Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn rồng tiên việt nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi shopoga, 1 Tháng mười một 2023.

  1. shopoga

    Bài viết:
    512
    CHƯƠNG 19

    PHẦN 1

    BÀI DIỄN VĂN KỲ HỌP ĐẦU TIÊN LẦN THỨ I CỦA THƯỢNG VIỆN QUỐC ĐẠO VÀO NGÀY 2 THÁNG 3 NĂM GIÁP TUẤT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quốc Tổ Vua Hùng nhìn hai Bức Họa Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Xuống chốn Nhân gian sinh con đẻ cái do mình mới họa ra. Nhìn những người con còn ấu thơ chơi đùa xung quanh mẹ Âu Cơ. Cũng như những người con đã trưởng thành vây quanh Đức Cha Trời. Quốc Tổ Vua Hùng như nhớ lại. Tuy cách đây 75 triệu 600 ngàn năm. Nhưng Quốc Tổ Vua Hùng nhớ lại không sót một chi tiết nhỏ nào. Một trăm anh em chung sống với nhau, giờ đây mỗi người làm chủ mỗi phương cõi nước Trời. Giáo hóa thập phương, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Quốc Tổ Vua Hùng chợt nổi lên cảm xúc. Tình anh em chung sống với nhau. Thứ tình mà Cha Trời truyền sang con cái. Tình thiêng liêng cùng một Cội. Tình đồng loại từ bào bọc Mẹ Âu Cơ sanh ra.

    Quốc Tổ Vua Hùng lên ngôi Quốc Vương lúc nào cũng bề bộn công chuyện. Nào là phê chuẩn tấu chương, nào là chỉ đạo điều hành đất nước. Nhất là công việc thành lập Thượng Viện Quốc Đạo, Hạ Viện Quốc Hội. Giao quyền cho Thượng Viện Quốc Đạo, Hạ Viện Quốc Hội Điều hành đất nước. Một công việc mà chỉ có Quốc Tổ Vua Hùng mới đủ quyền quyết định lựa chọn thành lập mà thôi.

    Nơi hội trường rộng lớn. Quốc Tổ Vua Hùng nhìn 72 vị đã được mình sàng lọc tuyển chọn. Là những nhân tài kiệt xuất, hiển Thánh trong hội Long Vân. Có công lớn trong công cuộc xây dựng nước Văn Lang. Các Ngài là những Vị Thánh, hội Ngộ Chân Tánh, làm Chủ Tâm mình. Nhờ Minh Tâm Kiến Tánh. Nên các Ngài có đủ Hùng – Bi – Trí – Đức. Nhẫn Nhục – Nhẫn Nhịn – Nhẫn Nại. Khôn kéo, lèo lái con thuyền, vận mệnh Tổ Quốc đi đến vinh quang. Ngôi vị Chí Tôn tối cao của thượng viện Quốc Đạo. Chính là Quốc Tổ Vua Hùng. Nhìn 72 vị Thánh, vị nào vị nấy cốt cách phi phàm thoát tục. Đầu tỏa hào quang. Nói lên sự thông thái vô bờ bến. Quốc Tổ Vua Hùng lấy làm hài lòng cho sự lựa chọn của mình.

    Mở đầu cho bài diễn văn. Quốc Tổ Vua Hùng tuyên giáo rằng:

    Thưa Đại Hội: Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan Độc Lập, Đạo pháp tối cao của Đạo. Thế Thiên Hành Đạo. Đem lại sự sống yên vui cho Nhân Loại con người. Ban bố hiến pháp vũ trụ, luật pháp vũ trụ. Pháp Tạng, Luật Tạng, Thiên Tạng vũ trụ. Bản thể tối cao của Đức Cha Trời. Truyền đạt lời dạy của Đức Cha Trời. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan tối cao trong sạch. Lãnh Đạo chỉ Đạo, mọi lãnh vực trọng đại của Đạo, sự sống còn tồn vong của Nhân Loại con người. Cơ quan tối cao trung trực. Nói lên sự công bằng xã hội, phê phán và chỉ trích những hành vi làm hại con người. Dẫn dắt con người đến con đường tội lỗi tàn sát lẫn nhau, đàn áp lẫn nhau. Chỉ vì lợi ích riêng tư bè phái, của một nhóm người hay Bộ Tộc, Bộ Lạc, làm đảo lộn cuộc sống yên bình xã hội Nhân Loại, phủ bóng đen lên Quyền Tự Do, Quyền Bình Đẳng, Quyền Mưu cầu hạnh phúc, Quyền Sống Nhân Quyền con người. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan tối cao của sự công bằng. Không thiên vị. Bách Tộc Bình Đẳng. Sống chung trong mái nhà Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp Công Lý Công Bằng Xã Hội. Mọi Quyền lợi như nhau. Vua, Quan, Dân Chúng. Đều bình đẳng trong Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp Công Lý Công Bằng xã hội.

    Thưa Đại Hội. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan Đạo pháp tối cao. Đóng vai trò quan trọng, cố vấn tham mưu cho Quốc Hội. Trợ lực cho Quốc Hội hoàn thành những trọng trách của Đất Nước. Thượng viện Quốc Đạo là Cơ Quan Mật Tạng của Đạo. Cho mọi sự Lãnh Đạo điều hành Đạo pháp. Đưa Nhân Loại đến con đường tươi sáng, chân thiện hoàn mĩ. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan hành Đạo vì lợi ích chung. Vì Dân, vì Nước, vì Nhân Loại con người. Làm cho con người sống tốt đời đẹp Đạo. Thượng viện Quốc Đạo là hiện thân tối cao của Chính Nghĩa. Chủ Nghĩa của sự giác ngộ. Chủ Nghĩa của sự siêu thoát Linh Hồn. Là cơ quan tối cao giải thoát tất cả sự đau khổ. Khổ đau áp bức, khổ đau nô lệ, khổ đau sanh, lão, bệnh, tử, khổ đau mất tự do trong cuộc sống.

    Thưa Đại Hội. Nhà Nước Văn Lang được sanh ra từ Đạo. Từ Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa Thiên Quyền, Nhân Chủ, Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Nhà Nước xóa bỏ sự Độc Quyền, xóa bỏ Chủ Nghĩa Độc Quyền Độc Tài Độc Trị, kéo dài hàng vạn năm. Chuyển sang giai đoạn Đa Nguyên. Nhà Nước của Bách Tộc Văn Lang. Nhà Nước cả 100 dân tộc anh em. Nhà Nước Pháp Quyền. Nhân Quyền văn minh tiến bộ nhất thời đại. Tối cao Nhà Nước không phải là Vua mà là Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, Công Lý Công Bằng xã hội mới thật sự là Vua (Pháp Vương Tử). Chỉ có Pháp Vương Chính Nghĩa. Không những đem lại sự Bình Đẳng Công Bằng cho toàn xã hội. Cho toàn Nhân Loại trước sau như một không hề thay đổi. Pháp Vương Chính Nghĩa ngự trị và tồn tại mãi mãi theo thời gian hết thế hệ con Cháu nầy sang thế hệ Con Cháu khác. Nghìn năm này sang nghìn năm khác. Không có 1 tổ chức tham vọng nào, thế lực thù địch nào. Dù cho đó là 1 thế lực mạnh nhất thế giới, Cũng không thể nào lật đổ nổi pháp vương Chính Nghĩa. Vì Pháp Vương Chính Nghĩa là Pháp Tạng, Luật Tạng, Thiên Tạng vũ trụ, Thiên ý của Đức Cha Trời. Là Vua tâm hồn ở trong tâm hồn mỗi người Dân Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn, là Văn Hóa Chính Nghĩa. Văn Hóa Hiến Pháp, Đạo pháp, Luật pháp, Công Lý Công Bằng xã hội. Văn Hóa đỉnh cao của Thời Đại. Đỉnh cao của trí tuệ giác ngộ. Chủ Nghĩa Thiên Quyền, Nhân Chủ, Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ là Chủ Nghĩa rót ráo Bình Đẳng. Chủ Nghĩa không phân biệt màu da chủng tộc. Không có Dân Tộc nào cao hay Dân Tộc thấp. Dân Tộc nào cũng do Cha Trời, Mẹ Trời sanh ra. Tất cả đều bình đẳng, sanh ra từ Bào Bọc Âu Cơ. Đồng Bào chung nhau chiếc nôi Địa Cầu, chung ngôi nhà chung vũ trụ. Thiên Đạo vũ trụ là Đạo Luật vũ trụ. Thuận thời sanh. Nghịch thời diệt. Thuận theo bản thể Linh giác Chân Tánh vũ trụ. Tức là pháp thân tối cao cùng khắp của Đức Cha Trời. Thời mãi mãi tồn tại, sanh sôi nảy nở. Bằng ngược lại. Nghịch lại Chân Tánh, Đại Đạo vũ trụ. Đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời. Thời dù to lớn đến đâu cũng bị hủy diệt.

    Thưa Đại Hội: Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan Đạo Luật tối cao. Cầm Cân nẩy mực không thiên vị. Chính là Kim chỉ Nam cho sự tồn vong, uy Quyền tối cao của Thượng viện Quốc Đạo. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan phán xét tối cao cuối cùng. Kết luận tội án, giao cho tòa án tối cao Nhà Nước Văn Lang phán xử theo điều luật của Nhà Nước. Thượng viện Quốc Đạo là cơ quan lãnh Đạo Tối Cao nhưng lại là Cơ Quan thiết thực trong đời sống xã hội, đời sống con người. Gắn liền với Non Sông Tổ Quốc, gắn liền với Nhân Loại con người toàn cầu Năm Châu bốn biển. Một Cơ Quan thân thiện, thiết thực như vậy. Tuy rất cao thâm nhưng cũng rất đời thường, không xa rời dân chúng.

    *- Đất Nước có Nền Quốc Đạo là Đất Nước có cái gốc của sự bình yên.

    *- Tổ Quốc có Nền Quốc Đạo là Tổ Quốc có cái gốc của sự đoàn kết Dân Tộc.

    *- Xã Hội có Đạo là Xã Hội có cái gốc duy trì trật tự.

    *- Gia Đình có Đạo là có cái gốc trên thuận dưới hòa.

    Thưa Đại Hội: Quốc Đạo là Cốt Lõi, là rường Cột của Nhà Nước Văn Lang. Vì Nhà Nước Văn Lang từ Đại Đạo khởi sanh ra. Đại Đạo thành lập vào ngày mùng 2 tháng 3 năm Ất Sửu. Đến ngày mùng 1 tháng 5 năm Mậu Thìn thì Quân Dân ÂU – LẠC tiến về Đất Lãnh Nam, mở mang bờ cõi Nước Xích Quỷ, sau bốn năm khai khẩn đất hoang. Thành làng, thành phố, thành xã, thành Quận, thành Huyện, thành Châu, thành Bộ. Mở màn mở đầu cho cuộc Dựng Nước Văn Lang. Cho đến ngày mùng 2 tháng 9 năm Quí Dậu . Thì Nhà Nước Văn Lang, Quốc Đạo Văn Lang công bố tuyên ngôn ra đời đến nay đã hơn nửa năm. Để cho nền Quốc Đạo làm việc có hiệu quả. Nay tôi tuyên bố thành lập thượng viện Quốc Đạo. Ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tuất. Cơ quan tối cao của Nền Quốc Đạo Văn Lang. Lãnh Đạo Quốc Đạo và làm cố vấn cho Nhà Nước Văn Lang. Hoàn thành trọng trách. Mà lịch sử Nhân Dân giao phó. Mặt Trời Quốc Đạo ra đời. Đem ánh sáng Công Bằng. Bình Đẳng Tự Do. Nhân Quyền đi vào cuộc sống. Cũng như sự tồn vong. Dân Tộc Văn Lang, Nhà Nước Văn Lang. Tổ Quốc Văn Lang. Kính chúc Thượng Viện Quốc Đạo dồi dào sức khỏe đem lại thành công lớn cho nước nhà.

    Bài diễn văn tuyên bố thành lập thượng viện Quốc Đạo đến đây là kết thúc. 72 vị Thánh như nhận thấy bao trách nhiệm trọng đại của Nền Quốc Đạo cũng như Tổ Quốc Văn Lang. Mà Quốc Tổ Vua Hùng đã tin tưởng giao Quyền Lực. Những sự kiện trọng đại cho thượng viện Quốc Đạo. Để hoạt động đúng có hiệu quả. Thượng viện Quốc Đạo đã soạn thảo ra Cương Lĩnh phấn đấu hoạt động của Đạo. Của những thành viên cá nhân, cũng như tập thể. Dâng lên Vua Hùng xem xét.

    Quốc Tổ Vua Hùng xem xét xong Cương Lĩnh Quyết tâm, phấn đấu của Thượng viện Quốc Đạo, gật đầu khen ngợi vì đã nói lên được Cốt yếu, Cốt lõi sống còn của Đạo. Trong cả trăm điều cơ yếu Cốt lõi quan trọng. Có mười điều được nên lên hàng đầu.

    1 Là: Sống đúng làm đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn Quốc Vương. Tức là lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân.

    2 Là: Giải thoát mọi đau khổ, thống khổ, khổ áp bức, khổ nô lệ, khổ mất tự do, khổ mất bình đẳng công bằng xã hội, khổ nghèo đói lạc hậu, khổ sinh, khổ lão, khổ bệnh, khổ tử, khổ đọa lạc, sa đọa Linh Hồn, còn bao nhiêu sự khốn khổ khác, v. V..

    3 Là: Cầm Cân nẩy mực, phán xét công minh, không thiên vị, công bằng xã hội.

    4 Là: Không cậy quyền thế, lạm dụng quyền lực, bóp méo sự thật, làm sai lệch vấn đề, làm giảm uy tín của Đạo.

    5 Là: Đem ánh sáng Chính Nghĩa Văn Hóa Cội Nguồn. Đến mọi tầng lớp xã hội, đến mọi tầng lớp Nhân Dân Đồng Bào.

    6 Là: Tôn trọng Nhân Quyền. Bảo vệ Nhân Quyền. Những Quyền thiêng liêng của con người mà Đức Cha Trời san sẻ ban tặng cho mỗi con người.

    7 Là: Chuyên Chính không vì tư riêng. Chỉ vì Quốc Đạo. Hết lòng phục vụ cho Đạo. Cho Dân cho Nước.

    8 Là: Chấp hành nghiêm chỉnh những điều Luật. Do thượng viện Quốc Đạo đề ra.

    9 Là: Phấn đấu lập nhiều công lao thành tích dâng lên Tổ Tiên Cha Trời – Địa Mẫu vào những ngày Đại Lễ.

    10 Là: Nếu phạm vào Cương Lĩnh, Quy Chế. Những điều quy định, làm sai nguyên tắc mẫu mực. Do thượng viện Quốc Đạo đề ra. Thì bị khai trừ ra khỏi thượng viện Quốc Đạo. Giao cho Cơ Quan pháp Luật Nhà Nước xét xử. Tùy theo hành vi phạm tội lớn hay nhỏ. Mà nhận lãnh hình phạt cơ quan Pháp Luật tối cao của Nhà Nước.

    * * *

    Hết phần 1 chương 19 mời xem tiếp phần 2 chương 19 Long Hoa Mật Tạng.

    Con đường rộng lớn đã mở ra

    Một Cội Cha Ông, Cội một nhà

    Văn Lang đại đạo thời dựng nước

    Hiển linh trỗi dậy nở xuân hoa

    Việt Nam con cháu Tiên Rồng khắp

    Đôi cánh Cội Nguồn sãi bay xa

    Truyền thống anh linh giờ kết trái

    Thái Bình an lạc mãi âu ca.

    * * *

    CHƯƠNG 19

    PHẦN 2

    BÀI DIỄN VĂN KỲ HỌP ĐẦU TIÊN LẦN THỨ NHẤT CỦA HẠ VIỆN QUỐC HỘI VÀO NGÀY 26 THÁNG 6 NĂM GIÁP TUẤT

    Từ ngày Thượng viện Quốc Đạo ra đời đã giải quyết một khối lượng lớn công việc lớn của Đất Nước. Quốc Tổ Vua Hùng vì thế mà giảm bớt gánh nặng, bề bộn chú tâm xem xét theo dõi suốt một thời gian. Chọn lựa những tinh hoa ưu tú. Có Tài có Đức điều hành lãnh đạo Đất Nước. Mặt Trời vừa ló dạng. Thì các quan chức cao cấp, của các Bộ Ngành trọng đại của Đất Nước 24 vị. Quốc Tổ Vua Hùng trong chiếc áo Long Bào chủ tọa cuộc họp khai lập Bộ Máy Công Quyền thành viên Chính phủ. Để mở đầu cho bài diễn văn. Quốc Tổ Vua Hùng tuyên cáo. Công Bố nói rõ mục đích.

    Thành lập Hạ viện Quốc Hội. Bộ Máy Công Quyền thành viên Chính phủ. Quyền lực tối cao của Nhà Nước Văn Lang:

    Thưa Đại Hội, Hạ viện Quốc Hội là Cơ Quan Công Quyền tối cao Điều hành Nhà Nước Văn Lang. Cơ Quan hành pháp, lập pháp của Nhà Nước Văn Lang. Cơ Quan vì Nước, vì Dân Làm theo nguyện vọng của Dân. Cơ Quan làm cho Dân giàu Nước mạnh, Dân Chủ Công Bằng văn minh. Hạ viện Quốc Hội là cơ quan soạn thảo Quyết định mọi hoạt động xã hội cũng như mọi sự phát triển của Đất Nước, Kinh Tế, Quốc Phòng, An Ninh. Cơ Quan tối cao đối nội, đối ngoại, Lèo lái con thuyền vận mệnh Đất Nước, vượt qua sóng gió đi lên. Một cơ quan tối cao. Đặt Quyền lợi Tổ Quốc trên Quyền lợi cá nhân. Bộ Máy Công Quyền trong sạch. Cơ Quan rường Cột của Nhà Nước Văn Lang. Hạ Viện Quốc Hội là Cơ Quan đóng vai trò cho mọi sự thành bại của Đất Nước. Dẫn dắt Dân Tộc Văn Lang trên con đường Độc Lập Dân Tộc, phát triển xã hội, giữ vững chủ quyền. Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cải tổ đổi mới trong lao động sản xuất. Đổi mới trong khoa học kỹ thuật. Đổi mới trong đường hướng kinh tế. Khôn khéo, đàm phán, ngoại giao bảo vệ quyền lợi của Quốc Gia mình. Những vấn đề lợi ích chung của đôi bên. Tuy ta là 1 Đất Nước lớn. Không sợ gì Đất Nước nhỏ. Nhưng cũng phải đề phòng ngoại giao mềm dẻo. Biết người biết ta mới chinh phục được họ. Liên kết Đồng Minh mở rộng thị trường kinh tế, làm trung gian giao thương giữa Nước nầy với Nước khác. Một Đất Nước văn minh là một Đất Nước không những có bề dày lịch sử truyền thống lâu đời mà còn có chỗ đứng trên lãnh vực quốc tế. Mà còn có cả văn hóa nghệ thuật. Thể Dục, Thể Thao. Quảng bá hình ảnh Đất Nước. Văn Hóa Chân Thiện mến khách với bạn bè Năm Châu khắp thế giới.

    Hạ Viện Quốc Hội là cơ quan Công Quyền. Đại Diện cho Dân, cho Nhà Nước. Giải quyết những vấn đề khó khăn cho Dân. Bảo vệ Dân, hướng dẫn Dân vươn lên, phát triển mọi mặt. Nở hoa tài năng, cũng như sự phồn vinh của Đất Nước. Hạ viện Quốc Hội là Cơ Quan vừa là Cha, vừa là Mẹ, vừa là Thầy, vừa là trụ cột sống còn của Tổ Quốc. Trụ Cột của sự phát triển xã hội. Làm Cha làm Mẹ làm Thầy mà hư hỏng thì con Dân cũng hư theo.

    Hạ viện Quốc Hội là Cơ Quan Chính Phủ. Chỗ dựa vững chắc cho Quốc Hội, cũng như tiếp thu ý kiến của Quốc Hội Tổ Quốc Văn Lang có vững vàng đi lên hay không. Nền móng nhân sự Tài Đức. Trong sạch kiên cố, thì mới xây dựng lên những tầng cao được. Muốn giữ vững bộ máy Công Quyền bền vững, lâu thoái hóa. Thì mỗi thành viên tự làm trong sạch mình. Nghiêm Chỉnh chấp hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Điều Luật chung cho toàn xã hội. Dân phạm Luật đã gây thiệt hại cho đời sống xã hội. Quan phạm Luật thì gây tai hại cho Non Sông Tổ Quốc. Chính sách nghiêm minh, không thiên vị, không bao che là sự sống còn Nhà Nước Văn Lang. Tội lỗi của các bật Vua, Quan, thường đưa đất nước đến chỗ suy vong. Ở Thiên giới. Chư Thiên sống trong thế giới tự do hạnh phúc. Là vì Chư Thiên ít phạm Luật. Mà Luật Thiên cũng không thiên vị một ai. Hễ phạm tội liền bị xét xử. Tùy theo tội nặng nhẹ mà bị đày xuống chốn nhân gian. Dù cho đó là ai đi nữa. Là Phật Thánh Tiên. Là Thượng Đế cũng bị Thiên Luật xoay chuyển đọa lạc như thường.

    Càng ở cương vị tối cao. Nếu không kiểm soát tư tưởng. Thì dễ bị sa ngã vào tội lỗi. Của mọi sự dục vọng nội tâm, cám dỗ quyến rũ lôi kéo bên ngoài, dẫn đến sa chân vào lưới pháp Luật. Cảnh giác đề phòng luôn luôn làm trong sạch nội tâm, giữ vững Đức Độ Chân Chính của mình. Chánh Tâm là đã an trụ ngôi vị Phật Thánh Tiên. Chí Tâm lo cho Dân cho Nước. Ở cương vị tối cao càng phải làm chủ lấy mình. Làm chủ tâm mình như gương sáng Chí Thánh Chí Linh. Đem cái Tài cái Đức phục vụ cho Dân cho Nước. Có thể nói mỗi thành viên Chính Phủ là mỗi vị Phật, vị Thánh, vị Tiên.

    Hạ viện Quốc Hội là Cơ Quan tối cao. Cơ Quan của sự cứu khổ cứu nạn. Cơ Quan tạo ra vô lượng Công Đức. Đem đến bao sự lành cho Dân cho Nước. Làm cho Dân giàu Nước mạnh, xã hội công bằng, Dân Chủ Nhân Quyền văn minh. Không có sự làm lành cứu Nhân độ thế nào cao hơn nữa. Ở Thiên giới Đời Đạo là một. Cuộc sống Chư Thiên là cuộc sống gắn liền đời là Đạo, Đạo là đời. Phật Thánh Tiên Thần Chúa làm Vua làm Chúa khắp các cõi Nước Trời. Giáo hóa Thiên Chúng sống theo Văn Hóa Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Tôn trọng Thiên Quyền, giữ vững Công Bằng xã hội. Từ Khai Thiên Lập Địa tới bây giờ ở các tầng trời, các cõi trời Chư Thiên vẫn sống y như thế.

    Ở Thiên giới gọi là Thiên Quyền. Còn ở Nhân gian gọi là Nhân Quyền. Làm Quan mà hết lòng lo cho Dân cho Nước. Thì tấm lòng Bồ Tát đã phát huy đến chổ Chí Thiện. Ánh sáng Chính Nghĩa soi sáng khắp nhân gian. Thời các vị Quan ấy không phải Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa giáng thế cứu Dân thì còn ai vào đó nữa. Bằng ngược lại. Làm Quan, làm Vua chỉ lo cho quyền lực túi riêng của mình. Không phải lo cho Dân cho Nước. Mà lo cho túi tham. Củng cố bè phái, củng cố quyền lực Độc Tài Độc Trị Đàn áp Dân, bóc lột Dân thậm tệ, sách nhiễu Dân, cậy quyền ỷ chức sát phạt Dân, vơ vét của Dân. Làm cho Dân khổ, Dân oán, Dân than. Ngắn cổ kêu không thấu Trời. Đói nghèo lạc hậu triền miên. Thì đó không phải là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa mà là Tà Ma, Ác Quỷ đầu thai làm người.

    Những kẻ hại Dân hại Nước. Mở ra con đường ác. Lấp con đường Thiện. Lấp của Thiên Đàng mở cửa Địa Ngục. Làm cho Linh Hồn Nhân Loại đọa lạc khốn khổ. Không phải tà Ma, ác Quỷ đầu thai thì còn ai vào đó nữa. Nếu chúng ta thiếu cảnh giác, thiếu sáng suốt. Chọn nhầm ác Quỷ để chúng leo lên tận đỉnh cao. Chúng nắm Quyền sanh sát trong tay. Thì nguy hại cho Dân cho Nước biết bao. Ác lên Ngôi, còn Thiện thì sống trong nhà tù Địa Ngục. Thời còn gì là Công Bằng tự do nữa.

    Thưa Đại Hội: Hạ viện Quốc hội lập ra là để lo cho Dân lo cho Nước. Không phải lập ra để cai trị Dân mà để hướng dẫn dìu dắt Dân đi theo con đường Chính Nghĩa.

    1: Đem ánh sáng truyền thống anh linh Ông Cha, ánh sáng Công Bằng Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Tự Do. Đến với các Dân Tộc anh em, mọi tầng lớp xã hội, mọi tầng lớp người Dân.

    2: Đem ánh sáng Thiên Luật Đại Đồng, ánh sáng Thiên Luật Bình Đẳng Công Bằng Nhân Quyền tự do, làm cho Dân hiểu, Dân tin, Dân làm theo.

    3: Đem ánh sáng khoa học, ánh sáng trí tuệ làm chủ khoa học ánh sáng Công Lý cạnh tranh Công Bằng, Bình Đẳng khoa học ánh sáng Đạo Đức xã hội phát triển nâng cao trình độ Dân trí.

    Chủ Nghĩa Ma Quỷ, tà Ma ác Đạo không bao giờ có những ánh sáng Chính Nghĩa nầy. Mà chỉ ngụy tạo ẩn mình núp bóng Chính Nghĩa mà thôi. Trình độ dân trí còn quá thấp. Khó mà phân biệt được Chính Nghĩa, Phi Nghĩa. Hình bóng. Bóng của hình. Tuy Giống Nhau, nhưng một thật một giả, nên dễ bị đánh lừa. Đó là nói đến trình độ Dân Trí còn quá thấp không nhận ra được. Chính Nghĩa và phi Chính Nghĩa. Còn như chúng ta là những người làm chủ Chân Tâm làm chủ Chân Tánh. Mặt Trời trí tuệ đã xuất hiện. Thì tà Ma ác Quỷ đã sợ ánh sáng trí huệ của chúng ta. Chúng xuất hiện là ta nhận biết ngay. Dù chúng ẩn núp trong Linh Hồn chúng ta. Chúng ta cũng phát hiện ra chúng. Tâm Linh của mỗi con người đều có ba con mắt tối cao. Đó là con mắt Phật, con mắt Thánh, con mắt Tiên. Đã bị ngu si tội lỗi che khuất quá dày. Nên không tỏa sáng phát huy được. Nhờ nỗ lực đi theo Chính Nghĩa, sống theo lương tâm. Tội lỗi ngu si dần dần tan biến thì ba con Mắt Đại Huệ Phật Thánh Tiên xuất hiện tỏa sáng lần lần. Làm chủ bản thân, làm chủ Linh Hồn, làm chủ Chân Tâm Chân Tánh. Thì ác Ma, Quỷ dữ cũng khó mà lộng hành làm hại Dân hại Nước. Ở vào thời mạc pháp ác Ma và Quỷ dữ chúng đầu thai vào loài người. Nhờ vào xảo trá, che đậy, ngụy biện, chúng đã lừa được dân mắc vào kế bẫy của chúng. Nhờ vào sự gian manh, xảo trá, quỉ quyệt, lắm mưu nhiều kế. Tinh ranh, đầy thủ đoạn, không từ thủ đoạn độc ác nào mà không làm. Chúng cướp Chính Quyền mau chóng, vì chúng lợi dụng Chính Nghĩa để cướp lấy Chính Quyền. Chúng không có cái gốc nền tảng của Chính Nghĩa. Nên không thể giữ Độc Lập lâu dài được. Như loài cỏ lan nhanh nhưng tuổi thọ ngắn. Tự nó hủy diệt lấy nó.

