gặp con, dù cho số lần không được nhiều như cha mong muốn cũng chẳng sao."

    Bác sĩ Warren mời Arthur đến ăn mừng lễ Phục sinh ở nhà ông chứ không phải ở tòa lâu đài cổ lỗ, âm u và đầy chuột mà Julia hiện nay đã độc chiếm. Trong thư có kèm theo một mẩu giấy con với nét chữ viết vội, nguệch ngoạc như trẻ con của Gemma. Gemma khẩn khoản rằng nếu có điều kiện thì Arthur đến chơi vì "Gemma có chuyện cần nói với Arthur". Tin đồn đại trong đám sinh viên càng làm cho Arthur phấn khởi. Mọi người đều chờ đợi những biến cố lớn sau lễ Phục sinh. Tất cả những điều đó đem đến cho Arthur một tâm trạng hân hoan chờ đợi, và Arthur tưởng chừng như tất cả những điều vô lí hết sức kì lạ mà sinh viên thì thào với nhau đều rất tự nhiên và sắp trở thành hiện thực đến nơi trong vòng hai tháng tới. Arthur định đến thứ năm trong tuần Thánh (3) sẽ về nhà nghỉ ngơi mấy ngày đầu để nỗi vui gặp gỡ Gemma khỏi ảnh hưởng tới tâm niệm nghiêm trang mà giáo hội khuyên răn bổn đạo phải giữ trong những ngày lễ ấy.

    Tối thứ tư, Arthur viết cho Gemma báo tin sẽ tới vào ngày thứ hai, sau ngày lễ Phục sinh rồi Arthur đi ngủ, lòng rất thư thái. Arthur quỳ trước Thánh giá. Cha Cardi hứa sáng mai sẽ giải tội cho nên lúc này Arthur phải đem hết lòng thành cầu nguyện rất lâu để dọn mình ăn năn lần cuối cùng trước lễ Phục sinh. Quỳ gối, chắp tay, Arthur cúi đầu ôn lại từng ngày trong tháng qua, nhớ lại từng tội lỗi nhỏ nhặt đã làm vẩn đục tâm hồn trong trắng của mình như sốt ruột, cẩu thả, không cầm trí. Ngoài những điều ấy, Arthur chẳng tìm thêm được gì cả: Trong những ngày hạnh phúc như thế làm gì có nhiều tội lỗi được? Arthur làm dấu thánh giá đứng dậy và bắt đầu cởi quần áo.

    Khi cởi áo sơ mi một mảnh giấy từ trong áo rơi ra. Đó là thư của Gemma mà Arthur ấp ủ trong ngực suốt tuần lễ nay. Arthur nhặt lên, mở ra, hôn những dòng chữ nguệch ngoạc yêu quý rồi gấp lại, và bỗng dưng lấy làm hổ thẹn vì cử chỉ buồn cười của mình. Giở nhìn mặt sau, Arthur bỗng thấy bức thư có thêm mấy dòng tái bút, mà anh chưa hề đọc tới: "Arthur, thế nào cũng đến nhé, càng sớm càng hay; Gemma sẽ giới thiệu Arthur với Bolla. Bolla ở đây, ngày nào hai đứa chúng tôi cũng làm việc với nhau".

    Một làn máu nóng trào lên mặt khi Arthur đọc những dòng chữ đó. Lại vẫn Bolla: Y còn đến Leghorn làm gì nữa? Mà tại sao Gemma lại nghĩ ra chuyện cùng làm việc với y? Y lại đem những sách báo riêng ra để mê hoặc Gemma chăng? Ngay trong buổi họp hồi đầu tháng giêng đã thấy ngay được là Bolla yêu Gemma. Chắc vì thế nên lúc ấy y mới nói hăng đến thế! Và bây giờ y lại tìm cách ở cạnh Gemma, hàng ngày ở cạnh Gemma.. Arthur gạt mạnh bức thư ra một bên rồi lại quỳ trước mặt thánh giá. Và đó lại là một linh hồn sẵn sàng ước ao được giải tội, sẵn sàng chịu lễ trong ngày Phục sinh, sẵn sàng sống bằng an với Chúa, với mình và với toàn thế giới! Thế nghĩa là linh hồn ấy vẫn có thể ghen tuông nghi ngờ một cách thấp hèn, vẫn có thể kèn cựa và tức giận nhỏ nhen với cả đồng chí của mình nữa!

    Arthur tự trách mình một cách cay đắng và đưa hai bàn tay bưng lấy mặt. Vừa cách đây năm phút mơ tưởng tới sự tuẫn tiết vì đạo mà bây giờ anh lại phạm tội với những ý nghĩ xấu xa, thấp hèn như vậy!

    Sáng thứ năm, khi bước chân tới nhà nguyện của chủng viện thì Arthur thấy cha Cardi đang ở đó một mình. Đọc xong kinh ăn năn tội, Arthur kể ngay tội lỗi mình mới phạm tối qua.

    - Lạy cha, con là kẻ có tội, con có tội ghen tuông, tức giận và có những ý nghĩ không xứng đáng đối với một người không làm gì sai với con cả.

    Thừa hiểu mình đang giải tội cho ai, cha Cardi dịu dàng nói:

    - Này con, con chưa cáo mình cùng cha hết mọi sự.

    - Lạy cha! Con đã có những ý nghĩ không Cơ đốc đối với một người mà đáng lẽ con phải đặc biệt yêu mến và kính trọng.

    - Một người mà con có quan hệ thân thiết như ruột thịt ư?

    - Hơn cả ruột thịt nữa.

    - Hỡi con, vậy thì sự gắn bó của con với người ấy?

    - Tình đồng chí.

    - Tình đồng chí ư? Đồng chí về việc gì?

    - Tình đồng chí trong sự nghiệp vĩ đại và thiêng liêng.

    Một thoáng im lặng.

    - Và con tức giận.. đồng chí đó, con ghen tị vì người đó làm việc có nhiều thành tích hơn con ư?

    - Vâng.. một phần như vậy. Con thèm muốn kinh nghiệm và tài năng của người ấy.. Và rồi.. con nghĩ.. con sợ rằng người ấy cướp mất trái tim một thiếu nữ.. mà con yêu.

    - Thế người yêu của con có phải là con cái Hội Thánh chúa không?

    - Không, cô ta là tín đồ Tin lành.

    - Kẻ khác đạo ư? Arthur nắm chặt hai tay, lúng túng đến cực độ. Anh nhắc lại:

    - Vâng, khác đạo.

    Chúng con cùng lớn lên với nhau. Mẹ chúng con là bạn của nhau và con.. con ghen ghét người ấy vì con thấy rằng người ấy cũng yêu cô ta và vì.. vì..

    Sau giây lát yên lặng cha Cardi bắt đầu nói, từ tốn và trang nghiêm:

    - Hỡi con, con chưa xưng hết mọi điều. Trong linh hồn con còn một sự gì nặng nề làm vậy?

    - Thưa cha, con.. Arthur lúng túng rồi lại nín bặt. Người giải tội im lặng chờ. - Con ghen ghét người ấy là vì đoàn thể "Nước Ý trẻ" của chúng con..

    - Vậy ư? -.. đã giao cho người ấy một việc mà con muốn đoàn thể giao cho con.. Con tự cho mình đủ sức làm việc đó hơn.

    - Việc đó là việc gì? - Nhận sách báo, sách báo chính trị, ở trên tàu xuống, rồi.. tìm chỗ cất giấu trong thành phố.

    - Việc ấy, đảng đã giao cho kẻ tình địch của con ư?

    - Vâng, giao cho Bolla.. và con ghen tị với anh ta.

    - Vậy về phía anh ấy có làm gì để con khó chịu không? Con có trách anh ấy coi thường nhiệm vụ đã giao phó cho không?

    - Không, thưa cha. Bolla hoạt động rất dũng cảm và hi sinh. Anh là một người yêu nước chân chính, và lẽ ra con phải yêu mến kính trọng.

    Cha Cardi đắn đo suy nghĩ.

    - Hỡi con, nếu ánh sáng mới đã chiếu rọi vào tâm hồn con, nếu trong tâm hồn con đã nảy nở một khát vọng làm việc vì hạnh phúc của đồng bào, nếu con có ước mong giảm nhẹ gánh nặng cho những người cùng khổ bị áp bức thì đó là một của quý Đức Chúa Lời đã ban cho con mà con phải suy nghĩ mà sử dụng cho nên. Mọi sự tốt lành đều bởi Chúa ban ra, việc sinh ra con trong một cuộc đời mới cũng là nhờ ơn Chúa, nếu con đã chọn con đường hi sinh, đã tìm được lối đi tới hòa bình, nếu theo các đồng chí thân yêu để giải phóng cho những kẻ đang than khóc và đau thương âm thầm, thì con hãy cố gắng để linh hồn con thoát khỏi tham muốn và dục vọng, để lòng con là một bàn thờ thánh mà ngọn lửa thiêng liêng sẽ đời đời không tắt. Con hãy nhớ rằng đó là một sự nghiệp cao cả và thiêng liêng, và trái tim nào đã thấm nhuần sự nghiệp ấy thì phải tẩy sạch mọi tính toán ích kỉ. Sứ mệnh đó giống với sứ mệnh các đấng giảng đạo. Họ không thể phụ thuộc vào tình yêu đối với một người đàn bà hoặc những dục vọng nhất thời. Sứ mệnh đó là: Vì Thượng đế và vì nhân dân, là: Trung thành suốt đời.

    - Ồ! – Arthur xiết chặt hai tay sửng sốt. Nghe khẩu hiệu quen thuộc, Arthur suýt phát khóc.

    - Thưa cha, cha đã ban cho chúng con sự chuẩn y của Nhà thờ! Đức chúa Giêsu là ở phía chúng ta..

    Cha Cardi trịnh trọng đáp:

    - Hỡi con, Đức chúa Giêsu đã đuổi lũ gian thương ra khỏi Đền thánh vì Đền thánh là nơi cầu nguyện, mà bọn chúng đã biến thành hang kẻ cướp!

    Sau một hồi lâu im lặng, Arthur run run nói khẽ:

    - Và khi đuổi được bọn chúng đi rồi thì nước Ý sẽ là đền thờ của Chúa..

    Arthur im lặng. Một giọng trả lời êm ru vọng lại:

    - Đức Chúa Lời đã phán truyền rằng: "Mặt đất này và của cải bởi đất mà ra đều thuộc
    về Ta cả".
     
    nntc6761 thích bài này.
  6. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    Chương V

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chiều hôm ấy Arthur cảm thấy cần đi bộ một chuyến xa. Anh giao đồ đạc cho một người bạn học, rồi đi bộ về Leghorn.

    Trời ẩm thấp đầy mây, nhưng không lạnh. Arthur cảm thấy mình đang đi trên một vùng đồng bằng tươi đẹp hơn bao giờ hết. Arthur thấy vô cùng khoan khoái khi cảm nhận cỏ ướt mịn dưới chân; hay khi nhìn những bông hoa dại mùa xuân mỉm cười thẹn thò mà duyên dáng ở bên đường. Một con chim đang làm tổ trong bụi gai xiêm vàng nơi ven rừng nhỏ hẹp. Thấy bóng Arthur đi qua, nó hốt hoảng kêu, vỗ đôi cánh nhỏ màu nâu sẫm bay vụt lên không trung.

    Arthur cố gắng hướng suy nghĩ về những ý nghĩ đạo đức giáo lí, đúng với ý nghĩa bước sang ngày thứ sáu chịu nạn (1). Nhưng hình ảnh Montanelli và Gemma luôn hiện ra, cho nên cuối cùng Arthur đành phải bỏ ý nghĩ ép mình làm như thế. Anh bắt đầu hướng mình về tính chất kì diệu và quang vinh của cuộc khởi nghĩa sắp tới, và ý nghĩa về vai trò gắn cho hai thần tuợng của mình trong cuộc khởi nghĩa ập đến rất nhanh. Trong trí tưởng tượng của của Arthur, đức cha sẽ là lãnh tụ, là thánh tông đồ, là đấng tiên tri mà mọi thế lực đen tối phải chạy trốn trước sự giận dữ thiêng liêng của người. Dưới chân Người, những vệ sĩ trẻ tuổi của tự do sẽ phải học lại niềm tin và những chân lí cũ trong ý nghĩa mới mà từ trước đến nay chưa ai khám phá ra.

    (1) Ngày thứ sáu chịu nạn: Ngày thứ sáu trước ngày chủ nhật của lễ Phục sinh, ngày Jesus bị đóng đinh trên cây thánh giá.

    Còn Gemma? Ồ, Gemma sẽ chiến đấu trên chiến lũy. Gemma sinh ra để trở thành nữ anh hùng. Đó là một đồng chí tốt hoàn toàn. Đó sẽ là một thánh nữ trong sáng và dũng cảm mà biết bao thi sĩ hằng mơ ước. Gemma sẽ đứng bên anh, vai kề vai cùng anh chia sẻ niềm vui dưới đôi cánh của bão táp sinh tử. Và họ sẽ cùng nhau hi sinh, hi sinh trong giờ phút thắng lợi vì họ không nghi ngờ gì rằng thắng lợi nhất định sẽ tới. Arthur sẽ không thổ lộ cho Gemma biết tình yêu của mình, sẽ không ngỏ một lời nào, để khỏi phá cõi lòng yên tĩnh và tình cảm đồng chí êm đẹp của Gemma. Đối với Arthur, cô là một tạo vật linh thiêng, một tặng vật thanh khiết hiến dâng lên bàn thờ thánh, sẵn sàng chịu hỏa thiêu vì tự do của nhân dân. Anh – chẳng là kẻ nào cả - sao có thể dám lẻn vào nơi thánh địa trong trắng, của tâm hồn không biết đến tình nào khác ngoài Thượng đế và nước Ý vĩ đại?

    Thượng đế và nước Ý.. Nhưng anh đã thốt nhiên rơi xuống từ chín tầng mây khi bước vào ngôi nhà nguy nga mà u ám ở "phố Cung điện".

    Ngay ở cầu thang anh đã chạm trán với Gibbons, người quản gia của Julia. Y vẫn ăn mặc hết sức sạch sẽ, thái độ vẫn bình thản, và vẫn lễ phép một cách khinh khỉnh như mọi lần.

    - Chào bác Gibbons, các anh tôi có nhà không?

    - Thưa cậu, có ông Thomas và bà Burton ở nhà. Hai vị đang ngồi trong phòng tiếp khách.

    Arthur bước vào phòng với một cảm giác nặng nề khó thở. Sao căn nhà ảm đạm đến thế! Nó chẳng dính dấp gì với cuộc sống sôi nổi, tựa như một dòng sông chảy xiết bên ngoài cuộc sống. Khung cảnh trong phòng không hề thay đổi mảy may: Vẫn những con người ấy, vẫn những bức ảnh gia đình ấy, vẫn những đồ đạc nặng trịch và những bộ ấm chén khó coi ấy, vẻ khoe của kệch cỡm, cùng một trạng thái không sức sống ẩn trong tất cả mọi vật.. Ngay đến những bông hoa tươi cắm trong lọ đồng chạm bằng kim khí được phủ một lớp sơn cũng trông y như hoa giả. Dường như trong những ngày xuân ấm áp, những bông hoa ấy cũng chẳng bao giờ trào dòng nhựa non ấm nóng lên cả.

    Julia ngồi trong phòng ấy, nơi trung tâm cuộc sống của mình, đương đợi khách đến ăn cơm. Bộ quần áo dự lễ trang trọng, nụ cười trơ trẽn, những búp tóc hung, một con chó nhỏ nằm gọn trên đùi – đúng như một bức tranh vẽ trong tờ báo quảng cáo mốt ăn mặc.

    - Chào chú Arthur!

    Julia cất giọng khô khan, thò vội mấy ngón tay cho Arthur bắt trong chớp mắt, rồi rụt ngay lại để vuốt ve bộ lông mượt của con chó nhằm tìm kiếm cảm giác thoải mái hơn.

    - Chắc chú vẫn khoẻ và học được đấy chứ!

    Arthur lầm rầm mấy câu qua quýt vừa thoáng nghĩ ra, rồi im lặng một cách gượng gạo. Rồi James đã tới với bộ cánh sang trọng, đi cùng với một viên đại lí hàng tàu đã có tuổi nhưng chải chuốt đi cạnh. Nhưng sự có mặt của họ cũng chẳng làm cho không khí được khá hơn. Mãi đến khi Gibbons lên báo cơm chiều đã sửa soạn xong, Arthur mới đứng dậy khe khẽ thở dài khoan khoái.

    - Chị Julia, hôm nay em không ăn cơm chiều. Xin chị thứ lỗi cho, em về phòng đây.

    Thomas nói:

    - Chú giữ chay quá mức rồi đấy. Anh dám chắc rằng cứ như vậy thì chính chú lại tự làm ốm mình đấy thôi.

    - Ồ, không đâu! Xin chào anh chị.