    Thưa Đại Hội, Hạ viện Quốc Hội ra đời để Lãnh Đạo đất nước. Mở rộng giáo dục, phát huy cái thiện đẩy lùi cái ác. Rèn luyện con người để cho con người vươn lên. Tôm hóa Rồng, Gà hóa Phụng, Phàm hóa Thánh, hóa Tiên, hóa Phật. Chính sách ngu Dân, không những kìm hãm sự phát triển của Đất Nước mà còn là tội ác đối với Nhân Loại, làm cho Nhân Loại chìm mãi trong bóng đêm của sự thống khổ. Xã Hội văn minh là xã hội xóa bỏ Chủ Nghĩa Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tiến tới Chủ Nghĩa Đa Nguyên phù hợp Đa Dân Tộc, Đa sắc Tộc. Bách Việt Văn Lang xóa bỏ Nhà Nước Độc Tài tiến tới Nhà Nước pháp Quyền. Nhà Nước thật sự của Dân do Dân và vì Dân. Chỉ có nhà nước lấy Hiến pháp, Luật pháp Đạo Pháp là trên hết. Thì Nhà Nước đó mới thật sự đem lại sự công bằng bình đẳng xã hội. Đất nước của sự Nhân Quyền Dân Chủ, Tự Do. Đất nước tiến bộ văn minh Nhân Loại. Sự tiếp nối của các thế hệ sau. Không phải dựa trên sự bao che. Mà phải dựa trên nguyên tắc Tài và Đức, theo điều luật của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng cạnh tranh. Thi Công, Thi Đức, Thi Tài do xã hội lựa chọn.

    Thưa Đại Hội. Chúng ta không thể không quan tâm đến Chính Quyền địa phương vì Chính Quyền Địa Phương là Chính Quyền sát với Dân, hết sức quan trọng. Một cơ quan tuy bé nhỏ nhưng đem lại sự sống còn của non sông Tổ Quốc. Cơ quan cấp thôn cấp xã cấp Quận, Huyện. Là Cơ Quan sâu sát với Dân, gần gũi Dân, sống trong Dân. Mà Dân là cái gốc sinh ra Nhà Nước Văn Lang. Có Dân thì có Nhà Nước, cũng như có con người, thì có xã hội. Không có con người là không có xã hội. Bảo vệ con người. Làm trong sạch bộ máy Công Quyền. Nhất là bộ máy Công Quyền của Địa Phương hết sức là quan trọng. Vì vậy cơ sở Địa Phương phải được Đào Tạo nền Quốc Đạo, nơi cơ quan thượng viện Quốc Đạo. Các Cơ Quan Công Quyền Địa phương phải được đào tạo thật kĩ. Những kiến thức cơ bản về Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức, Công Lý mà còn có cả khoa học kĩ thuật. Nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt. Đánh bắt khai thác tiềm năng sẵn có nơi Địa phương. Làm giàu cho bản thân gia Đình, làm giàu cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc. Tiến lên một Xã Hội văn minh, Dân giàu nước mạnh. Thì cơ sở Địa phương bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng. Chính quyền Địa phương có Tài, có Đức bao nhiêu. Thì đời sống Nhân Dân nơi đó sẽ nâng cao lên bấy nhiêu. Nhà Nước chỉ quan tâm đến dân, ít quan tâm đến các cấp cơ sở là điều thiếu sót sai lầm nghiêm trọng và ngược lại. Chủ trương nhà nước dù có thông thoáng đến đâu. Nhưng các cấp cơ sở Địa phương, không thông thoáng vì trình độ có hạn. Thì là mối hại lớn cho sự phát triển đất nước. Cụ thể như nước Văn Lang ta đây. Nơi Quận, Huyện, Thôn, Xã nào có tầng lớp Chính Quyền Địa Phương thông thái. Thì Địa phương đó phát triển nhanh chóng mọi mặt. Đưa các Địa phương đó nhanh chóng giàu có, no cơm ấm áo, dư ăn dư để. Còn những Địa phương nào cán bộ cơ sở Địa phương yếu kém. Thì những Địa phương đó chậm phát triển, thậm chí dẫn tới sự đói nghèo. Còn sinh ra bao tệ hại khác nữa, dẫn đến khiếu kiện kêu oan nhiều. Ở vào giai đoạn hiện nay Kinh Luân giấy bút chưa ra đời, vì vậy sự truyền khẩu hết sức quan trọng. Tiếp nối giữa người với người. Hạn chế truyền khẩu sai lệch. Tam sao thất bổn, sai lệch thất lạc trong truyền khẩu. Nhất là những ý chính trong văn kiện Đại Hội. Đại Hội đến đây là kết thúc. Để phù hợp với chủ trương đường lối của đại hội thì phải củng cố Văn Kiện Đại Hội. Cũng cố cái gốc những vấn đề chính và xây dựng cái gốc của Dân lớn mạnh. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời Đại Đạo vũ trụ chính là kim chỉ nam cho mọi hành động. Chúc Hạ viện Quốc Hội Lãnh Đạo Đất Nước thành công.

    * * *

    Hết phần 2 chương 19 mời xem tiếp phần 3 chương 19 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Một dân tộc mất Gốc thì coi như Dân Tộc đó không có chỗ đứng trên đời, nói gì đến đứng vững trên nền tảng Quốc Tế. Những ai chối bỏ Nguồn Cội của chính mình. Thì lấy gì để nở cành xanh ngọn. Một truyền thống anh linh tốt đẹp như thế lại không tôn thờ chỉ biết cúi đầu trước Văn Hóa Ngoại lai. Thì làm sao tránh khỏi nô lệ ngoại bang được. Hãy tìm lại những gì đã mất. Và đứng lên bằng sức mạnh Việt Nam.

    * * *
     
  2. shopoga

    Bài viết:
    512
    CHƯƠNG 19

    PHẦN 3

    BÀI DIỄN VĂN KỲ HỌP ĐẦU TIÊN HỌP LẦN THỨ NHẤT KHÓA I QUỐC HỘI VÀO NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM GIÁP TUẤT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ ngày Hạ viện Quốc Hội ra đời. Lãnh đạo Đất Nước đi vào nề nếp. Công việc trôi chảy, Thái Bình thịnh vượng giàu có lên từng ngày. Một Đất Nước Văn Lang Thần Thánh có một không hai trong thời Đại phong Kiến Thần giáo. Chủ Nghĩa Độc Quyền Độc Tài Độc Trị không còn tồn tại trong Nhà Nước Văn Lang. Có thể nói Nhà Nước Văn Lang tiến hóa vượt lên. Đi trước thời Đại phong kiến Thần giáo Chủ Nghĩa Cá Nhân Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị, năm nghìn năm.

    Và sau năm nghìn năm nữa thì sự tiến hóa trào lưu nhân loại mới tiến hóa theo kịp nền Văn Minh Văn Hóa Tinh Thần Văn Lang. Tiến lên Chủ Nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Chủ Nghĩa pháp Quyền. Lấy Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức Công Lý Công Bằng xã hội là trên hết. Thay thế cho Chế Độ Thể Chế Độc Tài, Độc Trị.

    Nhà Nước Văn Lang, Dân Tộc Văn Lang đã xây nền móng của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, Chủ Nghĩa Đồng Bào. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa của sự Công Bằng, Dân Chủ, Nhân Quyền văn minh, sau năm nghìn năm. Trào lưu nhân loại mới theo kịp.

    Do sự truyền khẩu nên dần dần đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn những thế hệ con Cháu Văn Lang về sau phải chịu nhiều sự thống khổ cay đắng vì đã đánh mất truyền thống quí báu của Dân Tộc mà Quốc Tổ Vua Hùng đã dày công xây dựng lên truyền thống Dựng Nước, giữ Nước Văn Lang.

    Có lẽ Quốc Tổ đã cảm thông bao nỗi thống khổ của bao thế hệ con Cháu. Nên Thiên Bút xuất hiện ra đời. Nói lại Nguồn gốc truyền thống uy linh Vĩ Đại. Có một không hai trong Nhân Loại lịch sử xã hội con Người. Chủ Nghĩa Văn Lang, Nhà Nước Văn Lang, Xã Hội Văn Lang sẽ được tái hiện trở lại cả ẤN lẫn BÚT sau mấy nghìn năm thất truyền vắng bóng.

    Trở lại vấn đề Chính. Từ khi Thượng viện Quốc Đạo, Hạ viện Quốc Hội ra đời lãnh đạo đất nước Văn Lang, công việc trôi chảy Thái Bình thịnh vượng, thay da đổi thịt, giàu có lên từng ngày. Một Đất Nước Văn Lang Thần Thánh. Đất Nước của sự đổi mới toàn diện, khác xa những gì của Chủ Nghĩa Độc Quyền. Giáo Chế Độc Tài Độc Trị của thời Đại Phong Kiến Thần Giáo Vua Chúa thời đó. Quốc Tổ Vua Hùng luôn luôn theo dõi tình hình đất nước, kịp thời chỉ Đạo cho Thượng viện Quốc Đạo. Cũng như Hạ viện Quốc Hội chấn chỉnh kịp thời, lèo lái con thuyền vận mệnh vượt qua sóng gió, vươn thẳng tới chân trời hạnh phúc. Bộ Máy Quốc Đạo cũng như Bộ Máy Chính Quyền Nhà Nước, luôn luôn ăn khớp với nhau. Tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tất cả chỉ vì Dân vì Nước. Mới đó ngày hộp Quốc Hội đã đến.

    Quốc Đô Văn Lang mấy ngày nay. Tấp nập những Quan Tướng cao cấp, của các cấp các ban ngành, các Châu, các Bộ, các Đại Diện của các Dân Tộc anh em Bách Việt toàn nước Văn Lang về dự Quốc Hội khóa 1. Mặt Trời vừa ló dạng, thì nơi hội trường đã chật kín. Những Đại Biểu, Đại Diện cho các Ban Ngành. Đại Diện các Dân Tộc. Đại Diện của Dân. Đem tiếng nói của Dân. Tiếng nói của các Dân Tộc. Tiếng nói của các thành phần xã hội. Lên diễn đàn Quốc Hội. Những khó khăn, thuận lợi. Những gút mắt cần được tháo gỡ. Để cho Đất Nước vươn lên giàu mạnh.

    Quốc Tổ Vua Hùng, trong chiếc áo Long Bào. Nói lên Quyền uy tối thượng. Quốc Vương Nước Văn Lang. Người sáng lập lên Nhà Nước Văn Lang. Sau lưng Quốc Tổ Vua Hùng trên bệ cao, chân dung hình tượng Quốc Tổ Vương KINH DƯƠNG VƯƠNG, vì Vua anh minh uy dũng Quốc Vương Nước Xích Quỷ. Nay là nước Văn Lang. Nhìn Chân Dung hình tượng sắc sảo đường nét chạm trổ Phụng công phu sống động như người thật. Làm cho Đại Hội, Quốc Hội những người có mặt. Nhớ về quá khứ, Chủ Quyền Độc Lập tự bao đời. Hàng nghìn nghìn năm. Qua các thời kỳ, qua các Niên Đại, của một Dân Tộc thuộc diện đàn anh trải qua hàng triệu triệu năm.

    Để mở đầu cho bài diễn văn. Quốc Tổ Vua Hùng tuyên bố khai mạc Đại hội bằng bài diễn văn. Nói rõ mục đích kỳ họp. Quốc Hội khóa I, cũng như Chủ Quyền Độc Lập tự bao đời. Nay là Nước Văn Lang:

    Thưa Đại Hội Quốc Hội. Đại Hội Quốc Hội là tiếng nói của Dân. Tiếng nói của các thành phần xã hội. Tiếng nói của các Dân Tộc anh em. Tiếng nói chung cho toàn nước Văn Lang. Được đưa lên diễn đàn Quốc Hội. Những khó khăn, thuận lợi, những gút mắt cần được tháo gỡ. Để cho Đất Nước Văn Lang vươn lên Dân giàu Nước mạnh. Diễn Đàn Quốc Hội là Diễn Đàn vừa Dân Chủ vừa công khai. Đầy trách nhiệm đối với Dân, đối với Nước.

    Thưa Quốc Hội, Nhà Nước Văn Lang chúng ta là Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước cải tiến đổi mới. Bỏ lại sau lưng những gì cổ hủ lạc hậu. Tiến tới một Nhà Nước pháp Quyền Dân Chủ, Bình Đẳng, Nhân Quyền văn minh. Tiếng nói Công Lý đầy Chính Nghĩa. Không có một cá nhân nào xây dựng lên Đất Nước Văn Lang mà toàn Dân. Không có một ai, hay một nhóm người nào giữ vững nổi Chủ Quyền Độc Lập Đất Nước Văn Lang mà toàn Dân Tộc Văn Lang. Không có một cá nhân nào. Hay một nhóm người nào, xóa bỏ được lạc hậu nghèo đói, hay vươn lên làm giàu phát triển Đất Nước Văn Lang mà là toàn Dân Tộc Văn Lang tự nỗ lực vươn lên. Không có một ai Quyết định được vận mệnh của Nước Văn Lang. Mà là toàn Dân Tộc Văn Lang. Tự đứng lên Quyết định vận mệnh Non Sông Tổ Quốc Văn Lang. Không có một ai Quyết định được. Những lúc khó khăn, lâm nguy của Nước Văn Lang. Mà là toàn Dân Tộc Văn Lang Đoàn Kết vượt qua khó khăn, cứu vãn tình hình nguy khốn ấy. Vì vậy gươm Thiên trí huệ, Khoa học kỹ thuật. Khoa học văn hóa Cội Nguồn truyền thống Quốc anh linh Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Đến tận tay của mỗi người Dân. Để người dân hiểu người dân làm Toàn Dân xây dựng Đất Nước. Toàn Dân bảo vệ Tổ Quốc. Toàn Dân chống ngoại xâm.

    Thưa Quốc Hội, Dân Tộc Văn Lang có hai chữ Đồng Bào vì chúng ta là Con Cháu của 2 Đấng Tiên Rồng. Không phải đến bây giờ chúng ta mới là anh em. Mà là anh em từ bao đời. Không nói chi đến chuyện quá xa xôi, chỉ nói gần. Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc. Những Dân Tộc còn sống sót. Chuyển qua tiểu kiếp thứ 9. Trở thành Dân Tộc Hồng Hoang. Cuộc sống ở hang ở Động hoang sơ và cứ thế những anh em Dân Tộc Hồng Hoang sống chung cùng nhau trải qua hàng triệu năm. Thì chuyển sang niên Đại Dân Tộc Hồng Nguyên, rồi đến Hồng Bàng. Niên Đại Hồng Bàng là Niên Đại lâu nhất trải qua hơn tám triệu năm. Niên Đại đỉnh cao của Hồng Bàng là cuối tiểu kiếp tăng đầu kiếp giảm. Dân Tộc Niên Đại Hồng Bàng ở kiếp giảm trải qua năm triệu năm. Thì chuyển sang Niên Đại Hồng Đế, Hồng Chúa. Các Hồng Đế, Hồng Chúa nối ngôi nhau hàng triệu năm. Theo dòng lịch sử tiến hóa của xã hội Nhân Loại loài người. Niên Đại Hồng Đế chuyển sang giai đoạn Niên Đại VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. Rồi trải qua hàng nghìn năm. Chuyển sang giai đoạn Niên Đại KINH DƯƠNG VƯƠNG. Trải qua hơn hai nghìn năm. Giờ đây Lại một lần nữa Lịch Sử lại chuyển sang giai đoạn mới. Chuyển sang Niên Đại Hùng Vương. Nói chung tiểu kiếp thứ 8 kết thúc. Tiểu kiếp thứ 9 ra đời. Các dân tộc anh em trở thành Dân Tộc Hồng Hoang. Từ các dãy núi cao xuống lần Đồng Bằng sống rải rác khắp cùng thế giới. Không ngoài sự phát triển của những giai đoạn Niên Đại trên. Từ thời Hồng Hoang tới bây giờ. Có thể nói Dân Tộc Văn Lang là Dân Tộc liên tục có sự nối ngôi từ thuở Hồng Hoang cho đến bây giờ. Một Dân Tộc có truyền thống lâu đời, xuyên suốt qua hàng vạn vạn thế hệ. Có thể nói là một Dân Tộc có bề dày chiều sâu truyền thống lâu đời thuộc hàng anh cả của các Dân Tộc anh em thế giới. Ở giai đoạn Hồng Đế, Hồng Chúa. Dân Tộc Hồng Đế, Hồng Chúa những chi phái trưởng các dân tộc có lúc lên đến hơn mười triệu Dân. Nhưng các chi phái lớn dần dần tản mác ra khắp Châu Á. Đến khi chuyển sang giai đoạn Niên Đại Viêm Đế Thần Nông. Thời những Dân Tộc anh em còn trụ gốc chưa đầy một triệu. Những Dân Tộc anh em trụ gốc, thời Viêm Đế Thần Nông chung sống cùng nhau, cho đến cuối giai đoạn Viêm Đế Thần Nông có lúc lên đến hơn 2 triệu người. Nhưng sau đó lần lần tản mác ra khắp nơi sinh sống biệt lập, biệt li xa cách nhau, hình thành lên Dân Tộc mới. Khi giai đoạn Niên Đại KINH DƯƠNG VƯƠNG ra đời thì chỉ còn khoảng chưa đầy chín trăm nghìn người. Những Dân Tộc anh cả trụ bám lại. Cho đến đời KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 dân số tăng lên.

    Nước Xích Quỷ lúc nầy chỉ có 7 Bộ, 42 Châu, 252 Quận Huyện, 1.512 Xã, 9.072 Thôn, 153.178 Hộ, 1.028.461 Người.

    1: Bộ Giao Chỉ 72.223 Hộ, 577.784 Người.

    2: Bộ Cửu Chân 10.392 Hộ, 51.960 Người.

    3: Bộ Nhật Nam 11.361 Hộ, 56.805 Người.

    4: Bộ Hợp Phố 13.298 Hộ, 66.490 Người.

    5: Bộ Nam Hải 14.213 Hộ, 85.278 Người.

    6: Bộ Uất Lâm 9.416 Hộ, 56.494 Người.

    7: Bộ Thương Ngô 22.275 Hộ, 133.650 Người.

    Cho đến khi ta ra đời cách đây 31 Năm. Thì Đất Nước Xích Quỷ tăng thêm hai Bộ nữa là Ninh Hải và Vũ Ninh, thành 9 Bộ, 53 Châu, 318 Quận Huyện, 1908 Xã, 242.816 Hộ, 1.594.160 Người.

    1: Bộ Giao Chỉ 92.440 Hộ, 746.237 Người.

    2: Cửu Chân 15.398 Hộ, 78.980 Người.

    3: Nhật Nam 15.460 Hộ, 69.458 Người.

    4: Hợp Phố 16.398 Hộ, 78.980 Người.

    5: Nam Hải 19.613 Hộ, 94.253 Người.

    6: Uất Lâm 12.415 Hộ, 71.162 Người.

    7: Thương Ngô 24.375 Hộ, 146.160 Người.

    8: Ninh Hải 25.437 Hộ, 172.263 Người.

    9: Vũ Ninh 21.280 Hộ, 136.667 Người.

    Kể từ khi ta khai hội đến nay chuyển đổi Niên Hiệu. Từ Niên Hiệu Kinh Dương Vương. Chuyển sang Niên Hiệu Hùng Vương Khai lập Nước Văn Lang đến giờ nầy. Lên tới 15 Bộ, 90 Châu, 630 Quận Huyện, 4.410 Xã, 22.050 Thôn, 496.553 Hộ, 3.475.911 Người.

    1: Bộ Giao Chỉ 90918 Hộ, 636.427 Người.

    2: Bộ Nhật Nam 16.076 Hộ, 112.532 Người.

    3: Bộ Cửu Chân 18.090 Hộ, 126.636 Người.

    4: Bộ Hợp Phố 23.778 Hộ, 166.452 Người.

    5: Bộ Nam Hải 26.747 Hộ, 187.233 Người.

    6: Bộ Uất Lâm 15.617 Hộ, 109.325 Người.

    7: Bộ Thương Ngô 28.463 Hộ, 199.246 Người.

    8: Bộ Ninh Hải 23.968 Hộ, 167.776 Người.

    9: Bộ Vũ Ninh 28.041 Hộ, 196.289 Người.

    10: Bộ Việt Thường 17.418 Hộ, 121.927 Người.

    11: Bộ Lục Hải 25.549 Hộ, 178.849 Người.

    12: Bộ Tân Hưng 10.997 Hộ, 76.980 Người.

    13: Bộ Cửu Đức 17.179 Hộ, 120.253 Người.

    14: Bộ Bình Văn 14.207 Hộ, 99.449 Người.

    15: Bộ Văn Lang 139.505 Hộ, 976.537 Người.

    Và đang phát sinh những hộ mới ở các Bộ, các Châu, các Quận, Huyện, cũng như Xã, Thôn khắp nước Văn Lang. Nước Văn Lang ta rộng lớn gấp ba lần nước Xích Quỷ. Đất rộng người thưa, cho dù Dân số phát triển đến hai nghìn năm nữa cũng ở không hết Đất Nước Văn Lang chúng ta. Chưa kể đến Địa Long chúng ta mới ở phần Đầu, còn phần Mình, phần Đuôi kéo dài hàng nghìn nghìn dặm về Nam.

    Thưa Quốc Hội. Không có sự nỗ lực nào mà vô ích, hết lòng vì Nước, hết lòng vì Dân, hết lòng vì Con Cháu bao thế hệ mai sau. Cứu Dân Độ thế, lo cho Dân, lo cho Nước. Tức là tu luyện theo hạnh Đại Thừa. Đại Đạo vũ trụ. Lo cho Dân cũng có Nghĩa là chúng ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Lo cho Dân cũng có nghĩa là lập công với Đức Cha Trời. Bảo vệ con người, lo cho con người là hợp Lòng Trời. Đó là Nhân hạnh cao nhất. Thánh Thiện cao nhất. Không có sự Thánh Thiện nào hơn. Với tấm lòng Thánh Thiện lo cho Dân, lo cho Nước. Chúng ta sẽ lần lượt về Trời làm Phật, làm Thánh, làm Tiên, làm chủ các Cõi Trời khắp cùng vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập ra cõi Nhân gian, chỉ là cõi tạm, cõi trường thi tu luyện tiến hóa Linh Hồn, để về Trời làm chủ vũ trụ. Khi chúng ta Đầu Thai xuống chốn nhân gian chúng ta không mang gì theo. Khi Linh Hồn chúng ta trở về Trời. Thì những gì mượn của thế gian, đều phải trả lại hết cho thế gian. Kể cả thân xác của mình, lớn lên từ Đất Nước Cát Bụi, trả về cho Đất Nước Cát Bụi. Để chuẩn bị cho hành trang về Trời, chúng ta phải phát huy tấm lòng Bồ Tát Thánh Thiện, hết lòng lo cho Dân, lo cho Nước, góp nhặt những hạnh lành, từng ngày từng tháng trước khi chúng ta từ giã cõi trần. Sự góp nhặt của chúng ta, không phải khởi lòng tham lam. Tóm thâu Quyền lực, tóm thâu Vàng Bạc Châu Báu. Mà ai góp nhặt Công Đức, góp nhặt sự giác Ngộ, cũng như góp nhặt sự Thánh Thiện. Chúng ta hết lòng vì Dân, vì Nước là chúng ta đã giàu có về Công Đức, giàu có về Giác Ngộ cũng như giàu có về Thánh Thiện.

    Thưa Quốc Hội. Một Đất Nước mà Vua Quan càng giàu về Đạo Đức, trí tuệ. Thì Đất Nước đó nhất định sẽ là Đất Nước Hùng Cường phồn thịnh, dân giàu nước mạnh, không thể chối cãi hay phủ nhận sự thật được. Một Đất Nước mà Vua – Quan hết lòng lo cho Dân lo cho Nước. Thì sự thật là Vua – Quan giàu ở Đức, ở Tài. Còn Dân chúng thì giàu có phồn thịnh về của cải vật chất. Dẫn đến Dân giàu Nước mạnh. Bằng ngược lại Vua – Quan. Nghèo về Đức kém về Tài. Chỉ lo vơ vét tóm thâu của cải. Chỉ biết đem lại quyền lợi riêng cho mình. Quyền lợi riêng cho bè nhóm mình. Thì Đất Nước đó nhất định sẽ dẫn đến Dân nghèo phải nói là khốn khổ Đất Nước suy yếu. Đây là cơ hội thời cơ cho các thế lực ngoại bang xâm lược. Chúng sẽ mua chuộc Vua – Quan, mua chuộc Dân Chúng, làm nội ứng xâm lược của chúng. Hoặc chúng làm cho Đất Nước đó luôn xảy ra nội chiến. Nồi da nấu thịt. Chúng đưa dân di cư lấn qua biên giới. Dân chúng tới đâu, thì đất chúng tới đó. Một lần nội chiến xảy ra. Là một lần mất Đất. Một Đất Nước dù to lớn đến đâu cũng dần dần bị thu hẹp nhỏ lại. Bài diễn văn khai mạc Quốc Hội khóa 1 đến đây là kết thúc. Chúc Quốc Hội Đại Hội thành công.

    Đến giờ nầy Đại Hội Quốc Hội mới thấu hiểu Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước của Trời. Đức Chí Tôn Giáo Tổ theo Ý Trời mà lập ra. Nhà nước trường tồn mãi mãi. Nhà nước Văn Lang cõi đời biến mất sau mấy nghìn năm. Nhưng Nhà Nước Văn Lang Tâm Linh trên đà hưng thịnh thống lĩnh Hồn Thiên Dân Tộc toàn cầu. Chờ ngày Thiên Bút ra thì ứng linh phò trì. Các Vương, Quan từ đó ai nấy cũng phấn đấu lập công bồi đức giúp dân giúp nước. Những Vương, Quan khi mãn kiếp trần chưa về trời thì chuyển sang làm Quan ở Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Nhà Nước Của Trời theo Trời Hành Sự.

    * * *

    Hết phần 3 chương 19 mời xem tiếp phần 4 chương 19 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Những ai có duyên xem Kinh Long Hoa Mật Tạng đến đây, thì không gì sung sướng hơn nữa, sung sướng nhất là mình đã có báu vật trong tay. Báu vật vô giá vũ trụ. Con đường rộng mở trước mắt là vô tận. Không gì tối cao mà trong Mật Tạng không có. Tùy trí huệ mà nhận được những báu vật trong kinh. Chúc Thành Công.

    * * *

    CHƯƠNG 19

    PHẦN 4

    ÂM MƯU XÂM LƯỢC CÁC THẾ LỰC NGOẠI BAN TAN RÃ. NHỜ VÀO CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KHÉO LÉO CỦA QUỐC TỔ VUA HÙNG

    Quốc Tổ Hùng Vương là vị Quốc Vương uy Dũng tuổi trẻ tài cao, văn hay võ giỏi. Đạo Đức trùm Thiên Hạ. Mở màn một giai thoại Lịch sử. Sáng lập khai sinh ra Nền Quốc Đạo. Sáng lập khai sinh ra Nước Văn Lang. Sáng lập lên. Thượng viện Quốc Đạo. Hạ viện Quốc Hội. Quốc Hội sáng lập lên. Nền văn minh ÂU VIỆT, LẠC VIỆT mở ra thì Đại mới, thời Đại Hùng Vương.

    Cải tổ đổi mới đường lối chính sách xóa bỏ lối cũ lạc hậu. Đổi mới cải tổ Chính trị Quân sự. Đổi mới khoa học, kỹ thuật. Thể Dục, thể thao, văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán, phong tục tín ngưỡng, vận hành Hiến pháp, Luật pháp, Công lý, Đạo Đức đi vào đời sống Nhân Dân. Nước Văn Lang rộng hơn Nước Xích Quỷ gấp 3 lần, phần lớn về phía Nam. Nước Văn Lang Đông giáp Biển, Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Hồ Động Đình, Nam giáp Hồ Tôn, Bao hàm hầu hết. Miền Giang Nam của Lãnh Nam Trung Quốc, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Công Minh, Trùng Khánh, Hàng Châu, Phúc Châu, v. V.. và còn nhiều Châu Tỉnh khác nữa và Bắc phần Nước Việt Nam. Từ Nghệ An giáp Hà Tỉnh trở ra. Nước Văn Lang vô cùng rộng lớn . Được chia ra làm 15 Bộ Quân Khu. Quân Khu 1 đến Quân Khu 15. Tính từ Bắc vào Nam Nước Văn Lang. Mỗi Quân Khu có nhiều Châu. Mỗi Châu có nhiều Quận, Huyện. Mỗi Quận, Huyện có nhiều xã nhiều thôn, vì nước Văn Lang rộng quá nên Thôn, xã, Quận, Huyện rất lớn. Dân cư thưa thớt làng, xã cách xa nhau.

    – Đứng đầu các Bộ Quân Khu là Lạc Vương, Hầu Vương.

    – Đứng đầu các Châu là Lạc Tướng, Hầu Tướng.

    – Đứng đầu Quận, Huyện là Bố Chánh Trưởng Ti.

    – Đứng đầu xã là Lạc Dân, Lạc Điền.