    Gặp người đầy tớ gái ở hành lang, Arthur dặn sáu giờ sáng mai đánh thức hộ.

    - Mai cậu chủ (2) đi lễ nhà thờ ư?

    (2) Tiếng Ý: Signorino: Cậu (cô) chủ.

    - Phải. Thôi, chào chị Teresa.

    Arthur bước vào phòng của mình. Căn phòng này trước kia là của mẹ anh. Cửa tò vò đối diện với cửa sổ thường được bà dùng làm nơi cầu kinh trong lúc ốm bệnh liên miên. Một cây thánh giá đặt trên chiếc bệ đen ở giữa bàn thờ, trước cây thánh giá treo một cây đèn La Mã nhỏ. Chính mẹ Arthur đã qua đời trong căn phòng này. Một bức chân dung của bà treo trên tường ở một bên giường, và trên bàn, một di vật khác của bà là chiếc bát sứ, cắm đầy hoa lan tím – một thứ hoa bà hằng ưa thích. Bà Gladys mất đã tròn một năm nhưng những người làm Ý trong nhà vẫn chưa quên bà.

    Arthur lấy trong bọc hành lí ra một bức tranh đóng khung được bọc cẩn thận. Đó là bức chân dung truyền thần của Montanelli gửi từ La Mã về cách đây vài hôm. Arthur vừa định giở vật quý ấy ra thì thấy một người hầu nhỏ của Julia bưng vào một chiếc khay. Bà đầu bếp già người Ý, người đã phục vụ bà Gladys mãi cho đến ngày bà chủ mới khắc nghiệt xuất hiện trong nhà này, đã dọn đầy những thức ăn ngon trên khay, những món mà theo bà cậu chủ quý mến có thể ăn mà không phạm giới răn của Hội Thánh. Arthur từ chối hết thảy, chỉ nhón một chiếc bánh nhỏ. Cậu hầu nhỏ là cháu của quản gia Gibbons, mới ở Anh sang. Cậu cười một cách láu lỉnh, bưng khay ra khỏi phòng. Cậu đã gia nhập phe Tin lành dưới khu bếp của những người hầu.

    Arthur bước vào cửa tò vò, quỳ trước thánh giá, cố sức định thần để cầu kinh và suy nghĩ về Chúa. Nhưng qua một hồi rất lâu, Arthur vẫn chưa tập trung được. Đúng như Thomas nói, Arthur thực quá cực đoan khi thực hiện theo những lời răn của Mùa Chay. Những nỗi kham khổ mà anh tự gây cho mình đã có tác dụng như rượu mạnh. Arthur hơi rùng mình, tự thấy cây thánh giá như chơi vơi trong sương mù. Nguyện kinh một hồi lâu anh mới cầm trí được để ăn năn tội. Cuối cùng, sự mệt mỏi cực độ của cơ thể đã áp đảo sự căng thăng của thần kinh, và Arthur dần thiếp đi với tâm hồn yên tĩnh, thoát khỏi được những ý nghĩ xao xuyến và nặng nề.

    Arthur đương ngủ say thì có tiếng đập cửa phòng rất mạnh và dồn dập.

    "Lại Teresa chứ ai", anh nghĩ như vậy và uể oải trở mình thì lại có tiếng đập cửa. Arthur giật thót, bừng tỉnh với chút bực bội.

    Một giọng đàn ông gào lên bằng tiếng Ý: "Cậu ơi! Cậu! Dậy ngay đi, vì Chúa!"

    Arthur nhảy khỏi giường:

    - Cái gì thế! Ai đấy?

    - Tôi đây, Gian Battista đây ạ. Lạy Đức mẹ đồng trinh phù hộ cho cậu, xin cậu dậy nhanh lên!

    Arthur vội vã mặc quần áo và mở khóa cửa. Anh còn đang ngơ ngác nhìn bộ mặt tái xanh tái xám của người đánh xe thì đã nghe thấy tiếng bước chân và tiếng sắt loảng xoảng ngoài hành lang. Tức khắc anh hiểu ra mọi việc.

    Arthur bình tĩnh hỏi:

    - Họ đến tìm tôi phải không?

    - Họ đến tìm cậu đấy! Nhanh lên, cậu ơi! Cần cất giấu gì không? Tôi xin giúp cậu..

    - Tôi chẳng có gì phải cất giấu cả, các anh tôi đã biết chưa?

    Ở đầu hành lang, bộ quần áo cảnh phục đầu tiên đã hiện ra.

    - Ông nhà đã bị gọi dậy rồi. Cả nhà đều dậy hết. Khổ chưa, khổ biết chừng nào lại nhằm vào ngày thứ sáu tuần Thánh nữa chứ. Xin các Thánh phù hộ cho chúng con!

    Gian Battista òa lên khóc. Arthur tiến lên mấy bước về phía những tên lính hiến binh đang gươm giáo loảng xoảng tiến vào phòng.

    Theo sau họ là đám người ở, quần áo xộc xệch, run lẩy bẩy. Lũ lính vây lấy Arthur. Đi cuối cùng đoàn người lạ lùng ấy là ông bà chủ nhà. Ông hẵng còn đi dép lê, mặc áo ngủ, bà thì quấn chiếc áo choàng dài, đầu đầy giấy uốn tóc. "Thật y như bầy động vật chạy đi tìm thuyền để lánh nạn đại hồng thủy thứ hai vậy (4) ; kìa, lại thêm một đôi vợ chồng thú vật ngộ nghĩnh đến nữa kia!" Ý nghĩ ấy thoáng hiện khi Arthur thấy những bộ mặt ngây ngô đó. Nhưng hiểu rằng cười trong giờ phút nghiêm trọng này là không hợp lí chút nào nên anh cố bấm bụng nhịn.

    (4) : Một điều trích trong Kinh Thánh. Khi có đại hồng thuỷ trên khắp thế gian, động vật do Noah dẫn đầu lên chiếc thuyền đi lánh nạn.

    - "Ave, Maria, Regina, Coeli.." (5) Arthur thầm cầu nguyện và quay mặt đi để khỏi trông thấy và phì cười về những mảnh giấy uốn tóc đang phập phồng trên đầu Julia.

    (5) : Câu đầu trong một kinh đạo Thiên chúa bằng tiếng La tinh: "Kính mừng nữ vương Maria trên trời".

    Burton tiến lại gần viên sĩ quan chỉ huy đội hiến binh, nói:

    - Xin ông cho biết tại sao các ông lại dùng vũ lực xông vào nhà riêng như thế này? Tôi xin báo cho các ông biết trước là nếu các ông không giải thích được thỏa đáng thì tôi buộc phải khiếu nại với ngài đại sứ Anh.

    Viên sĩ quan lạnh lùng nói:

    - Tôi chắc chắn lời giải thích của chúng tôi sẽ thỏa mãn được cả ông và ngài đại sứ Anh nữa.

    Hắn rút từ túi rồi đưa cho James tờ giấy ra lệnh bắt chàng sinh viên khoa triết học tên là Arthur Burton.

    - Nếu ông cần giải thích gì thêm thì tôi khuyên ông nên đích thân hỏi ngài trưởng Nha hiến binh.

    Julia giật tờ giấy trong tay chồng, đọc lướt qua rồi xỉa xói vào mặt Arthur với một vẻ thô bỉ nhất có thể thấy trên đời của một mụ quý tộc lịch thiệp lúc nổi cơn tam bành.

    - Mày làm nhơ nhuốc gia đình tao! – mụ ta tru tréo – Bây giờ hàng phố kẻ chợ sẽ phỉ nhổ vào mặt chúng tao như thế nào? Lòng ngoan đạo của chúng mày dẫn mày tới đâu? Vào tù à? Không ngờ con mẹ đi đạo Thiên chúa lại đẻ ra cái giống con như mày..

    Viên sĩ quan cắt ngang:

    - Thưa bà, bà không được phép nói chuyện bằng tiếng nước ngoài với kẻ bị bắt.

    Nhưng câu nói của viên sĩ quan bị át đi bởi những lời kết tội mà Julia tuôn ra hàng tràng tiếng Anh.

    - Tao đã biết trước mà! Ăn chay, đọc kinh, cầu nguyện, rặt một thứ che đậy! Tao biết tỏng từ lâu mà!

    Có lần bác sĩ Warren đã ví Julia như một món xà lách đổ nhiều dấm. Arthur thấy lợm giọng vì giọng nói the thé của Julia và chợt nhớ đến lời so sánh ấy. Arthur nói:

    - Chị không cần phải nói thế. Chị không việc gì mà sợ liên đới hay gì cả. Ai cũng biết anh chị chẳng dính dáng gì đến việc này đâu..

    Quay về những tên lính hiến binh, anh nói:

    - Chắc các ông muốn khám đồ đạc của tôi? Tôi chẳng có gì giấu giếm cả.

    Trong khi tụi lính khám phòng, lục ngăn kéo, đọc thư, xem sổ ghi bài ở trường đại học, thì Arthur ngồi yên lặng ở mép giường. Anh hơi xúc động nhưng việc khám xét chẳng làm cho Arthur lo ngại. Những thư từ nào có thể liên luỵ đến người khác, Arthur đều đã đốt cả. Giờ đây, ngoài mấy bài thơ chép tay nửa cách mạng, nửa thần bí và hai ba số "nước Ý trẻ", lính hiến binh chẳng tìm thấy cái gì có thể "thưởng công" được cho việc lục soát của chúng cả. Sau một hồi kèo nhèo trước những lời khuyên của Thomas, Julia mới chịu đi ngủ. Với vẻ đài các khinh bỉ, Julia lướt qua mặt Arthur, còn James ngoan ngoãn theo sau.

    Từ nãy đến giờ Thomas vẫn đi lại quanh phòng cố làm ra vẻ thản nhiên. Khi vợ chồng James ra rồi, Thomas tiến lại chỗ viên sĩ quan xin phép nói chuyện với kẻ bị bắt. Viên sĩ quan gật đầu đồng ý. Thomas tới chỗ Arthur, khàn khàn nói:

    - Anh phải nói rằng chuyện xảy ra thật lôi thôi quá! Anh rất lấy làm phiền lòng.

    Arthur ngước nhìn Thomas với đôi mắt trong như một buổi trưa hè tươi nắng. Anh nói:

    - Lúc nào anh cũng tốt với em. Anh không có gì phải phiền lòng. Em chẳng sao đâu.

    Thomas giật mạnh ria mép và ra cái điều quyết định nói thẳng:

    - Chú Arthur, nghe anh bảo! Việc này có dính dáng đến tiền nong không? Nếu phải thì anh có thể..

    - Sao lại liên quan thể tiền nong được? Tất nhiên, không phải vấn đề về tiền.

    - Vậy thì chính trị phải không? Anh nghĩ thế. Thôi thì biết làm thế nào bây giờ.. Chú đừng thất vọng và cũng đừng chấp chị Julia làm gì. Chắc chú cũng đã biết miệng lưỡi chị ấy rồi. Nếu cần tôi giúp tiền nong hoặc gì đó, thì chú cứ cho tôi biết.

    Arthur chìa tay cho Thomas bắt, và Thomas bước ra khỏi phòng. Y cố làm ra vẻ phớt đời nên bộ mặt y lại càng thêm thộn hơn lúc nào hết. Trong khi đó, bọn lính hiến binh đã khám xét xong. Viên sĩ quan bảo Arthur mặc áo khoác ngoài. Arthur định bước ra khỏi phòmg nhưng bỗng dừng lại và ngập ngừng ở ngưỡng cửa, anh thấy khổ tâm phải từ giã phòng cầu kinh của mẹ trước mặt bọn chúng.

    Anh nói:

    - Các ông có thể ra phòng ngoài một chút không? Tôi không chạy trốn được, mà cũng chẳng có gì giấu giếm cả.

    - Tiếc rằng chúng tôi không có quyền để kẻ bị bắt ở lại một mình.

    - Thôi thế cũng được.

    Arthur bước vào cửa tò vò, quỳ gối, hôn chân thánh giá và khấn cầu:

    - Lạy chúa hãy cho con có đủ sức để trung thành đến cùng.

    Viên sĩ quan đứng cạnh bàn ngắm nhìn bức ảnh của Montanelli, rồi hất hàm hỏi:

    - Người thân thuộc của anh đấy à?

    - Không, đó là cha linh hồn của tôi, đức giám mục mới tại Brisighella.

    Những người Ý làm trong nhà lo sợ và buồn rầu đứng đợi Arthur ở thang gác. Cũng như mẹ mình, anh được mọi người trong nhà yêu mến. Giờ đây những người làm xúm lại quanh Arthur, buồn thương hôn tay và áo Arthur. Gian Battista cũng đứng đó, nước mắt trào ra và rỏ cả xuống chòm râu bạc.

    Người nhà Burton chẳng có ai ra tiễn cả. Sự lãnh đạm đó càng làm nổi bật lòng trung thực và tình yêu thương của những người ở khiến Arthur suýt phải khóc trong khi nắm lấy bàn tay đang giơ ra cho anh.

    - Thôi chào bác Gian Battista, nhờ bác hôn những đứa trẻ giùm tôi nhé! Chị Teresa ở lại nhé! Hãy cầu nguyện cho tôi, và mong Chúa phù hộ cho mọi người! Thôi chào tất cả, tôi đi đây..

    Arthur chạy nhanh xuống cầu thang. Một lát sau, chiếc xe ngựa chuyển bánh, trên bậc cửa chỉ còn lại một nhóm đàn ông thẫn thờ và đàn bà khóc thút thít đứng trông theo.
     
  7. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    Chương VI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Arthur bị giải tới một pháo đài lớn thời trung cổ ở ngay cạnh bến tàu. Đời sống trong tù thế mà cũng chẳng đến nỗi nào. Xà lim ẩm thấp và đen tối, nhưng Arthur đã từng lớn lên trong tòa nhà chẳng khác nào một cung điện cũ kĩ ở phố Via Borra, nên không khí ngột ngạt, hôi thối và chuột bọ đối với anh cũng chẳng phải điều lạ lẫm gì. Đồ ăn trong tù vừa ít vừa dở tệ, nhưng chẳng bao lâu James đã xin phép được gửi nhu yếu phẩm cần dùng từ nhà đến cho cậu em. Arthur bị giam một mình trong xà lim. Tuy canh gác chẳng nghiêm ngặt lắm nhưng anh vẫn không hiểu rõ mình bị bắt vì cớ gì. Dù sao đi nữa thì từ khi vào tù đến nay tâm hồn anh vẫn khá bình tĩnh, hay có thể nói chẳng dao động gì. Trong tù không được đọc sách nên anh luôn luôn cầu kinh và suy nghĩ về đạo, kiên nhẫn chờ đợi mọi việc sắp xảy ra.

    Một hôm, lính gác mở cửa xà lim và nói:

    - Mời đi lối này!

    Arthur hỏi lai hai ba lần nhưng chỉ nghe một câu trả lời: "Không có quyền nói chuyện". Anh đành chịu phép, đi theo người lính đi vào mảnh sân, những hành lang và thang gác ngoắt ngoéo và hôi hám. Cuối cùng anh bị dẫn vào một căn phòng lớn sáng sủa, trong đó có ba người mặc binh phục đang ngồi tán chuyện uể oải sau một chiếc bàn dài chất đầy giấy. Thấy Arthur bước vào họ liền ra vẻ quan trọng. Người cao tuổi nhất trong bọn họ là một viên đại tá có tuổi nhưng rất bảnh bao, ria mép đã bạc. Y chỉ cho anh chiếc ghế phía bên kia bàn rôi bắt đầu thẩm vấn.

    Arthur tưởng rằng họ sẽ dọa dẫm, rỉa rói chửi mắng nên đã sẵn sàng kiên nhẫn đối phó cho xứng với phẩm chất của mình. Nhưng sự thật thì ngược lại, và anh cảm thấy dễ thở hơn. Viên đại tá tỏ ra rất đường bệ, lạnh lùng một cách quan liêu nhưng lại xã giao một cách hoàn hảo. Đầu tiên là những câu hỏi thường lệ: Tên gì, bao nhiêu tuổi, quốc tịch gì, địa vị xã hội ra sao; họ ghi đều đều từng câu trả lời một theo cái trình tự xưa nay vẫn thế. Arthur đã bắt đầu thấy chán ghét và sốt ruột thì viên đại tá chợt hỏi:

    - Và bây giờ, cậu Burton, cậu biết gì về "Nước Ý trẻ"?

    - Theo chỗ tôi biết thì đó là một đoàn thể chính trị, xuất bản báo tại Marseilles, phát hành báo ở Ý để cổ động nhân dân khởi nghĩa và đánh đuổi quân đội Áo ra khỏi biên giới.

    - Cậu có đọc báo ấy chứ?

    - Phải, tôi có quan tâm đến vấn đề đó.

    - Vậy khi đọc báo cậu có nghĩ mình đã làm điều bất hợp pháp không?

    - Tất nhiên có.

    - Mấy tờ báo thấy trong phòng cậu lấy ở đâu ra?

    - Tôi không thể nói với ông được.

    - Cậu Burton, đây không phải chỗ nói "tôi không thể nói" ở đây. Cậu phải trả lời mọi câu hỏi của tôi.

    - Nếu chữ "tôi không thể nói" không vừa ý ông thì tôi sẽ nói là "tôi không muốn" vậy.

    - Nếu cậu cứ nói kiểu đó với tôi thì cậu sẽ phải hối hận sớm thôi.

    Không thấy Arthur trả lời, y tiếp:

    - Tôi có thể nói thêm rằng, theo tài liệu trong tay chúng tôi thì quan hệ giữa cậu với đoàn thể đó rắc rối hơn nhiều chứ không chỉ là đọc sách báo quốc cấm mà thôi đâu. Tốt hơn hết là cậu cứ thẳng thắn thú nhận cả đi. Đằng nào chúng tôi cũng sẽ biết sự thật và cậu sẽ thấy rằng dù chống chế và chối cãi để trốn tránh đều vô dụng cả thôi.

    - Tôi chẳng muốn che giấu gì cả. Các ông muốn biết điều gì?

    - Trước hết, cậu hãy nói cho tôi biết: Làm thế nào mà một người ngoại quốc như cậu lại dính dáng vào chuyện này?

    - Tôi nghĩ nhiều về những vấn đề ấy, tôi đọc những tài liệu tôi có thể tìm được, và rồi tôi đã đi đến những kết luận nhất định.

    - Ai đã thuyết phục cậu vào đoàn thể này?

    - Chẳng ai thuyết phục cả. Đó là ý muốn của cá nhân tôi.

    - Đừng giở trò loanh quanh với tôi – Viên đại tá xẵng giọng, sự kên nhẫn của hắn dần cạn kiệt – Không có ai tham gia hội kia mà không có người giới thiệu. Anh nói với ai để xin vào tổ chức đó?

    Im lặng.

    - Anh có sẵn lòng trả lời không?

    - Nếu ông hỏi kiểu đó thì tôi sẽ không trả lời.

    Giọng Arthur có vẻ bực bội. Một cơn giận kì lạ xâm chiếm Arthur. Lúc ấy anh đã biết có nhiều vụ bắt bớ tại Leghorn và Pisa, mặc dầu chưa hình dung được phạm vi của tai họa đã thực sự lên tới mức nào. Nhưng những tin đến tai Arthur cũng đủ làm anh bồn chồn lo lắng cho số phận của Gemma và các đồng đội khác của anh. Thái độ lễ phép giả dối của viên sĩ quan, cách nói ngoắt ngoéo, lối hỏi thâm độc tẻ ngắt và những câu trả lời đánh trống lảng làm cho Arthur bồn chồn và khó chịu. Thêm vào đó, tiếng giày đinh lộp cộp của tên lính gác ngoài cửa lại càng làm cho anh thêm bồn chồn hơn. Bỗng viên đại tá hỏi:

    - Vậy lần cuối cùng anh gặp Giovanni Bolla vào lúc nào? Ngay trước khi anh dời Pisa phải không?

    - Tôi không quen ai có tên như vậy cả.

    - Sao? Không quen Giovanni Bolla hả? Chắc chắn anh quen hắn lắm chứ! Một người thanh niên cao lớn, râu cạo nhẵn, hắn là bạn học của anh mà.

    - Tôi làm sao mà quen với tất cả sinh viên được.

    - Ồ, nhưng nhất định là anh biết Bolla. Nhìn chữ hắn viết đây. Thấy không? Hắn biết rõ về anh lắm.

    Và viên đại tá hờ hững đưa cho Arthur một tờ giấu trên đề hai chữ "Biên bản", dưới kí "Giovanni Bolla". Arthur đưa mắt lướt nhanh từ trên xuống dưới – và bắt gặp tên mình. Anh ngước mắt nhìn một cách ngạc nhiên.

    - Ông bắt tôi phải đọc ư?

    - Lẽ tất nhiên. Việc đó có dính líu đến anh mà.

    Arthur bắt đầu đọc, các viên sĩ quan thì im lặng theo dõi nét mặt của anh. Tài liệu đó là những lời khai trả lời một loạt câu hỏi. Rõ ràng, Bolla cũng đã bị bắt! Những lời đầu tiên rất thông thường. Tiếp đó là một lời khai ngắn về quan hệ giữa Bolla với đoàn thể, về việc phát hành sách báo cấm tại Leghorn và các cuộc họp sinh viên. Tiếp nữa, Arthur đọc thấy: "Trong số những người theo chúng tôi có cả một thanh niên người Anh tên là Arthur Burton, con một chủ hãng tàu giàu có ở Leghorn"

    Máu trào lên mặt Arthur. Thế là Bolla đã cung khai anh! Chính gã Bolla đã nhận trách nhiệm khởi xướng trọng yếu thế ấy, chính cái tay đã giác ngộ Gemma.. và đã yêu Gemma ấy! Arthur buông tờ giấy và đăm đăm nhìn xuống sàn nhà.

    Viên đại tá lễ phép nói:

    - Tôi mong bản khẩu cung nhỏ ấy có thể làm sáng phần trí nhớ nào đó của anh ra.

    Arthur lắc đầu.

    Anh lạnh lùng và cứng cỏi nhắc lại:

    - Tôi không hề biết người này. Chắc đây chỉ là một sự nhầm lẫn mà thôi.

    - Nhầm lẫn ư? Vô lí! Anh Burton, anh nên hiểu rằng phong độ hiệp sĩ và tinh thần Đông Kisốt (1) là rất tốt theo nghĩa của nó nhưng nếu đi quá mức thì lại chẳng có ích lợi gì. Đó là một sai lầm mà thanh niên các anh thường mắc phải. Anh thử nghĩ lại xem: Có nên vì chuyện cỏn con ấy mà làm liên luỵ tới mình và phá hoại tương lai của mình không? Anh thương hại một kẻ cung khai anh. Anh thấy chưa? Khi đã khai thì nó có kiêng nể gì anh đâu!

    Giọng viên đại tá nói như châm chọc. Một dự đoán chợt loé ra trong óc Arthur, làm anh giật mình.

    Arthur thét:

    - Đó là sự dối trá! Đó là một sự bịa đặt! Trông mặt các người ta đủ biết! Các người hèn nhát.. Các người định hãm hại một trong những kẻ đã bị các người bắt hoặc là các người định đưa ta vào tròng! Đồ bịa đặt, đồ ăn gian nói dối, đồ khốn nạn..

    - Câm ngay! – Viên đại tá điên cuồng bật khỏi ghế hét lên. Cả bè lũ hắn cũng đứng phắt dậy.

    Viên đại tá nói với một tên trong bọn:

    - Đại uý Tômaxi, gọi lính gác vào đây. Quẳng thằng này vào ngục tối, giam liền mấy ngày. Tôi phải cho nó một bài học đích đáng, phải dạy cho nó biết điều mới được.

    Ngục tối là một chiếc hầm nhỏ âm u, ẩm ướt, bẩn thỉu, ở sâu dưới đất. Viên đại tá định dạy cho Arthur biết điều, nhưng điều đó lại làm cho Arthur tức giận đến cực độ. Sinh trưởng trong một gia đình giàu có, Arthur quen tính sạch sẽ trong mọi việc. Viên đại tá bị xúc phạm kia hoàn toàn có thể thỏa mãn về cảm giác đầu tiên mà những bức tường nhầy nhụa, lúc nhúc ròi bọ, mặt đất đầy rác rưởi bẩn thỉu, mùi rêu mốc, mùi nước cống rãnh và gỗ mục hôi thối đem đến cho Arthur. Chúng đẩy Arthur vào hầm rồi đóng sập cửa lại. Arthur giơ hai tay lò dò bước về phía trước, anh rùng mình vì ghê tởm khi ngón tay đụng phải bức tường nhầy nhụa. Trong bóng tối, anh lần mò tìm chỗ đỡ bẩn nhất để ngồi.

    Suốt ngày Arthur ngồi trong ngục tối im lìm không một tiếng động; đêm trôi qua mà chẳng thấy biến chuyển gì. Cách biệt hẳn với thế giới bên ngoai, Arthur dần dần mất ý niệm về thời gian. Và sáng hôm sau, khi tiếng chìa khóa tra vào ổ kêu lách cách, những con chuột hốt hoảng chạy rúc vào chân, thì Arthur bàng hoàng nhỏm dậy. Tim anh đập rộn ràng, tai ù lên như đã xa rời ánh sáng và tiếng động hàng mấy tháng ròng.

    Cửa mở, một ánh đèn yếu ớt le lói rọi vào hầm cũng đủ làm cho Arthur chói mắt. Cai ngục đem vào một mẩu bánh và một bát nước. Arthur tiến lên chắc mẩm thế nào cũng được ra khỏi nơi này. Nhưng anh chưa kịp nói gì, thì người cai ngục đã giúi cho anh mẩu bánh mì với bát nước rồi quay người lặng lẽ bước ra và khóa chặt cửa lại.

    Arthur dậm chân. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy mình điên tiết. Giờ phút càng trôi qua, ý niệm của anh về không gian và thời gian càng thêm mờ mịt. Đối với anh, bóng tối là vô cùng vô tận, cuộc sống như ngừng hẳn lại.

    Chiều thứ ba cai ngục lại vào lần này có thêm một tên lính. Đầu choáng váng, mắt hoa, Arthur nhìn lên, anh phải che lấy mắt để tránh làn ánh sáng không quen thuộc ấy. Anh cố tình xem mình đã ở trong nhà mồ này bao nhiêu tuần lễ, nhưng cảm thấy mờ mịt, không sao tính được.

    Cai ngục lạnh lùng khô khan nói:

    - Mời ra..

    Arthur đứng dậy bước theo như một cái máy. Anh choáng váng một cách kì lạ, chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Cai ngục định dìu Arthur leo lên cầu thang nhỏ và dốc ngược để chui ra khỏi hầm. Arthur gạt tay y ra. Nhưng, đến bậc cuối cùng thì Arthur bỗng thấy chóng mặt, lảo đảo. Nếu cai ngục không nắm vội lấy vai anh thì anh đã ngã lộn xuống.

    * * *

    Một giọng vui vẻ cất lên:

    - Không sao, khỏi ngay thôi. Anh nào chui ra cũng đều thế cả.

    Khi được té nước vào mặt lần thứ hai, Arthur cũng vẫn phải cố vùng vẫy rất khó nhọc mới thở được. Đêm tối hình như đã bị rũ sạch khỏi mình anh, vỡ loảng xoảng ra từng mảnh một.

    Arthur tỉnh ngay. Anh gạt cai ngục ra, bước vững vàng ra hành lang và cầu thang. Họ dừng lại giây lát trước một cánh cửa. Khi cánh cửa mở ra, Arthur bị dẫn vào căn phòng đèn đuốc sáng choang, nơi anh đã bị hỏi cung lần đầu. Nhưng Arthur chưa nhận ra ngay. Anh bỡ ngỡ nhìn chiếc bàn giấy tờ đầy ngộn và những viên sĩ quan vẫn ngồi ở chỗ cũ.

    Viên đại tá nói:

    - A, cậu Burton. Chắc lần này chúng ta nói chuyện với nhau dễ hơn nhỉ! Sao, cậu có thích ngục tối không? Chắc chẳng được sang trọng như phòng khách của ông anh cậu nhỉ?

    Nhìn bộ mặt tươi cười của y, một ý muốn điên rồ xui giục Arthur nhảy xổ vào lão ria bạc chải chuốt ấy mà cắn vào cổ y. Chắc viên đại tá thấy được điều đó trên nét mặt Arthur nên y đổi giọng ngay:

    - Anh Burton, ngồi xuống và uống nước đi. Anh đang xúc động lắm, tôi biết.

    Arthur đẩy cốc nước mà người ta đưa cho anh, tựa khuỷu tay vào bàn, tay bóp trán, anh cố định thần. Viên đại tá chăm chú nhìn Arthur. Cặp mắt từng trải của lão ta nhìn thấy tay anh run lẩy bẩy, môi run rẩy, mái tóc ướt sũng và đôi mắt lờ đờ. Tất cả những cái đó chứng tỏ thể lực anh đã suy nhược, não cân anh đã rối loạn rồi. Sau mấy phút im lặng, viên đại tá lại ôn tồn:

    - Anh Burton, bây giờ chúng ta trở lại vấn đề hôm trước. Lần ấy giữa chúng ta đã xảy ra một vài chuyện không vui. Nhưng bây giờ tôi phải nói ngay với anh trước rằng nguyện vọng duy nhất của tôi là khoan hồng. Nếu anh tỏ ra thỏa đáng và biết điều thì tôi cam đoan là sẽ không có gì quá khắc nghiệt với anh cả.

    - Các ông muốn gì tôi?

    Arthur nói với giọng cục cằn, uất ức khác hẳn ngày thường.

    - Tôi chỉ muốn anh nói thẳng, nói thật những điều anh biết về đảng ấy và những đảng viên của đảng ấy. Trước hết, anh quen với Bolla từ bao giờ?

    - Tôi chưa bao giờ gặp người ấy trong đời. Tôi hoàn toàn không biết một tí gì về anh ta.

    - Thật chứ? Thôi được, ta trở lại vấn đề này sau. Vậy anh có biết người thanh niên nào là Carlo Bini không?

    - Chưa bao giờ nghe tới.

    - Thế thì lạ thật. Còn Francesco Neri, anh có biết không?

    - Lần đầu tiên tôi nghe đến cái tên ấy.

    - Nhưng chẳng đây là bức thư chính tay cậu viết cho anh ta còn gì! Nhìn xem.

    Arthur ngó qua bức thư rồi gạt qua một bên.

    - Bức thư ấy anh biết chứ?

    - Không.

    - Anh chối không nhận là chữ của anh à?

    - Tôi chẳng chối gì cả. Tôi không nhớ gì về bức thư ấy cả.

    - Có lẽ cậu nhớ bức thư này chăng?

    Chúng đưa bức thư thứ hai cho Arthur và anh nhận ra đấy là thư mình viết cho một người bạn học dạo mùa thu vừa rồi.

    - Không.

    - Và anh cũng không biết người nhận thư là ai nữa à?

    - Không biết.

    - Trí nhớ anh kém lạ!

    - Tôi mắc tật đãng trí từ lâu rồi.

    - Thế à! Nhưng có hôm tôi nghe một giáo sư đại học nói đầu óc anh chẳng kém cỏi gì đâu, trái lại, rất thông minh nữa là đằng khác.

    - Chắc tại các ông xét trí thông minh của người ta bằng con mắt mật thám. Các giáo sư đại học dùng chữ thông minh theo một nghĩa khác.

    Sự bực tức mỗi lúc một tăng rõ rệt trong giọng Arthur qua những câu trả lời. Đói, không khí ngột ngạt và những đêm mất ngủ đã hút kiệt sức lực của anh. Từng khớp xương của anh kêu gào trong đau đớn rã rời, mà lời nói của viên đại tá thì không ngừng chà xát cân não anh, khiến hai hàm răng anh kêu ken két như phấn cứng xiết vào bảng đen.

    Viên đại tá ngả lưng vào ghế nghiêm nghị nói:

    - Burton, anh lại không nhớ vị trí của mình rồi. Tôi cảnh cáo anh một lần nữa là kiểu nói chuyện ấy không khiến mọi việc tốt đẹp hơn gì đâu. Anh đã nếm mùi ngục tối, nên chắc không muốn nếm lần thứ hai lại ngay nữa. Tôi nói thẳng cho anh biết tôi sẽ áp dụng biện pháp cứng rắn hơn nếu cậu không bắt nhời với sự cư xử lịch thiệp này. Anh nên nhớ rằng tôi có đủ chứng cớ và chắc chắn rằng một vài kẻ trong số những người mà tôi đọc tên đã bí mật đưa sách báo cấm qua hải cảng này. Và tất nhiên anh có liên lạc với bọn chúng. Vậy anh có tự khai hết ra không?

    Arthur càng cúi gục đầu xuống. Một nỗi uất ức điên cuồng, mù quáng cựa quậy trong người anh như một sinh vật. Và Arthur sợ mình mất bình tĩnh hơn là sợ những sự hăm dọa. Lần đầu tiên Arthur cảm thấy rõ rằng sự thận trọng theo lối quân tử và sự nhịn nhục kiểu đạo Thiên chúa có thể phản lại anh, nên anh đâm ra ghê sợ cả bản thân mình.

    Viên đại tá nói:

    - Tôi đang đợi câu trả lời từ anh.

    - Tôi chẳng có gì trả lời ông cả.

    - Vậy anh nhất định không chịu trả lời chứ?

    - Tôi chẳng nói gì hết.