    Nói về ở bên kia sông Trường Giang có nhiều Vương Quốc Đế Vương hùng mạnh. Trong nhiều Đế Vương hùng mạnh, phải kể đến 3 anh em nhà Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh là hùng mạnh nhất. Con Cháu 12 đời của Hiên Viên Phục Hi. Đế Lai là vị Đế Vương hùng mạnh nhất, bá chủ nhiều trấn chư hầu bên kia sông Trường Giang, dân đông tướng tài. Ba anh em nhà Đế Lai là mối lo trước đây của Nước Xích Quỷ, không biết chiến tranh xảy ra lúc nào. Đế Lai vốn đã mạnh, lại thêm có nàng Công Chúa xinh đẹp, pháp thuật Thần Thông Quảng Đại, không có ai là đối thủ, làm cho các thế lực Đế Vương khác phải e dè nể sợ.

    (Đây nói về sự ra đời của nàng Công Chúa Phụng Cơ)

    Nói về vợ của Đế Lai là Hoàng Đại Nương nhơn từ Đức Độ. Một hôm Hoàng Đại Nương, trong giấc ngủ thấy Mặt Trăng bỗng dưng tỏa sáng một cách kỳ lạ. Tỏa sáng hơn gấp 10 lần Mặt Trăng lúc thường, ánh Trăng dịu mát làm cho Hoàng Đại Nương cảm thấy khỏe hẳn lên. Bỗng nhiên Hoàng Đại Nương nghe tiếng nhạc du dương từ hư không vọng xuống. Hàng trăm Phụng Hoàng hiện ra ca múa. Hoàng Đại Nương liền thấy 1 người trung niên Tiên Nữ xuất hiện. Đẹp đến nổi mê mẩn vừa sùng kính bởi dung mạo, xinh đẹp và sự cao sang quí phái của Tiên Nữ. Tiên Nữ tay cầm vải lụa ngũ sắc phất qua phất lại rồi nói rằng. Ta vân lệnh Mẹ ta là Địa Mẫu Âu Cơ xuống thế. Tiên Nữ nói xong thì biến mất. Hoàng Đại Nương giật mình tỉnh giấc coi lại thì mới đầu canh ba, sau đó thời Hoàng Đại Nương mang thai. Hoàng Đại Nương đem chuyện lạ ấy nói cho Quốc Vương Đế Lai nghe. Không bao lâu Hoàng Đại Nương lâm bồn thời Chim Phụng Hoàng lại bay đến múa hát. Mùi hương thơm ngào ngạt từ bé gái chào đời tỏa ra. Vì sự ra đời của Công Chúa có nhiều sự trùng hợp trong giấc mộng của Đại Nương nên Đế Lai đặt tên cho con gái mình là Phụng Cơ Công Chúa. Con của Địa Mẫu Âu Cơ xuống trần. Phụng Cơ Công Chúa càng lớn càng xinh đẹp, càng quí phái, sắc nước hương Trời, hoa Dung lộng lẫy ít ai sánh được. Có vị Đạo Sĩ Thần giáo Tiên đoán số mệnh Phụng Cơ Công Chúa, sau nầy sẽ trở thành Mẫu Hoàng của một Đất Nước rộng lớn giàu có hùng mạnh bậc nhất, không có một Đất Nước nào sánh kịp. Đế Lai nghe Đạo Sĩ Thần giáo Tiên đoán tương lai Phụng Cơ rực rỡ như thế thời lấy làm mừng lắm. Công Chúa càng lớn càng thông minh một cách thần kỳ, văn hay võ giỏi học một biết mười biết trăm. Binh thơ sách lược, pháp thuật Thần Thông đều hơn hẳn mọi người, phần lớn dụng binh kỳ ảo, kế sách như Thần. Đế Lai nhờ có Phụng Cơ nổi danh như sấm. Công Chúa Phụng Cơ được Đế Lai coi như là báu vật Quí nhất trên đời. Các Thái Tử con Vua của các Nước láng giềng. Các trấn chư hầu lân cận. Trong số Thái Tử, con Vua, con của các trấn chư hầu như Thái Tử Tào, Thái Tử Tống, Thái Tử Triệu, Thái Tử Mông, Thái Tử Minh, Thái Tử Nguyên, Thái Tử Thanh, Chúa Tử Tần, Chúa Tử Sở, v. V.. và còn nhiều Chúa Tử, Thái Tử khác nữa. Nhưng chẳng có ai vừa mắt xanh của Công Chúa. Sự kén chọn mãi của Công Chúa làm cho Đế Lai lo ngại khi Công Chúa càng ngày càng lớn tuổi. Có một điều lo ngại nữa là Nước Văn Lang đang lớn mạnh. Ba anh em nhà Đế Lai luôn luôn có dã tâm lớn. Có cơ hội là xâm lấn nước Xích Quỷ nhưng chưa thuận lợi thời cơ. Nay nghe Nước Xích Quỷ biến thành Nước Văn Lang Đại Nam rộng lớn, dân số tăng lên gấp đôi, gấp ba thì kinh sợ. Tuy biết Vua Hùng ở Kinh Đô Văn Lang xa xôi. Không ở Nam Kinh Xích Quỷ nhưng chưa dám tấn công xâm lấn Đất Đai Đại Nam).

    Nói về Quốc Tổ Hùng Vương là Chí Tôn giáo Tổ Đầu thai xuống trần để cứu nhân độ thế theo Thiên Ý Cha Trời, không phải xuống trần để tranh bá tranh hùng. Quốc Tổ Vua Hùng rất coi trọng mạng sống con người. Tôn trọng Quyền Bình Đẳng. Tôn trọng Quyền tự do Nhân Quyền con người. Hùng Vương đánh giặc bằng binh pháp trí tuệ. Bất chiến tự nhiên thành, ít dùng đến bạo lực, gươm đao giáo mác. Sức mạnh Hùng Vương chính là sức mạnh toàn Dân. Nên không có một sức mạnh nào chống lại sức mạnh của Hùng Vương.

    Ba anh em Đế Lai cho người qua nước Đại Nam Văn Lang theo dõi. Thấy Dân chúng đoàn kết muôn người như một. Một lòng một dạ tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, ai nấy cũng hết lòng vì Non vì Nước vì Quê Hương của mình. Ba anh em nhà Đế Lai có vẻ khiếp sợ trước sự Lãnh Đạo Đất Nước Tài Đức của Vua Hùng. Ba anh em nhà Đế Lai càng nghĩ càng lo sợ tương lai Vua Hùng sẽ tiến công về Đất Bắc. Những kế sách tiếp theo của Vua Hùng, ba anh em nhà Đế Lai không thể nào đoán trước được.

    Đế Lai là anh cả nhìn Trời rồi than: Đất Nước Phương Nam là Đất Nước gì, sao lúc nào cũng sanh ra các Bậc Đại anh hùng kỳ tài như thế. Hùng Vương mà còn sống trên đời. Đừng nói chi tới chuyện thôn tính Nước Đại Nam. Ngay cả Đất Bắc còn khó giữ vững cho được. Vua Hùng là Đấng kỳ tài, kỳ trí, kỳ Đức. Với Nền Quốc Phòng toàn Dân bảo vệ Đất Nước. Toàn Dân xây dựng Đất Nước. Toàn Dân khởi nghĩa chống ngoại xâm. Toàn Dân cảnh giác quân thù. Với chính sách lấy Dân làm gốc. Tạo lên sức mạnh vô địch, phát huy cái gốc của Dân chính là Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc, sức mạnh Tinh Thần đoàn kết, sức mạnh dời non lấp biển, sức mạnh Thần Thánh. Với Ba Cơ Quan Lãnh Đạo Đất Nước. Thượng Viện Quốc Đạo Lãnh Đạo tinh thần Dân Tộc. Hạ Viện Quốc Hội Lãnh Đạo phát triển Đất Nước. Quốc Hội thi thành mọi chủ trương của Đạo, của Nhà Nước đi vào đời sống nhân dân, phải nói Vua Hùng Tài Đức biết bao. Một nhân vật không dễ đối phó. Càng suy nghĩ ba anh em nhà Đế Lai càng ngao ngán. Miếng thịt béo bở coi vậy mà khó nuốt.

    Ba anh em nhà Đế Lai chưa tìm ra kế sách gì. Để nuốt dần nuốt dần nước Văn Lang Đại Nam. Thì có Quan vào báo:

    Có sứ giả của Nước Đại Nam Văn Lang đến.

    Ba anh em nhà Đế Lai, có tật giật mình. Nhưng rồi cũng cho sứ giả Đại Nam Văn Lang vào diện kiến. Ba anh em nhà Đế Lai lại thêm một phen kinh ngạc giật mình lần nữa. Sứ giả của Nước Đại Nam Văn Lang, không phải là vị quan mà là một Đạo Sĩ Thần giáo. Nổi tiếng Tổ Sư của giáo phái Vô Ga (YOGA) . Luyện Đan pháp thuật Thần Thông trùm Thiên Hạ.

    Đế Lai đã biết qua con người nầy. Nên liền đứng dậy chấp tay thi lễ nói:

    Không ngờ sứ giả của Nước Văn Lang là Đạo Sư. Thì ra vị Đạo Sĩ sứ giả nước Văn Lang không ai khác hơn chính là Cao Tông em của Cao Tổ.

    Cao Tông đáp lễ nói:

    Bần Đạo là sứ giả của Nước Văn Lang, xin ra mắt ba vị Quốc Vương.

    Ba anh em nhà Đế Lai đáp lễ:

    Mời Cao Tông ngồi.

    Đế Lai tò mò hỏi:

    Đạo Sư làm chức vụ gì ở Nước Văn Lang?

    Cao Tông đáp:

    Thưa Quốc Vương, Bần Đạo làm chức Lạc Vương, phó viện trưởng viện Quốc Đạo.

    Ba anh em nhà Đế Lai lại một phen nữa giật mình nhìn nhau. Không hiểu Vua Hùng có ý gì mà phái một Vương Quan cao cấp nhất nhì Nước Văn Lang đến đây. Nhìn nét mặt căng thẳng của ba vị Quốc Vương. Cao Tông đã hiểu ra phần nào sự lo lắng của ba vị Quốc Vương.

    Cao Tông không muốn sự căng thẳng lâu liền lên tiếng:

    Thưa ba vị Quốc Vương, Tôi được Vua Hùng giao phó đến đây gặp Quí Quốc. Là để nói lên sự giao hảo làm bạn với Quí Quốc.

    Cao Tông nói xong liền dâng lên bảy bức thông điệp đàm phán do Hùng Vương vẽ họa ra. Đế Lai tiếp nhận bảy bức họa tiết mở ra cho ba anh em cùng xem. Với họa tiết hình ảnh nhân vật, quan cảnh sống động, họa tiết đường nét sắc sảo như thật, đẹp mắt vô cùng. Nhìn vào hình ảnh, quan cảnh sống động, cộng thêm dấu hiệu ÂM SẮC PHỤ ÂM:

    [​IMG]

    Cùng những dấu hiệu, ký hiệu:

    [​IMG]

    Dấu hiệu đơn, ký hiệu khác nữa v. V..

    Nhìn vào hình ảnh quan cảnh sống động và những Âm Sắc, những dấu hiệu biểu thị ý văn. Thì có thể nhận biết những gì mà người gửi muốn nói. Đàm phán trong bảy bức thông điệp họa tiết. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi say sưa ngắm nhìn bảy bức họa tiết thông điệp đàm phán nầy. Quên cả sứ giả của Đại Nam Văn Lang, còn đang ngồi ở đó.

    Công Chúa Phụng Cơ thấy Cha cùng hai chú say sưa với bảy bức họa tiết thông điệp đàm phán, luôn khen ngợi và quên đi tất cả liền sanh tánh tò mò. Không biết bảy bức thông điệp kia nói gì trong đó. Công Chúa đến xem bức họa tiết thông điệp đàm phán thứ nhất thì sửng sốt, với những nét vẽ thần kỳ sống động như thật. Rồi xem ý văn muốn nói trong bức thông điệp. Công Chúa quá bất ngờ thâm ý đàm phán của ý văn. Liền ngây người ra suy nghĩ. Hùng Vương là người thế nào mà tài hoa như vậy. Bức thông điệp họa tiết đàm phán thứ nhất nội dung họa tiết như sau.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc bắt tay nhau. Hết sức thân thiện nét mặt rạng rỡ, ý nói hai Dân Tộc Nam Bắc là hai anh em cùng một nhà, là bạn bè tốt, láng giềng tốt, quan hệ tốt giao hảo tốt.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc Nam Bắc kết bạn không kết thù.

    Phần 3: Hùng Vương vẽ hai bên thương lượng hợp tác với nhau.

    Phần 4: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc. Hai Nhà Nước, hợp tác toàn diện đôi bên cùng có lợi. Công Chúa Phụng Cơ nghĩ với bức thông điệp đàm phán thứ nhất, qua bốn phần nội dung. Đã nói lên hàng chục ý đàm phán thương lượng, ý nào cũng thâm sâu ẩn ý tốt.

    Trong đó có nhiều ý tưởng Công Chúa quan tâm nhất. Đó là ý tưởng, hai bên muốn đạt được mục đích, không cần chiến tranh. Mà chỉ thông qua đàm phán, hợp tác toàn diện hai bên cùng có lợi. Sống trong giao hảo, đầy tình hữu nghị giao hòa Nam Bắc. Giàu lòng mến khách. Tôn trọng lẫn nhau. Đại Đồng Bình Đẳng. Độc Lập tự chủ, hai bên cùng hưởng lợi hai bên cùng tiến.

    Công Chúa lại xem bức thông điệp họa tiết đàm phàm thứ hai, lấy làm kinh dị về ý nghĩa bố cục họa tiết như sau.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ hai nước xúc tiến giao thương đường biển, đường bộ, qua các cảng, cửa, xóa bỏ rào cản, thuế ngạch, để cho hàng hóa thông thương, làm giàu cho Nam Bắc hai Dân Tộc hai Đất Nước.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ họa tiết, các Bộ Ngành của hai Nước như Công, Nông, Ngư, Thương, Khoa Học, Văn Hóa, Nghệ Thuật ký kết giao dịch trao đổi với nhau. Cung, cầu tùy theo nhu cầu của mỗi nước.

    Công Chúa xem qua hai nội dung bức thông điệp đàm phán thứ hai. Tưởng như mình đang lạc vào thế giới mới. Thế giới có nền văn minh hiện đại. Trình độ dân trí cao, xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh.

    Công Chúa nói với Đế Lai:

    Hùng Vương là Đấng Dị Nhân trên đời. Không những không sợ sự xâm lược của các thế lực dòm ngó hay thù địch. Mà còn mở ra con đường ngoại giao thật mới mẻ. Mỗi bức thông điệp đàm phán đều nói lên những xúc tiến hai bên cùng có lợi. Thúc đẩy hai Dân Tộc vững bước phát triển đi lên. Mạnh về giao thông, mạnh về kinh tế, mạnh về khoa học, kỹ thuật. Tiến tới cảnh Dân giàu nước mạnh không cần đưa đến một sự xung đột nào. Mà chỉ thông qua sự đàm phán. Hai bên hợp tác với nhau giữa các bộ ngành thông qua thương ngạch hai chiều. Trao đổi những gì mà hai bên cần, xuất nhập, cung cầu, cạnh tranh bình đẳng. Trên một sân chơi công bằng bình đẳng. Nguồn tài nguyên của hai nước dung hòa thành một. Làm tăng thêm sự phát triển giàu có cho hai Đất Nước. Nâng cao trình độ Dân Trí, nâng cao đời sống xã hội của hai Quốc gia lên một tầm cao mới. Mà vẫn bảo đảm về Chủ Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Tự Chủ của mỗi đất nước.

    Đế Lai nói:

    Đây là điều quá mới mẻ đối với đất nước chúng ta. Có thể nói là những điều quá mới lạ. Nhưng xét đi xét lại thì có lợi cho Đất Nước chúng ta, hơn là có hại.

    Đế Minh, Đế Nghi cũng nói:

    Với những gì trong thông điệp đàm phán, thì không có hại gì cho ta cả. Không những còn có lợi nữa là khác. Vì Nước Văn Lang giàu có tài nguyên khoáng sản. Cũng như giàu về Biển Đảo Núi Rừng. Nhất là nền văn minh Đồng Thau Vàng Bạc. Lúa nước hơn ta gấp nhiều lần.

    Công Chúa lại xem bức thông điệp họa tiết đàm phán thứ ba.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ họa tiết sống động như người thật. Hình ảnh hai vị Quốc Sư Đại Diện cho hai đất nước, bắt tay nhau theo kiểu phương Tây rồi ôm lấy nhau. Chỉ có tình thương không có hận thù. Trong chiếc nôi chung Trái Đất. Trong ngôi nhà chung vũ trụ, thắm thiết tình hữu nghị anh em.

    Xem bức thông điệp đàm phán thứ ba nầy. Công Chúa đã cảm nhận lời lẽ đàm phán ẩn chứa sâu xa. Lời lẽ của Đức Chí Tôn lâm phàm. Con tim Công Chúa liền rung động, một sự rung động mà ngay Công Chúa cũng không giải thích nổi. Không lẽ ta đã yêu. Một con người mà ta chưa từng thấy mặt. Công Chúa không dám nghĩ nữa. Phải nói Tư Tưởng Quốc Tổ Hùng Vương là nhà Tư Tưởng đoàn kết Dân Tộc, đoàn kết Nhân Loại, hướng tới thế giới Đại Đồng. Nhân Quyền Bình Đẳng Dân Chủ văn minh. Tất cả vì sự sống con người. Tất cả vì Nguồn vì Cội. Vì Nhân Loại anh em, vì hai chữ Thiêng Liêng Đồng Bào. Chỉ có tình thương không có hận thù. Chỉ có đoàn kết không chia rẽ. Không phân biệt giai cấp, không phân biệt màu da chủng tộc. Tất cả đều Bình Đẳng. Tất cả đều có Quyền đi lên, Quyền mưu cầu hạnh phúc, sự tiến lên giàu mạnh của mỗi Đất Nước không cần thiết dùng đến vũ lực mà thông qua con đường ngoại giao, xúc tiến hợp tác kinh tế, giúp đở cho nhau cùng tiến bộ cùng vượt lên.

    Với chủ thuyết nầy Quốc Tổ Vua Hùng được ba anh em Nhà Đế Lai chấp nhận. Có thể nói bất chiến tự nhiên thành. Nhờ vào ngoại giao, cùng đường hướng hai bên cùng có lợi. Được các Vương Quốc xa gần kính phục. Ba anh em nhà Đế Lai phải thừa nhận Quốc Tổ Hùng Vương là nhà Chính trị, Quân sự, Ngoại giao, Đạo Đức đã đạt đến cảnh giới, không còn ai hơn được nữa. Trăng Sao khó mà sánh với Mặt Trời. Ánh sáng Đại Đồng Chính Nghĩa đã tỏa sáng thì những án mây đen Phi Nghĩa không còn chỗ đứng để tồn tại.

    Công Chúa Phụng Cơ càng xem những bức thông điệp đàm phán của Vua Hùng càng thấy Vua Hùng sanh ra ở đời không phải để tranh giành Quyền lực, cũng không phải sanh ra để cai trị Dân. Mà sanh ra để cứu Dân, cứu Nhân Loại thoát khỏi chiến tranh đẫm máu, hận thù chồng chất. Đã chiến tranh thì gây bất lợi cho cả đôi bên.

    Công Chúa càng xem những ý tứ họa tiết đàm phán thứ tư, thời thở dài lắc đầu.

    Phần 1: Vua Hùng vẽ. Các Bộ Ngành Nước Đại Nam Văn Lang, gửi thông điệp mời các Bộ Ngành Đất Bắc, sang thăm Đại Nam Văn Lang, với họa tiết tiếp đón long trọng, bảo đảm an ninh cho đến khi trở về nước, và ngược lại Đất Bắc cũng làm như thế. Để cho hai Dân Tộc, hai nhà nước càng thân thiện, càng hiểu nhau.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ những họa tiết giao lưu Văn Hóa, giao lưu nghệ thuật, giao lưu thể dục thể thao. Để cho hai Nước xích lại gần nhau hơn. Cùng nhau nâng cao trình độ Dân trí, cùng nhau nâng cao sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật. Mạnh về thể chất, tráng kiện về tinh thần.

    Công Chúa càng xem những bức thông điệp đàm phán tiếp theo. Không hiểu Vua Hùng dựa vào đâu mà không sợ. Những đối phương có mưu đồ xấu, gây bất lợi cho mình. Vì Nước Đại Nam Văn Lang là một Đất Nước màu mỡ béo phì. Ai cũng muốn thèm thuồng muốn chiếm đoạt cho được nhưng chưa biết làm sao để tấn công lấn chiếm. Nay Vua Hùng lại mở ra chính sách ngoại giao hợp tác toàn diện. Qua lại xúc tiến giao thương làm ăn, kẻ ngay người gian thì làm sao. Trong sự đàm phán không thấy có sự đề phòng cấm đoán rào cản nào cả. Và Công Chúa cố gắng đặt ra nhiều giả thiết gây bất lợi cho Nhà Nước Văn Lang. Nhưng Công Chúa tìm mãi không ra chỗ sơ hở nào của Nhà Nước Văn Lang để mà gây thiệt hại được. Mà chỉ thấy những điều có lợi cho Nhà Nước Văn Lang. Như con Rồng thấy Đầu mà chẳng thấy Đuôi. Thấy Đuôi mà chẳng thấy Đầu. Chính sách ngoại giao hợp tác toàn diện của Vua Hùng hết sức bí ẩn, ẩn tàng bao nghệ thuật phương pháp phát triển đất nước. Làm cho nước Văn Lang mạnh về kinh tế, vững vàng về Quốc phòng. Nhất về mặt an ninh phòng bị, trên dưới một lòng đâu vào đó. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời. Làm cho các nước lân bang khiếp sợ. Khiếp sợ về Văn Hóa Tiên Rồng, khiếp sợ về sự hùng mạnh của Nước Văn Lang, khiếp sợ về tinh thần cao độ chống ngoại xâm. Nước Văn Lang như cái bẫy lớn giăng ra khi cần là kéo mẻ lưới tóm gọn. Chủ động tất cả mọi tình thế. Động binh Đao là thế. Còn tịnh thì như loài Rồng, loài Hổ khoe nanh, khoe vuốt cho đối thủ xem. Nếu là loài Hổ cũng không dám manh tâm hành động. Huống chi là Loài Chồn Cáo. Nhìn thấy nanh vuốt của Loài Hổ, Loài Rồng sợ lưng mật còn tinh thần đâu mà dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Công Chúa nghỉ tuy ở thời đại bây giờ mạnh là Vua, thua là nô lệ. Dã tâm của các vì Quốc Vương rất lớn. Luôn luôn dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Nhưng đối với Hùng Vương chỉ là những con mãnh Hổ sống đơn lẻ không có gì đáng sợ đã nằm gọn trong mẻ lưới ngoại giao của Hùng Vương. Nhìn qua nét vẽ họa tiết, cũng như ý tứ trong những bức thông điệp đàm phán, tuy mềm dẻo khiêm nhường. Nhưng cũng rất cương quyết sẵn sàng đối mặt với những kẻ đối đầu dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Công Chúa bằng nói với Đế Lai rằng: Thưa Cha. Hùng Vương có ý đàm phán với ta. Biến lạ thành quen, biến thù thành bạn, theo con nghĩ hai bên giao hảo, hai bên cùng có lợi, đó là một kế sách hay.

    Đế Lai nói:

    Hùng Vương không phải là người thường. Những việc Hùng Vương làm không ai làm nổi. Hùng Vương hàng phục hàng nghìn Đạo sĩ, Giáo sĩ, Tu sĩ. Hàng vạn người hùng nhân tài thuộc nhất đương thời. Hàng mấy mươi Bộ Lạc mà không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu nào, chỉ dùng Chính Nghĩa hàng phục Thiên Hạ. Được Thiên Hạ mà không có kẻ oán người thù, không ai làm được.

    Cũng may là Cao Tông không có mặt ở đây đã được mời vào Đại Sảnh tiếp đãi rồi. Nên không nghe được những lời Cha vừa nói. Ca ngợi đối phương khác nào tùng phục đối phương. Thật ra mà nói Cha chưa tiến quân đánh Nước Xích Quỷ là vì nghe tin Hùng Vương ra đời có nhiều chuyện lạ. Hoa Lan, Hoa Mai chờ Hùng Vương chào đời mới chịu nở. Từ khi Hùng Vương ra đời tới bây giờ lúc nào cũng tiếng tăm lừng lẫy. Chỉ giết loài ác Quỷ, không có cậy quyền ỷ thế, sách nhiễu con người. Nên rất được lòng dân chúng. Dân Nước Xích Quỷ nay là Nước Văn Lang. Sùng kính Hùng Vương như sùng kính Đấng Cha Trời. Ba Con Chúa Quỷ Thần Thông quảng đại vô biên. Thần Thánh cũng bị chúng giết, chúng đi mây về gió. Độn Thổ tàng hình, mình Đồng da Sắt. Thế mà vẫn bị Hùng Vương tiêu diệt như thường.

    Hôm nay Cha đã tận mắt chứng kiến, Hùng Vương dụng chiến thuật ngoại giao, diệu dụng như Thần như Thánh. Đã làm cho Cha cùng hai chú bái phục. Hùng Vương quả là Đấng con Trời xuống thế, giải quyết xung đột bằng con đường đàm phán. Con đường ngoại giao tháo gỡ mắc gút. Nói lên tất cả những gì mà hai bên cần bàn, dù hai Quốc Vương ở cách xa nhau hàng vạn dặm.

    Cha đã suy nghĩ. Cần giao hòa học hỏi hơn là giao chiến, vì giao chiến có hại hơn là có lợi, vì thế lực Văn Lang Đại Nam đang hùng mạnh.

    Phụng Cơ Công Chúa nói:

    Thưa Cha con đường phát triển đất nước. Đâu cần đến chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Mà chúng ta phát triển theo con đường ngoại giao vậy. Chúng ta cũng đạt được mục đích tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh.

    Đế Lai nói:

    Hùng Vương đã mở ra con đường ngoại giao, lợi ích của hai Dân Tộc bằng con đường đàm phán, hai bên cùng có lợi, đó là một dịp may cho chúng ta. Đại Nam Văn Lang là một đất nước giàu có hùng mạnh về mọi mặt. Được hợp tác xúc tiến làm ăn với một Đất Nước vừa hùng mạnh về tinh thần, vừa giàu có về vật chất. Lại một đất nước giàu lòng mến khách. Không có mưu mô chiếm đoạt các thuộc địa mà chỉ thông qua con đường ngoại giao đối tác xúc tiến làm ăn hai bên cùng có lợi. Tôn trọng Độc Lập Chủ Quyền của nhau. Đất Đai Bắc Á tuy rộng lớn. Nhưng là những Đất Nước nghèo. Chỉ ở trung nguyên ta là hơi khắm khá mà thôi. Những các Bộ Lạc lớn ở Bắc Á, xưng Vương, xưng Đế, ta vẫn chưa chinh phục được họ. Họ như những con thú hoang khó trị. Các thế lực Phương Bắc Á lúc nào cũng dòm ngó đến Trung Á ta. Cũng như Trung Á ta lúc nào cũng dòm ngó đến Nam Á Đại Nam Văn Lang. Nếu tiến đến hai cõi Trung – Nam giao hòa. Thế lực Trung Á càng thêm hùng mạnh. Có thể nói gồm thâu các thế lực Bắc Á dễ như lấy đồ trong túi. Đất Trung Á ta ra đời đời cường thịnh.

    Để hiểu biết hết bảy bức thông điệp đàm phán Công Chúa liền xem bức họa tiết thông điệp thứ 5.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ. Hai Quốc Vương, ở hai bên bờ sông, đông đảo dân chúng, cùng các quan bộ lại, chứng kiến hai Quốc Vương đồng chỉ tay xuống giữa dòng sông, phân ranh giới giữa hai Nước TÂY DƯƠNG và VĂN LANG sông Trường Giang.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ Vua – Quan – Dân chúng của 2 Nước. Chăm chỉ trên phần đất của mình, chăn nuôi, đánh bắt, trồng trọt cấy lúa. Không dòm ngó đến nước bạn hay xâm phạm qua đất bạn.

    Công Chúa lại tiếp tục xem qua bức thông điệp đàm phán thứ 6.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ hai Đất Nước Núi liền Núi, Sông liền Sông. Hai nước như 2 anh em cùng chung dòng giống Tiên Rồng. Cùng chung láng giềng lân cận hàng xóm Châu Á, anh em tốt, láng giềng tốt, quan hệ tốt.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ những hàng Quốc cấm hoặc buôn bán hàng lậu. Nếu bị phát hiện liền bị tịch thu. Còn phải ở tù theo luật pháp của Nước đó.

    Công Chúa lại xem bức thông điệp đàm phán cuối cùng, bức thông điệp đàm phán thứ 7.

    Phần 1: Hùng Vương vẽ Công Dân của hai Nước. Muốn nhập cư sang nước bạn ở lâu dài. Thì phải được nhà nước đó chấp thuận. Trước khi phỏng vấn xét hỏi cho phép định cư hay không cho phép.

    Phần 2: Hùng Vương vẽ những người dân di cư bất hợp pháp. Liền bị bắt giữ bị xử phạt ở tù, rồi sau đó trục xuất đuổi về nước.