    - Nếu thế thì tôi lại phải buộc lòng ra lệnh nhốt anh vào hầm tối cho tới khi nào anh tỉnh ngộ mới thôi. Nếu anh càng không chịu biết điều thì tôi sẽ hạ lệnh cùm anh lại.

    Arthur ngẩng đầu, toàn thân run lên, và chậm chạp nói:

    - Các ông muốn làm gì thì làm nhưng đối xử với một kiều dân Anh như vậy lại không có chứng cứ gì về tội lỗi của người ta thì liệu vị đại sứ Anh có để cho các ông yên không?

    Sau cùng, Arthur bị dẫn về xà lim cũ và anh lăn ra giường ngủ ngay một mạch đến sáng hôm sau. Chúng không cùm mà cũng chẳng nhốt Arthur vào cái ngục tối đáng sợ ấy, nhưng qua mỗi lần thẩm vấn thì mối thù giữa anh và tên đại tá ngày một sâu thêm.

    Mặc dù Arthur luôn cầu xin Chúa cho anh đủ sức tự chiến thắng sự giận dữ trong lòng, mặc dù Arthur suy nghĩ thâu đêm về đức nhẫn nhục và tính khiêm nhường của Đức chúa Jesus nhưng đều vô hiệu quả. Mỗi khi người ta dẫn Arthur vào căn phòng dài và trống trải nơi cái bàn phủ dạ xanh vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mỗi khi Arthur trông thấy bộ ria nhuộm của viên đại tá, thì tinh thần phi cơ đốc lại xâm chiếm lòng Arthur, thúc đẩy anh thốt ra những câu trả lời hiểm hóc và khinh mạn. Arthur ngồi tù chưa được một

    Tháng mà anh và viên đại tá căm thù nhau đến nỗi cứ trông thấy nhau là nổi giận.

    Cuộc chiến tranh nhỏ nhưng luôn luôn gay gắt ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến thần kinh Arthur. Arthur biết chúng theo dõi anh rất chặt. Arthur nhớ lại những câu chuyện ghê gớm kể rằng người ta thường cho ngầm những kẻ bị bắt ăn cà độc dược để nghe họ nói mê nên Arthur hầu như không ăn ngủ gì cả. Đêm đến, hễ nghe tiếng chuột chạy bên mình, Arthur lại toát mồ hôi vùng dậy tưởng chừng có kẻ manh tâm nào núp trong phòng để nghe ngóng xem anh có nói mê gì không.

    Rõ ràng bọn sen đầm cố bắt nọn Arthur để kết tội Bolla. Arthur rất lo hớ hênh bị mắc lừa chúng đến nỗi thần kinh quá căng thẳng, làm anh rất có thể lại thực sự rơi vào nguy cơ đó. Tên của Bolla vang lên văng vẳng trong tai Arthur suốt ngày đêm; Arthur đọc ra tên Bolla ngay cả lúc cầu kinh. Đáng lẽ đọc "Maria" thì anh lại thốt ra "Bolla". Nhưng nguy hơn cả là đức tin tôn giáo cùng với thế giới bên ngoài mỗi ngày một xa rời anh. Anh cầu nguyện suy tưởng hàng mấy tiếng đồng hồ liền để gắng hết sức bấu víu lấy chỗ

    Dựa cuối cùng ấy. Nhưng ý nghĩ của anh lại càng luôn luôn trở về với Bolla và anh chỉ nhai đi nhai lại các câu kinh một cách máy móc.

    Người cai ngục già là nguồn an ủi lớn nhất của Arthur. Lúc đầu, ông lão người nhỏ bé, hơi béo và hói trán ấy cố làm ra vẻ nghiêm khắc. Nhưng tính hiền lành tỏa ra từ mỗi nét trên bộ mặt đầy đặn của cụ đã dần dần lấn át cả sự chăm lo về chức vụ. Chẳng bao lâu cụ đã chuyển giúp thư từ phòng giam nọ sang phòng giam kia.

    Một buổi chiều giữa tháng năm, cai ngục bước vào phòng với vẻ âm thầm, buồn bực làm cho Arthur phải ngạc nhiên. Arthur hỏi:

    - Cụ Enrico, cái gì thế? Hôm nay cụ làm sao thế?

    - Chẳng sao cả.

    Cụ Enrico cáu kỉnh trả lời rồi tới bên giường Arthur lật đệm lên.

    - Sao cụ lại lấy đệm của cháu đi? Chúng bắt cháu sang phòng khác à?

    - Không, họ sắp thả cậu ra.

    - Thả ra? Hôm nay à? Thả tất cả chứ? Cụ Enrico?

    Arthur cảm động níu lấy tay cụ, nhưng cụ giận dữ gạt tay ra.

    - Cụ Enrico, cụ làm sao thế? Sao cụ không trả lời cháu? Cụ cho biết, chúng cháu có được thả ra cả không?

    Cụ Enrico chỉ đáp lại một tiếng "sì" khinh bỉ.

    Arthur cười, nắm lấy tay cụ.

    - Cụ nghe cháu, cụ đừng trêu cháu. Cháu chẳng tức đâu, cụ cứ nói cho cháu biết, các anh em khác thế nào?

    Cụ Enrico đang gấp áo cho Arthur bỗng đặt xuống bàn lẩm bẩm:

    - Anh em nào khác? Bolla ấy ư?

    - Vâng, Bolla và các anh em khác nữa. Cụ Enrico, cụ làm sao thế?

    - À, một đồng chí đã phản anh ta thì làm sao anh ta được thả sớm thế được, thật đáng thương, hừ!

    Và cụ Enrico bực dọc lại cầm chiếc áo lên. Arthur trợn tròn mắt:

    - Một đồng chí làm phản anh ấy ư? Ôi, thật kinh khủng!

    Cụ Enrico quay ngoắt lại phía Arthur:

    - Thế, không phải anh phản bội à?

    - Cháu ư? Cụ Enrico, cụ vẫn tỉnh táo đấy chứ? Cháu mà phản bội ư?

    - Hôm qua khi hỏi cung, người ta nói với Bolla như thế đấy. Tôi rất vui nếu thật là anh không phản bội. Xưa nay tôi vẫn cho anh là người thanh niên tốt. Thôi, chúng ta đi!

    Cụ Enrico bước ra hành lang, Arthur theo sau. Bỗng một tia sáng loé lên trong óc anh:

    - Chúng nó bảo Bolla là cháu khai anh ấy! Lẽ tất nhiên là như thế, cụ Enrico ơi! Với cháu thì chúng lại nói là Bolla khai cháu ra. Nhưng Bolla chẳng đến nỗi khờ dại mà tin lời chúng đâu.

    Cụ Enrico dừng bước bên cầu thang, nhìn Arthur bằng con mắt thử thách:

    - Thật không phải như thế chứ?

    Arthur nhún vai:

    - Tất nhiên, đó chẳng qua chỉ là nói láo!

    - Vậy à! Thế thì lão vui lòng lắm, con ạ. Lão nhất định sẽ tin cho Bolla nhưng con nên biết chúng nói với Bolla.. rằng là.. con khai Bolla vì con ghen. Hình như hai đứa chúng mày cùng yêu một người con gái thì phải.

    Arthur gấp gáp, khẽ nhắc lại:

    - Chúng nó nói láo! Cùng yêu một người con gái!.. Ghen! Tại sao chúng nó biết? Tại sao chúng nó biết hở cụ?

    - Con đợi lão một chút! – Cụ Enrico dừng chân ở đầu hành lang dẫn tới phòng thẩm vấn và thì thào:

    – Lão tin con, nhưng hãy cho lão hay một điều này nữa. Lão biết con

    Theo đạo Thiên chúa. Vậy lúc xưng tội con có nói gì không?

    - Chúng nó nói láo! – Lần này giọng Arthur như rít lên thành một tiếng nức nở.

    Cụ Enrico nhún vai rồi lại tiến bước.

    - Dĩ nhiên là con hiểu rõ hơn lão. Nhưng chẳng phải một mình con là người thanh niên dại dột ăn phải bả của chúng nó đâu. Giờ đây người ta đang đồn đại rất nhiều về một tên cố đạo nào đó ở Pisa. Anh em bạn con đang vạch mặt nó. Họ lại còn rải truyền đơn báo cho mọi người biết rằng đó là một tên mật thám.

    Cụ mở cửa phòng thẩm vấn. Thấy Arthur cứ đứng lặng, sững sờ nhìn về phía trước, cụ khẽ đẩy anh bước qua cửa.

    Viên đại tá nhoẻn miệng cười nhe cả hai hàm răng ra, nói:

    - Chào cậu Burton. Tôi rất vui lòng chúc mừng cậu. Chính quyền Florence đã ra lệnh thả cậu ra. Mời cậu kí vào tờ giấy này.

    Arthur tiến lại gần viên đại tá. Anh cất giọng trầm trầm, khô khan:

    - Tôi muốn biết kẻ nào đã khai tôi ra.

    Viên đại tá nhướn mày, nhăn nhở cười:

    - Cậu không đoán được à, thử nghĩ xem.

    Arthur lắc đầu. Viên đại tá giơ hai tay tỏ vẻ ngạc nhiên một cách lễ phép:

    - Cậu mà không đoán ra thật à? Chính cậu đấy, cậu Burton ạ! Còn ai mà biết được chuyện yêu đương của cậu?

    Arthur lặng lẽ quay mặt đi. Một cây thánh giá bằng gỗ lớn treo trên tường. Arthur từ từ ngước nhìn mặt Giêsu. Nhưng đôi mắt anh chẳng tỏ vẻ khẩn cầu, mà chỉ mờ mờ ngạc nhiên tại sao Đấng nhân lành và vô tư này không có sấm sét để quật chết tên thầy cả đã tiết lộ cả bí mật của phép giải tội ấy đi.

    Viên đại tá nhã nhặn nói:

    - Xin cậu kí nhận giấy tờ cho, chúng tôi sẽ không giữ cậu làm gì nữa. Chắc cậu muốn về nhà cho nhanh, mà tôi thì cũng rất bận. Cả ngày phải đánh vật với vụ thằng Bolla điên rồ này. Chính hắn đã làm cho lòng dạ khoan dung của người ngoan đạo như cậu phải qua một cơn thử thách tàn nhẫn. Chắc hắn sẽ bị kết án nặng.. Thôi, chào cậu!

    Arthur kí nhận tờ giấy rồi bước ra không nói nửa lời. Anh lẳng lặng đi theo cụ Enrico ra tới chiếc cổng to lớn và nặng nề đó. Rồi cũng không cả một lời từ biệt cụ, anh bước xuống phía kênh đào có người lái đò đã chờ sẵn. Khi Arthur đang bước lên bậc đá để ra phố thì một thiếu nữ mặc bộ đồ vải, đội mũ rơm, chìa tay lại đón anh:

    - Arthur! Ôi, em mừng quá, thật mừng quá!

    Arthur run bắn lên, rụt tay lại. Mãi sau anh mới cất tiếng gọi, giọng lạc hẳn đi:

    - Jim! Jim!

    - Em đợi ở đây đã nửa tiếng rồi. Nghe nói đến bốn giờ thì chúng thả anh ra. Arthur, sao cứ nhìn em chằm chặp thế? Có điều gì chăng? Làm sao thế? Kìa, anh hãy khoan đi chứ!

    Arthur quay lưng, chầm chậm bước trên đường phố. Thấy vậy, Gemma hốt hoảng chạy theo nắm lấy tay anh:

    - Arthur!

    Arthur dừng bước, ngước đôi mắt kinh hoàng nhìn Gemma. Nàng khoác tay anh và hai người sánh bước cùng đi, không nói một lời. Gemma dịu dàng bắt chuyện:

    - Arthur thân mến, nghe Jim nhé. Việc gì mà cứ phải khổ tâm về chuyện hiểu lầm vớ vẩn ấy? Jim biết anh đau lòng lắm, nhưng mọi người đều hiểu cả..

    Arthur vẫn giọng trầm trầm khô khan:

    - Chuyện hiểu lầm nào?

    - Ấy, Jim nói bức thư của Bolla ấy mà.

    Hai tiếng Bolla làm cho gương mặt Arthur quắt lại đau đớn.

    Gemma nói tiếp:

    - Chắc là anh chưa được đọc bức thư ấy? Nhưng có lẽ họ đã nói với anh rồi. Nếu Bolla tưởng tượng ra những chuyện đó thì thật điên rồ.

    - Chuyện gì thế?

    Thế anh không biết thật à? Bolla viết thư nói rằng Arthur đã lộ ra chuyện tàu bè làm Bolla bị bắt. Thật là bậy! Điều đó ai mà chẳng rõ. Chỉ có người nào không biết Arthur thì mới tin. Chính vì thế mà Jim đến đây. Jim muốn nói để anh biết rằng trong nhóm của Jim chẳng ai tin bức thư ấy một tí nào cả.

    - Gemma! Nhưng việc đó.. việc đó có thật đấy!

    Gemma từ từ lùi xa Arthur và đứng lặng người; đôi mắt nàng trợn tròn và tối sầm lại vì sợ hãi. Mặt nàng trắng bệch như chiếc khăn quàng ở cổ. Một làn không khí im lặng lạnh buốt bủa vây lấy họ như một bức tường bít kín không cho họ nghe tiếng ồn ào và nhìn thấy cảnh nhộn nhịp trên đường phố nữa.

    Cuối cùng Arthur khẽ nói:

    - Phải. Tàu bè.. Tôi có nói về tàu bè và cả tên Bolla nữa.. Ôi! Trời ơi! Trời ơi! Làm thế nào bây giờ?

    Nhưng Arthur chợt tỉnh và hiểu rằng người đang đứng chết lặng sững sờ nhìn anh là người nào. Dĩ nhiên là Gemma đang nghĩ rằng.. Arthur bước lại phía nàng, kêu lên:

    - Gemma! Gemma chưa hiểu tôi!

    Nàng lùi lại, hét:

    - Đừng có chạm vào người tôi!

    Với một sức mạnh đột ngột, Arthur nắm lấy tay nàng:

    - Trời ơi, Gemma hãy nghe tôi, vì chúa! Không phải tại tôi! Tôi..

    - Buông ra! Buông tay tôi ra! Buông ra!

    Nàng giật tay ra khỏi tay Arthur rồi tát vào mặt anh. Một màn sương bao phủ lấy mắt Arthur. Trong giây lát, anh chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tái xám, đau buồn vô hạn của Gemma và thấy nàng chùi tay phải vào váy áo. Rồi màn sương tan đi.. Arthur ngước nhìn chung quanh và chỉ thấy có mình đang đứng trơ giữa đường phố.
     
  8. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    Chương VII

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi Arthur bấm chuông gọi cửa tòa nhà ở Via Borra, trời đã tối từ lâu. Anh nhớ mình đã lê chân lang thang khắp đường phố nhưng chẳng nhớ nổi mình đã đi đâu, tại sao lại đi và đi trong bao lâu nữa. Tên hầu nhỏ của Julia ra mở cửa, hắn ngáp dài rồi nhăn răng ra cười hóm hỉnh khi thấy vẻ mặt bơ phờ lặng ngắt của anh: Ngộ nghĩnh nhỉ, cậu chủ ở tù ra trông chẳng khác gì một gã ăn mày say bí tỉ, áo xống thế kia!

    Arthur bước lên cầu thang. Đến tầng thứ nhất anh gặp gã quản gia Gibbons đang đi xuống, với vẻ chê trách trang nghiêm và khinh khỉnh. Anh lướt qua hắn và lẩm bẩm: "Chào bác" rồi định tránh qua. Nhưng người như Gibbons đâu có dễ để ai chạm mặt mà đi luôn được. Hắn soi mói nhìn từ mái tóc bù xù đến bộ quần áo lếch thếch của anh và nói:

    - Thưa cậu, các ông chủ không có nhà. Các ông đã đi dự dạ hội với bà chủ, chắc phải sau nửa đêm mới về.

    Arthur nhìn đồng hồ: Mới chín giờ. À, được! Anh vẫn còn thời gian.. còn đủ chán..

    - Thưa cậu, bà chủ dặn tôi hỏi cậu có muốn dùng bữa tối không. Bà còn dặn dò là cậu hãy chờ bà về, bà có chuyện cần nói với cậu tối nay.

    - Cám ơn, tôi không muốn ăn. Bác cứ nói với bà ấy là tôi còn thức.

    Arthur đi lên phòng mình. Không có gì thay đổi kể từ cái ngày anh bị bắt. Chân dung cha Montanelli anh để trên bàn hôm ấy vẫn y nguyên, thánh giá vẫn dựng trên bàn thờ. Anh ngừng giây lát tại ngưỡng cửa nghe ngóng: Cả ngôi nhà hoàn toàn im ắng, hiển nhiên sẽ chẳng có ai đến quấy rầy anh. Anh nhẹ nhàng bước vào phòng và khóa trái cửa lại.

    Thôi, thế là xong. Sẽ chẳng có gì phải lo âu suy nghĩ nữa. Chỉ cần làm sao rũ sạch cái ý thức phiền nhiễu và vô dụng kia đi là xong. Dù sao việc anh đang định làm cũng chẳng có mục đích và ngu ngốc thật!

    Tư duy của anh chưa hoàn toàn quyết định về chuyện tự tử, mà cũng chẳng cần phải suy nghĩ nhiều, bởi sự việc đã quá hiển nhiên và tất yếu rồi. Anh cũng chưa quyết định xem phải chọn cách chết nào, miễn là tất cả kết thúc nhanh chóng.. cho xong rồi quên đi. Trong phòng chẳng có một thứ vũ khí, đến một lưỡi dao cũng không. Nhưng không hề gì, nếu muốn thì chỉ cần một tấm khăn hoặc một tấm vải trải giường xé nhỏ cũng đủ.

    Ngay trên cửa sổ có một chiếc đinh lớn. Được đấy, nhưng phải thật vững chắc, nhỡ mình nặng quá. Anh leo lên ghế thử lại: Cũng chưa được chắc chắn lắm. Anh lại bước xuống lục ngăn kéo lấy búa ra đóng đinh lại. Sắp lôi vải trải giường ra anh sực nhớ mình chưa đọc kinh. Dĩ nhiên, người Công giáo ai cũng phải cầu kinh trước khi chết chứ! Có cả những đoạn kinh dành riêng cho những linh hồn sắp chết kia mà!

    Anh bước đến bàn thờ, quỳ trước thánh giá:

    - Lạy Chúa toàn năng và lòng lành..

    Anh đọc to, rồi đột ngột ngưng bặt, không thốt ra thêm lời nào nữa. Thật ra, trần thế đã quá ê chề, còn gì để cầu khẩn được ban cho hay tránh khỏi nữa. Vả lại, Jesus làm sao biết được nỗi niềm này của anh.. Jesus đã phải chịu đựng nỗi khổ như thế đâu? Cũng như Bolla, anh là kẻ bị phản bội chứ có phải anh ta bị mắc lỡm mà đi phản bội đồng chí mình đâu!

    Arthur đứng dậy, làm cây thánh giá theo thói quen từ bé. Đến gần bàn, anh thấy một lá thư của Montanelli viết bằng bút chì:

    "Con thân yêu của Cha,

    Cha rất buồn vì không được gặp con ngày con được thả. Cha phải đi làm phúc cho một người đang hấp hối. Chắc khuya lắm cha mới về. Sáng mai con đến gặp cha sớm vậy. Gấp lắm.

    LM"

    Anh đặt thư xuống thở dài: Chắc chuyện này đã khiến Padre khổ tâm nhiều lắm.

    Dưới đường phố người đời vẫn cười đùa rộn rã! Chẳng có gì thay đổi từ giây phút anh nhận thấy mình còn sống. Cuộc sống tủn mủn quanh anh không mảy may thay đổi, cho dù đã có linh hồn một con người đang sống bị đánh chết gục. Tất cả vẫn không có gì thay đổi. Những vòi nước vẫn phun đều, bầy chim sẻ vẫn ríu rít dưới mái hiên. Hôm qua đã như thế và ngày mai sẽ vẫn vậy. Về phần anh, anh đã chết.. chết hẳn rồi.

    Arthur ngồi xuống mép giường, tay khoanh lên thành giường rồi gục đầu lên. Vẫn còn nhiều thời gian, mà đầu anh nhức như búa bổ, nhức tận cùng trung tâm não bộ. Mọi cái sao mà mù mịt, ngu ngốc.. sao mà đều vô nghĩa đến thế..

    Chuông cửa bỗng reo lên đinh tai, Arthur vùng dậy, đột ngột thấy hoảng sợ đến nghẹt thở, nhói đau, anh đưa hai tay sờ cổ họng. Họ đã về.. thế mà nãy giờ anh vẫn ngồi đó nghĩ ngợi vớ vẩn để thì giờ quý báu vụt qua.. Giờ đây anh lại phải gặp họ, nghe những lời độc địa của họ, toàn những lời hằn học, xỉa xói. Giá mà anh có một con dao thì..

    Arthur tuyệt vọng đảo mắt quanh phòng. Giỏ đồ khâu của mẹ hẵng còn để trên nóc tủ nhỏ, trong đó chắc phải có kéo, anh có thể rạch đứt mạch máu. Không, vải trải giường và chiếc đinh an toàn hơn, giá anh có đủ thì giờ.

    Anh giật tấm vải trải giường cố xé lấy một đoạn dài. Đã có tiếng chân lên cầu thang. Không được, đoạn vải rộng quá, khó thắt chặt được, phải làm nút thòng lọng cơ mà. Anh xé nhỏ thêm. Tiếng bước chân càng gần, anh càng thêm luýnh quýnh. Mạch máu giần giật hai bên thái dương, tai anh ù đi. Nhanh lên.. nhanh nữa lên! Chúa ơi! Cho anh thêm năm phút nữa thôi!

    Tiếng gõ cửa đã vang lên. Đoạn vải rời khỏi tay anh. Anh ngồi lặng người, nín thở lắng nghe. Nắm cửa xoay xoay, rồi tiếng Julia réo:

    - Arthur!

    Anh đứng dậy, thở hổn hển.

    - Arthur, mở cửa nào! Chúng tao đợi đây!

    Anh vo vội miếng vải trải giường rách ném vào ngăn kéo, hấp tấp sửa lại giường.

    - Arthur!

    Tiếng James vang lên. Hắn sốt ruột giật quả nắm.

    - Chú ngủ à?

    Arthur quét mắt nhìn căn phòng, đảm bảo mọi thứ đã ngăn nắp mới mở khóa cửa ra. Julia lồng lộn nhảy xổ vào buồng hét lên ầm ĩ:

    - Arthur, tao tưởng mày ít nhất cũng phải nghe lời tao, đợi chúng tao về đã chứ! Mày làm chúng tao phải đợi cả nửa tiếng đồng hồ thế à?

    James bước theo đuôi váy sa tanh hồng của vợ, vội nhẹ nhàng chữa lời:

    - Mới bốn phút thôi, mình ạ! Arthur, anh thấy lẽ ra chú phải nên..

    Arthur ngắt lời:

    - Anh chị muốn gì?

    Arthur đứng tỳ tay vào nắm cửa, như một con thú dữ mắc bẫy, mắt anh gườm gườm nhìn từng người một. Nhưng James thì quá đần độn mà ả Julia thì đã điên tiết lên rồi nên chẳng ai nhận thấy cái nhìn ấy của Arthur. James đưa ghế cho vợ ngồi. Rồi ông cũng tự kiếm ghế ngồi, cẩn thận chỉnh lại cái quần âu mới.

    Ông ta cất lời rào trước:

    - Anh và chị Julia thấy có trách nhiệm phải nói chuyện nghiêm túc với chú..

    - Tối nay em chưa nói chuyện được. E-Em mệt. Em nhức đầu. Anh chị hãy đợi bữa khác.

    Arthur nói với một giọng là lạ, nghe lí nhí, rời rạc và lộn xộn. James ngạc nhiên đảo mắt nhìn bốn phía xung quanh.

    Rồi sực nhớ là Arthur mới chui ở ngục -cái hang ổ đầy bệnh truyền nhiễm- ra, James lo lắng hỏi:

    - Chú làm sao thế? Không ốm chứ? Trông chú như sốt rét ấy.

    Julia đanh đá ngắt lời:

    - Nó chẳng sao cả! Cứ giở trò hề mãi. Chắc thấy người khác thì sượng mặt đấy thôi. Arthur, lại đây ngồi.

    Anh từ từ đi sang phía bên kia ngồi xuống mép giường, rồi uể oải nói:

    - Anh chị muốn nói gì?

    James hắng giọng, vuốt lại bộ râu vốn đã mượt từ trước, và lên giọng đọc một bài diễn văn đã được chuẩn bị kỹ càng:

    - Anh thấy có trách nhiệm, có trọng trách phải nói chuyện nghiêm chỉnh với chú về nhân cách bất thường của chú và về việc chú đã liên lạc với những kẻ phiến loạn. Anh chắc chỉ do chú ngây thơ quá chứ không phải do hư hỏng..

    Ông ngừng lời.

    - Vâng, rồi sao nữa ạ?

    Thấy vẻ thẫn thờ, mệt mỏi hiện ra trong mỗi cử chỉ của Arthur, James không tự chủ được mà dịu giọng xuống:

    - Vì thế anh cũng không muốn quá nghiêm khắc với chú. Anh chắc rằng những kẻ hư hỏng kia đã lôi kéo chú, chứ anh thì anh biết là chú còn trẻ, thiếu chín chắn và nông nổi, chắc do chịu ảnh hưởng từ tính cách của mẹ chú trước kia..

    Arthur từ từ ngước mắt nhìn ảnh mẹ rồi lại nhìn xuống, nhưng vẫn không nói tiếng nào.

    James lại tiếp tục:

    - Nhưng chắc chú cũng hiểu rằng anh không thể để trong nhà một kẻ đã làm nhơ nhuốc thanh danh của một gia đình như gia đình ta được.

    Arthur đáp lại nói gọn lỏn:

    - Sao nữa ạ?

    Julia gấp cái quạt đánh phạch, đặt ngang đầu gối rồi cất giọng đanh đá:

    - Ô hay! Mày không biết nói gì nữa hay sao mà cứ "Sao nữa ạ" mãi thế?

    Arthur vẫn không nhúc nhích, mà đủng đỉnh trả lời:

    - Anh chị muốn gì thì cứ làm. Em thì thế nào cũng được.

    - Thế nào cũng được à?

    James sửng sốt về câu trả lời của Arthur, còn vợ hắn thì đứng dậy cười gằn:

    - Thế nào cũng được phải không? Thôi, anh James, chắc bây giờ anh đã hiểu là chúng ta đừng hòng nó biết ơn chúng ta nữa rồi. Em đã bảo mà, làm phúc đức mãi với ả giang hồ Công giáo ấy và với cái đứa mà chúng..

    - Thôi, thôi! Mình đừng nói cái đó nữa..

    - Thôi, thôi cái gì nữa? Chúng ta đã dành đủ tình cảm, trách nhiệm và quan tâm rồi. Mà cho ai cơ chứ? Một đứa con hoang trà trộn vào gia đình ta kia ư? Đã đến lúc phải nói cho nó biết mẹ nó là loại người gì rồi! Tại sao chúng ta lại phải hầu hạ thằng con riêng của một lão cố đạo Thiên chúa giáo chứ? Này, mày đọc xem!

    Julia rút một mảnh giấy nhàu nát từ trong túi ra, vứt lên bàn cho Arthur. Ngay khi mở ra, Arthur đã nhận ra chữ của mẹ. Theo như ngày tháng đề trong giấy thì mẹ Arthur đã viết giấy này trước khi sinh bốn tháng. Đó là một tờ giấy thú nhận tội lỗi với chồng. Bên dưới có hai chữ ký.

    Arthur đưa mắt lần đọc từng dòng, cuối cùng thấy tiếp sau nét chữ run run của mẹ là chữ ký chắc nét, quen thuộc "Lorenzo Montanelli". Anh dán mắt vào chữ ký ấy phải tới mấy phút đồng hồ. Không nói một lời, anh gập tờ giấy lại và đặt lên bàn.

    James đứng dậy, cầm tay vợ:

    - Thôi, Julia, thế là đủ rồi, đi xuống đi. Khuya rồi. Anh cần nói chuyện công việc với Arthur. Em ở lại đây nghe cũng chẳng thấy có gì hay ho đâu.

    Julia lườm chồng rồi lườm Arthur đang lặng lẽ ngồi nhìn xuống sàn,

    Rồi lầm bầm:

    - Nó như cái thằng mất hồn ấy.

    Sau khi Julia cuốn váy bước ra khỏi phòng, James đóng chặt cửa lại rồi ngồi vào cạnh bàn.

    Arthur vẫn ngỗi yên như phỗng, không hé răng nói nửa lời.

    James lại bắt đầu nói, giọng dịu dàng hơn vì bây giờ không còn sợ Julia nghe lỏm nữa.

    - Arthur, anh thấy thật đáng tiếc khi mọi chuyện vỡ lở như thế này. Lẽ ra chú cũng không nên biết. Nhưng thôi chuyện gì qua thì cũng đã qua rồi! Anh rất nhẹ lòng thấy chú điềm tĩnh như thế. Chị Julia hơi quá xúc động. Đàn bà thường hay thế. Dù sao anh cũng không muốn mọi chuyện trở nên quá khó khăn với chú..

    Hắn ngừng nói để thăm dò xem những lời lẽ ngọt nhạt đã tác động đến Arthur như thế nào, nhưng Arthur vẫn không biểu lộ cảm xúc nào cả. Một lát im lặng, James tiếp:

    - Arthur ạ, tất nhiên câu chuyện ấy cũng chẳng vui vẻ gì, chúng ta đừng nhắc tới nữa thì hơn. Cha anh cũng thật rộng lượng. Khi mẹ chú đã thú nhận tội lỗi của mình thì cha anh không đòi ly dị mà chỉ muốn kẻ quyến rũ mẹ chú phải rời khỏi nước Ý ngay lập tức. Như chú đã biết, ông ta đã đi sang Trung Quốc để truyền giáo. Khi ông ta quay về, tôi phản đối việc để chú gặp hắn. Nhưng tới những phút lâm chung, cha tôi lại đồng ý để hắn giúp chú học tập với điều kiện duy nhất là không được tìm cách gặp mẹ chú. Anh cũng phải thừa nhận rằng cả hai người đều đã tuân theo đúng điều kiện ấy đến phút cùng. Tất cả những việc ấy thật đáng tiếc, nhưng..

    Arthur ngẩng đầu, gương mặt anh vô hồn chẳng còn chút sinh khí nào, không một chút cảm xúc, gương mặt cứng đơ như đang đeo một chiếc mặt nạ bằng sáp. Anh nói khẽ và không hiểu sao lại hơi lắp bắp:

    - Theo a-anh thì ch-chắc là câu ch-chuyện ấy b-buồn cười lắm nhỉ!

    - Buồn cười à?

    James đẩy lùi chiếc ghế ra khỏi bàn. Hắn quên cả giận dữ, sửng sốt nhìn Arthur chòng chọc:

    - Buồn cười ư? Arthur! Chú điên rồi à!

    Arthur bỗng ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

    Ông chủ hãng tàu bệ vệ đứng bật dậy, kêu lên:

    - Arthur! Tôi rất lấy làm lạ về suy nghĩ của chú.

    Một chuỗi cười lại vang lên. Tiếng cười sặc sụa làm James ngờ ngợ không biết đấy có phải chỉ vì suy nghĩ điên rồ của Arthur hay là vì một cớ gì khác nhiều hơn thế.

    Hắn khinh bỉ nhún vai, sốt ruột đi lại trong phòng và lẩm bẩm:

    - Không khác gì một ả điên vậy. Arthur, chú thật sự còn tồi hơn cả Julia. Đừng cười nữa! Tôi lấy hơi sức đâu mà ngồi đây với chú suốt đêm được!

    Chỉ bằng mấy lời nói như thế mà ăn thua thì có lẽ James đã mời được tượng gỗ bước xuống đất. Arthur chẳng nghe thấy những lời khuyên nhủ và dạy dỗ ấy. Anh chỉ cười, cười mãi không thôi.

    Cuối cùng, James dừng bước nói:

    - Thật là điên rồ. Chắc chú xúc động quá nên đã mất cả lý trí. Thế thì bây giờ anh chẳng thể nói chuyện gì với chú nữa. Sáng mai ăn sáng xong thì chú đến chỗ anh. Bây giờ chú nên đi ngủ thì hơn. Chào chú!

    James đi ra, đóng sầm cửa lại, vừa nện chân xuống cầu thang vừa hậm hực than:

    - Bây giờ lại đến cảnh điên ở nhà dưới đây. Chắc lại có cả nước mắt.

    Chuỗi cười điên dại bỗng ngừng bặt trên môi Arthur. Anh giật lấy chiếc búa con trên bàn và nhảy xổ tới cây thánh giá. Sau nhát búa đầu tiên, anh tỉnh ngay.

    Nằm trơ trước mặt anh là chiếc bệ trống không. Tay anh còn giữ chặt cây búa. Những mảnh thánh giá vỡ tan tành trên sàn nhà. Arthur quẳng cái búa sang một bên.

    - Dễ dàng thế thôi ư? - anh lầu bầu một mình và quay đi – Sao ta lại ngốc đến thế cơ chứ!

    Arthur thở hổn hển, ngồi thụp xuống ghế, hai tay bưng chặt lấy thái dương. Rồi anh đứng dậy, bước tới bồn rửa mặt, lấy một bình nước lạnh dội lên đầu. Thấy đã bình tĩnh hơn, anh trở về chỗ cũ, ngồi trầm ngâm suy nghĩ.