    Phần 3: Hùng Vương vẽ Công Dân của hai nước. Thông qua ngoại giao của hai Nước. Thành Tài xong ở lại định cư lâu dài. Hay trở về Cố Quốc là tùy theo nguyện vọng của đương sự. Nếu ở lại định cư lâu dài. Thì phải được Nhà Nước sở tại chấp nhận. Trước khi phỏng vấn xét hỏi, cho phép Định Cư lâu dài hay không cho phép.

    Phần 4: Hùng Vương vẽ nếu thống nhất hoặc chưa thống nhất ở điều khoản nào thì thông qua ngoại giao để tiếp tục đàm phán.

    Công Chúa xem xong bảy bức họa tiết thông điệp đàm phán liền thở dài. Cao Nhân còn có Cao Nhân trị. Mình tài giỏi còn có người tài giỏi hơn mình. Núi nầy cao nhưng còn núi khác cao hơn nữa. Tài Cao vô giới hạn không biết đâu là cùng. Bảy bức thông điệp đàm phán của Hùng Vương với sự tài hoa họa tiết ý tứ sâu sắc, chinh phục Thiên Hạ không phải bằng gươm Đao giáo mác. Mà bằng trí huệ, hùng trí, bi trí, tài trí, Đức trí. Phải nói Vua Hùng ngoài Thần Thông pháp thuật vô biên còn có cả Thần Thông trí huệ vô biên, vì thế những việc Vua Hùng làm khó có ai mà thông đạt hiểu nổi. Nếu có hiểu đi nữa thời không biết chỗ nào là cùng.

    Công Chúa nói:

    Thưa Cha với trình độ Dân trí hiện nay. Thì còn đậm nét thời Nguyên Thủy sao lại sanh ra một con người lỗi lạc như thế. Họa chăng chỉ có Đức Chí Tôn xuống trần Chuyển Luân Thánh Vương. Với bảy bức họa tiết, đường nét hình ảnh sống động như thật, đó là thần kỳ rồi. Bố cục nội dung, văn ý lưu loát. Nói lên không biết bao điều. Mà thời nay chưa có ai nghĩ tới.

    Thưa phụ vương chúng ta tiếp đãi sứ giả Nước Văn Lang Đại Nam với tấm lòng thiện chí, mở màn cho sự giao hảo hai bên cùng có lợi nầy.

    Thế là ba anh em nhà Đế Lai, chấp thuận những điều khoản trong bảy bức thông điệp đàm phán. Từ đó Nam Bắc giao hòa hơn một nghìn năm thì mới xảy ra cố sự. Khi ấy đời hậu thế con cháu nhà Đế Lai trải qua nhiều thế hệ kéo dài hơn nghìn năm suy yếu. Trung Á các nước ra đời nổi lên chia rẽ quyền lực. Ngô, Sở, Tần, Tấn, Vệ, Tống, Hạ, v. V.. và còn nhiều nước đang lớn mạnh nữa. Nhất là Thượng, Nhà Hạ đang nuốt lần các nước. Biến các Nước thành các Trấn Chư Hầu. Vua Đế Hạ nghe theo lời xúi nịnh của các trấn chư hầu, khởi binh xâm lược nước Đại Nam Văn Lang. Do Hồ Thiên cầm đầu, kết hợp với Quân Hung Di giặc Mũ Đỏ. Nhưng bị Quân Văn Lang đánh bại thê thảm tơi bời. Tất cả đều bỏ mạng vùi thây chốn sa trường. Quân giặc khiếp kinh trước Bảo Kiếm trấn Quốc do Vua Hùng truyền lại.

    Thơ truyền lại rằng.

    Đất Văn Lang Rồng Chầu Hổ phục

    Kiếm Vua Hùng truyền lại Cháu Con

    Giặc xâm lấn biên cương Tổ Quốc

    Long Hổ gầm chuyển núi dậy non

    Gươm trấn Quốc vung lên chơm chớp

    Giặc vùi chôn lớp lớp nát tan

    Vạn nghìn năm giặc vẫn còn kinh khiếp

    Đất Trời Nam tiếng sấm mãi rền vang.

    * * *

    Hết phần 4 chương 19 mời xem tiếp phần 5 chương 19 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Nơi nào có Kinh Long Hoa Mật Tạng thì nơi đó có Hồn Thiên Dân Tộc phò trì. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chiếu cố. Cha Trời che chở, Quốc Tổ bảo bọc. Bộ Kinh được coi như là bùa hộ mạng bảo hộ cho mình.

    * * *
     
  3. shopoga

    Bài viết:
    512
    CHƯƠNG 19

    PHẦN 5

    DUYÊN TIỀN ĐỊNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trời kia còn có ÂM DƯƠNG

    Cha Trời còn phải nhớ thương Mẹ Trời

    ÂM DƯƠNG có bạn có đôi

    Đất Trời tỏa sáng, Đạo Đời Nở Hoa

    Người ta truyền giống người ta

    Lưu truyền nòi giống để mà tồn vong

    Duyên Trời đã định ai thông

    Huyền Cơ Tạo Hóa vợ chồng nên đôi.

    Nói về con gái của Đế Lai. Phụng Cơ Công Chúa, sắc nước hương Trời, kén chọn mãi. Tuổi đã 27 mà không có ai vừa mắt Phụng Cơ Công Chúa, không những có sắc đẹp hoa nhường Nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa. Mà Cầm Kỳ, Thi Họa xuất chúng, văn võ song toàn. Tài – Đức hiếm thấy. Lại thêm có nghề thủ công khéo léo. Chăn tằm dệt cửi, may vá thêu thùa có một không hai trên đời. Từ khi Công Chúa xem bảy bức thông điệp họa tiết đàm phán, do Vua Hùng vẽ ra. Họa Tiết sống động như thật, văn hoa xuất chúng, ý nghĩa sâu xa, hàm ý rộng lớn. Đàm phán nội dung mềm yếu như Nước. Nhưng cũng cứng rắn hơn sắt thép, kim cang. Chiến cũng đó mà hòa cũng đó. Cái lợi đem đến cho người. Có cái lợi về mình trùm bá mà không mấy ai thấy nổi.

    Tuy hai Nước giao hòa. Nhưng kỷ cương phép Nước như tường Đồng vách Sắt. Khó mà xâm phạm mưu đồ bất chính. Bắt tay hợp tác xúc tiến làm ăn. Nhưng vẫn thể hiện chủ quyền Độc Lập Nam Bắc. Hòa hợp nhưng không hòa tan. Bản sắc Cội Nguồn không mất. Hai Dân Tộc Nam Bắc như hai Vườn Hoa đầy màu sắc, để rồi hướng về tô thắm sắc xuân.

    Công Chúa nghĩ thế gian có người như thế mà ta không nghĩ đến. Càng nghĩ tâm hồn Công Chúa càng xao xuyến nghĩ vẩn nghĩ vơ, biếng ăn biếng ngủ. Công Chúa mỗi ngày mỗi tiều tụy đi thấy rõ.

    Đế Lai thấy Công Chúa mỗi sa sút, nói:

    Có điều gì mà làm cho con không được vui.

    Công Chúa nói:

    Thưa Cha con không có bệnh tình gì cả, mấy tháng nay con hơi mất ngủ thế thôi. Thưa Cha con muốn vân du dạo chơi một chuyến. Để cho tinh thần thoải mái trừ đi căn bệnh mất ngủ.

    Đế Lai cho phép. Công Chúa liền chọn 2 Hầu Nữ xinh đẹp võ nghệ cao cường vân du ngoạn cảnh. Đến những nơi đẹp nhất của ba Nước Tây – An – Dương của ba anh em nhà Đế Lai. Nhưng Công Chúa vẫn cứ buồn rười rượi. Một hôm Công Chúa tới sông Trường Giang nhìn về Phương Nam đến xuất thần, nghĩ thầm, ta vẫn thường nghe nói Nước Xích Quỷ giàu lắm, nay là Nước Văn Lang lại càng giàu hơn nữa. Ta muốn qua đó dạo chơi cho biết. Bằng nói với hai Hầu Nữ rằng nơi đây Dân Cư cũng khá đông đúc, hai ngươi ở đây chờ ta. Nói xong Công Chúa giục Thần Mã bay qua sông, bay sâu vào đất liền nghe trống hội liền hạ chân xuống.

    Tiết xuân vầy cuộc nở Hoa Xuân

    Tăm tắp đồng quê cánh cò dừng

    Rộn ràng trống hội nơi quê xốm

    Xuân tình xuân nghĩa, nước non xuân.

    Công Chúa thấy mình vui hẳn lên, vó Ngựa chầm chậm vượt qua bao Làng xóm, cảnh làng quê đẹp như tranh vẽ. Đường lượn uốn quanh uốn khúc như Rồng bay Phụng múa. Nối đuôi bay mãi dài rộng theo đất nước.

    Giao thông cầu nối khắp nơi

    Liền Châu liền Huyện liền thời xóm thôn

    Đường về biển đường lên non

    Đường đi Nam Bắc, đường đi về Nguồn

    Khắp nơi hội Xóm hội Làng

    Tiếng chày giã gạo, tiếng Nàng hát ru

    Lụa là quần áo đua chen

    Văn Lang cuộc sống Rồng thăng Phụng chầu

    Thiên đàng cuộc sống thiên đàng

    Ấm no hạnh phúc, đâu còn nghèo xơ

    Sống đời sung sướng tự do

    Văn Lang cuộc sống lên đò sang tiên.

    Phụng Cơ Công Chúa nhìn cảnh giàu sang của Nước Văn Lang. Thái bình an Lạc hội Châu hội Huyện khắp nơi khắp chốn. Công Chúa cảm thấy lòng mình sung sướng. Công Chúa cũng không giải thích nổi tại sao lòng mình lại như thế. Công Chúa thả hồn theo Non Nước Văn Lang. Mặc cho Thần Mã đi đâu thời đi đến khi Công Chúa giật mình thì đã lạc vào thế giới Bồng Lai Tiên Cảnh. Nơi Động Lăng Xương. Nơi đây cảnh vật đẹp như tranh vẽ, hoa soi suối nước, mây soi vóc mình. Đá im tĩnh lặng, suối nước Lung Linh. Gió đi tìm bạn. Cây nghe nhạc rừng.

    Động Thiên thác nước phủ màn

    Thác reo chim hót gió đàn rừng ca

    Hương Hoa thoang thoảng tỏa ra

    Ngẩn ngơ chú Bướm cùng là chú Ong

    Động thiên mây lượn giăng giăng

    Núi ôm mây khói, mây hằng đèo mây

    Cành chen sắc lá hoa lay

    Cảnh chen ánh nắng chim bay ngắm nhìn

    Cảnh vui người lại hữu tình

    Người vui người lại ngắm nhìn cảnh vui.

    Công Chúa đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật, vô tình đụng cây sáo thần mà sư phụ đã ban cho. Lúc nào cảm thấy vui thì thổi lên. Bài Mai – Lan – Sen – Cúc. Bốn mùa rực cánh hoa. Bài hội ngộ Duyên tình lai láng tràn đầy chan chứa khắp nơi. Công Chúa liền lấy sáo Thần ra thổi bài Mai – Lan – Sen – Cúc. Tức thời Tiên Nữ xuất hiện múa hát theo tiếng sáo Thần của Công Chúa. Thế là cảnh Bồng Lai Tiên giới thực thụ xuất hiện ra.

    Nói về Quốc Tổ Hùng Vương mải mê lo xây dựng non sông Tổ Quốc Văn Lang. Đã 35 tuổi mà chưa có vợ. Vua Hùng Quốc Tổ ra Bắc về Kinh Đô Xích Quỷ chỉ đạo điều hành đất nước. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng sáo làm cho Vua Hùng quên đi cả mệt mỏi. Tâm Hồn nhẹ bổng. Quốc Tổ Vua Hùng bị thu hút bởi tiếng sáo thần kỳ ấy. Liền cho ngựa vượt lên tìm người thổi sáo. Tưởng là tiếng sáo thổi ra ở gần, nào hay đâu ngựa phi nước đại cả nửa giờ mà vẫn chưa tới. Cho đến khi nhìn thấy trước mặt là núi non trùng điệp. Mây phủ giăng giăng, đèo mây lớp lớp, đường lên cõi Trời. Bỗng dưng tiếng sáo im bặt. Vua Hùng nghĩ hỏng mất biết đâu mà tìm. Có lẽ ta không gặp được người nầy. Vua Hùng định thôi không tìm nữa nhưng sau đó sáo lại nổi lên. Vua Hùng đã định hướng nhận ra nơi phát ra tiếng sao cách đó không xa chừng hơn 2 dặm. Quốc Tổ Vua Hùng quay lại nói với các quan. Các Khanh chờ ta ở đây. Nói xong Quốc Tổ phi ngựa Thần biến mất đến nơi chỗ tiếng sáo phát ra.

    Nói về Phụng Cơ Công Chúa, còn thổi sáo thì còn Tiên Nữ bay lượn múa hát. Tiếng sáo dứt thì Tiên Nữ cũng biến mất. Công Chúa nghĩ ta làm sao giữ lại các Tiên Nữ hỏi xem Tiên Nữ từ đâu đến. Thế là Công Chúa lại tiếp tục thổi sáo. Tiên Nữ lại hiện ra bay lượn múa hát. Có lẽ Công Chúa đang chú tâm thổi sáo, không phát hiện ra có người đã đến gần. Thế ra người đến gần người thổi sáo đó chính là Vua Hùng. Quốc Tổ phi ngựa Thần lướt trên rừng cây hạ xuống nhẹ nhàng không tiếng động. Quốc Tổ Vua Hùng xuống ngựa đi đến gần người thổi sáo. Tuy là không thấy mặt người thổi sáo, Vua Hùng cũng cảm nhân ra người thổi sáo là một người con gái còn rất trẻ xinh đẹp tuyệt trần, vì tôn trọng người thổi sáo. Vua Hùng thưởng thức yên lặng lắng nghe. Nhìn Tiên Nữ bay lượn múa hát nghĩ là mình đang ở cõi Trời, trên Cung Vương Mẫu.

    Nói về Công Chúa đang thổi khúc Mai – Lan – Sen – Cúc bốn mùa rực thắm cánh hoa. Bỗng cao hứng Công Chúa thổi luôn khúc Duyên Tình hội ngộ. Tiếng sáo du dương lai láng Tình Duyên, tràn đầy cảm xúc.

    Vua Hùng không cầm được lòng mình lên tiếng khen:

    Thổi hay quá.

    Công Chua nghe tiếng khen giật cả mình quay lại nhìn người khen mình. Thì không khỏi giật mình e thẹn, vì người đối diện oai vệ uy nghi, khôi ngô tuấn tú như Thiên Tiên ở cõi Trời.

    Công Chúa chưa kịp nói gì. Thời các Tiên Nữ đến chào Công Chúa nói:

    Chúng em là Tiên Nữ Cung Vương Mẫu ra mắt Công Chúa.

    Các Tiên Nữ lại cung kính bái lạy Quốc Tổ Vua Hùng nói:

    Thiên Vương Cung Tiên Nữ xin ra mắt Chí Tôn Quốc Vương.

    Quốc Tổ Vua Hùng phất tay nói:

    Miễn lễ.

    Phụng Cơ Công Chúa nghe các Tiên Nữ gọi người trước mặt là Chí Tôn Quốc Vương. Công Chúa nghĩ ngay đến người trước mặt chính là Hùng Vương. Quả tim Công Chúa đập loạn xạ vì người trong mơ đã xuất hiện ra trước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng nghe Tiên Nữ gọi người thổi sáo là Công Chúa. Thời Vua Hùng đã nhận ra người con gái thổi sáo là Công Chúa lân Bang. Còn đón ra tên của Công Chúa là Phụng Cơ.

    Vua Hùng thi lễ Công Chúa rồi hỏi:

    Quí Quốc mạnh khỏe không? Công Chúa biết nơi nầy lâu chưa. Công Chúa đi chơi xa đến thế.

    Công Chúa đáp lễ nói:

    Quốc Vương hỏi Quí Quốc nào, nhân lúc vân du đi lạc đến đây.

    Vua Hùng đáp:

    Tôi hỏi thăm Quí Quốc Đế Vương gia Cha của Phụng Cơ.

    Phụng Cơ nghe nói thế liền biến sắc mặt, mở hai con mắt thật to nhìn Hùng Vương hỏi:

    Người là Chí Tôn Hùng Vương thật sao?

    Hùng Vương gật đầu.

    Phụng Cơ thi lễ nói:

    Người ta đồn rằng, không có cái gì, bí mật gì mà Hùng Vương không biết.

    Nói tới đó Công Chúa bỗng đỏ mặt. Như sợ Hùng Vương thấy rõ lòng mình. Nhìn Phụng Cơ đáng yêu như vậy, Vua Hùng cảm thấy xao xuyến trong lòng. Thật ra Vua Hùng đã cảm mến ngay lúc vừa mới đến nhìn thấy Phụng Cơ. Hai người càng lúc càng tâm đầu ý hợp. Thế là như đôi chim liền cánh, như cây liền cành. Cảnh gió đưa Mây, Mây đưa gió. Ngày thời dạo cảnh Bồng Lai, đêm về Động hàn huyên tâm sự. Thác nước, Động Thiên ru giấc ngủ hai người.

    * * *

    Hết phần 5 chương 19 mời xem tiếp phần 1 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    * * *

    CHƯƠNG 20

    PHẦN 1

    ĐỨC CỦA BẬC LÀM VƯƠNG

    Quả là 1 cuộc sống Thần Tiên, ngoài trần tục. Sống chung với Hùng Vương bảy ngày thật vui vẻ. Phụng Cơ như trẻ lại tăng thêm vẽ xuân xanh.

    Nhân lúc Vua Hùng vui vẻ. Phụng Cơ nói:

    Người ta đồn Vua Hùng là Chí Tôn con Trời xuống thế, ai nấy cũng sợ, lại là vì vua hết sức nghiêm minh. Nhưng thật ra thiếp thấy Vua Hùng không những dễ mến, mà còn rất chân thật. Hiền hòa, giản dị, ai cũng thích gần gũi. Thiếp đây cũng chẳng muốn rời xa người.

    Quốc Tổ Vua Hùng nói:

    Thần Thánh cũng là con người. Các Thiên Đế trên Trời cũng có vợ có con. Huống chi ta chỉ là Vua của người phàm tục. Mà Vua cũng chỉ là con người, chẳng khác gì Thiên Hạ muôn dân. Ta nhờ Hồng Đức của Ông Bà Cha Mẹ, lại được Trời ban cho phước lớn. Nên mới được ngày hôm nay. ÂN Trời Đất, ÂN Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên. ÂN Bá Tánh muôn Dân Đồng Bào. Ân Tổ Quốc những người vì Dân vì Nước. Ta trả nợ bốn ơn ấy quá lớn. Lo báo đáp còn chưa xong. Có đâu cậy quyền ỷ thế làm hại ân nhân mình. Họ vì lời kêu gọi của ta. Họ đã ngã xuống đưa ta lên tận đỉnh vinh quang. Làm Vua chẳng qua là Đại Diện cho Dân ở cương vị tối cao trụ cột. Đi đầu kỉ cương phép Nước, luật chung. Nếu Vua vì tư riêng mà làm hại cho Dân cho Nước, thì cũng sẽ bị Luật Công phép Nước xử như thường. Nghe những lời lẽ đầy Chân Chính. Đức Độ trùm Thiên Hạ. Là vị Quốc Vương gương mẫu, mẫu mực, đứng đầu Hiến pháp, Luật pháp, Công lý, Đạo Đức. Để cho Quan, Quân, Dân noi theo làm theo.

    Công Chúa như đã thấy Thái Sơn ngay trước mắt. Liền quỳ xuống nói:

    Thiếp có mắt cũng như mù. Thái sơn ngay trước mắt mà không hay không biết. Chí Tôn Quốc Vương không chỉ là Vua của Nước Văn Lang mà còn là Đấng Cứu Thế. Thiếp thật đáng tội chết vì đã lỡ yêu người.

    Quốc Tổ Vua Hùng đỡ Phụng Cơ dậy nói:

    Ta cũng yêu Nàng. Cha Trời, Mẹ Trời còn chung sống với nhau sanh con đẻ cái. Huống chi ta cũng chỉ là con của Trời. Vua cũng cần có Vợ, có con nối dòng dõi duy trì nòi giống con người mà Tổ Tiên có công tạo lập ra. Tình yêu không có tội tình yêu là lẽ sống của con người.

    Quốc Tổ Vua Hùng nhìn Công Chúa với cái nhìn đầy nghiêm túc, mặt đối mặt lòng đối lòng rồi hỏi:

    Công Chúa có ưng thuận làm Hoàng Hậu Nương Nương của Nước Văn Lang Đại Nam chăng?

    Lời cầu hôn của Quốc Tổ Hùng Vương làm Công Chúa xúc động, xúc động đến mức ngã ngay vào lòng của Vua Hùng như muốn giữ mãi lời cầu hôn đó sợ nó bay đi đâu mất. Hùng Vương thấy Công Chúa tình sâu nghĩa nặng như vậy, tuy gần gũi nhau chưa được bao lâu. Nhưng lúc nào Công Chúa cũng dân hết tình yêu cho Hùng Vương. Vì thế Hùng Vương rất yêu thương Công Chúa.

    Quốc Tổ Hùng Vương có biết đâu. Công Chúa yêu Hùng Vương từ mấy năm về trước, hàng đêm mất ngủ, hoa dung tàn tạ đã làm giảm đi vóc dáng yêu kiều của Nàng, làm cho Đế Lai phải lo lắng. Lời cầu hôn của Hùng Vương như cam lộ chảy vào lòng Công Chúa. Trong phút chốc Công Chúa như người khác. Hoa dung đầy đặn tươi thắm rực rỡ. Làm cho cảnh quan bừng lên ánh rực hồng theo rực rỡ của Nàng Công Chúa vốn đã xinh đẹp giờ đây càng thêm xinh đẹp.

    Quốc Tổ Vua Hùng kinh ngạc nhưng chợt hiểu ra. Tình yêu là thế, chỉ có tình yêu mới làm cho con người thay đổi mau chóng, ánh mắt Công Chúa như trỗi dậy vạn mùa xuân, chang chứa lênh láng tình yêu, dâng tặng hết cho người mình yêu.

    Công Chúa gật đầu ưng thuận chấp nhận lời cầu hôn của Vua Hùng. Nghe Công Chúa chấp nhận lời cầu hôn của mình. Quốc Tổ nghe lòng mình ấm áp nói. Có lẽ đây là nhân duyên tiền định. Cha Trời Mẹ Trời tác hợp đôi ta. Nàng lạc bước đến đây, còn ta thời tìm người thổi sáo, đưa đường dẫn lối cho hai ta gặp nhau. Công Chúa mỉm cười gật đầu. Nhưng sau đó Công Chúa linh cảm là sắp chia tay với người mình yêu. Một nỗi buồn len lỏi vào tâm hồn. Quốc Tổ cũng có cảm giác như thế. Các Tiên Nữ theo hầu Quốc Tổ cũng như Công Chúa, nhìn ánh nắng vàng ngả màu, nắng ốm vì sắp lặng về Tây. Các Tiên Nữ vái lạy hai người rồi nói. Đã gần sắp hết 7 ngày. Chúng em phải về Trời, nói xong các Tiên Nữ đồng biến mất.

    Chiều tà vàng ốm bệnh vì đâu

    Bệnh sắp lặng non nhớ Hoàn Cầu

    Phụng Rồng hội hiệp tình say đắm

    Bỗng nghe rồm rộp tiếng vó câu

    Quan Quân Tướng sĩ kìa đã đến

    Đón rước Vua Hùng trễ nải lâu

    Phụng Cơ lưu luyến tình nồng ấm

    Gió lặng Mây tan nở vạn sầu.

    Nói về Quốc Tổ Vua Hùng thấy Quan Quân kéo đến chưa kịp hỏi. Thì các Quan văn võ quỳ lạy tung hô:

    Quốc Vương vạn tuế. Chúng Thần hộ giá đến trễ xin Quốc Vương tha tội.

    Vua Hùng phất tay nói:

    Miễn lễ, miễn lễ.

    Quốc Tổ Vua Hùng hỏi:

    Ai chỉ đường cho các khanh đến đây tìm ra chỗ nầy.

    Các Quan thưa:

    Quốc Vương đi lâu quá vắng bóng 7 ngày 7 đêm, chúng Thần lo sợ không biết lành dữ thế nào. Thì có một vị Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường hướng dẫn đến đây.

    Công Chúa nhìn thấy các quan tướng Văn Lang, người nào người nấy oai phong lẫm liệt. Đầu tỏa hào quang. Thời nghĩ các người mới đến là các vị Thánh, ở thượng giới xuống. Chừng thấy các Quan Tướng quỳ lạy tung hô vạn tuế. Thì mới tin rằng đó là các Quan Tướng Văn Lang. Công Chúa Phụng Cơ nghĩ, cũng đúng các Quan Tướng Văn Lang phần lớn ở hội Long Vân ra. Các Ngài đã hội ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, Minh Tâm kiến tánh hội ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Ngài là Phật – Thánh – Tiên. Thần, Chúa cả rồi. Mãn kiếp trần các Ngài sẽ làm Vua làm Chúa khắp các cõi Trời giáo hóa Thiên Chúng. Theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Các Quan Tướng Văn Lang là các vị Đại Thánh. Đều hiểu rõ Chí Tôn Quốc Vương. Không ai có thể làm hại được. Các Quan Tướng theo lời dặn của Quốc Tổ ở lại chờ đợi. Đã gần hết 7 ngày, các Quan nhìn về dãy núi trước mặt. Thấy mây lành nơi đó biến mất. Thời biết Vua Hùng Quốc Tổ sắp trở lại. Cũng vừa lúc ấy có một Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường cho Quan Quân đến gặp Vua Hùng. Nên Quốc Tổ Vua Hùng mới hỏi ai chỉ đường cho quan quân tới đây.

    Nói về các Quan Tướng khi thấy bên cạnh Quốc Tổ Vua Hùng, có một người con gái cao sang quí phái, sắc nước hương Trời, Hoa Dung lộng lẫy, thì lấy làm mừng lắm. Điều lo lắng nhất của các Quan Tướng là sợ Quốc Vương Chí Tôn không lấy vợ, vì thấy Chí Tôn Quốc Vương tuổi đã lớn mà không nghe Quốc Vương đá động gì đến chuyện lập Quốc Hậu, chỉ lo mải mê xây dựng đất nước Văn Lang. Thấy các Quan Tướng chăm chú nhìn Phụng Cơ.

    Quốc Tổ Vua Hùng nói:

    Các Quan Tướng ra mắt Quốc Hậu đi.

    Như một lời xác nhận các Quan Tướng hết sức vui mừng đồng loạt tiến đến trước mặt Công Chúa hành lễ:

    Chúng Thần xin ra mắt Quốc Hậu Nương Nương.

    Công Chúa phất tay nói:

    Các Quan các Tướng miễn lễ.

    Nhìn ánh tà Dương sắp lặng Quốc Tổ Hùng Vương nắm tay Công Chúa nói:

    Cuộc vui nào cũng đến hồi chấm dứt, sum họp rồi chia ly, chia ly rồi sum họp. Còn duyên nợ thì không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Hết duyên hết nợ dù có ở bên nhau cũng cách xa hàng vạn dặm. Chúng ta chia tay nhau tại đây, Nàng về Quí Quốc, còn ta về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, xong công việc ta cho người đem lễ vật sang Thành Đế An đón rước Nàng về Kinh Đô Văn Lang.

    Công Chúa bịn rịn không muốn chia tay. Bỗng nghe tiếng Bạch Long Mã Hí, Công Chúa liền huýt sáo tức thời một con Ngựa Thần xuất hiện. Công Chúa nhìn Vua Hùng chia tay lần cuối, rồi phóng mình lên con Thần Mã. Thần Mã bay lên không, nhắm hướng Bắc bay đi. Quốc Tổ Vua Hùng nhìn theo cho đến khi người ngựa mất dạng. Các Quan các Tướng cùng Quốc Tổ lên đường nhắm hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ xuất phát.

    Nói về hai Hầu Nữ của Công Chúa nhìn con sông Trường Giang rộng lớn nước chảy cuồn cuộn, bồ xa bồ xít miệng thì cứ lẩm bẩm: Không hiểu Công Chúa có chuyện gì không, sao mà đi lâu thế gần hết 7 ngày rồi còn gì. Mặt Trời đã bắt đầu khuất núi. Màn đêm buông lần che khuất tầm nhìn, hai Hầu Nữ chợt nghe tiếng Ngựa hí, trên không tiếng Ngựa hí quen thuộc thì ra Công Chúa đã trở lại, hai Hầu Nữ thở phào nhẹ nhõm.

    Nhìn hai Hầu Nữ mừng rơi nước mắt, Công Chúa cảm động nói:

    Hai người chờ lâu quá sanh ra đâm lo cho ta phải không?