    Chính vì những con người giả dối và nô lệ ấy, chính vì những thần thánh vô hồn và câm như hến ấy mà anh đã phải chịu mọi giày vò của nhục nhã, giận dữ và đau buồn. Chỉ vì một lão cố đạo gian dối mà anh đã chuẩn bị dây treo cổ tự tử. Làm như không phải tất cả bọn họ đều đã ăn gian nói dối ấy! Nhưng thôi, thế là được rồi! Từ nay anh sẽ khôn ngoan hơn. Chỉ cần rũ sạch giòi bọ trong quá khứ ra khỏi mình và bắt đầu làm lại cuộc đời.

    Có rất nhiều tàu buôn cập bến, anh chỉ cần trốn lên trên một chiếc tàu ấy và đi biệt tăm, đi tới bất cứ nơi nào đó như Canada, Úc, hoặc Nam Phi thì khó gì! Không quan trọng là đi đâu, chỉ cần lánh xa chốn này. Còn kế sinh nhai thế nào thì tuỳ tình hình, nơi này không thích hợp thì anh lại đi nơi khác.

    Anh móc ví. Chỉ còn ba mươi paoli. Nhưng còn một chiếc đồng hồ đáng giá nữa. Nó có thể giúp ích không ít cho anh. Mà dù sao cũng chẳng có gì đáng ngại, thế nào anh cũng xoay xở được. Nhưng còn lũ người đó, họ sẽ tìm anh, sẽ ra bến tàu hỏi dò. Không, phải đánh lạc hướng họ mới được. Làm cho họ tưởng rằng anh đã chết. Và lúc đó anh sẽ được tự do, hoàn toàn tự do. Tưởng tượng tới lúc nhà Burtons đi tìm xác anh, Arthur cười thầm. Thật là một trò cười thú vị!

    Anh lấy mảnh giấy nhỏ và viết ngay ý nghĩ của mình.

    "Tôi đã tin ông như đã tin Đức chúa Trời. Nhưng Đức chúa Trời chỉ là một pho tượng đất sét, đập một búa là tan, còn ông thì ông đã lừa dối tôi suốt đời".

    Arthur gập mảnh giấy lại đề tên Montanelli, và lấy một mảnh giấy khác viết: "Tìm xác tôi ở bến Darsena".

    Rồi anh đội mũ, bước khỏi phòng. Bước qua bức ảnh mẹ, anh lướt nhìn, đoạn nhún vai cười khẩy. Chính mẹ cũng lừa dối anh!

    Anh bước nhẹ nhàng qua hành lang, đẩy chốt cửa và ra đến cầu thang lớn, tối tăm, lát bằng loại đá hoa mà cứ mỗi khi có tiếng sột soạt lại vang âm lên. Thang gác há rộng miệng dưới chân anh như một vực thẳm đen sì. Arthur rón rén bước qua sân để khỏi đánh thức lão Gian Battista đang ngủ ở nhà dưới. Trong kho củi ở cuối vườn có một chiếc cửa sổ chấn song nhỏ. Cửa sổ trông ra kênh đào cách mặt đất chừng một thước hai. Arthur chợt nhớ rằng chấn song cửa sổ han gỉ đã gãy mất một bên, chỉ cần lay nhẹ là có thể phá được một lỗ vừa lọt người chui.

    Nhưng chấn song lại chắc hơn là anh tưởng. Anh lay đến sướt da và rách cả tay áo. Nhưng đó có hề chi. Anh nhìn ra phố, không một bóng người. Kênh đào đen ngòm và lặng ngắt trông như một cái hang khủng khiếp chạy ngoằn ngoèo giữa hai bức tường trơn dựng đứng.

    Thế giới trước mắt mà anh chưa bước chân tới có thể là một hố sâu mù mịt, nhưng trong thế giới ấy chưa chắc đã nhiều đê tiện và nhơ nhuốc như cái góc tối sau lưng anh. Không thương tiếc gì nữa, không nhìn lại làm gì nữa. Đó là một thế giới nhỏ nhen, bệnh tật, thối nát, đầy lừa lọc đê hèn và lường gạt bỉ ổi. Đó là một vũng bùn lầy nước đọng thối tha, nông cạn đến nỗi không ai có thể trẫm mình ở đó được. Arthur men theo bờ kênh, rồi rẽ về phía quảng trường nhỏ cạnh cung điện Medici. Chính nơi đây Gemma đã chạy đến đón anh, hớn hở chìa hai tay cho anh. Những bậc đá ướt nối dài xuống tận mặt nước hãy còn đó. Tòa pháo đài cau có liếc xuống dòng nước bẩn thỉu như thường lệ. Cho đến bây giờ anh vẫn không ngờ nó thấp bé, ti tiện đến vậy.

    Men theo những con phố chật hẹp, Arthur đi tới bến tàu Darsena. Anh ném mũ xuống nước. Khi họ mò xác ắt sẽ thấy chiếc mũ. Anh đi dọc theo bờ biển, suy nghĩ lung tung không biết nên làm gì nữa. Bây giờ phải trốn lên chiếc tàu nào đó. Nhưng vệc này không dễ dàng gì. Chỉ còn cách duy nhất là rẽ về phía con đê chắn sóng Medici cao lớn và lâu đời kia. Ở tận cuối chân đê có một quán rượu tồi tàn. May ra vớ được một gã thuỷ thủ nào mình có thể đút lót được.

    Nhưng cửa bến tàu đã bị khóa. Làm thế nào anh qua được, mà lại thoát khỏi bọn lính hải quan nữa? Với số tiền ít ỏi anh có thì không thể nghĩ tới chuyện hối lộ để tráo qua cửa bến lúc ban đêm được, nhất là khi không có hộ chiếu. Hơn nữa bọn lính đó cũng có thể nhận ra anh.

    Khi Arthur đảo qua trước mặt tượng đài "Bốn người Moor" bằng đồng đen. Phía bên kia đường, từ một ngôi nhà cũ nát, một người mở cửa lù lù bước ra. Người ấy đi về phía cầu. Arthur vội lẩn vào bóng tối, nép mình vào bệ tượng đen ngòm, len lén nhìn qua góc của bức tượng.

    Đó là một đêm xuân ấm áp, trời đầy sao. Sóng vỗ vào kè đá và xô tới gần các bậc đá tạo thành những xoáy nước xinh xinh. Sóng cất tiếng cười rầm rì đầy êm ái. Đâu đây vang vọng tiếng kêu kẽo kẹt của đoạn xích sắt từ từ đưa võng. Một chiếc cần cẩu lớn buồn rầu đứng sững trong đêm tối. Dưới bầu trời đầy sao lấp lánh in bóng những làn mây hình vòng hạt ngọc trai, như những người nô lệ bị gông cùm đang vật lộn và vươn lên phản đối số phận tàn nhẫn một cách kịch liệt nhưng đầy tuyệt vọng.

    Có người đàn ông bước loạng choạng trên bờ biển, vừa đi vừa nghêu ngao một bài hátAnh tục tĩu. Chắc đó là một tay thuỷ thủ vừa nhậu nhẹt ở quán rượu về. Xung quanh vắng lặng không một bóng người. Khi hắn ta tới gần, Arthur ra đứng ở giữa đường. Người thuỷ thủ ngừng hát, chửi đổng một câu rồi đứng lại. Arthur nói tiếng Ý:

    - Tôi muốn nói chuyện với anh. Anh có hiểu không?

    Người kia lắc đầu:

    - Đằng ấy nói y a y ô, đây chẳng hiểu gì hết.

    Rồi hắn quay lại và nói ấm ớ tiếng Pháp, hỏi bằng một giọng bực tức:

    - Đằng ấy muốn gì? Tại sao đằng ấy lại chắn lối tớ đi?

    - Anh vào chỗ tối kia một lúc, tôi cần nói chuyện với anh.

    - Úi chao! Vào chỗ tối à! Đằng ấy có thủ dao găm không đấy?

    - Không, không ai thủ dao găm làm gì! Anh không thấy tôi đang cần giúp đỡ đây ư? Tôi sẽ biếu anh tiền.

    - Sao? Cái gì? Ừ mà đằng ấy diện kẻng nhỉ!

    Người thuỷ thủ nói như vậy bằng tiếng Anh, rồi bước vào bóng tối, tựa lưng vào hàng rào chắn quanh tượng đài.

    - Nào! - Hắn lại nói bằng thứ tiếng Pháp chối tai ấy - Đằng ấy muốn gì?

    - Tôi muốn đi khỏi nơi này.

    - À ra thế! Chuồn hả? Đằng ấy muốn tớ chở lậu chứ gì? Giở trò gì rồi hả? Mổ bụng thằng nào rồi? Ông bạn ngoại quốc đếch nào ở đây cũng vậy. Thế đằng ấy định tẩu đi đâu? Chắc chả đi vào bốt cảnh sát đâu nhỉ?

    Hắn cười hềch hệch và nháy Arthur.

    - Anh ở tàu nào?

    - Tàu Carlotta. Từ Leghorn đi Buenos Ayres. Chở da thú về bên này và chở dầu ăn sang bên kia. Tàu neo ở kia kìa!

    Và hắn trỏ tay về phía đê chắn sóng

    - Tàu cà là khổ hết sức.

    - Buenos Ayres à! Vậy anh có thể giấu tôi trên tàu không.

    - Đằng ấy cho tớ được bao nhiêu?

    - Không nhiều đâu. Chỉ còn vẻn vẹn mấy đồng paoli thôi.

    - Không được. Dưới 5 chục là đây không màng. Diện kẻng như đằng ấy thế là đã hời rồi.

    - Anh nói diện kẻng nghĩa là làm sao? Nếu anh thích bộ quàn áo của tôi, tôi có thể đổi cho anh. Nhưng tiền thì tôi chỉ có thế, không thể nào biếu anh hơn được.

    - Đằng ấy có cái đồng hồ kia. Đưa đây!

    Arthur rút ra chiếc đồng hồ bỏ túi vàng kiểu phụ nữ, chạm trổ và tráng men rất tinh vi, có hai chữ tắt "G. B" ở nắp sau. Đấy là đồng hồ của mẹ anh, nhưng bâu giờ điều đó cũng còn nghĩa lý gì nữa!

    Người thuỷ thủ liếc nhìn, kêu lên:

    - A! Xoáy được chứ gì? Đưa xem nào!

    Arthur rụt tay lại:

    - Không. Tôi sẽ đưa cho anh chừng nào chúng ta xuống tàu.

    - Té ra cũng lõi đời nhỉ? Nhưng đánh cuộc này: Chắc đằng ấy lần đầu tiên phải vượt biên nhỉ? Đúng không?

    - Đó là chuyện của tôi. Kìa, lính gác đến!

    Hai người nồi núp sau tượng đài, chờ cho lính gác đi qua. Rồi người thuỷ thủ đứng dậy, bảo Arthur đi theo, hắn vừa bước vừa cười hềnh hệch một mình. Arthur im lặng theo sau.

    Người thuỷ thủ dẫn anh trở lại quảng trường nhỏ bé và méo mó cạnh cung điện Medici và dừng lại trong xó tối. Hắn nói ồm ồm mà cứ tưởng như thế là khẽ lắm.

    - Đằng ấy đợi đây kẻo lính nó trông thấy.

    - Anh định làm gì?

    - Đi tìm cho đằng ấy một bộ cánh khác. Tay áo vấy máu thế kia thì đưa đằng ấy xuống tàu làm sao được.

    Arthur nhìn tay ái bị chấn song xé rách, cánh tay bị cào rách, máu thấm một ít ra tay áo. Chắc vì thế người thuỷ thủ nọ nghĩ anh là một kẻ giết người. Cũng chẳng sao! Hắn cho mình là người thế nào thì cũng chẳng can hệ gì cả!

    Phút chốc người thuỷ thủ đã trở lại. Hắn tỏ vẻ đắc ý, nách cắp một gói nhỏ. Hắn thì thào:

    - Thay đi, nhanh lên. Đã đến giờ xuống tàu rồi mà lão Do Thái bán đồ cũ cứ bắt mặc cả mãi đến nửa tiếng đồng hồ.

    Arthur thay quần áo. Anh bất giác rùng mình ghê sợ khi chạm tay phải chiếc áo cũ.

    Nhưng may sao, chiếc áo tuy thô cứng nhưng cũng còn khá sạch sẽ. Khi anh bước ra chỗ sáng với dáng vẻ mới, người thuỷ thủ nhìn anh với bộ điệu nghiêm trang của kẻ say rượu và gật đầu ưng ý. Hắn nói:

    - Được đấy! Đi thôi! Khe khẽ thôi nhé!

    Arthur nhặt lấy chiếc áo vừa thay ra. Anh bước theo người thuỷ thủ qua những kênh đào ngoắt ngoéo, những ngỏ hẻm khúc khuỷu, đen tối giữa những xóm nhà lụp sụp thời Trung cổ, nơi mà những người Leghorn gọi là "Venice mới". Giữa những căn nhà điêu tàn và những mảnh sân nhếch nhác, giữa hai đường hào sâu bốc mùi hôi thối, thi thoảng xuất hiện một tòa lâu đài cũ kĩ, ngạo nghễ vươn mình một cách cô độc, hoài công giữ lấy vẻ uy nghiêm cổ kính thời xa xưa. Mấy ngõ hẻm này là sào huyệt của bọn trộm cướp, giết người và buôn lậu; mấy ngõ hẻm khác là thế giới của những kẻ khốn khổ và bần cùng.

    Người thuỷ thủ dừng bước cạnh chân cầu nhỏ. Hắn đảo mắt nhìn quanh rồi bước xuống bậc đá, đi về phía bến thuyền chật hẹp. Dưới cầu, một chiếc thuyền nát bẩn thỉu dập dềnh theo sóng. Hắn sỗ sàng ra lệnh cho Arthur nhảy xuống nằm tận đáy thuyền, rồi tự cầm lấy mái chèo, bơi về phía cửa bến. Arthur nằm im thin thít trên ván thuyền trơn ướt, giấu mình dưới mớ quần áo cũ người thuỷ thủ vừa quẳng lên người anh. Arthur khẽ nghiêng nhìn những mái nhà và cung đường quen thuộc.

    Thuyền bơi qua cầu rồi tiến tới phần kênh đào nằm dưới một pháo đài đồ sộ. Những bức tường thành, dưới rộng trên thắt hẹp lại thành những tháp canh chật chội và trầm ngâm, sừng sững nhô lên mặt nước. Cách đây mấy tiếng đồng hồ, đối với anh, những bức tường ấy kiên cố và đáng sợ biết bao! Nhưng giờ đây.. Nằm dưới đáy thuyền anh bật cười khe khẽ.

    Người thuỷ thủ thì thào:

    - Im đi! Che đầu lại cho kín. Nhà đoan ở ngay cạnh đây này.

    Arthur kéo mớ quần áo cũ lên che kín đầu. Chiếc thuyền dừng lại trước hàng cột có xích sắt giằng lại với nhau, chắn ngang mặt kênh nhỏ hẹp giữa trạm canh gác với pháo đài. Một gã lính canh đang ngái ngủ, cầm đèn bước ra, vừa ngáp vừa nói vọng xuống nước:

    - Cho xem hộ chiếu.

    Người thuỷ thủ đưa giấy tờ lên cho y xem. Arthur cố gắng nín thở lắng nghe.

    Gã viên chức nhà canh càu nhàu:

    - Về tàu lúc nửa đêm gà gáy này mới thật đúng giờ chứ nhỉ! Lại đi bê tha trác táng về phải không? Cái gì trong thuyền kia?

    - Quần áo cũ. Vừa đi mua rẻ về đấy mà.

    Vừa nói người thuỷ thủ vừa giơ chiếc gilê của Arthur lên cho gã lính gác xem. Y hạ thấp đèn, cúi xuống căng mắt nhìn.

    - Thôi được. Cho đi.

    Y cất chắn gỗ lên và chiếc thuyền nhè nhẹ bập bềnh trôi qua mặt nước đen ngòm đang dâng lên. Đi được một quãng ngắn, Arthur ngồi dậy, tung mớ quần áo cũ ra. Người thuỷ thủ thì thào:

    - Đây, tàu tớ đây rồi. Cứ theo tớ, nhưng tốt nhất phải ngậm tăm không được nói gì.

    Hắn leo lên boong của con quái vật khổng lồ đen sì ấy. Vừa leo hắn vừa khẽ mắng Arthur là "con vịt cạn hậu đậu", mặc dù Arthur không đáng bị trách như bất cứ ai khác, vì xưa nay anh vốn rất khéo léo và nhanh nhẹn. Hai người lò dò lách giữa những đống dây cáp và những máy móc tối thui rồi lần mò đến một cánh cửa hầm tàu. Người thuỷ thủ khẽ mở nắp hầm. Hắn rỉ vào tai Arthur:

    - Bò xuống đây đi! Tớ sẽ quay lại ngay bây giờ.

    Hầm tàu ẩm ướt, vừa tối, lại vừa ngột ngạt không chịu được. Arthur thốt nhiên lùi lại, nghẹn họng vì mùi da tươi và dầu thối. Nhưng nhớ ngay tới hầm ngục tối, anh nhún vai, bước xuống bậc thang. Có lẽ cuộc sống đâu đâu cũng như vậy: Thối tha, ghê tởm, lúc nhúc giòi bọ, đầy bí hiểm nhơ nhuốc và ngoắt ngoéo tối tăm. Nhưng cuộc sống là cuộc sống – và ta vẫn phải tìm lấy ở đời tất cả những gì còn là có thể còn hữu ích.

    Mấy phút sau, người thuỷ thủ trở lại, tay mang một vật gì mà Arthur không nhìn rõ vì trời tối.

    - Nào! Bây giờ đằng ấy đưa tiền và đồng hồ đây. Nhanh lên!

    Lợi dụng hầm tối Arthur bớt lại mấy đồng tiền. Anh nói:

    - Có gì mang cho tôi ăn với. Tôi đói lắm rồi.

    - Mang tới rồi. Đây, cầm lấy.

    Người thuỷ thủ trao cho anh một bình nước, mấy miếng bánh quy cứng như đá và một mẩu thịt lợn muối.

    - Thế này nhé. Sáng mai lính canh sẽ lên khám tàu. Chui vào cái thùng rỗng này mà núp. Nằm im như chuột ấy, đợi đến lúc ra khơi hẵng hay. Khi nào bò ra được, đây sẽ báo cho biết. Để cho chủ tàu nó trông thấy thì đừng có trách. Thế thôi! Chưa làm đổ bình nước chứ! Chào đằng ấy nhé!

    Nắp hầm đóng sập lại. Arthur tìm chỗ chắc chắn đặt bình nước quý giá. Leo lên một chiếc thùng rỗng, anh mở thịt muối và bánh quy ra ăn. Rồi anh nằm cuộn tròn trên sàn bẩn; từ thuở nhỏ đến giờ, đây là lần đầu tiên anh đi ngủ mà không đọc kinh. Chuột chạy quanh mình anh trong đêm tối. Nhưng dù tiếng chuột rúc rích thâu đêm, dù con tàu ngả nghiêng trên mặt sóng, dù là mùi dầu lợm mửa, dù ngày mai những cơn say sóng đang chờ đợi, anh vẫn say sưa trong giấc ngủ ngon lành.

    Tất cả những cái đó càng không làm cho anh xao xuyến, cũng như những tượng thần uy nghiêm mà hôm qua anh còn cúi lạy tôn thờ, thì nay chúng đã bị vứt bỏ, bị đập vỡ tan tành và không còn làm cho lòng anh rạo rực nữa.
     
  9. Mocmeomeo

    Bài viết:
    53
    PHẦN 2

    Chương I

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một chiều tháng 7 năm 1846 ở Florence, một nhóm người quen biết cùng nhau nhóm họp tại nhà giáo sư Fabrizi để bàn bạc kế hoạch công tác chính trị sắp tới.

    Một vài người thuộc Đảng Mazzinian khăng khăng yêu cầu ít nhất cũng phải thành lập một nước Cộng hòa dân chủ và thống nhất nước Ý. Còn những người khác thuộc phái quân chủ lập hiến và phái tự do lại mang nhiều màu sắc khác nhau. Nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm là bất mãn với cơ quan kiển duyệt của Tuscany. Vị giáo sư nổi tiếng Fabrizi triệu tập cuộc họp rất hy vọng giữa đại diện các phe phái này không nảy sinh mâu thuẫn với nhau.

    Từ khi Giáo hoàng Pius IX lên ngôi, tuyên bố đại xá cho tù chính trị tại các lãnh địa của Giáo hoàng tới nay mới được hai tuần lễ, mà làn sóng tự do chủ nghĩa nhờ sự kiện vang dội ấy gây ra đã lan tràn khắp nước Ý. Ở Tuscany, lệnh đại xá của Giáo hoàng đã tác động đến cả chính quyền. Giáo sư Fabrizi và một số lãnh tụ các chính đảng ở Florence cho rằng đây là cơ hội thuận lợi hơn cả để đòi cải cách luật báo chí.

    Nghe vậy, nhà soạn kịch Lega phát biểu:

    - Tất nhiên, chừng nào chưa sửa đổi luật báo chí hiện hành thì chưa thể xuất bản báo được. Phải hoãn số báo đầu tiên lại. Nhưng có lẽ một số bài văn châm biếm của chúng ta có cơ hội lọt lưới kiểm duyệt. Chúng ta càng làm sớm được bao nhiêu thì càng chóng sửa đổi được luật báo chí bấy nhiêu.

    Ngồi trong phòng đọc sách của giáo sư Fabrizi, nhà soạn kịch Lega trình bày quan điểm lập trường của mình mà theo ý ông, những nhà văn tự do phải theo trong lúc này.

    Một người tham dự buổi họp, nhà luật sư tóc bạc, bắt đầu phát biểu với một giọng lê thê:

    - Hiển nhiên là chúng ta phải chớp ngay thời cơ. Sau này không thể có những điều kiện thuận lợi như thế để tiến hành những cải cách toàn diện được. Nhưng chắc gì những bài châm biếm đã làm nên chuyện. Nó chỉ có thể chọc tức và làm cho chính phủ hoảng sợ thôi chứ không thể giúp ta nhận được sự đồng tình từ họ. Mà sự đồng tình của chính phủ mới là điều chúng ta nhắm tới. Nếu nhà chức trách nghĩ chúng ta là những kẻ phản động nguy hiểm thì ta không thể nào có được sự hậu thuẫn của họ.

    - Vậy ông định thế nào?

    - Phải đề ra yêu sách.

    - Yêu sách cho Đại công tước ư?

    - Phải, yêu sách mở rộng quyền tự do báo chí.

    Một người nước da sẫm, vẻ mặt sắc sảo, ngồi cạnh cửa sổ, nhìn nhà luật sư, cười khẩy và nói:

    - Ông đi yêu sách chắc được nhiều kết quả lắm nhỉ! Tôi tưởng vụ Renzi đã chữa cho ông thoát khỏi những ảo tưởng ấy rồi.

    - Thưa ngài! Về chuyện chúng ta không ngăn cản được việc Renzi bị bắt giao cho Giáo hoàng, tôi cũng rất lấy làm tiếc không kém gì ngài. Tôi không muốn làm mếch lòng các quý vị có mặt ở đây, nhưng dù sao tôi vẫn nghĩ rằng sở dĩ chúng ta thất bại trong việc này, chủ yếu là do một số người trong chúng ta đã sốt ruột và nóng nảy, mà nếu ở cương vị tôi, tôi đã không vội quyết định..

    Người da sẫm màu cắt ngang một cách sỗ sàng:

    - Nghĩa là ông sẽ do dự như dân Piedmont chứ gì? Tôi không hiểu ông thấy sốt ruột và nóng nảy ở chỗ nào. Có phải những yêu sách rụt rè mà chúng ta cứ ra hết cái này đến cái khác hay không? Có lẽ ở Tuscany hoặc Piedmont người ta mới cho cái đó là nóng nảy, chứ ở Naples thì không ai nghĩ như thế cả.

    Người đại diện vùng Piedmont cũng chẳng chịu lép vế:

    - May thay, chỉ người Naples mới có thứ nóng nảy của Naples mà thôi.

    Giáo sư Fabrizi cắt lời:

    - Thôi, thôi, xin các ông. Tính cách của người Naples và Piedmont đều có cái hay riêng. Nhưng hiện nay chúng ta đang ở Tuscany mà tập quán Tuscany là nắm chắc công việc trước mắt. Ông Grassini tán thành yêu sách, mà ông Galli thì phản đối. Vậy ý kiến bác sĩ Riccardio thế nào?

    - Tôi thấy yêu sách cũng chẳng có gì hại cả, nếu ông Grassini đồng ý với việc đưa ra yêu sách thì tôi rất vui lòng ký tên ngay. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ rằng, nếu chỉ yêu sách không thôi thì chẳng kết quả bao nhiêu. Tại sao chúng ta lại không có thể vừa đề ra yêu sách lại vừa cho xuất bản cả các bài châm biếm ngắn?

    Grassini nói:

    - Dễ hiểu thôi, vì các bài châm biếm ngắn ấy sẽ làm cho chính phủ có thái độ thù địch với chúng ta và không chấp nhận yêu sách của chúng ta.

    Người miền Naples đứng bật dậy, tiến tới cạnh bàn:

    - Có các bài báo ấy hay không, chính phủ cũng không đếm xỉa tới yêu sách đâu. Thưa các vị, các vị đã đi lầm đường rồi! Thỏa hiệp với chính phủ là vô ích. Chúng ta phải kêu gọi nhân dân vùng dậy.

    - Việc ấy nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Ông định làm gì để kêu gọi nhân dân?

    - Hỏi ông Galli điều ấy thì thật vớ vẩn. Tất nhiên là trước hết ông ấy sẽ đánh vỡ đầu viên kiểm duyệt ra!

    Galli vững vàng đáp lại:

    - Không phải thế đâu. Các ông cứ tưởng rằng người miền Nam chúng tôi thì chẳng có lý lẽ gì khác ngoài nắm tay hay sao?

    - Vậy ông bảo nên làm thế nào? Suỵt.. Thưa các vị, hãy im lặng một chút để nghe ông Galli trình bày một kiến nghị.

    Mọi người từ nãy tới giờ túm năm tụm ba ở các góc phòng bây giờ quây lại quanh bàn để nghe Galli nói. Nhưng ông ta giơ hai tay tỏ vẻ muốn thanh minh:

    - Không, thưa các vị, không phải là kiến nghị mà chỉ là một ý kiến thôi. Tôi cho rằng sự không khí hân hoan hiện nay về việc Giáo hoàng mới nhậm chức chứa đựng nguy hiểm thực tế. Giáo hoàng hiện đang theo đường lối chính trị mới, ban ra lệnh đại xá và do đó, làm cho nhiều người kết luận rằng mọi người dân nước Ý chúng ta, ai ai cũng phải đổ xô vào lòng giáo hoàng để được ngài dẫn tới "miền đất hứa". Bản thân tôi cũng thán phục Giáo hoàng không kém người khác. Đại xá - là một nước cờ cao!

    Grassini khinh bỉ tiếp luôn:

    - Được tán tụng như thế chắc Đức Thánh Cha cũng mát ruột lắm..

    Đến lượt Riccardio ngắt lời:

    - Thôi đi, ông Grassini! Để ông ấy nói hết đã! Lạ thật, sao ông với ông Galli lúc nào cũng cứ cào cắn nhau như chó với mèo ấy!.. Nào, ông Galli, ông cứ nói tiếp đi.

    Đại diện Naples lại nói:

    - Ý kiến là tôi như thế này. Tôi chắc rằng Đức Thánh Cha làm như thế là xuất phát từ những ý định tốt đẹp. Còn như Đức Thánh Cha có thể cải cách rộng rãi đến mức nào lại là vấn đề khác. Bây giờ thì mọi việc đều có vẻ đang thuận buồm xuôi gió. Vì thế, bọn phản động trên khắp nước Ý sẽ ngồi yên chừng một hai tháng, chờ cho cơn sốt hân hoan nguội dần đi sau lệnh ân xá. Nhưng chưa chắc chúng đã chịu để mất quyền lực mà không có tí phản ứng nào. Theo tôi thì: Đến giữa mùa đông, những bọn Jesuit, Gregorian, Sanfedist và cả bè lũ chúng sẽ bày ra mọi mưu ma chước quỷ mới, rồi tất cả những người không chịu bị chúng mua chuộc sẽ bị chúng đầu độc hết cho xem.

    - Rất có thể là như thế.

    - Tốt lắm! Vậy thì chúng ta có nên cứ gửi hết đơn yêu sách này đến đơn yêu sách khác, và đợi đến lúc Lambruschini và phe lũ thuyết phục đại công tước bắt chúng ta giao cho chính quyền phái Jesuit hoặc kéo kỵ binh Áo đến tuần tiễu trên các đường phố và bắt chúng ta phải dừng mọi hoạt động, hay là chúng ta nên đánh phủ đầu, lợi dụng chúng đang tạm thời thất thế mà tấn công trước?

    - Trước hết mong ông hãy nói rõ "tấn công trước" là thế nào?

    - Tôi đề nghị trước hết chúng ta tuyên truyền và cổ động có tổ chức để chống lại phái Jesuit.

    - Thế nghĩa là tuyên chiến bằng các bài văn châm biếm chứ gì!

    - Phải, chúng ta sẽ vạch trần mưu ma chước quỷ của bọn chúng, và kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống phái Jesuit.

    - Nhưng ở đây có kẻ Jesuit nào đâu mà vạch trần?

    - Không có à? Thử đợi chừng ba tháng, rồi các ngài sẽ thấy. Lúc ấy e rằng không làm gì nổi bọn chúng đâu.

    - Phải. Nhưng chắc ông cũng hiểu rằng, nếu muốn động viên nhân dân chống phái Jesuit thì chúng ta phải nói toạc móng heo ra. Vậy ông làm cách nào để tránh kiểm duyệt?

    - Tôi chẳng cần tránh gì cả. Tôi thách thức cả sự kiểm duyệt nữa.

    - Nghĩa là ông sẽ cho xuất bản những bài châm biếm ngắn nặc danh ư? Chuyện ấy nghe thì hay đấy, nhưng chúng tôi cũng đã từng in sách báo bí mật, chúng tôi biết rằng..

    - Không! Tôi đề nghị in các bài châm biếm ngắn ấy một cách công khai, có đề tên và đề rõ địa chỉ của chúng ta hẳn hoi. Nếu họ có đủ can đảm thì họ cứ việc truy tố.

    Grassini kêu lên:

    - Thật là một chủ trương hết sức điên rồ. Thế có nghĩa là cả gan lao đầu vào hàm sư tử.

    Galli gắt ngay:

    - Ồ, ông việc gì phải sợ. Chúng tôi cũng chẳng mong ông ngồi tù chuộc tội cho

    Chúng tôi kia mà!

    Riccardio nói:

    - Thôi đừng nói quá lời nữa, ông Galli! Đâu phải vấn đề sợ hay không sợ. Chúng tôi cũng như ông, sẵn sàng ngồi tù nếu có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Nhưng nếu vì những chuyện không đâu mà dấn thân vào chỗ nguy hiểm thì lại thật quá ngây thơ. Tôi muốn bổ sung vào kiến nghị vừa rồi.

    - Bổ sung gì?

    - Tôi tưởng có thể nghĩ cách đấu trang với phái Jesuit mà khỏi đụng chạm đến cơ quan kiểm duyệt.

    - Tôi không hiểu ông định làm thế nào?

    - Có thể tìm cách nguỵ trang những ý kiến mà chúng ta phát biểu, dùng cách nói quanh co để..

    * * * Để viên kiểm duyệt không hiểu được chăng? Nhưng ông tưởng rằng bất cứ người thợ thủ công hoặc một công nhân nghèo khổ và trình độ học thức thấp nào cũng đoán hiểu được đúng ý nghĩa của những bài ông viết hay sao? Như thế là không sát thực tế lắm đâu.

    Giáo sư Fabrizi quay sang một người vai rộng, râu rậm màu nâu, ngồi cạnh ông, hỏi:

    - Ông Martini, ý kiến ông thế nào?

    - Chưa có nhiền dữ kiện thực tế, tôi chưa muốn phát biểu vội. Phải thí nghiệm độ vài lần xem kết quả ra sao dã.

    - Còn ông, ông Sacconi?

    - Tôi muốn nghe xem ý kiến bà Bolla thế nào, ý kiến của bà thường rất có giá trị.

    Mọi người đều dồn mắt về phía một người phụ nữ duy nhất trong phòng. Bà ngồi trên ghế bành, tay chống cằm, im lặng nghe tranh luận. Cặp mắt vốn đen, sâu thẳm và nghiêm nghị của bà bây giờ đang ánh lên một tia giễu cợt.

    Bà nói:

    - Tôi e rằng ý kiến của tôi khác hẳn ý kiến các ông.

    Riccardio xen lời:

    - Thường là thế đấy, nhưng khốn nỗi, ý kiến của bà lại thường là đúng.

    - Tôi hoàn toàn đồng ý rằng chúng ta phải đấu tranh với phái Jesuit bằng cách này hay cách khác. Vũ khí này không dùng được thì ta dùng thứ khác. Nhưng, thách thức bọn chúng thì chưa đủ, mà lẩn tránh kiểm duyệt lại cũng rất khó khăn.. Còn yêu sách thì chỉ là một trò trẻ con.

    Vẻ mặt hết sức trịnh trọng, Grassini nói:

    - Thưa bà, tôi mong rằng bà không đề nghị những thủ đoạn chém giết chứ?