    Hai Hầu Nữ lặng thinh gật đầu. Dưới ánh Trăng sáng tỏ ba chủ tớ, vó Ngựa rồm rộp trở lại Thành Đế An. Đêm đã khuya nhưng Thành Đế An vẫn còn sôi động, khác mọi khi, chuyện gì thế, Công Chúa tự hỏi.

    Nói về Mẹ của Công Chúa bồn chồn lo âu, sao Công Chúa lại đi chơi lâu như vậy. Nghe tin Công Chúa trở về vội đến hỏi thăm, vừa gặp Công Chúa.

    Đế Nương liền hỏi:

    Con đi chơi gì mà đến hơn cả tháng, làm cho Cha Mẹ lo lắng. Con nói con chỉ đi chơi vài ngày nhưng lần nầy sao con đi chơi lâu quá. Dù cho con đến Thành Tây Đế – Đông Đế cũng không lâu đến thế. Tây An Dương là ba nước của ba anh em nhà Đế Lai.

    Công Chúa nghe mẹ quở mắng nhưng vẫn mỉm cười, hỏi:

    Mẹ sao Thành Đế An ta vui nhộn thế. Đêm đã khuya mà phố xá vẫn còn đông khách, là chuyện gì thế hở Mẹ.

    Mẹ Công Chúa trả lời:

    Chuyện của con chớ còn chuyện gì nữa.

    Công Chúa nghe Mẹ nói thế ngơ ngác không hiểu gì cả. Đế Hậu Nương nói:

    Cha con đã ra cáo thị thông báo, là tuyển chọn Phò Mã đã hơn nữa tháng nay rồi. Các Nhân Tài khắp đất trung nguyên, có cả các nước ở Bắc Á. Họ đã đem lễ vật đến cầu hôn. Có hơn mấy mươi Công Tử, Thái Tử người nào người nấy gia thế uy phong, tài năng xuất chúng. Cha con đã nhận hết lễ vật của họ rồi. Nhìn vào lễ vật cầu hôn cũng đánh giá được họ toàn là những gia thế giàu có.

    Công Chúa nghe xong mặt liền biến sắc, kinh hoàng. Công Chúa nói sao:

    Cha Mẹ không đợi con về, để hỏi con có bằng lòng lấy chồng chưa đã chứ.

    Đế Hậu Nương Nương nói:

    Còn hỏi gì nữa, con quên rồi sao, hôm con mười tám tuổi. Cha con gã con có Chồng chọn phò mã. Con nói để con lựa chọn. Cha con nói con lựa chọn đến chừng nào. Con nói đến 26 tuổi. Cha con đã nổi giận đùng đùng không chấp nhận lời đề nghị của con. Vì con gái đến tuổi ấy thì còn gì là tuổi thanh xuân nữa. Mẹ khuyên can mãi, Cha con mới chấp nhận lời yêu cầu của con. Nay con đã 27 tuổi rồi còn gì. Vì thế mà Cha con quyết định, định đoạt hôn sự cho con. Ngày mai con phải lên đường theo Chồng.

    Công Chúa hốt hoảng la lên:

    Gấp đến thế sao.

    Đầu óc Công Chúa rối loạn: Ta biết phải làm sao đây?

    Đế Hậu Nương Nương nói:

    Lúc Mẹ có Chồng mới 16 tuổi, nay con 27 tuổi, thì đã quá muộn màng. Lần nầy con không có lý do gì để mà từ chối nữa đâu. Sau khi Cha con tuyển chọn nhân tài xong chọn ra mười người và con sẽ chọn một trong mười người đó lấy làm Chồng phò mã.

    Và đêm ấy Công Chúa trằn trọc mãi, ta phải làm sao đây. Trốn ư, nhưng bằng cách nào. Ta là Công Chúa mà làm thế sao được. Rồi danh dự của Cha ta thì sao. Danh dự của một Đế Vương uy lực nhất Trung Á. Công Chúa càng nghĩ càng rối bời.

    Ông Mặt Trời đã dậy, đánh thức quê hương chuyển mình một ngày mới. Tiếng chim ríu rít ca hát nhảy múa líu lo. Nhưng Công Chúa lòng đầy nặng trĩu. Tiếng Trống Công Chúa lại hốt hoảng, tiếng trống mở hội tuyển chọn nhân tài. Người từ các ngả đường lũ lượt kéo về Thành Đế An càng lúc càng đông. Tiễn đưa Công Chúa xuất giá theo Chồng. Chỉ trong vòng một đêm Công Chúa gầy đi rõ. Mặt Trời đã lên cao mà Công Chúa vẫn nằm ỳ không muốn dậy mà có dậy cũng không nổi, ráng gắng gượng lắm Công Chúa mới ngồi lên. Tiếng trống tuyển chọn nhân tài đã kết thúc. Đế Lai đã chọn ra được mười người.

    Công Chúa thét lên: Thế là hết. Bỗng Công Chúa nhớ lại lời nói của Quốc Tổ Vua Hùng. Còn duyên còn nợ thì không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Công Chúa đang u sầu bỗng tươi tắn hẳn lên, Công Chúa đã đi đến một quyết định.

    Công Chúa nói với hai con Hầu Nữ:

    Nội trong ngày nay ta phải xuất giá theo Chồng. Mà Cha ta đã giao quyền cho ta quyết định lựa chọn, một sự lựa chọn cuối cùng cho dù người đó là ai.

    Công Chúa liền ngâm bài thơ:

    Nhớ buổi kề nhau cặp Phụng Rồng

    Thắm tình thắm nghĩa thắm non sông

    Nở nụ tầm xuân đời xanh biếc

    Rực thắm tình yêu rực sắc hồng

    Đôi tim hòa nhịp cùng chung lối

    Thỏ dậy nhớ Tà bóng đêm đông

    Đôi quả tim chung giờ chia cách

    Bắc Nam vời vợi Phụng nhớ Rồng.

    Tiểu Xuân nghe bài thơ Công Chúa ngâm hai con mắt sáng rực lên nói:

    Công Chúa, Công Chúa có người yêu rồi sao?

    Công Chúa gật đầu, hai Hầu Nữ Tiểu Xuân, Tiểu Hạ kinh ngạc hỏi:

    Người ấy là ai thế?

    Công Chúa thở dài nói:

    Người ấy là Hùng Vương. Vua Hùng nước Văn Lang.

    Tiểu Hạ, Tiểu Xuân như không tin ở lỗ tai mình. Nhưng đây là sự thật, do miệng Công Chúa nói ra. Tiểu Xuân, Tiểu Hạ nhìn Công Chúa xuất thần, như đang ôn lại những giây phút quí giá mà Công Chúa không thể nào quên được.

    Tiểu Hạ nói với Tiểu Xuân:

    Thời gian quá gấp biết làm sao đây.

    Tiểu Xuân nói:

    Ở vào tình thế nầy. Tự mình xuất giá theo chồng về với Hùng Vương. Nước Văn Lang là Đất Nước giàu có hùng mạnh. Không có một Đất Nước nào sánh kịp. Công Chúa làm Quốc Hậu Nương Nương Văn Lang. Thì không uổng phí tài sắc Công Chúa. Không Nước nào dám động đến Nước Văn Lang đâu. Một sự lựa chọn, không có sự lựa chọn nào hơn được.

    Công Chúa nhìn Tiểu Xuân kinh ngạc:

    Ngươi hiểu ý ta.

    Tiểu Xuân sợ hãi đáp:

    Công Chúa tha cho Tiểu Nữ, Tiểu Nữ chỉ suy lòng Tiểu Nữ mà thôi.

    Công Chúa nói:

    Ngươi thông minh như vậy, ta dẫn ngươi theo.

    Tiểu Hạ lên tiếng:

    Còn Tiểu Hạ thì sao?

    Công Chúa nói:

    Cả ngươi nữa.

    Hai Hầu Nữ mừng quá liền tạ ơn Công Chúa. Công Chúa nói:

    Tiểu Xuân, dạ có Hầu Nữ. Ngươi tìm cách tới chuồng Ngựa chuẩn bị sẵn, hết sức cẩn thận đừng làm lộ chuyện.

    Công Chúa Phụng Cơ tìm gặp mẹ nói lên sự yêu cầu. Là đến lúc chiều tà gần đến lúc Hoàng hôn thì con mới chọn phò mã. Đế Lai chấp nhận lời yêu cầu con gái.

    Nói về Quốc Tổ Hùng Vương vừa đến Kinh Thành Xích Quỷ, thì đã nghe các Quan các Tướng ở đây xầm xì về Công Chúa con của Đế Lai. Ba Nước Tây An Dương ba anh em nhà Đế Lai chuẩn bị cho ngày vui Công Chúa Đế Lai chọn Phò Mã. Quốc Tổ Vua Hùng nghe tin ấy không lấy làm chi lạ. Đến khi nghe Công Chúa, ngày nay chính là ngày xuất giá thì Quốc Tổ giật mình, hỏi lại về câu chuyện của Công Chúa.

    Các Quan kể:

    Nghe nói Đế Lai có cô con gái tài sắc nổi tiếng, danh vang khắp Nam, Trung, Bắc. Nhưng phải nổi Công Chúa Phụng Cơ rất kén chọn, nay Công Chúa đã 27 tuổi mà vẫn chưa chọn được người vừa ý. Vì sự lựa chọn của Công Chúa quá khắc khe, đã làm cho Đế Lai bực bội. Có lẽ Đế Lai thấy con càng ngày càng lớn tuổi, xuân bất tái lai, xuân người tuổi thanh xuân đi qua, không bao giờ trở lại. Nên Đế Lai tự quyết định cuộc hôn nhân nầy. Ngày nay là ngày Công Chúa phải chọn lấy phò Mã, ngày quyết định theo chồng.

    Quốc Tổ nghe xong không nói gì, chỉ lo phê phán tấu chương do các Châu các Bộ gửi về. Quốc Tổ cho người chuẩn bị một số lễ vật để sẵn. Quốc Tổ phê tấu chương, điều hành chỉ Đạo mau chóng, chưa đầy một ngày là xong tất cả. Nhìn Mặt Trời đã ngả về Tây. Quốc Tổ gọi Quốc Sư Thục Lục đến. Quốc Sư tuy hơn trăm tuổi. Nhưng vẫn còn đầy sự sống, sắc thái minh mẫn.

    Quốc Sư tham kiến hành lễ rồi nói:

    Quốc Vương cho mời Thần đến có điều chi dạy bảo.

    Quốc Tổ Hùng Vương nói:

    Nước Xích Quỷ tuy chuyển thành Nước Văn Lang. Nhưng Nước Xích Quỷ vẫn còn tồn tại mãi trong tâm hồn của người Dân Âu Việt, Lạc Việt không bao giờ phai. Quốc Sư của Nước Xích Quỷ, mãi mãi là Quốc Sư của Nước Xích Quỷ. Quốc Sư thay mặt ta điều hành đất nước. Kinh Đô Xích Quỷ Nam Kinh là Kinh Đô Quốc Phòng. Kinh Đô bảo vệ Lãnh Thổ Nước Văn Lang. Còn Kinh Đô Văn Lang là Kinh Đô Kinh tế.

    Nói xong Quốc Tổ Hùng Vương trao gươm lệnh cho vị Quốc Sư tài năng Thục Lục. Quốc Sư Thục Lục nhận gươm lệnh mà rơi nước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng luôn luôn sống theo Đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn ăn quả nhớ người trồng cây.

    Quốc Tổ Vua Hùng trao gươm lệnh xong nói:

    Quốc Sư thay ta điều hành Đất Nước Xích Quỷ theo giai đoạn mới. Nếu không có việc gì nghiêm trọng khó giải quyết. Thì Quốc Sư có quyền quyết định tất cả.

    Quốc Sư Thục Lục nói:

    Được làm con Dân của Quốc Vương là may mắn phước lớn lắm rồi. Huống chi là Quốc Vương không chê tuổi già còn giữ chức Quốc Sư thay quyền Quốc Vương lo cho Dân cho Nước. Thì còn biết nói gì hơn. Thần chỉ biết hết lòng lo cho Dân cho Nước, phó thác của Quốc Vương.

    Nhìn Mặt Trời sắp lặn về Tây. Quốc Tổ nhớ đến Công Chúa Phụng Cơ. Quốc Tổ liền chọn số Quan Tướng. Thì trên không trung xuất hiện một đám mây.

    Cao Tằng, Cao Tổ, Cao Tông từ trên đám mây bay xuống trước mặt Vua Hùng hành lễ xong rồi nói:

    Chúng Thần đến trễ xin Chí Tôn Quốc Vương tha thứ, sánh lễ Cầu Hôn cũng như kiệu rước Quốc Hậu Nương Nương đã có đủ. Có các Tiên Nữ từ Cung Vương Mẫu xuống đón rước Phụng Thiên Vương Mẫu về Kinh Đô Văn Lang.

    Các Quan Tướng theo hộ giá Quốc Tổ giờ đây mới hiểu. Người con gái gặp ở động Lăng Xương chính là Phụng Thiên Vương Mẫu đầu thai thành Phụng Cơ Công Chúa. Quốc Tổ biết thời giờ đã đến liền phất tay một cái tức thời lễ vật cùng những người đã lựa chọn bay lên Mây.

    Nói về Công Chúa đã quyết định tự mình xuất giá. Cưỡi Thần Mã bay về Nam đến với Vua Hùng rồi tính sau. Mặt Trời sắp lặng. Trên Đền cao Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi, ngồi cách xa giám sát Công Chúa lựa chọn phò mã. Tiếng nhạc nổi lên như báo hiệu Công Chúa xuất hiện. Thế là Cánh Hoa rực rỡ từ từ bước ra. Làm cho cả cảnh quan rực rỡ theo. Sự trằm trồ không ngớt, có người cho rằng còn đẹp hơn cả Tiên Nữ Hằng Nga. Theo hầu Công Chúa là hai hầu nữ cũng xinh đẹp tuyệt trần. Điều khác lạ là hai Hầu Nữ không yểu điệu chút nào. Mà là hai Nữ Tướng, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu. Điều nầy làm tăng thêm vẻ quí phái của Công Chúa. Mười Chàng Thái Tử vừa nhìn thấy Công Chúa, thời quả tim như muốn ngừng đập.

    Tiếng trống hồi thứ nhất. Mười Thái Tử đứng cách xa nhau. Để cho Công Chúa lựa chọn. Người ta thấy Công Chúa không để ý gì đến mười chàng Thái Tử kia. Mà đang chắp tay cầu nguyện.

    Công Chúa vái: Hùng Vương cái gì cũng biết trước mau đến rước em về Nam. Lời thầm vái vừa xong Thì nghe trên không, tiếng nhạc quen thuộc trỗi lên. Phụng Cơ biết đó là tiếng nhạc của các Tiên Nữ. Công Chúa nhìn lên đám Mây, thì thấy Quốc Tổ Hùng Vương xuất hiện. Công Chúa mừng quá sít chút nữa thì hét lên nhưng kiềm hãm lại được.

    Hai Hầu Nữ nhìn thấy người đàn ông mặc áo Long Bào uy nghi tuấn tú đứng trên mây từ từ hạ xuống, lại nhìn thấy Công Chúa mừng rơi nước mắt. Thì đoán biết người mặc áo Long Bào kia chính là Vua Hùng Quốc Vương Đại Nam Nước Văn Lang đã xuất hiện. Cuộc diện thay đổi hẳn khi Quốc Tổ Vua Hùng xuất hiện. Sánh lễ dâng lên chật cả sân, hào quang Châu Báu ngọc ngà lấp lánh. Còn nhiều hơn số Châu Báu những người đến cầu hôn. Nhìn thấy số Châu Báu Ngọc Ngà. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi lóa cả mắt.

    Quốc Tổ Vua Hùng bước tới người ngồi chính giữa thưa:

    Tuy con đến trễ nhưng cũng đúng lúc, đúng lễ nghi mà nhạc phụ, Quốc Vương đã đề ra. Con xin đón rước Công Chúa về Nước Văn Lang.

    Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi nghe ba tiếng Nước Văn Lang thì giật cả mình. Hết bất ngờ nầy sang bất ngờ khác, chưa biết xử trí ra làm sao.

    Nói về Công Chúa chỉ chờ có thế liền chạy đến nắm lấy tay Quốc Tổ Vua Hùng. Quốc Tổ đưa Công Chúa lên kiệu, kiệu Phụng bay lên Mây. Công Chúa liền huýt sáo. Con Ngựa Thần từ trong chuồng phóng ra bay lên mây theo Công Chúa. Chừng đến khi nghe mười chàng Thái Tử, hốt hoảng la lên cướp cướp, thì đám mây đã mờ dần trong ốm nắng của hoàng hôn.

    Đế Lai nói:

    Ý Trời, tất cả là ý Trời.

    Đế Hậu nói:

    Ý trời cái gì. Hai đứa nó đã yêu nhau từ lâu rồi.

    Đế Lai ngơ ngác nhưng rồi cũng làm thinh. Đế Lai tự nói một mình: Nếu thế thời càng hay chớ sao.

    Đế Hậu Nương Nương nói:

    Còn mười Chàng Thái Tử kia thời giải quyết sao đây?

    Đế Lai nói:

    Còn giải quyết gì nữa. Cả mười người mà không giữ nổi Công Chúa, thua một người, để cho người ta cướp mất, còn thưa kiện gì nữa.

    * * *

    Hết phần 1 chương 20 mời xem tiếp phần 2 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    Xem kinh giáo mà tâm hồn trẻ hóa

    Đầy ly kỳ trong cuộc sống thần tiên

    Ôi cuộc sống tình duyên đầy phong phú

    Đẹp làm sao ôi cái đẹp vô biên.

    * * *
     
  4. shopoga

    Bài viết:
    512
    CHƯƠNG 20

    PHẦN 2

    VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ ngày Công Chúa về Đất Đại Nam Nước Văn Lang, trở thành Vương Mẫu Quốc Hậu. Thấy Đất Văn Lang quả nhiên trù phú, thảo nào ai cũng muốn chiếm cho bằng được. Nhất là Đất Lãnh Nam, sông núi kỳ bí ngọa Hổ tàng Long. Hổ nằm Rồng ẩn, khí Thiên sông núi tỏa lên như bảo bọc cho con dân Âu Việt, Lạc Việt. Quốc Hậu Nương Nương lấy làm mừng và biết rằng Con Rồng Cháu Tiên sẽ làm chủ Địa Long nầy. Tuy là thân Quốc Hậu Chí Tôn Thiên Hạ nhưng lại coi Dân thương Dân như con ruột của mình. Nhân từ độ lượng ít ai hơn.

    Quốc Hậu Nương Nương giúp Chồng mở mang bờ cõi, xây dựng Đất Nước. Dạy cho hàng nữ lưu, nâng cao tay nghề chăn Tằm dệt Cửi, sáng tạo ra nhiều mẫu mã gấm vóc lụa là, màu sắc rực rỡ. Quốc Hậu Nương Nương là phụ nữ hiện đại, giúp Chồng từ việc nhà cho đến cả việc Nước, có một không hai ở thời đại phong kiến Thần giáo, thời Chủ Nghĩa Độc Quyền Vua Chúa. Đất Nước Văn Lang là Đất Nước đổi mới văn minh, ở lãnh vực xã hội, những gì Nam giới làm, Thì phụ nữ cũng được phép làm. Đó là Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang cho phép. Đó là lĩnh vực xã hội. Còn lĩnh vực gia đình thời lại một chuyện khác. Thuộc về Đạo Luật Thiên Chức mà Đức Cha Trời đã ban. Đạo làm Chồng, làm Vợ. Đạo làm Cha, Đạo làm Con. Đạo làm Anh làm Chị. Đạo làm em.

    (Xem Bộ Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa Sẽ Rõ)

    Thời đại mà phụ nữ làm được tất cả thì cuộc sống gia đình, xã hội, Tổ Quốc, mới tiến bước trên con đường văn minh dân giàu nước mạnh. Tất cả mọi sự hoạt động, mọi sự phát triển tiến lên xây dựng quê hương đất nước thì phải có bàn tay của Nữ giới đóng góp công lao. Một Đất Nước giàu mạnh là một Đất Nước có nhiều tầng lớp phụ nữ tài đức, vừa đảm đang được việc nhà, vừa đảm đang việc Nước. Đảm đang nhiều trọng trách. Những phần ngành quan trọng của Đất Nước. Trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Có cả những địa vị đỉnh cao của xã hội. Nhưng phải ở lĩnh vực nhân quyền dân chủ, được Công Chúng tín nhiệm bầu xét mới hợp lệ. Theo Hiến pháp, Luật pháp cho phép của Nước Văn Lang. Cạnh tranh Bình Đẳng hợp pháp giữa Nam giới và Nữ giới. Còn tiến thân theo kiểu mưu mô thủ đoạn. Cậy thế ỷ quyền thì là mối họa tai hại cho đất nước mà thôi.

    Một Dân Tộc văn minh, không chỉ có Nam giới là tất cả. Mà có cả giới Nữ cộng tác. Nam – Nữ. Nam Giới, Nữ Giới song hành, phát triển Đất Nước, xây dựng Tổ Quốc, bảo vệ Đất Nước, chống giặc ngoại xâm. Đó là tính ưu việt của Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang. Mà các nước khác ở vào thời đại ấy không bao giờ có. Không phải sự ngẫu nhiên có được sự Độc Lập kéo dài ở Niên Đại Hùng Vương 2.622 năm ở thời giữ nước. Cộng thêm 79 năm ở thời dựng Nước là 2.701 năm. Trên toàn thế giới không có Niên Đại nào ở vào thời kỳ ấy, giai đoạn ấy, kéo dài Độc Lập Niên Đại lâu đến thế. Sự Độc Lập kéo dài Niên Đại Hùng Vương đều có nền tảng cơ sở của nó. Nếu không vì có sự thất truyền nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang thì Dân Tộc Việt Nam đâu phải chịu cảnh nô lệ hơn nghìn năm.

    Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp bình đẳng. Bình Đẳng Nam giới, Nữ giới. Không có sự trọng Nam khinh Nữ hay trọng Nữ khinh Nam. Một xã hội mà trọng Nam hơn trọng Nữ. Hay trọng Nữ hơn trọng Nam. Thì xã hội đó chưa phải là xã hội văn minh. Xã hội Văn Lang là xã hội Hiến pháp, Luật pháp, Công Lý mới thật sự là Vua. Một Pháp Vương Hiến pháp không thay đổi trước sau như một. Mãi mãi trường tồn theo thời gian, song song với Luật pháp và Công Lý. Con đường hôn nhân giữa Nam và Nữ ở lĩnh vực tự do, tự nguyện. Nam, Nữ có quyền được lựa chọn người mình yêu và sự chung thủy vẫn được tôn vinh ca ngợi hàng đầu, báu vật vô giá của tình yêu và Quốc Hậu là mẫu mực cho sự tình yêu chung thủy, thủy chung ấy.

    * * *

    Hết phần 2 chương 20 mời xem tiếp phần 3 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    * * *

    CHƯƠNG 20

    PHẦN 3

    LỜI DI CHÚC TRƯỚC KHI TỪ BIỆT CÕI TRẦN CỦA QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

    Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non

    Trăm tuổi có dư chưa an nhàn

    Kia kìa Dân Chúng ôi còn khổ

    Vẫn còn hộ đói khổ lầm than.

    Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước bận rộn cả đời, không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân. Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương. Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về vật chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa tinh thần. Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn, lẩn sự sống của thể xác, vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thì đẹp Đạo. Tốt Đạo thì đẹp Đời. Tinh Thần vật chất song đôi tiến tới Văn Minh, xã hội Chân Thiện mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng, Văn Minh.

    Kìa Non Nước thay da đổi thịt

    Giàu từng ngày rừng rực ấm no

    Đời nở hoa, ôi mùa xuân Tổ Quốc

    Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha.

    Cuộc sống xã hội Văn Lang, không những ấm no, mà còn tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do đua tài đua sắc, làm giàu đẹp cho xã hội, làm giàu đẹp cho Nước cho Non. Cho bản thân, gia đình rạng danh dòng họ.

    Đàn Chim tung cánh tự do

    Bay trong hạnh phúc ấm no thái bình

    Xuân Non xuân Nước xuân Tình

    Xuân Trời xuân Đất xuân mình xuân ta.

    Nước Văn Lang ngày càng mở rộng. Dân chúng khắp nơi xin đến định cư, làm ăn sinh sống càng về sau càng đông.

    Đất lành Chim đậu có sai chi

    Văn Lang cuộc sống thật diệu kỳ

    Thiên Đàng Cực Lạc nơi trần thế

    Rực rỡ Trời Nam, rực sử thi.

    Do tài năng Đức Độ. Tận tâm tận lực lãnh Đạo đất nước. Đưa Đất Nước Văn Lang càng ngày càng ấm no phồn thịnh khí thế bừng lên sức sống mãnh liệt mạnh mẽ, sáng tạo ra nhiều gấm vóc lụa là màu sắc rực rỡ. Nhất là nghề rèn đúc tinh xảo, hoa văn sống động, phải kể đến nền Văn Minh lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi có một không hai, không có một đất nước nào sánh kịp.

    Quốc Hậu ở với Quốc Tổ 5 năm thời sanh con, sanh ra con đàn cháu đống. Con trai lớn Lân Lang, Hùng Quí Lân, sau nầy lên ngôi Quốc Vương thay cha trị vì Thiên Hạ. Mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp đến gần. Quốc Tổ Hùng Vương triệu tập hết thảy quần Thần Dân Tướng. Vào ngày 10 tháng 3 năm ẤT MÙI. Ngày mà Quốc Tổ từ biệt cõi trần. Trả lại xác trần về Trời. Ngày ấy cảnh vật buồn hiu. Hoa đang khoe sắc đi vào héo rụng. Chim chẳng muốn bay, thú chẳng muốn ăn. Như linh cảm Mặt Trời Trí Huệ, Chánh giác sắp lặng. Đấng đại từ đại bi. Lập Quốc, trị Quốc bằng con đường Chánh giáo. Đạo Pháp Quốc Đạo Chính Nghĩa Dân Tộc. Trên bực cao Quốc Tổ vẫn uy nghi như ngày nào. Chiếc áo Rồng lung linh sống động như muốn nghe từng lời Quốc Tổ. Quân Thần Dân chúng tuy không tiếng khóc nhưng nước mắt cứ rơi rơi mãi ước nhầm cổ áo.

    Lời Quốc Tổ trầm hùng vang dội khắp Núi Sông đều nghe thấy từng lời:

    Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt. Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần xuân đến 84 lần xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời. Vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa, với lý do là vì ta Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tầng Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế, không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân.

    Khi ta về Trời, thì Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ. Hai Đấng tối cao Linh Thiên vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng họa, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiên, không có Đấng nào Linh Thiên hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặc hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm.

    Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lãng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo. Thì Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất. Thì Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang. Nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang, ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang. Mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai.

    Địa Mẫu Âu Cơ, Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiên vũ trụ, chỉ cần cảm nghĩ đến Mẹ, là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ lực khai thông. Thành tựu khoa học vật chất. Cũng thành tựu trong sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo. Đều có bàn tay nâng đỡ của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.

    Ta sanh xuống chốn nhân gian, là để nói rõ nguồn gốc vũ trụ. Nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền năng tối cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con Cháu của Đức Cha Trời Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian. Để cho Nhân Loại trở về với Cội với Nguồn, đến với Đấng ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ sanh ra Nhân Loại con người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang, để sau nầy con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S . Thánh Địa Lãnh Nam Linh Thiên siêu việt nầy, là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa. Cũng là Thánh Địa Linh Thiên bảo bọc Nhân Loại con người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10.

    Nay ta giao Địa Long Thánh Địa nầy cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất, sau năm nghìn năm ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai Thiên Ấn trở lại Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non, vì Nước, Hồn Trung Kiên. Hồn Tiết Liệt Nam Nữ. Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng, bè Phái. Không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc. Mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc.

    Những kẻ tôn thờ ngoại xâm. Tôn thờ ác Đạo, vùi lấp truyền thống Dân Tộc. Bỏ Cội bỏ Nguồn. Dù trung hiếu cho cách mấy. Tiết Liệt cho cách mấy. Cũng chỉ là trung với bè Đảng mà thôi. Và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đọa ngập chìm trong con đường ác. Mất Thân người khó mà đầu thai trở lại làm người, sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục. Theo Luật nhân quả mà thọ lãnh quả báo.

    Sau năm nghìn năm nữa. Từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hóa lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là thời đại Dân Chủ nhân quyền Đa Đảng sống theo Hiến pháp, Luật pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến pháp ngụy tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng. Nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước sẽ được Nhân Dân ủng hộ, không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc. Thì Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiên Dân Tộc, Khí Thiên sông núi ủng hộ che chở.