    Nghe câu ấy, Martini phải đưa tay lên rứt bộ râu rậm, còn Galli thì phá lên cười. Ngay cả người thiếu phụ nghiêm trang kia cũng phải tủm tỉm cười.

    Bà nói:

    - Các ông hãy tin rằng, nếu tôi là kẻ hung hãn đến như thế, thì chắc hẳn tôi không đến nỗi ấu trĩ mà đem ra nói công khai ở đây. Thứ vũ khí lợi hại nhất mà tôi biết là sự giễu cợt. Nếu chúng ta đả lích được phái Jesuit một cách sâu cay, làm cho nhân dân chê cười bọn chúng cùng với những tham vọng của bọn chúng, thì chúng ta sẽ thắng mà không phải đổ máu.

    Fabrizi tiếp lời:

    - Tôi thấy bà nói đúng. Nhưng tôi không hiểu bà sẽ thực hiện bằng cách nào.

    Martini hỏi:

    - Tại sao chúng ta lại không thực hiện được việc đó? Một bài báo châm biếm dễ lọt lưới kiểm duyệt hơn là một bài báo nghiêm trang. Nếu có phải nói bóng gió xa xôi thì ngay trong những câu hài hước có vẻ ngớ ngẩn ấy, người đọc thông thường vẫn có thể tìm ra nghĩa kép một cách dễ dàng hơn là hiểu nội dung một bài luận văn khoa học hoặc kinh tế?

    - Thưa bà, như vậy ý kiến của bà là chúng ta phải xuất bản những sách châm biếm nhỏ hoặc ra một tờ báo hài hước chứ gì? Tôi dám chắc rằng rốt cục cơ quan kiểm duyệt cũng chẳng bỏ qua đâu.

    - Ý của tôi không hẳn phải là một loại nào trong hai loại ấy. Nếu chúng ta in và bán rẻ hoặc phát không những tờ truyền đơn châm biếm bằng thơ hoặc bằng văn xuôi thì rất có lợi. Nếu chúng ta lại tìm được một họa sĩ giỏi nào hiểu được ý chúng ta thì chúng ta có thể còn in những tờ truyền đơn có minh họa nữa.

    - Nếu ý đó được thực hiện thì thật tuyệt vời. Nhưng đã chủ trương làm thì phải làm cho ra nhẽ. Chúng ta cần có một nhà châm biếm hạng nhất. Vậy phải tìm đâu ra?

    Nhà soạn kịch Lega nói thêm:

    - Các vị thừa hiểu rằng số đông chúng ta đều là những nhà văn cừ khôi cả. Tôi hết sức tôn trọng các vị ở đây. Nhưng tôi e rằng chúng ta mà đóng vai khôi hài thì chẳng khác gì con voi nhảy điệu tanrantenla cả.

    - Tôi không hề nói rằng tất cả chúng ta đều phải đi làm một việc không hợp với khả năng của mình. Tôi chỉ nói rằng chúng ta phải cố tìm cho được một nhà châm biếm thật sự có tài, mà ở Ý chắc có. Và phải chuẩn bị đầy đủ quỹ đài thọ cho ông ta. Dĩ nhiên, chúng ta phải hiểu người đó và phải chắc chắn rằng người đó đi theo đúng hướng của chúng ta.

    - Nhưng tìm đâu ra? Tôi có thể đếm đầu ngón tay tất cả những nhà trào phúng ít nhiều có tài, nhưng chẳng ai trong số họ thích hợp. Giusti chắc chẳng thuận đâu, ông ta cũng quá bận việc rồi. Có một hoặc hai nhà văn Lombardy khá tốt, nhưng họ lại viết bằng phương ngữ Milan.

    Grassini nói:

    - Hơn nữa, chỉ dùng những biện pháp cao siêu hơn thì mới có tác dụng đối với dân Tuscany. Nếu dùng hình thức bông đùa mà đề cập tới một vấn đề nghiêm trang như vấn đề tự do chính trị và tự do tôn giáo thì e rằng ít nhất người ta cũng cho là chúng ta thiếu "savoir phaire" về chính trị. Florence không phải là một thành phố mở xưởng kiếm tiền như London, mà cũng không phải là nơi xa hoa phù phiếm như Paris. Nó là thành phố có lịch sử vĩ đại..

    Bà Bolla mỉm cười, ngắt lời:

    - Thì thành phố Athen cũng thế. Nhưng thành phố này "đã trở thành quá lớn và lười biếng mất rồi, cần phải có một con ruồi trâu nó đốt cho thì mới thức tỉnh được họ"..

    Bác sĩ Riccardio đập tay xuống bàn:

    - Ruồi Trâu! Thế mà chúng ta quên khuấy đi mất! Đó chính là người chúng ta đang cần!

    - Là ai thế?

    - Ruồi Trâu - Felice Rivarez. Các vị không nhớ ư? Một kẻ thuộc nhóm Muratori từ trên núi Apennine xuống đây ba năm trước.

    - Ông biết nhóm ấy ư? Phải rồi, tôi còn nhớ là ông đã tiễn họ đi Paris!

    - Phải, tôi cùng Rivarez đến Leghorn, rồi ở đó tôi tiễn anh ta đi Marseilles. Anh ta không muốn ở lại Tuscany. Anh ta nói rằng khởi nghĩa thất bại rồi thì chỉ còn biết cười trừ thôi, vì vậy tốt nhất là đi Paris. Chắc anh ấy cũng đồng ý với ông Grassini rằng Tuscany không phải là chỗ để cười. Nhưng tôi tin chắc nếu anh ta biết được hiện đã có điều kiện hoạt động ở Ý thì chắc anh ta sẽ trở về.

    - Ông vừa nói tên là gì nhỉ?

    - Rivarez. Hình như người Brazil thì phải. Nói chung là đã từng sống ở Brazil. Có lẽ tôi chưa thấy người nào sắc sảo như thế. Lúc bấy giờ ở Leghorn chúng tôi buồn lắm! Cứ nghĩ đến Lambertini đã hy sinh cũng đủ đau lòng rồi!.. Nhưng mỗi khi Rivarez bước vào phòng thì không ai nhịn được cười! Dường như lúc nào anh ta cũng có thể kể mãi được những câu chuyện dí dỏm! Tôi nhớ nhất là trên mặt anh ta có một vết dao chém rất đáng sợ. Rivarez là người rất kỳ quặc.. Nhưng tôi tin những câu chuyện khôi hài của anh đã giúp rất nhiều người đau thương lúc đó đỡ khỏi tuyệt vọng.

    - Có phải anh ta đã viết những bài tiểu luận chính trị trong các báo Pháp ký tên là Le taon (Le taon: Ruồi Trâu) không?

    - Phải, phần lớn những bài báo ngắn và những bài tiểu luận châm biếm. Những kẻ buôn lậu vùng Apennines gọi anh là Ruồi Trâu vì miệng lưỡi anh ta cay độc lắm. Và từ đó anh lấy cái tên ấy làm biệt hiệu.

    Vẫn với giọng trang trọng và chậm rãi, Grassini tham gia bàn luận:

    - Tôi cũng có biết qua người ấy. Nhưng tôi không thể nói rằng mọi điều tôi nghe thấy về Rivarez đều là những lời khen ngợi cả. Tất nhiên Rivarez có một trí sắc sảo hấp dẫn bề ngoài nào đó, nhưng tôi có cảm tưởng người ta đã thổi phồng tài cán của anh ta. Rất có thể anh ta không thiếu dũng cảm. Nhưng thanh danh anh ta ở Paris và Vienna chưa phải là toàn vẹn. Có lẽ anh ta có một cuộc đời đầy phong ba chìm nổi, nhưng người ta không hiểu thân thế ông ta ra sao cả. Nghe nói hình như đội thám hiểm Dupre đã thương hại và thâu nạp anh ta vào đội ở đâu đó vùng xích đạo Nam Mỹ hoang vu, với tình trạng thật là thảm hại. Theo chỗ tôi biết thì anh ta chưa bao giờ giải thích được rõ tại sao lại lưu lạc đến bước ấy. Còn về vụ Apennines, tôi sợ việc có đủ hạng người phức tạp tham gia cuộc khởi nghĩa thất bại đó. Mọi người đều biết, những kẻ bị xử tử ở Bologna đều là những kẻ bất lương chính cống cả. Còn những kẻ đang bỏ trốn thì phẩm chất của nhiều tên trong bọn đó có lẽ cũng chẳng cần nói tới làm gì. Dĩ nhiên, vẫn có vài người thật là có phẩm chất cao quý..

    Riccardo ngắt lời Grassini, giọng đã có vẻ bực dọc:

    - Vài người trong số ấy lại rất thân với nhiều người có mặt tại đây nữa! Ông Grassini ạ, phân biệt tỉ mỉ không vơ đũa cả nắm là những đức tính rất đáng khen, nhưng ông không nên quên rằng những kẻ "kẻ bất lương chính cống" ấy đã hy sinh vì những lý tưởng của mình, thế cũng đủ hơn những cái mà ông hoặc tôi chưa làm được.

    Galli chêm vào:

    - Lần sau hễ có kẻ nào đem những chuyện nhảm nhí ở Paris kể lại với ông thì xin ông nói hộ tôi rằng, họ hiểu lầm rất nhiều về đội thám hiểm Dupre. Tôi có quen người phụ tá của Dupre tên gọi là Martel. Ông ta kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện, bảo rằng đội thám hiểm đã gặp Rivarez lưu lạc ở nơi nói trên, điều đó đúng. Rivarez đã chiến đấu cho nước cộng hòa Argentina, bị bắt làm tù binh nhưng đã trốn thoát. Sau anh ta cải trang, bôn ba khắp nơi và tìm mọi cách trở về Buenos Ayres. Còn chuyện đội thám hiểm thấy thương hại mà thu nhận anh ta vào đội chỉ là hoàn toàn bịa đặt. Thực ra lúc ấy người thông ngôn của đội thám hiểm bị ốm phải trở về nước; những người Pháp thì không hiểu được tiếng địa phương nên họ đề nghị Rivarez giúp làm thông ngôn. Anh ta theo đội thám hiểm đi điều tra các nhánh sông Amazon suốt ba năm trời. Theo lời Martel, nếu lúc ấy không có Rivarez thì họ không sao hoàn thành được cuộc thám hiểm.

    Fabrizi cũng nói:

    - Bất kể anh ta là người thế nào, nhưng đến những nhà thám hiểm từng trải như Martel và Dupre cũng phải cảm phục, thì con người ấy chắc hẳn phải có cái gì xuất sắc. Bà nghĩ thế nào thưa bà?

    - Tôi không biết tí gì về anh ta cả. Khi họ chạy trốn qua Tuscany thì tôi còn đang ở bên Anh. Nhưng nếu những người bôn ba khắp nơi với Rivarez suốt ba năm trời và cả những đồng chí đã tham gia khởi nghĩa cũng đều nhận thấy anh ta tốt, thì tôi nghĩ thế là đủ, cần gì phải đếm xỉa tới những lời đồn đại lung tung.

    Riccardo nói:

    - Ý kiến của các đồng chí về anh ta thì chẳng phải bàn nữa. Từ Muratory đến Zambeccari cho tới những dân miền núi thô lỗ nhất, ai ai cũng hết lòng kính phục anh ta. Ngoài ra anh ta còn là bạn thân của Orsini. Mặt khác, cũng đúng là ở Paris người ta bàn tán nhảm nhí đủ điều về anh ta, những kẻ nào thù hằn cá nhân thì sao viết được văn châm biếm về chính trị.

    Lega nói:

    - Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như khi những người lánh nạn chính trị chạy qua đây đã có lần thấy anh ta. Có lẽ ông ta hơi gù, hơi khập khiễng hoặc là có một tật gì đó.

    Nhà giáo sư liền rút ô kéo bàn viết lấy ra một tập giấy, lật hết tờ nọ đến tờ kia rồi nói:

    - Hình như tôi có giữ một tờ cáo thị truy nã của sở cảnh sát tả nhận dạng anh ta. Chắc các ông còn nhớ là khi họ chạy trốn lên núi thì đâu đâu cũng dán đầy cáo thị tả nhận dạng họ. Còn lão giáo chủ.. tên thằng cha khốn nạn ấy là gì nhỉ? À, lão Spinola! Chính lão đã treo giải thưởng lấy đầu nghĩa quân. Người ta kể một câu chuyện rất lý thú về Rivarez. Chuyện kể rằng Rivarez mặc một bộ đồ lính cũ đi lang thang khắp nơi, vờ như làm một kỵ binh bị thương đi tìm đồng đội. Đang đi thì đụng ngay phải một đội lính mà Spinola phái đi lùng bắt mình. Anh ta ngồi suốt ngày với bọn lính trên một chiếc xe, kể cho chúng nghe những chuyện khiếp vía, nào là bọn phiến loạn bắt mình làm tù binh, nào là chúng đưa mình lên sào huyệt ở trên núi và tra tấn ghê gớm thế nào. Bọn lính đưa tờ truy nã cho anh xem, thế mà anh ta cứ điềm nhiên kể cho chúng nghe đủ mọi thứ chuyện hoang đường về tên quỷ sứ mà chúng gọi là Ruồi Trâu mãi. Đến đêm, khi bọn lính đi ngủ cả rồi, Rivarez đổ một thùng nước lớn vào túi thuốc súng của chúng, nhét đầy lương thực và đạn vào túi mình rồi tẩu thoát.. À, tờ cáo thị ấy đây rồi!

    Fabrizi ngừng chuyện.

    - "Felice Rivarez, biệt hiệu Ruồi Trâu. Tuổi gần ba mươi. Nguyên quán và gia đình: Không rõ, nhưng có thể là ở Nam Mỹ. Nghề nghiệp: Nhà báo. Người thấp. Tóc đen, râu đen, da ngăm ngăm, mắt xanh. Trán cao và vuông. Mũi, mồm, cằm.." À còn nữa: "Đặc điểm chân phải đi khập khiễng, cánh tay trái khòng khoèo, bàn tay trái mất hai ngón. Có vết dao chém trên mặt. Nói lắp". Chỗ này có chú thích thêm: "Bắn rất giỏi - khi bắt phải coi chừng".

    - Kể cũng thật lạ lùng! Tờ nhận dạng tả kỹ như thế mà làm sao anh ta vẫn bịp được cả một đội lính?

    - Dĩ nhiên anh ta phải là người gan dạ phi thường mới thoát được. Chỉ cần bọn chúng tình nghi một chút là chết ngay. Sở dĩ anh ta thoát được mọi hiểm nghèo là vì anh ta làm ra vẻ ngời nghệch hết sức khéo.. Thưa các vị, vậy các vị nghĩ sao? Té ra nhiều người chúng ta biết rõ Rivarez cả nhỉ? Thế thì ta viết thư mời anh ta đến giúp chứ?

    Fabrizi nói:

    - Tôi nghĩ trước hết cũng vẫn nên cho anh ta biết kế hoạch của chúng ta và thăm dò xem anh ta có tán thành không.

    - Còn phải xem xét gì nữa, cứ nói đến vấn đề đấu tranh chống phái Jesuit là Rivarez tán thành ngay. Tôi chưa thấy người nào chống phá giáo hội kịch liệt như vậy.

    - Vậy ông Riccardo viết thư nhé?

    - Được, tôi sẽ viết. Nhưng để tôi nhớ xem bây giờ anh ta ở đâu đã. Hình như ở Thụy Sĩ thì phải. Thật là một con người ham hoạt động, suốt đời bôn ba đây đó. À, thế còn vấn đề các bài báo châm biếm..

    Cuộc tranh luận kéo dài và sôi nổi. Khi mọi người sắp sửa giải tán, Martini tiến lại gần người thiếu phụ trầm mặc đó.

    - Gemma, tôi đưa Gemma về nhé.

    - Cám ơn Martini. Tôi cũng có việc muốn bàn với anh.

    Maritni khẽ hỏi:

    - Vấn đề địa chỉ lại có gì không ổn phải không?

    - Không có gì nghiêm trọng lắm. Nhưng tôi thấy đã đến lúc cần thay đổi đi đôi chút. Tuần này bưu điện có giữ lại hai bức thư. Cả hai đều không có gì cả, có lẽ họ giữ lại ngẫu nhiên thôi. Nhưng chúng ta không thể mạo hiểm được. Nếu cảnh sát tình nghi một trong những địa chỉ của chúng ta là lập tức phải đổi ngay tất cả mọi địa chỉ khác.

    - Sáng mai tôi sẽ đến chỗ Gemma. Bây giờ không nên bàn việc nữa, trông Gemma có vẻ mệt mỏi rồi.

    - Tôi không mệt đâu.

    - Thế chắc lại lo nghĩ gì rồi?

    - Ồ, không có gì đâu.

    *Chú thích: "Savoir phaire" (Tiếng Pháp) : Thẩm định, đánh giá.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...