    Ý Trời đã thế, thì xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời. Đó là ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ. Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển. Cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần. Do lượng phù sa hàng năm, do Nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh khí. Đất sanh Linh. Khí – Nước – Đất giao hóa khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vầng Thái Dương tỏa sáng khắp trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển.

    Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bậc tu thiền luyện khí nhập định. Thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm ta trở lại chốn Nhân Gian. Lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi. Và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9. Chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp. Động Đất khắp nơi. Nước dân khắp chốn. Mưa to bão lớn kinh hoàng. Nhiệt độ tăng cao thiêu đốt. Nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hóa đến chỗ thông Linh hướng Thiện. Theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đọa rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính, đều đọa lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông. Thì mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hóa Linh Hồn.

    Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt. Bách Tộc Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Nền Hiến pháp Văn Lang là thuyền lớn, cầu lớn. Bắc qua sông mê, đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha ông trở về vũ trụ.

    Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang. Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng. Con Cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con Cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thì người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thì người ấy hưởng, vì giang san vũ trụ nầy là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba Con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tang tóc chết chóc cho con người, hết triệu năm nầy sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết. Nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm. Mưu mô Quỉ quyệt vô cùng, biến giả thành chân che mắt cả Thần Thánh. Huống chi chỉ là người thường tục, thì chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy. Chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh giác của Linh Hồn con người. Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh giác.

    Một là: Pháp Tạng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến pháp, pháp Tạng vũ trụ.

    Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân quyền Bình Đẳng. Những quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã ấn chứng di truyền cho mỗi con người, không có quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm.

    Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện. Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng xã hội.

    Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo Chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sáng cứu thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác nầy. Về thời mạt pháp Tà Ma ác quỷ chúng giả tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền tỏa ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau tỏa sáng thiêu rụi Tà Ma ác quỷ. Làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người.

    Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng. Một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn. Còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa. Tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều yêu Tinh khác. Và chúng không bao giờ quên mối thù Con Cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lợi là tiêu diệt Nước Văn Lang. Tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu Của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt. Đồng Bào anh em tàn sát lẫn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ chúng thấy Quân Dân Văn Lang. Hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ. Ba Hồn con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S . Nên không chạy trốn về Phương Tây mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh Chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang. Quên đi nòi giống Tiên Rồng. Quên đi Nguồn Cội. Đánh mất truyền thống dân tộc, xu thế ngoại bang. Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh. Dẫn con Cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hóa Cội Nguồn mất. Thiên Ấn tan biến chẳng còn thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.

    Hởi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu. Thần Thông đến đâu. Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng tối cao Chúa Tể vũ trụ. Quyền năng vô hạn sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Con Cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Thờ phụng Tổ Tiên. Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hóa Cội Nguồn mà hành trì. Thì Tà Ma ác Quỷ cũng khó mà làm gì được.

    Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì, cũng không được bỏ Cội bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn, Nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước. Thì coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại ban, cảnh nô lệ ngoại bang, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến.

    Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác thần Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vĩnh biệt Quân Dân cả Nước.

    * * *

    Hết phần 3 chương 20 mời xem tiếp phần 1 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    * * *
     
  5. shopoga

    Bài viết:
    512
    CHƯƠNG 21

    PHẦN CUỐI

    PHẦN 1

    THỊNH – SUY

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ ngày Quốc Tổ về Trời. Thái Thượng Quốc Mẫu, còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quí Lân con cả Quốc Tổ lên ngôi vương được ba năm. Hùng Vương đời thứ 2. Trị Quốc không bao lâu, thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lịnh Hùng Vương. Có ý phản lại Bách Tộc Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lệnh đem chém trước Bách Tộc Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng.

    Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Dựng Nước 79 năm Thời Quốc Tổ. Thời Giữ Nước 2.622 năm thời con cháu.

    Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương. Đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14. Có giặc Thượng Tây Hạ. Giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang. Nhưng bị Quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn.

    Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại bang thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miễn sao chiếm Đất lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm, xâm lược càng về sau càng quy mô lớn. Chúng nuôi mộng xâm lược luôn luôn chờ cơ hội. Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn.

    1: Nền Văn Minh Hội Họa, Giao Tiếp.

    2: Nền Văn Minh Khai Thác, Tài Nguyên.

    3: Nền Văn Minh Rèn Đúc Dụng Cụ.

    4: Nền Văn Minh Lúa Nước.

    5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa.

    Với lòng tham vọng của các thế lực ngoại bang. Ngoài Non Sông Đất Đai trù phú, khí hậu ôn hòa, thiên nhiên ưu đãi, còn năm nền văn minh trên, cộng thêm nền văn minh gốm, sứ. Vì chiến tranh thường xảy ra. Các thế lực ngoại xâm, xâm lược, càng về sau càng quy mô lớn. Làm cho nền Văn Minh Văn Lang chậm Nguồn phát triển. Nước Văn Lang càng lúc càng thu hẹp càng lúc càng lâm nguy. Khi ấy Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc phương Bắc, coi như Nước Văn Lang đã mất đi một phần ba, mà còn mất thêm nữa.

    Khi ấy Tây Văn Lang. Thục phán là cháu 20 đời của Thục Lao. Bà Cố của Thục phán, là Công Chúa Hùng Vương đời thứ 15 Hùng Triều Vương, Cảnh Chiêu Lang. Thục Phán thấy Hùng Duệ Vương không có con trai, lại bỏ bê chính sự, nịnh Thần lộng hành, không sớm thì chầy cũng bị ngoại xâm nuốt chửng. Nghe Vua Hùng chuẩn bị nhường ngôi cho con rễ. Tức là Tản Viên Sơn Thánh (Nguyễn Tuấn) . Thục Phán tức giận, huy động Chín Chúa khắp Tây Văn Lang. Chín Chúa Tây Văn Lang là cháu trên 20 đời của Tây Thục Vương, huy động 30 vạn quân kéo về thành Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi.

    Hùng Duệ Vương có trao binh quyền cho Tản Viên Sơn Thánh chống trả lại Thục Phán. Tản Viên Sơn Thánh nghe tin Thục Phán vô tình gặp Rùa Thần. Rùa Thần dẫn Thục Phán đến hang động bí mật. Nơi Quốc Tổ Vua Hùng luyện Bảo Kiếm. May thay nơi đây còn sót lại bí quyết luyện thép của Quốc Tổ Vua Hùng và Thục Phán đã luyện được thép thành công. Thục Phán cho người rèn đúc ra kiếm, ra tên vô cùng lợi hại. Tản Viên Sơn Thánh, Nguyễn Tuấn biết chống trả cũng không lại, lại gây ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt, sò hến đánh nhau ngư ông đắc lợi. Ngoại xâm chính là ngư ông. Chờ thời cơ là hốt sạch, xóa sổ nước Văn Lang, Nguyễn Tuấn thấy rõ nguy cơ mất nước xảy ra. Khi anh em tương tàn nồi da nấu thịt. Chi bằng khuyên Vua Hùng nhường ngôi Quốc Vương cho Thục Phán.

    * * *

    Hết phần 1 chương 21 mời xem tiếp phần 2 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    * * *

    CHƯƠNG 21

    PHẦN CUỐI

    PHẦN 2

    THỜI MẠT PHÁP – MẠT VẬN

    Thục Phán lên ngôi Quốc Vương. Niên Đại Hùng Vương kết thúc. Chuyển sang niên hiệu An Dương Vương. Thời Đại Văn Lang kết thúc. Chuyển sang thời đại Âu Lạc. Cũng chính là lúc con cháu Tiên Rồng rơi vào thời mạt pháp mạt vận. Mặt Trời Chính Nghĩa không còn, màn đêm bao phủ Con Cháu Tiên Rồng.

    AN DƯƠNG VƯƠNG trị vì Thiên Hạ 79 năm. Thì bị TRIỆU ĐÀ từ lâu chiếm lĩnh Địa phận Nước Xích Quỷ. Tiến quân tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG. Thành Cổ Loa rơi vào tay giặc.

    Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, lúc ấy Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc từ lâu. Trở thành mảnh đất chiến tranh, tranh giành của nhiều thế lực. Như Thục – Tần – Ngô – Sở – Triệu – Hán – Ngụy – Tấn. Đất Bắc nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Chiến tranh, tranh giành thuộc địa càng lúc càng dữ dội.

    Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương lập nước ÂU LẠC. Bắc Văn Lang, Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay quân giặc Tấn. Quân giặc Sở cắt đôi Giao Chỉ thành thế Đông Tây, Cửu Chân, Nam Hải, Đông Hải, Hợp Phố. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Đông, do quân giặc Sở đô hộ chiếm đóng. Uất Lâm – Thương Ngô – Nhật Tây – Nhật Nam. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Tây. Do quân giặc Tấn đô hộ chiếm giữ. Dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Bách Tộc Văn Lang Âu Việt – Lạc Việt – Mân Việt – Dương Việt – Điền Việt – Hải Việt – Sơn Việt – Trung Việt – Hoa Việt – Đông Việt – Tây Việt, v. V.. gọi chung là Bách Việt Văn Lang, ở vào giai đoạn Hạ Hùng Vương từ đời Hùng Vương thứ 11 đến thứ 18.

    Dưới ách thống trị Quân Tấn, Quân Sở, Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ. Chúng ra sức vơ vét của cải phục vụ cho chiến tranh. Đất nước Xích Quỷ Bắc phần Văn Lang, vô cùng trù phú là miếng mồi béo bở tranh giành của nhiều thế lực. Vì thế giặc Tấn, bị quân Triệu, quân Hàn, quân Ngụy, kéo đến tấn công. Quân Tấn bị tiêu diệt. Giặc Hàn, giặc Triệu, giặc Ngụy chia nhau chiếm giữ. Bách Việt Văn Lang lại rơi vào cảnh khốn khổ khác. Hổ chết thì Sói vào, Ma tiêu thì Quỉ đến. Chúng không những vơ vét về của cải vật chất mà còn vơ vét con người phục vụ cho chiến tranh, còn nỗi khổ nào hơn nữa.

    Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ giành lấy giang san của kẻ khác. Nhất là miếng mồi béo bở như nước Xích Quỷ, liền đem quân tấn công, Quân Ngụy, Quân Triệu, Quân Hàn.

    Đất Bắc Nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Nhà Tần lên thay thế vào năm 257 trước công nguyên. Nhà Tần gồm thâu Thiên Hạ, tranh giành đất đai. Quân Hàn – Quân Ngụy đầu hàng. Quân Triệu vì ỷ có 40 vạn quân nên không chịu đầu hàng. Thế là cuộc chiến xảy ra trên đất Tây Giao Chỉ vô cùng khốc liệt. Gia Triệu tử nạn 20 vạn quân chôn vùi tại trận. Con của Gia Triệu là Gia Lại. Dẫn 20 vạn quân còn lại, chạy trốn sâu vào Đất Văn Lang, xưng là Đại Vương. Quân Tần tiếp tục truy sát. Gia Lại Đại Vương dẫn 20 vạn quân vượt qua sông Tây Giang. Quân Tần không truy đuổi nữa về sau Gia Lại xưng hiệu là Triệu Việt Vương.

    Quân Triệu giặc Triệu vượt qua sông Tây giang chiếm lĩnh nhiều Châu nhiều Quận nhiều Huyện của trung phần đất Văn Lang như: Hồng Châu, Hồng Thượng Châu, Đông Châu, Thái Châu, Bộc Châu, Cưu Châu, Tiên Châu, Lô Châu, Du Châu, Thạch Châu, Môn Châu, Điền Châu. Tình hình Bách Việt Văn Lang lúc bây giờ rối loạn, rối ren liên tiếp xảy ra sự lộn rộn, không có trật tự nào cả. Bắc Văn Lang thì đã rơi vào tay giặc. Còn Trung Văn Lang tình hình như đã nói trên trộm cướp khắp nơi. Tình hình vô cùng thuận lợi cho giặc Triệu chiếm lĩnh đất đai hàng phục dân chúng một cách dễ dàng. Không bao lâu thế lực của giặc Triệu lên tới 40 vạn. Tiếp tục chiếm lĩnh các Châu, Quận, Huyện về hướng đông trung Văn Lang như: Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Thượng Lô Châu, Lô Lô Châu.

    Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ chia Thiên Hạ ra làm 36 Quận. Quận lớn hơn Huyện. Quận ở Tần Bằng Châu Văn Lang. Đời Tần thịnh về thuyết Ngũ Hành. Nên chia Thiên Hạ cũng theo năm phương vị Ngũ Hành. Đại Nam – Đại Bắc – Đại Đông – Đại Tây. Nhưng chỉ có Đại Nam là quan trọng hơn cả. Chiếm được Đại Nam là coi như chiếm được Thiên Hạ. Nên Tần Thủy Hoàng quét sạch Quân Hàn – Quân Triệu – Quân Ngụy – Quân Sở. Chiếm lĩnh Đại Nam trước, Đại Nam chính là Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Trước sự cai trị độc ác hà khắc ác nghiệt của Chế Độ Chính sách nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Xích Quỷ, bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang, làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng mạnh.

    Lúc nầy nền Quốc Đạo truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn, phai mờ từ lâu. Bách Việt rơi vào cảnh tối tăm. Đất Bắc sáng sủa hơn vì có thuyết Lão giáo. Khổng giáo. Ngoại xâm, xâm lược Nước Văn Lang không những chỉ có Quân Sự, Chính trị mà còn có cả Văn Hóa. Xâm lược Văn Hóa còn độc hại hơn xâm lược Quân Sự, Chính trị. Bách Việt Trung phần, Bắc phần Văn Lang đã bị Văn Hóa ngoại xâm thống trị ngự trị ăn sâu vào tâm hồn. Đồng hóa Dân Tộc Văn Lang thành Dân Tộc Đất Bắc.

    Cho đến năm 184 trước công nguyên. Triệu Đại Vương đem quân đánh An Dương Vương. Nhưng đánh không lại tiêu 20 vạn quân và mấy lần liên tiếp thất bại. Triệu Đại Vương tức là Triệu Đà khiếp vía. Biết không thể nào thắng nổi An Dương Vương. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế sách âm mưu lớn. Đà quỉ quyệt xin giảng hòa với An Dương Vương. Rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận. Liên hoàn cung và vũ khí luyện thép bí mật của ÂU LẠC. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, độ trúng chính xác rất cao, làm khiếp sợ quân xâm lược. Với mưu chước quỉ quyệt cầu hôn giảng hòa giả tạo nầy. Triệu Đà đã đạt được mục đích. Trọng Thủy học được bí quyết luyện thép. Nhờ sự giúp đở của Mỵ Châu. Triệu Đà liền chế tạo ra tên thép. Kiếm thép. Áo giáp thép, liền tiến quân đánh thành Cổ Loa. AN DƯƠNG VƯƠNG ỷ y bất ngờ bị Triệu Đà tiêu diệt.

    Thế là Nước Âu Lạc không còn vào năm 179 trước công nguyên. Tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG xong Triệu Đại Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Con Cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh Đô hộ ngoại bang. Dưới sự cai trị của Quân Triệu Con Cháu Tiên Rồng không tùng phục. Mà còn nổi lên chống trả khắp nơi. Triệu Việt Vương tên xâm lược, ra sức dẹp loạn. Nhưng dẹp chỗ nầy là chỗ khác lại mọc lên. Y lấy làm lạ đâu cũng là Nước Văn Lang. Nhưng Dân Nam Văn Lang vô cùng khác lạ. Không giống Trung Văn Lang và Bắc Văn Lang, y ra sức dụ dỗ cách nào Dân cũng không nghe, y thuyết giảng Khổng, Lão. Dân cũng không màng và y đã nghi ngờ Đất Đai Nam Văn Lang có vấn đề.

    Nói về Triệu Đại Vương. Triệu Đà có đủ sức mạnh đánh chiếm Nước Âu Lạc. Có bốn nguyên do thuận lợi tạo lên thắng lợi đó.

    1 - Là do sự cai trị Độc ác của chế độ nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng thêm Mạnh. Nhờ vào chính sách, lừa bịp giỏi.

    2 - Là năm 209 trước công nguyên. Công Tử Hồ Hợi. Lên kế vị Tần Thủy Hoàng. Nhị thế Hoàng Đế. Thì Triệu Cao lên chức như diều gặp gió. Từ lang trung lệnh không bao lâu lên nắm quyền Thừa Tướng. Quyền lực thế lực rất mạnh, khôi phục lại thế lực Nước Triệu ở bên kia Hoàng Hà. Thế là Triệu Đại Vương Triệu Đà. Thoát khỏi áp lực truy sát Quân Tần. Lại được Nước Triệu, bên kia sông Hoàng Hà hậu thuẫn ủng hộ giúp sức. Triệu Đại Vương trên đà hùng mạnh, tiến quân đánh An Dương Vương nhưng Triệu Đà vẫn đánh không lại, vì AN DƯƠNG VƯƠNG có liên hoàn cung. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, nón mũ giáp, độ trúng chính xác rất cao. Mấy lần thất bại làm cho Triệu Đà khiếp sợ.

    3 - Triệu Đà lập ra một âm mưu lớn. Triệu Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với AN DƯƠNG VƯƠNG. Rồi sai con Trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung và cách luyện thép bí mật. Chế tạo lên thép, Kiếm thép, Đao thép, mũi lao thép của ÂU LẠC. Với mưu chước quỉ quyệt nầy. Triệu Đà đã đạt được 2 mục đích.

    – Chia rẽ nội bộ làm cho mâu thuẫn với nhau, mất đoàn kết, mất sức mạnh thống nhất.

    – Khám phá ra bí mật cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung, cách luyện thép, cách chế tạo ra tên thép, Kiếm thép, Đao thép, Lao thép, chúng còn chế tạo ra cả áo giáp thép.

    4 - Chúng thấy thời cơ đã chín mùi, liền tiến quân đánh chiếm thành Cổ Loa, tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG vào năm 179 trước công nguyên.

    Diệt xong An Dương Vương, y tưởng rằng hàng phục Dân Âu Lạc một cách dễ dàng, nào hay đâu y không hàng phục được. Mà Dân Âu Lạc càng ngày càng nổi lên chống trả y càng dữ dội, y liền cho người về Nước Triệu, thỉnh cầu cao kiến. Lúc ấy Nước Triệu Trương Nhĩ đã lên làm thừa tướng. Trương Nhĩ có quen với một người Nước Tần là Tấn Hầu Gia chán ngán cuộc thế ở ẩn. Rất giỏi về Thiên Văn Địa Lý, dịch số, toán số. Nhưng vì nể Trương Nhĩ là bậc Nhân hiền. Nên vào Nam giúp cho Triệu Việt Vương tức là Triệu Đà, xem qua địa cuộc Nam Văn lang.

    Tấn Hầu Gia vừa đến đất ÂU LẠC Nam Văn Lang, thời cảm thấy bất an ớn lạnh, Triệu Việt Vương dẫn Tấn Công Hầu xem qua địa cuộc Nam Văn Lang, Công Hầu thấy Đất Đai Núi sông kỳ bí khí thiên sông núi tỏa lên kỳ lạ. Địa cuộc Hổ phục, Rồng Chầu, Hổ ngồi Rồng ẩn thời thốt lên quả là Địa Linh Đất Thánh. Không phải Dân Nam thì xưng vương ở đất nầy nhất định sanh đại họa. Công Hầu nói Đất Nam kỳ bí nầy chỉ có người Nam cai trị người Nam. Việt Vương không nên đóng đô ở đây. Đóng đô trên đất Giao Chỉ để xưng Vương. Còn nơi đây đặc sứ tài giỏi để cai trị, bóc lột vơ vét không cho dân chúng có đủ sức lực để chống trả. Triệu Việt Vương làm theo, phong cho Triệu Lữ Gia làm thừa tướng. Biến Nước ÂU LẠC thành Nam Quận. Triệu Lữ Gia là con cáo già thâm độc. Dùng kế sách Người Nam Việt cai trị Người Nam Việt. Làm cho cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm.

    Cho đến năm 111 trước công nguyên. Nhà Hán tiêu diệt Nhà Triệu. Cướp Nước Nam Việt lần nữa. Thừa Tướng Triệu Lữ gia bỏ Âu Lạc chạy sang phiên Ngung cấu kết với các Bộ Tộc thổ hào Văn Lang chống lại nhà Hán và cuộc giao tranh giữa nhà Hán với Thổ Hào Văn Lang tại Long động Hùng Sơn. Triệu Lữ Gia tử nạn. ÂU LẠC Nam Văn Lang lại rơi vào tình cảnh bi đát hết sức đau khổ. Con Cháu Tiên Rồng thật đáng thương. Nhìn cảnh vơ vét bóc lột dã man của Quân Hàn. Nhìn cảnh Trâu cày Ngựa cưỡi tù đày tra tấn, đói rét, bệnh tật, sống chết nằm trong tay giặc. Thi sách nhìn quân thù hai con mắt đổ lửa.

    Từ thuở dựng Non thuở Ông Cha

    Văn Lang rực rỡ, cảnh Sơn Hà

    Con Cháu Tiên Rồng uy linh khắp

    Ngoại xâm khiếp vía chẳng dám qua.

    Nhìn cảnh Con Cháu Tiên Rồng bị quân Hán cai trị vô cùng tàn bạo. Nhìn Con Cháu Tiên Rồng thân Trâu cày Ngựa cưỡi. Thi Sách xót lòng xót dạ.

    Nhìn cảnh kéo cày rơi nước mắt

    Đòn roi vun vút tét thịt da

    Tô Định hỡi thằng hung bạo ác

    Sách đây sùng sục máu Ông Cha.

    Thi Sách là Cháu Quan hầu tướng về quê ở ẩn. Không theo phò An Dương Vương. Sách nhìn cảnh tàn ác của quân xâm lược nung nấu ý chí. Ngày đêm góp nhặt viết sử Ông Cha, kêu gọi Con Cháu Tiên Rồng khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.

    Nước Non, Non Nước cảnh đông về

    Bão giặc lan tràn khắp xóm quê

    Gái trai già trẻ đời nô lệ

    Giặc vơ giặc vét thảm não nề.

    Giặc Hán không những vơ vét sức người của cải, tài nguyên đất nước mà còn ra sức ếm yểm hầu tiêu diệt Linh Địa khắp nơi.

    Gươm của chúng đã đâm vào huyệt mẹ

    Thời còn chi người Mẹ Nước Nước Non

    Hỡi Dân Nam, người Dân Đại Việt

    Hãy vùng lên quét sạch ngoại bang.

    Thi Sách ngày đêm góp nhặt những gì còn sót lại. Truyền thống quí báu của Ông Cha. Để cho Con Cháu Tiên Rồng có hướng đi theo bước Cha Ông. Tô Định được mật báo liền bày kế giết chết Thi Sách. Đốt sạch những gì Thi Sách để lại.

    Mùa xuân năm 40 sau công nguyên. Chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa, trả thù chồng, thù Nước. Thái Thú Tô Định bị hai bà Trưng đánh tơi bời.

    Nghe tiếng sấm đất Trời rung chuyển

    Tiếng Voi rền dậy núi dậy non

    Tô Định hoảng vía hồn kinh

    Trống – Chiêng Đao Kiếm rung rinh Đất Trời

    Nhìn quân Hán ngã nhào tan xác

    Tiếng hò reo cùng khắp bao vây

    Tô Định cạo tóc cạo râu

    Tìm đường trốn chạy xiết bao hãi hùng

    Cờ Đại Nghĩa phực phừng phất phới

    Giống Rồng Tiên cưỡi gió tung bay

    Tô Định rời rã chân tay

    Kể gì vinh nhục miễn sao thoát cùng

    Đất Trời Nam bừng bừng tỏa sáng

    Phá xích xiềng đời sống tự do

    Con đường no ấm, ấm no

    Chủ Quyền Độc Lập giữ cho vững bền

    Gương bà Trưng anh hùng liệt Nữ

    Trang sử vàng, sáng mãi muôn năm

    Hỡi muôn Dân hỡi Cháu Con

    Chủ Quyền Độc Lập vàng son nước nhà.

    * * *

    Hết phần 2 chương 21 mời xem tiếp phần 3 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

    * * *

    CHƯƠNG 21

    PHẦN CUỐI

    PHẦN 3

    NIÊN ĐẠI HÙNG VƯƠNG

    THỜI THƯỢNG HÙNG VƯƠNG

    1. ĐỜI THỨ NHẤT. HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ

    Sinh ngày 20 tháng 02 năm Giáp Thìn tức vào năm 2989 trước công nguyên. Theo niên lịch Kinh Nam.

    Khi còn là Thái Tử.

    16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý cứu nhân độ thế.

    22 tuổi Quốc Tổ chuyển đại pháp luân khai hội Long Vân tại vườn Cấm Nước Xích Quỷ vào ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu.

    25 tuổi Quốc Tổ dẫn quân Âu Lạc tiến về đất Lãnh Nam vào năm Mậu Thìn. Khai dựng lên nước Văn Lang, cũng như Bách Việt Văn Lang.

    30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương vào ngày 2 tháng 9 năm Quí Dậu. Cũng như công bố nền Quốc Đạo văn Hóa Tiên Rồng ra đời.

    Năm 41 tuổi Quốc Mẫu Phụng Cơ sanh Hùng Quí Lân.

    109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho con cả là Hùng Quí Lân 2880 năm Nhâm Thìn trước công nguyên.

    79 năm Quốc Tổ ở ngôi dựng nước.

    3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Giáo Tổ Quốc Đạo.

    112 tuổi Quốc Tổ về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi

    Năm 2959 trước công nguyên. Nhà Nước Văn Lang chính thức ra đời.

    2. ĐỜI THỨ NHÌ. LÂN LANG

    HÙNG QUÍ LÂN: Lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ, thay Cha là. Hùng Lang Quốc Tổ đời thứ 2.

    Từ năm 2.880 đến 2.796 trước công nguyên.

    68 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    84 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 162 tuổi.

    10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. 152 tuổi nhường ngôi lập cháu có Đức có Tài lên thay thế đời thứ 3.

    3. ĐỜI THỨ BA. THÁI LANG

    HÙNG THÁI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội là Hùng Quí Lân. HÙNG VƯƠNG đời thứ 3.

    Từ năm 2796 đến 2726 trước công nguyên.

    63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    70 năm ở ngôi Quốc Vương.

    20 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 153 tuổi.

    4. ĐỜI THỨ TƯ. THUẬN LANG

    HÙNG THUẬN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông nội, Hùng Thái Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 4.

    Từ năm 2.726 đến 2.644 trước công nguyên

    60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    82 năm ở ngôi Quốc Vương.

    12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 154 tuổi.

    5. ĐỜI THỨ NĂM. MẬT LANG

    HÙNG MẬT LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội Hùng Thuận Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 5.

    Từ năm 2644 đến 2572 trước công nguyên.

    62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    72 năm ở ngôi Quốc Vương.

    12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 146 tuổi.

    6. ĐỜI THỨ SÁU. CAO LANG

    HÙNG CAO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Mật Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 6.

    Từ năm 2572 đến 2498 trước công nguyên.

    60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    74 năm ở ngôi Quốc Vương.

    10 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

    7. ĐỜI THỨ BẢY. QUYỀN LANG

    HÙNG QUYỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Cao Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 7.

    Từ năm 2498 đến 2417 trước công nguyên.

    61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    81 năm ở ngôi Quốc Vương.

    9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 151 tuổi.

    8. ĐỜI THỨ TÁM. LỘC LANG

    HÙNG LỘC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quyền Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 8.

    Từ năm 2417 đến 2339 trước công nguyên.

    59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    78 năm ở ngôi Quốc Vương.

    6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 143 tuổi.

    9. ĐỜI THỨ CHÍN. THỊNH LANG

    HÙNG THỊNH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Lộc Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 9.

    Từ năm 2339 đến 2265 trước công nguyên.

    58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    74 năm ở ngôi Quốc Vương.

    9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.

    10. ĐỜI THỨ MƯỜI. THANH LANG

    HÙNG THANH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thịnh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 10.

    Từ năm 2265 đến 2188 trước công nguyên.

    58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    77 năm ở ngôi Quốc Vương.

    9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

    11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. TÂM LANG

    HÙNG TÂM LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thanh Lang.

    Từ năm 2188 đến 2113 trước công nguyên.

    63 tuổi ở ngôi Quốc Vương.

    75 tuổi ở ngôi Quốc Vương.

    7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 145 tuổi.

    12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. QUẾ LANG

    HÙNG QUẾ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tâm Lang.

    Từ năm 2113 đến 2043 trước công nguyên.

    61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    70 năm ở ngôi Quốc Vương.

    6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 137 tuổi.

    13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. ÁC LANG

    HÙNG ÁC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quế Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 13.

    Từ năm 2043 đến 2001 trước công nguyên.

    62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    42 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 106 tuổi.

    14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. LINH LANG (Con Út)

    HÙNG LINH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay Cha là Hùng Ác Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 14.

    Từ năm 2001 đến 1927 trước công nguyên.

    58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    74 năm ở ngôi Quốc Vương.

    6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 138 tuổi.

    15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CHÂU LANG

    HÙNG CHÂU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Linh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 15.

    Từ năm 1927 đến 1857 trước công nguyên.

    63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    70 năm ở ngôi Quốc Vương.

    7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

    16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. XÍCH LANG

    HÙNG XÍCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Châu Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 16.

    Từ năm 1857 đến 1778 trước công nguyên.

    56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    79 năm ở ngôi Quốc Vương.

    6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.

    17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. QUÂN LANG

    HÙNG QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Xích Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 17.

    Từ năm 1778 đến 1705 trước công nguyên.

    59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    73 năm ở ngôi Quốc Vương.

    8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

    18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. THỤC LANG

    HÙNG THỤC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 18.

    Từ năm 1705 đến 1634 trước công nguyên.

    60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    71 năm ở ngôi Quốc Vương.

    5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

    19. ĐỜI THỨ MƯỜI CHÍN. YÊN LANG

    HÙNG YÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thục Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 19.

    Từ năm 1634 đến 1562 trước công nguyên.

    55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    72 năm ở ngôi Quốc Vương.

    4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

    20. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI. VĨ LANG

    HÙNG VĨ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Yên Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 20.

    Từ năm 1562 đến 1486 trước công nguyên.

    52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    76 năm ở ngôi Quốc Vương.

    3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

    21. ĐỜI THỨ HAI MỐT. TÂN LANG

    HÙNG TÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Vĩ Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 21.

    Từ năm 1486 đến 1417 trước công nguyên.

    29 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    69 năm ở ngôi Quốc Vương.

    8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

    22. ĐỜI THỨ HAI HAI. CHIẾN LANG

    HÙNG CHIẾN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 22.

    Từ năm 1417 đến 1342 trước công nguyên.

    52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    75 năm ở ngôi Quốc Vương.

    4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

    23. ĐỜI THỨ HAI BA. DỊCH LANG

    HÙNG DỊCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Chiến Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 23.

    Từ năm 1342 đến 1276 trước công nguyên.

    60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    66 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 128 tuổi.

    Niên Đại Thượng Hùng Vương đến đây là kết thúc. Chuyển sang Niên Đại Hạ Hùng Vương. Hùng Dịch Lang không có con trai, nên không có cháu trai. Để lập Quốc Vương kế vị. Hùng Cừ Lang là em của Hùng Dịch Lang. Cháu thứ 3 của Hùng Cừ là Vân Lang. Cha của Vân Lang là Chấp Lang. Hùng Dịch Lang, Hùng Vương đời thứ 23 lập Vân Lang. Cháu của em mình là Hùng Cừ lên kế vị ngôi Quốc Vương. Đời thứ 24, cũng là đời thứ nhất Hạ Hùng Vương.

    THỜI HẠ HÙNG VƯƠNG

    1. ĐỜI THỨ NHẤT. VÂN LANG

    HÙNG VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Bác Nội. Hùng Dịch Lang. HÙNG QUỐC VƯƠNG thứ 1.

    Từ năm 1276 đến 1211 trước công nguyên.

    58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    65 năm ở ngôi Quốc Vương.

    3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 126 tuổi.

    2. ĐỜI THỨ HAI. HUÂN LANG

    HUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Vân Lang, pháp hiệu HÙNG YÊN VƯƠNG đời thứ 2.

    Từ năm 1211 đến 1141 trước công nguyên.

    59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    70 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

    3. ĐỜI THỨ BA. ĐIỂN LANG

    ĐIỂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Yên Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tiên Vương. HÙNG TIÊN VƯƠNG đời thứ 3.

    Từ năm 1141 đến 1077 trước công nguyên.

    56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    64 năm ở ngôi Quốc Vương.

    5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 125 tuổi.

    4. ĐỜI THỨ BỐN. BẢO LANG

    BẢO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Tiên Vương. Lấy pháp hiệu HÙNG DIỆP VƯƠNG đời thứ 4.

    Từ năm 1077 đến 1020 trước công nguyên.

    62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    57 năm ở ngôi Quốc Vương.

    4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

    5. ĐỜI THỨ NĂM. VIÊN LANG

    VIÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Diệp Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Hy Vương. HÙNG HY VƯƠNG đời thứ 5.

    Từ năm 1020 đến 961 trước công nguyên.

    54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    59 năm ở ngôi Quốc Vương.

    7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 120 tuổi.

    6. ĐỜI THỨ SÁU. PHÁP HẢI LANG

    PHÁP HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Hy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Huy Vương. HÙNG HUY VƯƠNG đời thứ 6.

    Từ năm 961 đến 893 trước công nguyên.

    50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    68 năm ở ngôi Quốc Vương.

    5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

    7. ĐỜI THỨ BẢY. LANG LIÊU LANG

    LANG LIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Huy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chiêu Vương. HÙNG CHIÊU VƯƠNG đời thứ 7.

    Từ năm 893 đến 832 trước công nguyên.

    48 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    61 năm ở ngôi Quốc Vương.

    5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 114 tuổi.

    8. ĐỜI THỨ TÁM. THỪA VÂN LANG

    THỪA VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là, Hùng Chiêu Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Vi Vương. HÙNG VI VƯƠNG đời thứ 8.

    Từ năm 832 đến 771 trước công nguyên.

    51 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    61 năm ở ngôi Quốc Vương.

    4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 116 tuổi.

    9. ĐỜI THỨ CHÍN. QUÂN LANG

    QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vi Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Đinh Vương. HÙNG ĐINH VƯƠNG đời thứ 9.

    Từ năm 771 đến 726 trước công nguyên.

    59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    45 năm ở ngôi Quốc Vương.

    1 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 105 tuổi.

    Nền Quốc Đạo duy trì đến đây là chấm dứt. Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại chút ít cũng biến mất từ đây. Đời sống xã hội Văn Lang từ đây chạy theo trào lưu, phong kiến Chủ Nghĩa Độc Quyền. Không khác gì Triều Đại Đất Bắc. Kéo dài 425 năm từ đời Hùng Vương 11 đến đời Hùng Vương 18.

    10. ĐỜI THỨ MƯỜI. HÙNG HẢI LANG

    HÙNG HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Định Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Úy Vương. HÙNG ÚY VƯƠNG đời thứ 10.

    Từ năm 726 đến 683 trước công nguyên.

    67 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    43 năm ở ngôi Quốc Vương.

    3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 113 tuổi.

    11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. HƯNG ĐỨC LANG

    HƯNG ĐỨC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Úy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chinh Vương. HÙNG CHINH VƯƠNG đời thứ 11.

    Từ năm 683 đến 641 trước công nguyên.

    65 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    42 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

    12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. ĐỨC HIỀN LANG

    ĐỨC HIỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chinh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Vũ Vương. HÙNG VŨ VƯƠNG đời thứ 12.

    Từ năm 641 đến 569 trước công nguyên.

    45 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    72 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 119 tuổi.

    13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. TUÂN LANG

    TUÂN LANG: Là con thứ 7 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vũ Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Việt Vương. HÙNG VIỆT VƯƠNG đời thứ 13.

    Từ năm 569 đến 506 trước công nguyên.

    50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    63 năm ở ngôi Quốc Vương.

    5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 118 tuổi.

    14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. CHÂN NHÂN LANG

    CHÂN NHÂN LANG: Là con thứ 6 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Việt Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Ánh Vương. HÙNG ÁNH VƯƠNG đời thứ 14.

    Từ năm 506 đến 456 trước công nguyên.

    55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    50 năm ở ngôi Quốc Vương.

    4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

    15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CẢNH CHIÊU LANG

    CẢNH CHIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Ánh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Triều Vương. HÙNG TRIỀU VƯƠNG đời thứ 15.

    Từ năm 456 đến 396 trước công nguyên.

    52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    60 năm ở ngôi Quốc Vương.

    3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 115 tuổi.

    16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. ĐỨC QUÂN LANG

    ĐỨC QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Triều Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tạo Vương. HÙNG TẠO VƯƠNG đời thứ 16.

    Từ năm 396 đến 351 trước công nguyên.

    57 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    45 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 104 tuổi.

    17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. BẢO QUANG LANG

    BẢO QUANG LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Tạo Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Nghị Vương. HÙNG NGHỊ VƯƠNG đời thứ 17.

    Từ năm 351 đến 306 trước công nguyên.

    55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    45 năm ở ngôi Quốc Vương.

    2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 102 tuổi.

    18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. HUỆ LANG

    HUỆ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Nghị Vương. Lấy pháp hiệu là Hùng Duệ Vương. HÙNG DUỆ VƯƠNG đời thứ 18.

    Từ năm 306 đến 258 trước công nguyên.

    54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.

    48 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 102 tuổi.

    Sau cơn hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Văn Lang. Thiêu rụi những gì còn sót lại kể cả gia phả Hùng Vương. Ý Trời. Các Vương Quan, tướng lĩnh đời cuối Niên Đại Hùng Vương, đau xót cho Niên Đại Hùng Vương, kéo dài hàng nghìn năm ai được nghe kể gì thì thờ nấy. Nên hết sức lộn xộn. Thôi thà thờ lộn xộn, câu chuyện lịch sử lộn xộn, còn hơn là đánh mất hẳn truyền thống dựng nước, giữ nước của Ông Cha.

    KINH LONG HOA MẬT TẠNG ĐẾN ĐÂY LÀ HẾT

    Nguyện đem Công Đức nầy hồi hướng về cho tất cả Nhân Loại Anh Em pháp giới Rồng Tiên, thoát khỏi Đao binh, đói nghèo, lạc hậu. Sớm lên bờ giải thoát. Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hòa nhập vào cảnh giới Đại Đồng vũ trụ. AN LẠC YÊN VUI.

    Có công dù chỉ mảy lông

    Cha Trời phù hộ công danh rạng ngời

    Huống chi truyền bá cho đời

    Siêu thăng thượng giới Vua Trời khó chi.

    * * *

    PHẦN THƯA HỎI

    Hỏi: Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam. Đoàn kết, Dân giàu nước mạnh, Dân chủ công bằng văn minh thì làm thế nào?

    Đáp: Còn làm thế nào nữa. Tất cả con cháu Việt Nam. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nước ngoài nước, phải trở về với Cội với Nguồn. Tôn Thờ Cội Nguồn, gìn giữ Cội Nguồn, ca ngợi Cội Nguồn, phát huy truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Cha Ông.

    Cây còn gốc nở cành xanh ngọn

    Người có nguồn người rạng danh thơm

    Giữ gìn truyền thống Cha ông

    Xuân non, xuân nước, xuân bông, xuân hòa

    Cây mất Gốc lụn tàn héo úa

    Người bỏ Nguồn lạc lối bơ vơ

    Rơi vào khốn khổ lệ nô

    Ngoại xâm cướp Nước vét vơ đói nghèo.

    Hỏi: Bước đầu xây dựng Đất Nước thì ta phải làm sao?

    Đáp: Còn làm sao nữa. Xây dựng Đất Nước, công bằng, văn minh giàu mạnh, đoàn kết, không chiến tranh, Độc Lập lâu dài. Cũng không khác gì khởi sự xây dựng tòa lâu đài nguy nga, đồ sộ lộng lẫy. Bước đầu tiên là:

    1 – Là: Chọn mặt bằng

    2 – Là: San bằng mặt bằng

    3 – Là: Xây dựng nền móng kiên cố

    4 – Là: Chất liệu vật liệu xây dựng

    5 – Là: Cấu trúc cấu kết nền móng

    Đó là phần cơ bản bước đầu, sau đó mới xây phần kế tiếp. Trụ Cột tòa lâu đài, rồi xây lên thượng tầng Kiến Trúc. Chúng ta là thế hệ giữ Nước.

    1. Mặt bằng có sẵn. Chính là Nước Việt Nam. Nếu nói mặt bằng rộng hơn là Nước Văn Lang.

    2. Vũ khí mà Ông Cha ta sang bằng giai cấp. Chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức, Công Lý bình đẳng, công bằng Văn Lang.

    3. Nền móng Kiên cố, Dân Tộc. Chính là truyền thống dựng Nước, giữ Nước, truyền thống Chính nghĩa, truyền thống bảo vệ chủ quyền Độc Lập.

    4. Chính là Văn Hóa Cội Nguồn, văn học tối cao, Đạo pháp tối cao, chất Vàng chất Ngọc khai sáng trí tuệ. Cấu trúc ung đúc tinh thần vĩ Đại. Kết dính các Dân Tộc lại với nhau.

    5. Phát huy sức mạnh toàn Dân Tộc. Một sức mạnh Thần Thánh. Chính là Nền Quốc Đạo. Một sức mạnh cả tinh thần lẫn vật chất, sức mạnh của Bách chiến, Bách thắng.

    Năm phần xây dựng nền móng. Đoàn Kết, Dân giàu, Nước mạnh, Công Bằng Dân Chủ, văn minh. Ông Cha ta đã xây dựng hàng nghìn nghìn năm rồi. Chúng ta là thế hệ Con Cháu gìn giữ tu tạo phát huy mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta cũng như toàn Dân Tộc lựa chọn ra người có Tài có Đức. Những trụ Cột của tòa lâu Đài xã hội, tòa lâu Đài Đất Nước. Những trụ Cột đó phải là những hạt giống tốt, vì Dân, vì Nước, vì Cội Nguồn. Vì truyền thống anh linh Ông Cha. Và đi vào thời cơ thuận lợi. Để cho Con Cháu Tiên Rồng làm lên tòa lâu Đài xã hội. Nhà Nước Việt Nam hào hùng nguy nga tráng lệ rạng rỡ khắp năm châu.

    Gươm Thiên trấn Quốc đã trao tay

    Vận mệnh Nước Non đã an bày

    Mật Đạo hào quang Nền truyền thống

    Việt Nam con cháu Phụng Rồng bay

    Văn Hóa Cội Nguồn Nền Văn Hiến

    Vàng son thống nhất rực trời Mây

    Dân giàu Nước mạnh đời hạnh phúc

    Đói tan nghèo biến, giặc tiêu bay.

    Hỏi: Làm thế nào chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, ngấm ngầm chống đối, phản động, phá hoại truyền thống Dân Tộc ta. Nhất là các thế lực ngoại xâm?

    Đáp: Hãy thắp sáng. Ngọn lửa Thiên yêu Nước. Ngọn lửa Văn Hóa Cội Nguồn. Ngọn lửa Chính Nghĩa. Ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. Ngọn lửa hào hùng Dân Tộc. Toàn Dân Tộc Việt Nam, mỗi Con Cháu Tiên Rồng, hãy tự mình thắp sáng ngọn Đèn trí huệ giác ngộ, hãy nhóm lên ngọn lửa yêu Nước đầy lòng Trung Hiếu vì nước vì non vì dân tộc Việt Nam. Khi chúng ta Con Cháu Tiên Rồng đã thắp sáng lên ngọn lửa Thiên. Ngọn lửa yêu Nước, yêu Văn Hóa Cội Nguồn, yêu truyền thống Ông Cha. Thì Hồn Thiên Dân Tộc sẽ nổi lên ủng hộ theo phò. Hồn Thiên Cha Ông theo giúp sức. Phật, Thánh, Tiên che chở. Đức Cha Trời, Đức Mẹ Trời dìu dắt phù hộ, tiêu diệt kẻ chống phá Cội Nguồn.

    Đã có Cha Ông giúp ngại gì

    Hồn Thiên Dân Tộc giúp lo chi

    Cha Trời phù hộ huyền cơ chuyển

    Chúng Dân trung hiếu, dậy hùng uy

    Trời Nam rung chuyển rền sấm bão

    Nước dâng cuồn cuộn giặc còn chi

    Chính Nghĩa bừng lên đời tỏa sáng

    Rồng Tiên phất phới ác tiêu đi.

    Hỏi: Làm thế nào dẫn Đồng Bào Đại Việt trở về với Cội với Nguồn. Yêu truyền thống, yêu quê hương Tổ Quốc?

    Đáp: Còn làm gì nữa ngoài xây dựng lại truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha, phát huy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ công bằng Văn Minh xã hội.

    Có đường là có người đi

    Có sáng là có màu xanh cuộc đời

    Đường truyền thống rạng ngời cùng khắp

    Đường mùa xuân đầy ắp tự do

    Con đường Độc Lập ấm no

    Con đường hạnh phúc an vui Thái Bình.

    Văn Hóa Cội Nguồn là ánh sáng tự do, ánh sáng Công Bằng, Bình Đẳng, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ văn minh, ánh sáng Công Bằng xã hội, đem lại màu xanh cho cuộc sống. Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền thống dựng Nước, giữ Nước, mở màng lịch sử Ông Cha, đã thất truyền hơn hai nghìn năm. Nay đã trở về với Dân Tộc Con Cháu Việt Nam. Gần hai nghìn năm trước cảnh đau thương, tan nhà nát cửa, chết chóc tù đày, đói nghèo lạc hậu, bởi ngoại xâm đô hộ. Bóng đêm bao phủ non sông Đại Việt. Mất đi mùa xuân màu xanh của sự sống. Đã có ánh sáng là có màu xanh tinh thần vươn lên của người Dân Đại Việt. Có đường là có người đi. Nhất là con đường Đại Lộ. Con đường truyền thống Chính Nghĩa. Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Như thời dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha ta.

    Tiếng gà vang dội khắp non sông

    Ló dạng bình minh rực ánh rực hồng

    Nước non trở lại mùa xuân mới

    Đường rộng thênh thang Cội Đại Đồng

    Văn Lang Quốc giáo Nền Văn Hiến

    Thấm đượm hồn Dân trí linh thông

    Truyền thống Cha Ông đầy Quyền biến

    Quỷ yêu khiếp vía Cội Tiên Rồng.

    Hỏi: Việt Nam đã trải qua gần hai nghìn năm đô hộ của ngoại bang. Chúng đã truyền bá nhiều thứ Văn Hóa độc hại, có hại cho Dân Tộc, cho Đất Nước. Làm thế nào đẩy lùi được chúng?

    Đáp: Mặt Trời đã mọc, thì Trăng – Sao mờ dần, rồi biến mất. Tự nó biến mất, vì ánh sáng của nó đã bị ánh sáng Mặt Trời che khuất, bao phủ. Bất Chiến Tự Nhiên Thành.

    Đom Đóm khó mong sáng trước đèn

    Mặt Trời xuất hiện, thấy sao chăng

    Ánh sáng lai căn liền biến mất

    Trời Nam rực rỡ ánh xuân, hằng

    Bất Chiến Nhiên Thành cao chót vót

    Việt Nam rực rỡ cánh Mai Sen

    Văn Hóa Cội Nguồn Nền truyền thống

    Ác tiêu Thiện đến cảnh xuân thăng.

    Hỏi: Gần hai nghìn năm đô hộ giặc Tàu. Trăm năm đô hộ giặc Tây. Chúng đã làm lu mờ truyền thống Văn Hóa Dân Tộc ta. Làm cho Con Cháu Việt Nam rơi vào cảnh loạn lạc, mất phương hướng chia năm xẻ bảy không đoàn kết được, thì ta phải làm sao?

    Đáp: Còn làm sao nữa, Dân Ta phải học sử ta, Con Cháu Tiên Rồng phải học Văn Hóa Tiên Rồng. Lịch sử Văn Hóa Tiên Rồng là lịch sử Cội Nguồn, liên quan đến lịch sử Nhân Loại con người, toàn thế giới nói riêng toàn Vũ trụ nói chung. Không phải lịch sử của sự đấu tranh, tranh giành quyền lực. Mà là lịch sử Chính Nghĩa vì hòa bình, chống bạo ác. Loại bỏ Độc Tài Độc Trị vì không còn phù hợp với trào lưu văn minh tiến bộ xã hội. Nhất là đi ngược lại Truyền Thống Dựng Nước Giữ Nước Truyền Thống Anh Linh Ông Cha. Dẫn đến hơn hai nghìn đô hộ Phương Bắc Giặc Tàu. Sự đấu tranh Chính Nghĩa là sự đấu bằng trí tuệ và Văn Hóa Chính Nghĩa đấu tranh ôn hòa, vũ khí của Chính Nghĩa. Là Hiến Pháp Nhân Quyền Dân Chủ. Là Công Lý Công Bằng Tự Do, Làm theo Thiên Ý Cha Trời, bảo vệ phát huy những Quyền mà Tạo Hóa Cha Trời đã ban cho. Những Quyền bất khả xâm phạm. Phát huy đề cao hai chữ Đồng Bào thiêng liêng.

    Từ thuở Cha Ông đến nhân gian

    Long Hoa dãy núi nở Hoa vàng

    ÂU CƠ một bọc trăm con trẻ

    Ra đời chung sống ở thế gian

    Đại Đồng một Cội từ muôn thuở

    Lưu truyền nòi giống, nở cháu con

    Rồng Tiên Cội Gốc niềm linh hiển

    Đồng Bào đồng thể Cội Vàng Son.

    Dù cho con Cháu Việt Nam có lưu lạc đến nơi đâu, cũng mãi mang hai chữ Đồng Bào trong dòng máu Tiên Rồng Đại Việt.

    Nước đã ra đi, Nước về Nguồn

    Một Bào một Bọc Cội tình thương

    Sử ta, ta học, ta ca hát

    Một Cội trăm nhành nở Hoa Hương

    Truyền thống Cha Ông nền Chính Nghĩa

    Chóa rạng Trời Nam sử Hùng Vương

    Lịch sử vàng son còn vang mãi

    Ngấm vào Con Cháu giống Rồng Tiên.

    Lịch sử Ông Cha hào hùng. Thấm đượm Đạo Đức Nhân Văn Cao Cả. Nhưng vì Phần lớn là do thất truyền, một phần do ngoại xâm đô hộ, phá sạch, đốt sạch, quét sạch, tiêu diệt sạch. Để ngoại xâm dễ cai trị. Dễ bề khống chế Tinh Thần Con Cháu Rồng Tiên.

    Lịch Sử Cha Ông lịch sử vàng

    Hào hùng diệt quỉ dựng Nước Non

    Lãnh Nam trận chiến rền Trời Đất

    Quét sạch Yêu Tinh Chí ngút ngàn

    Ngày đêm khai phá miền đất mới

    Bừng bực mọc lên nước Văn Lang

    Sử ta, ta học còn không hết

    Còn đâu đèo gánh sử ngoại bang.

    Lịch sử Cha Ông nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm, nghe vó ngựa chân voi vang rền tiến về Đất Lãnh Nam dựng cơ nghiệp.

    Long vân Đại Hội Đạo ngút Trời

    Âu – Lạc Hùng Thiên dậy biển khơi

    Vó Ngựa chân voi rền dậy đất

    Lãnh Nam dựng nghiệp rạng Vua tôi

    Văn Lang hùng mạnh rền phương Bắc

    Năm nghìn năm trước chẳng xa xôi

    Nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm

    Ấm Nguồn ấm Cội, ấm lòng ôi.

    Hỏi: Con Cháu Việt Nam, dựa vào đâu để có một sức mạnh, chống trả quân thù, nhất là quân xâm lược?

    Đáp: Phải nói Con Cháu Việt Nam đang làm chủ một kho tàng sức mạnh. Nhưng Con Cháu Việt Nam chưa bao giờ phát huy hết được, vì chưa khai thông được Cội Nguồn. Nếu khai thông được Cội Nguồn thời Con Cháu Việt Nam, sẽ phát huy cả một kho tàng sức mạnh. Đó là:

    Sức mạnh hai chữ Đồng Bào

    Sức mạnh khí thiên sông núi

    Sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc

    Sức mạnh Hồn Thiên Cha Ông

    Sức mạnh Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa

    Sức mạnh Tổ Tiên

    Sức mạnh Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ

    Sức mạnh bè bạn Năm Châu, năm màu da anh em

    Một khi Con Cháu Tiên Rồng, phát động Văn Hóa Cội Nguồn, phát động truyền thống Cha Ông, truyền thống dựng Nước, giữ Nước, phát động Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời thời sức mạnh Đại Chính Nghĩa toàn nhân loại ứng theo không có sức mạnh nào mạnh hơn nữa.

    Sức mạnh nào hơn mạnh Đại Đồng

    Đất Trời vào cuộc chuyển bão dông

    Phật Tiên giúp sức Thần Thánh Chúa

    Chuyển xây tình thế chuyển Non sông

    Hồn Thiên trỗi dậy rung Trời Đất

    Vó Ngựa vang rền bước Cha Ông

    Đồng Bào cuồn cuộn vào cuộc thế

    Yêu Tinh, Quỉ dữ mạng tiêu vong.

    Con Cháu Rồng Tiên, những người có Tài có Đức, vì Dân vì Nước, vì Cội vì Nguồn, vì Nhân Loại Đồng Bào anh em, mỗi lần phát động phong trào, thì có Tam quang tỏa sáng.

    Pháp Tạng bừng lên khắp hư không

    Luật Tạng bừng lên chuyển Đại Đồng

    Công Lý sáng ngời vang tiếng sấm

    Tam Quang sấm nổ dậy Trời Đông

    Gươm Thiên vũ trụ đà xuống thế

    Diệt trừ ác Quỉ diệt bất công

    Trả lại tự do đời tươi sáng

    Bình Đẳng an vui Cội Đại Đồng.

    Long Hoa Mật Tạng. Quốc Bảo Chân Kinh. Là bộ Kinh không những tối Đại Linh Thiên. Quý hiếm vô cùng, không những là con đường về Trời mà còn là chiếc chìa khóa vạn năng mở tung vũ trụ, khai thông trí huệ, đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác. Bất tử trường sanh, chuyển họa thành phúc, chuyển phàm lên Thánh, lên Phật, lên Tiên. Cứu Dân cứu Nước. Phải nói là hết sức vi diệu thậm thâm khó mà luận bàn cho hết được.

    Quốc Bảo Chân Kinh quí vô cùng

    Một lời khen ngợi mãi giàu sang

    Huống chi truyền bá gieo Công Đức

    Họa tiêu phước đến Chúa đăng đàn

    Mật Tạng Chân Kinh Trời trao xuống

    Cứu Dân cứu Nước khổ lầm than

    Chuyên tâm đọc tụng, luôn trì niệm

    Huệ khai trí sáng trổ ông Hoàng.

    Việc làm vì Chính Nghĩa dù nhỏ như sợi lông, cũng vô cùng giá trị, không có một thứ giá trị nào sánh kịp. Long Hoa Mật Tạng Kinh. Là Kinh giáo Mật Tạng vũ trụ, hiện thân Chính Nghĩa. Con Cháu Việt Nam phải hết sức gìn giữ. Và sự gìn giữ đó, chính là phổ biến khắp cùng thế giới, không phải cất giấu bí mật. Chỉ cần gìn giữ bảo mật bản gốc mà thôi.

    BỘ KINH

    LONG HOA MẬT TẠNG

    CỘI NGUỒN VIỆT TỘC


    ĐẾN ĐÂY ĐÃ KẾT THÚC

    CHỦ BÚT: CAO ĐỨC THẮNG
     
  6. shopoga

    Bài viết:
    512
    QUỐC BẢO

    CHÂN KINH


    NHÂN LUÂN HIẾU NGHĨA

    THIÊN ẤN THIÊN BÚT

    GÒ HỘI

    ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI

    2014

    Dr. Cao Đức Toàn

    QUYỂN 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    LỜI NÓI ĐẦU

    ĐỊA NGỤC VÀ GIẢI THOÁT

    HỎI:

    Có người hỏi rằng thế nào là gia đình địa ngục?

    ĐÁP:

    Nếu nói cho hết thì rất nhiều, nhưng tóm lại thì mấy điều cơ bản tạo ra địa ngục gia đình dưới đây vợ chồng bất hòa, con cái lộn xộn, anh, chị, em, chồng, vợ, cha, con mất hết nề nếp, chống bán nhau, cạnh tranh nhau, ganh ghét nhau, lừa gạt nhau, chỉ biết mình không cần biết đến ai, chỉ vì cái lợi riêng tư nhỏ nhen, mà không còn kể gì đến anh, em, chồng, vợ, cha, con, xem nhẹ danh giá gia đình, xem thường luân thường đạo lý.

    HỎI:

    Thế nào là xã hội địa ngục?

    ĐÁP:

    Xã hội địa ngục là xã hội chủ nghĩa cá nhân, độc tài, độc trị, không có tự do, không có công bằng bình đẳng, không có dân chủ, nhân quyền, sống trong sự lo sợ, kìm kẹp, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc không có.

    Tóm lại: Gia đình bất hòa, xã hội loạn ly, sống không cần đạo lý lẽ phải, chỉ biết quyền lực, mưu hại lẫn nhau, lối sống như thế chính là lối sống địa ngục gia đình, địa ngục xã hội, từ địa ngục trần gian, dẫn đến địa ngục âm phủ, gieo nhân chẳng lành để rồi gặt hái quả dữ. Quả dữ từ trong tâm thức của mỗi người, quả dữ gây ra từ gia đình, quả dữ gây ra từ xã hội. Cửa địa ngục âm phủ đã rộng mở, đón nhận những tâm hồn đầy rẫy những tội lỗi như thế thảm thay.

    * Thuận vợ thuận chồng, con cái hòa hợp, gia đình trên dưới thương yêu lẫn nhau. Họ Tộc đoàn kết, Nội ngoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, yên vui sum hiệp, chia bùi sẻ ngọt cho nhau đó chính là cuộc sống thiên đàng gia đình, cuộc sống giải thoát khốn khổ, cuộc sống an vui an lạc.

    * Sống có tự do, tôn trọng nhân quyền, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, sống văn minh công bằng bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do mưu cầu hạnh phúc, nói chung là những quyền cơ bản con người, mà Tạo Hóa TỔ TIÊN đã ban tặng, những quyền không ai có quyền xâm phạm, sống chân thật, sống vì người, sống khoan dung và độ lượng, sống đoàn kết, sống không dối lừa hãm hại nhau, sống vì xã hội, sống vì non sông tổ quốc, sống có tình có nghĩa, sống vì người vì tình thương yêu rộng lớn, lối sống như nói trên chính là lối sống xã hội thiên đàng trần gian.

    Hướng về cội nguồn, sống có văn hóa, làm cho gia đình, xã hội, non sông tổ quốc, nhân loại con người, đều được an vui hạnh phúc, cùng nhau gieo nhân lành, cùng nhau giúp đỡ những người không được may mắn, xóa bỏ hận thù, tha thứ cho nhau. Sống như thế chính là mở rộng cánh cửa thiên đàng cùng nhau đi vào thế giới an lạc, cùng nhau siêu thoát về trời. Lối sống như thế là lối giác ngộ văn minh cao, lối sống tiến lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Để hiểu rõ thêm về lối sống con người, thì Kinh Nhân Luân chính là kim chỉ nam cho cuộc sống tốt đẹp của mỗi chúng ta. Lối sống gia đình là lối sống thiên mệnh, Mà Tổ Tiên Khai Hóa đã an bày như:

    Đạo làm ông bà, đạo làm cha, đạo làm mẹ, đạo làm vợ, đạo làm chồng, đạo làm con, đạo làm anh, đạo làm em, đạo làm chị. Làm ông bà phải ra ông bà, làm cha mẹ phải ra cha mẹ, làm chồng phải ra đạo làm chồng, làm vợ phải ra đạo làm vợ, làm con phải ra đạo làm con, làm anh phải ra đạo làm anh, làm chị phải ra đạo làm chị, làm em phải ra đạo làm em, v. V.. Sống theo thiên mệnh đạo luật gia đình luân chuyển tiến hóa, từ khi mới sanh ra đến lúc về già và mất đi, thì ai cũng phải trải qua, làm con, làm anh, làm chị, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm ông, làm bà, khi luân chuyển đến ngôi vị nào thì ta sống theo ngôi vị đó, làm tròn ngôi vị đó, sống theo thiên mệnh, đạo luật gia đình, cũng có nghĩa là sống theo đạo Luật luân chuyển tự nhiên đã an bày, sống có tôn ti trật tự, thứ lớp ngôi nào theo ngôi nấy, làm cho gia đình có nề nếp, ổn định cuộc sống, trên thuận dưới hòa cả nhà yên vui.

    * Lối sống xã hội là lối sống xã hội nhân mệnh, Sống theo hiến pháp, luật pháp, đạo pháp, xã hội công bằng bình đẳng, ai cũng như ai theo hiến pháp, luật pháp, đạo pháp cho phép. Có nghĩa nam, nữ, già, trẻ như nhau có tài có đức thì có phẩm vị cao, được xã hội tín nhiệm. Cho nên mới có cảnh con hơn cha ở địa vị xã hội, vợ hơn chồng ở địa vị xã hội, phái nữ có thể làm quốc vương, làm tổng thống, làm thủ tướng, miễn là không sai hiến pháp, luật pháp, đạo pháp cho phép, sự tiến hóa cạnh tranh công bằng bình đẳng không ai có quyền ngăn cản. Có tài, có đức, có học vị cao, thì được xã hội trọng dụng.

    Làm người có hai lối sống như vậy, lối sống gia đình, lối sống xã hội, thiên mệnh an bày, nhân mệnh ý thức rõ ràng không nên nhầm lẫn làm đảo lộn cuộc sống đổ vỡ hạnh phúc, đảo lộn xã hội. Người biết rõ thiên mệnh đạo luật gia đình, nhân mệnh đạo luật xã hội, thì là phật, thánh, tiên, thần, chúa, sanh xuống chốn nhân gian không sai. Làm cho gia đình, xã hội, non sông tổ quốc, đi vào ổn định trật tự, an vui hạnh phúc.

    Để cho dễ nhớ những điều cơ bản theo lối sống văn minh, hiện đại, bảo tồn hạnh phúc lâu dài, chung cùng tu học xử sự, gìn giữ hạnh phúc, kim chỉ nam cho hạnh phúc đó là những lời kinh sau đây.

    Trời có Âm có Dương

    Người có Nam có Nữ

    Trời có Đạo Âm Dương

    Người có Đạo vợ chồng

    * * *

    Âm Dương tương hiệp

    Vạn vật hóa sanh

    Nam Nữ trao trinh

    Sanh con cháu lưu truyền

    * * *

    Sống có Cội có Nguồn

    Chính là sống an vui hiệp hòa

    Cây có gốc nở cành xanh ngọn

    Sống có Nguồn lành mạnh an vui

    Từ xưa chí cổ chí kim

    Sống mà mất gốc đảo điên cơ đồ

    Sống không Văn Hóa còn gì

    Gia đình, Xã Hội, khó thời bình yên

    Sau đây là những lời kinh

    Lời châu tiếng ngọc giữ gìn sớm hôm.

    * * *

    PHẦN 1

    ĐẠO VỢ CHỒNG

    Muốn cho gia đạo thịnh vương

    Trước thông đạo lý sau tường nghĩa nhân

    Công minh xử sự tỏ phân

    An ngôi thứ lớp dưới trên rõ ràng

    Vợ chồng đạo nghĩa chu toàn

    Chung cùng tu học luận bàn lẽ hay

    Vợ chồng trọng nghĩa xưa nay

    Thủy chung giữ trọn sắc kia vô thường

    Lúc nghèo cho đến lúc giàu

    Nghĩa nhân không đổi lòng vàng chẳng thay

    Thủy chung đạo nghĩa sâu xa

    Một khi lạc đạo phải sa ngục hình

    Ở đời nhân thế miệt khinh

    Chết đi luân chuyển súc sanh đổi dời

    Đạo chồng chung thủy trước rồi

    Tấm lòng rộng lượng tánh thời khoan dung

    Trăm năm ở cõi thế nhân

    Là trường thử thách học hành luyện tu

    Lọc lựa chọn những tinh hoa

    Tài năng đạo đức chuyển qua thánh hiền

    Chứ không phải chốn ở yên

    Trần gian cõi tạm phải siêng tỉnh lòng

    Vợ chồng chung một con đường

    Dắt dìu trên bước đường đời cùng nhau

    Vượt qua biển khổ sông sâu

    Phải nên yêu mến lẫn nhau trọn đời

    Làm chồng giữ đạo làm chồng

    Ăn ở một lòng trọn thủy trọn chung

    Hiếu nghĩa đối với hai thân

    Cũng đều cho trọn mười phân vẹn mười

    Hiếu đạo thuận hiếu dung hòa

    Bên chồng, bên vợ, đều là như nhau

    Anh em cha mẹ hai bên

    Thương yêu đùm bọc sớm hôm dắt dìu

    Đạo đức tu luyện chuyên cần

    Gia đình hạnh phúc xa gần tiếng thơm

    Làm cho gia đạo ấm êm

    Trên hòa dưới thuận đẹp trong lẫn ngoài

    Nề nếp từ trước xưa nay

    Văn minh cuộc sống hiển bày niềm vui

    Làm vợ bốn đức nhớ luôn

    Công – Dung – Ngôn – Hạnh, đạo thường xưa nay.

    CÔNG là công chuyện hằng ngày

    Phải lo tính toán xếp bày cho yên.

    DUNG là chứa đựng điều hiền

    Khiêm hòa trên dưới thuận lòng không tranh.

    Bà con hàng xóm loanh quanh

    Dung hòa đối xử bất phân giàu nghèo

    Chung cùng cuộc sống thương yêu

    Bà con thân tộc ít nhiều gần xa

    Cũng nên ăn ở thuận hòa

    Là điều tốt đẹp nở hoa yên lành

    Những điều phạm lỗi trong nhà

    Khoan dung độ lượng thứ tha chẳng dìm

    Khuyên răng dạy bảo lần lần

    Con đường đạo đức thánh hiền đã đi

    NGÔN là lời nói những gì

    Nói lời đạo đức hiệp lời kinh luân,

    Nói cho có nghĩa có nhân,

    Không nên nói ác dệt thêu hại người.

    Lời nói đạo đức đẹp đời

    Làm cho cuộc sống nở chồi mùa xuân.

    Lời nói tạo tác nghiệp duyên

    Luân phiên quả báo nhãn tiền theo tay.

    Nói lời đạo đức phước xây

    Nói lời ác đức họa bay chẳng lành

    Nói lời thêu dệt tội nhiều

    Nói lời đâm thọc diêm đình nào tha

    Nói láo trời đất biết mà

    Vậy nên ngôn ngữ chang hòa hiền lương

    Phất mùi đạo đức rộng lan

    Gia đình êm đẹp xóm làng yên vui

    HẠNH là đức hạnh thiện lương

    Phân minh, lễ phép, nhịn nhường, dạ thưa.

    Đành rành kẻ dưới bề trên

    Nằm ngồi đi đứng không quên thuận hòa.

    Khi nhỏ sống với gia đình

    Thuận theo gia đạo giữ gìn gia phong.

    Giúp cha phụ mẹ sớm hôm

    Trông nom công việc cho nên cửa nhà.

    Lớn lên nhớ chữ tòng quyền

    Theo chồng trọn đạo giữ gìn trắng trong.

    Chồng chết ở vậy nuôi con

    Tiết trung giữ vẹn thánh ban chỉ truyền.

    Phong cho liệt nữ trung kiên

    Làm gương lưu thế sáng soi muôn đời.

    Nhơn luân đạo hạnh sáng ngời

    Vợ chồng tu luyện ắt thời rạng danh.

    Trước là gia đạo bình an

    Sau là đất nước xóm làng yên vui.

    Kinh này đọc tụng thường đêm

    Làm cho trí huệ phước duyên tăng lần.

    Một năm tội ác tiêu tan

    Hai năm phước đến Thánh, Tiên, hộ trì

    Ba năm tu luyện thường khi

    Cháu con hiển đạt vinh quy rạng ngời

    Ông bà cha mẹ về trời

    An vui tự tại muôn đời giàu sang

    Cháu con hạnh phúc bình an

    Nhờ tu thiện đạo tai qua phước đầy.

    * * *

    Chúng con Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cúi lạy Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu. Ba ngôi tối cao vũ trụ phù hộ che chở, chứng tri công đức.

    Cúi lạy CHA TRỜI, MẸ TRỜI

    Nguyện tâm phổ độ

    Kinh giáo lưu truyền

    Hầu cứu khổ nhân loại anh em

    Đồng sanh thiên giới

    Với chút công lao hồi hướng về cội nguồn

    Nguyện cầu nhân loại anh em

    Đồng lên ngôi chánh đẳng chánh giác.

    NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ LONG HOA CỬU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY)

    * * *

    KINH CHÚ

    Nam mô khai hóa tổ tiên

    Hiện thân hai đấng cửu huyền tối cao

    Sanh ra nhân loại con người

    Ông bà, cha mẹ, đến thời chúng con

    TỔ TIÊN NAM MÔ A MEN

    * * *

    KINH CẦU NGUYỆN

    Dân hương lễ lạy cửu huyền

    Hiển linh gia hộ khắp miền cháu con

    Huệ khai phước lộc đầy tràn

    Gia đình hòa thuận, cháu con sum vầy

    * * *

    CHÚ NGUYỆN

    Nguyện cho tất cả thế nhân

    Sớm lên tiên giới sớm gần mẹ cha

    Sớm gần cội gốc Long Hoa

    Về nơi giải thoát vào nhà rồng tiên

    * * *

    Bình luận:

    Nam cũng như nữ nếu không may chồng hay vợ chết sớm không bắt buộc ở vậy nuôi con. Tùy hoàn cảnh mà mưu cầu hạnh phúc, tái giá, hay cưới vợ, không vi phạm gì đạo luật hôn nhân. Nhưng nếu làm được như kinh dạy quả là quí hiếm, đáng được tôn vinh, một sự hi sinh quên mình vì lý tưởng cao đẹp.

    Văn Hóa Cội Nguồn, đạo đức là lẽ sống, đem lại cho nhân loại con người, một mùa xuân đầy hoa thơm quả ngọt, Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung.

    Những thế kỷ sắp đến Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ra đời đánh dấu thêm một bước tiến của xã hội, làm cho nhân loại con người nhận thức về chân hạnh phúc, tiến đến xã hội chân thiện hoàn mĩ. Thế giới đại đồng, Long Hoa đại hội, lịch sử con rồng cháu tiên ra đời, bước vào ngôi nhà chung vũ trụ.

    Khai hóa Tổ Tiên, hay còn gọi là CHÚA TRỜI, hay còn gọi là NHƯ LAI, tuy có nhiều danh từ để gọi nhưng chốt lại chỉ là Khai Hóa Tổ Tiên mà thôi, hay còn gọi là đấng Tạo Hóa.

    Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên, khai tạo lập lên vũ trụ, tam thiên, đại thiên, thế giới, 28 tầng trời, 18 tầng địa phủ, núi Tu Di, thất sơn châu báu, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà, ngân hà, bốn cõi trần gian, núi Thiết Vi, địa luân, phong luân, thủy luân, ba cõi vũ trụ, thiên đàng, trần gian, địa phủ, ba giới tâm linh, dục giới, sắc giới, vô sắc giới.

    Chuyển vận vũ trụ, tạo ra ngày giờ, năm, tháng, lập lên thế giới vạn vật, côn trùng, thảo mộc, muôn loài cầm thú, bò sát (xem Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rõ hơn).

    Khai hóa Tổ Tiên, khai tạo lập lên tất cả xong, rồi hiện thân ra CHA TRỜI, ĐỊA MẪU sanh con, đẻ cái, lưu truyền nòi giống con người tiên rồng cho đến ngày nay.

    Để xứng đáng là con cháu Tiên Rồng, chúng ta phải trở về với Cội với Nguồn, sống theo thiên luật, thiên ý cha Trời, sống hòa thuận, sống theo lẽ phải, không thể sống độc tài, độc trị, đi ngược lại thiên luật, thiên ý cha trời, thủy chung là đặc tính của chân tâm thể tánh linh giác vô vi, dù trôi lăng trong vật chất muôn vạn ức kiếp, nhưng thể tánh linh giác vô vi vẫn trong sạch không thay đổi, thủy chung trước sao sau vậy, người có tánh thủy chung đó là tánh cao quí của tánh đạo.

    * * *

    Nói đến đạo vợ chồng, ngoài thủy chung, còn phải hiểu nam thuộc dương, nữ thuộc âm, cái lý ÂM – DƯƠNG, cần phải nắm vững, có nghĩa là hiểu nhau, tôn trọng nhau, hòa hợp nhau để tiến hóa. Đạo âm dương của trời, không khác gì đạo âm dương của chồng vợ, ÂM – DƯƠNG, tương hợp thì vạn vật hóa sanh, có nghĩa là âm dương giao hòa thì vạn vật mới hóa sanh mạnh được, nếu âm quá, hay dương quá, thì khó mà dung hòa.

    Nếu gặp phải ông chồng nóng tánh quá, thì người vợ phải càng nhu mì mềm dẻo, nếu người vợ nóng tánh như ông chồng thì khó bảo toàn hạnh phúc.

    Cái đạo của âm dương nó tự biết kiềm chế lẫn nhau, để đi đến sự hòa hợp, tạo lên mùa xuân hạnh phúc gia đình, ÂM biết vị trí của âm, DƯƠNG biết vị trí của dương, để mà sống cho phải đạo luật tự nhiên, theo đạo luật vũ trụ.

    Theo đạo luật vũ trụ, dương lớn, thì âm cũng phải lớn mới dung hòa sống chung với nhau được, có nghĩa là dương càng cương, thì âm phải càng nhu, vợ có tánh đạo của vợ, chồng có tánh đạo của chồng, dương cương – âm nhu, dương sáng – âm tối, dương bộc phát – âm co rút, dương trước âm sau, dương hùng bá, âm trấn thủ, sáng của dương tính chính là tinh thần, sáng của âm tính chính là vật chất.

    Giàu sự nghiệp do chồng đem lại, giàu tồn tại do vợ biết giữ gìn, đạo ÂM – DƯƠNG không nói đến vợ lớn hay chồng lớn, mà là biết dung hòa để tồn tại, theo lý từ tối ra sáng thì thuận, từ sáng vào tối thì nghịch, từ nặng biến thành nhẹ thì thuận, từ nhẹ biến thành nặng thì nghịch.

    Vì thế tối phải theo sáng, nặng phải theo nhẹ, ÂM phải nương theo dương, nên xưa nay vợ phải theo chồng, dù cho đó là mẫu hệ, phụ hệ, trai về nhà vợ, hay gái về nhà chồng, vợ phải nương theo chồng để tồn sanh, đâm chồi nẩy lộc, bảo tồn sự sống, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người mãi mãi.

    * * *

    Nói đến nhân quả, không phải chỉ nói riêng cho mỗi con người, mà nhân quả tập thể của nhiều người, thậm chí cho đến cả một đất nước.

    Cá nhân hành thiện, gia đình hành thiện, cả nước hành thiện, thì non sông đất nước ấy nhất định kết hoa mùa xuân, kết quả giàu mạnh.

    Cá nhân gieo nhân thiện, thì phước báo còn không thể nghĩ bàn, huống chi cả gia đình hành thiện, cả nước hành thiện, thì phước báo càng không thể nghĩ bàn, xã hội đất nước ấy là xã hội thiên đàng cực lạc quốc trần gian rồi.

    Luật nhân quả là luật hiện thực, hễ có nhân là có quả, hễ gieo nhân thì gặt quả, gieo lúa gặt lúa, trồng cà hái cà. Gieo lúa thì không bao giờ trổ ra ngô, gieo ác thì không bao giờ gặt thiện.

    Người gieo ác mà gặt thiện, đó là họ gặt nhân thiện ở kiếp trước, hoặc nhân thiện ông bà cha mẹ để lại cho họ, họ gặt hết nhân thiện ở kiếp trước, cũng như nhân thiện ông bà cha mẹ để lại cho họ, thì họ phải gặt đến quả ác của họ đã gieo ra, không thể chạy đâu cho thoát, đã gieo ra thì phải gặt lấy, không ai gặt thế cho mình được.

    Chỉ còn một cách là gieo phước thiện trừ bớt hậu họa mà thôi, hoặc nhờ quyền năng vô hạn Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời, chuyển họa thành phúc cứu khổ cứu nạn.

    Một đất nước dân chúng cứ mãi sa đọa, vào con đường tội lỗi, cũng như vua quan, cứ độc tài độc trị mãi, thì đất nước đó khó mà tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh được, gieo nhân như thế thì làm sao gặt quả phồn vinh thịnh vượng cho được.

    Phải đổi mới tư duy, đổi mới hướng đi, loại bỏ văn hóa độc hại, thì mới chuyển đổi được số mạng của một dân tộc, cũng như bản thân, gia đình.

    * * *
     
  7. shopoga

    Bài viết:
    512
    PHẦN 2

    NHƠN LUÂN ÂM KINH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau đây là phần kinh âm dương, để mà tùy thuận vào cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho gia đình.

    ÂM KINH

    Trong giới nam hay là giới nữ

    Hiểu cho tường sự khởi âm dương

    Chơn âm là thể nữ nhơn

    Chơn âm nhu yếu vợ nên phải mềm

    Nếu ngược lại nữ nhơn khô cứng

    Thời coi như xung khắc chơn dương

    Làm cho xung đột chẳng yên

    Gia đình đổ vỡ khó nên thuận hòa

    Đạo chơn âm yếu mềm thuận hiếu

    Đó là điểm lợi thế giữ mình

    Nước kia ở thấp thường tình

    Nhưng nào lửa dữ hơn gì được đâu

    Nước tuy mềm nhưng nào phải thế

    Đá phải mòn từng thấy xưa nay

    Đá mòn nước chảy mây bay

    Thấp cao tùy lúc chuyển xây thế tình

    Nếu ngược lại hung sùng nóng tánh

    Thời coi như xung khắc chồng con

    Sống thời trái lẽ tự nhiên

    Con đường gia đạo khó nên thuận hòa

    Cũng vì vậy vợ hiền phái yếu

    Phải hiểu mình thời mới thơm danh

    Chơn âm co rút vững thân

    Hiền hòa nhỏ nhẹ chuyển xây sự đời

    Nếu ngược lại vợ càng nóng tánh

    Thời coi như trái lý chơn âm

    Vợ chồng khó đặng ấm êm

    Nát tan đổ vỡ khó nên cửa nhà

    Phải hiểu rõ tánh âm co rút

    Nên nữ nhân thủ tiết thờ chồng

    Ứng theo tứ đức tam tòng

    Đó là lẽ sống của người thành tiên

    Nếu ngược lại nữ nhơn bạo phát

    Tánh hung sùng ác sát chẳng kiên

    Làm nên những chuyện đảo điên

    Lấn chồng áp đảo rối ben trong ngoài

    Nếu âm dương thường hay đảo lộn

    Thời gia đình họ tộc sao an

    Đó là thời loạn gia môn

    Làm sao tránh khỏi tiếng đồn bay xa

    Nên hiểu rõ âm dương triết lý

    Nên nữ nhân đức tánh thâm trầm

    Nhu mì hiền thục dịu dàng

    Làm cho cuộc sống gia đình yên vui

    Nếu ngược lại vợ luôn quá quắt

    Làm cho chồng bực tức nổi hung

    Đó là xung khắc chơn dương

    Làm sao tránh khỏi lụy phiền bản thân

    Cũng nên biết chơn âm cô đọng

    Thời nữ nhơn phải trọng thân mình

    Chăm lo gìn giữ hạnh lành

    Giữ gìn giá ngọc thường hằng sáng trong

    Nếu ngược nữ nhơn buông thả

    Không giữ mình dục dã đâu đâu

    Làm sao tránh khỏi thảm thê

    Sống thời phải chịu họa hề nhuốt nhơ

    Cũng phải hiểu Dương trên Âm dưới

    Vợ giúp chồng phò tá sớm hôm

    Thay chồng quán xuyến trông coi

    Gia tài sự nghiệp vững yên trường tồn

    Nếu ngược lại vợ đè chồng dưới

    Vợ lấn chồng buộc trói chơn dương

    Làm cho gia đạo rối ren

    Gia đình lụn bại khó nên danh hiền

    Cũng nên biết âm hòa dương thịnh

    Thời lo gì chẳng được ấm no

    Chơn âm hướng nội bên trong

    Chơn dương hướng ngoại dựng xây cơ đồ

    Nên chơn âm vung bồi nội thể

    Thường lo toan hết thảy trong nhà

    Nên hư của một gia đình

    Không ngoài người vợ giữ gìn ấm êm

    Nếu ngược lại vợ trên chồng dưới

    Vợ chuyên quyền chồng đứng đàng sau

    Âm càn không kể thiệt hơn

    Gia đình họ tộc đảo điên phen nầy

    Đó là lúc gia đình địa ngục

    Nếp gia phong lụn bại còn chi

    Hết còn trên dưới tôn ti

    Còn đâu hạnh phúc còn chi thuận hòa

    Âm lấn Dương độc tài quyền bá

    Mãi chuyên quyền gò bó chồng con

    làm cho Dương lụn bại suy

    Gia Đình tăm tối mấy khi thịnh hành

    Lại hiểu rõ dương trong âm đục

    Vợ theo chồng chuyển vận sáng soi

    Mặt trăng phản chiếu dương quang

    Làm cho gia đạo huy hoàng đẹp xinh

    Nếu ngược lại chơn Âm không rõ

    Tự tác tung chẳng bỏ hung hăng

    Chuyên quyền lấn áp chơn Dương

    Đó là nghịch lý thiên công an bày

    Nếu ngược lại chẳng màng đạo lý

    Cứ làm bừa họa đến tai bay

    Luật trời sau trước xưa nay

    Nào ai cải được thế thay đạo trời

    Làm con người thức thời Thiên Ý

    Hiểu cho tường nguyên lý âm dương

    Chơn âm chìm xuống náo nương

    Chơn dương nhẹ nổi thênh thang bao trùm

    Âm theo dương lẫy lừng hùng bá

    Dựng nghiệp trời nào khó xưa nay

    Chồng sao Vợ vậy mới hay

    Thuận chồng thuận vợ đồng bay đồng thành

    Trong trời đất dương truyền âm giữ

    Âm nhờ dương rực rỡ bay cao

    Mây kia không phải nước sao

    Nhờ Dương mây mãi bay vào không gian

    Âm mất dương tối tăm mờ mịt

    Càng lạnh tanh lụn bại khó nên

    Cho nên âm phải theo dương

    Nẩy chồi nở lộc mùa xuân đất trời

    Cần phải hiểu rõ thời chân lý

    Âm tối đen Dương sáng tỏa ra

    Cho nên gái phải theo trai

    Là điều thuận lý xưa nay sống còn

    Cũng vì thế chơn âm định tỉnh

    Ứng dụng ra thể tính khéo khôn

    Làm cho dương phải chuyển luân

    Giữ gìn âm mãi tung bay khắp cùng

    Nên suy xét tận tường nguyên lý

    Đạo luật trời hai lối, kiết, hung,

    Hai bên cảnh giới phân minh

    Thiên đàng địa phủ, mấy khi sai nào

    Cõi thiên đàng sáng bừng châu báu

    Cõi âm ti đầy lối yêu ma

    Xưa nay trong cõi người ta

    Dương là sự sống có sai bao giờ

    Trong hoàn vũ đất trời phân định

    Thành hai bên ác thiện hai nơi

    Dương quang thành lập cõi trời

    Trân châu, vàng ngọc sáng ngời lung linh

    Bên âm phủ tối tăm muôn thuở

    Sắt cùng chì, thiếc, kẽm dẫy đầy

    Địa phủ khốn khổ lắm thay

    Hành hình đói khát suốt ngày khảo tra

    Âm với Dương hai bên đã rõ

    Đạo luật Trời ai cải được đâu

    Thuận Thiên thời đặng phước cao

    Lo gì chẳng đặng siêu sanh Thiên Đàng

    Vợ cùng Chồng ôn hòa chánh thiện

    Thời gia đình hưng thịnh biết bao

    Gia đình êm ấm, ấm êm

    Cháu con hưng thịnh bình yên đời đời

    Âm kinh đây ai mà gặp đặng

    Thời phát tâm tụng niệm chép in

    Lưu truyền cho cả thế gian

    Chung cùng tu học luận bàn lẽ hay

    Công đức ấy đắp xây hạnh phúc

    Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, hộ trì

    Ông bà cha mẹ nhiều đời

    Về nơi cực lạc thiên đàng an vui

    Nếu như vua, chúa, quan, dân

    Truyền kinh dạy bảo góp phần công lao

    Người này sẽ được Tổ Tiên

    Khai thông trí huệ vô biên phước lành

    Cháu con vinh hiển đời đời

    Công thành danh toại sang giàu bền lâu

    Lời kinh vi diệu cao sâu

    Thành tâm chuyển số nguyện cầu hiển linh.

    * * *

    Chúng con là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Thành tâm kính lạy Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, ban phúc lành cho toàn nhân loại anh em, cầu nguyện cho toàn nhân loại anh em, sớm hội ngộ Cội Nguồn, thấu hiểu Đạo Lý Âm Dương, làm chủ chân tâm, chân tánh, lên ngôi tối cao chánh đẳng, chánh giác, giải thoát sanh tử, làm chủ vũ trụ, làm chủ thiên đàng cực lạc.

    NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ LONG HOA CỬU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY)

    * * *

    Bình luận:

    Nói đến sự lý âm – dương là như thế, nên biết trước, mà tránh đi điều không tốt xảy ra, bảo vệ hạnh phúc gia đình. Cái đạo Âm Dương là cái đạo tự nhiên phải biết dung hòa lẫn nhau, để phát triển tồn tại sự sống. Nếu chồng quá dương thì vợ phải biết làm gì, đạo Âm – Dương cần phải dung hòa để mà tồn tại. Nếu Dương quá thì âm diệt không phát triển được, nếu Âm quá thì Dương diệt không phát triển được. Nên Ông Cha ta thường dạy, thuận vợ thuận chồng, Biển Đông tát cạn.

    Ở thời Phong Kiến Thần Giáo sự sai lầm là coi trọng Dương đạo quá lớn, trở thành khắc khe của đạo làm chồng, làm cho Âm đạo không phát triển được, người vợ trở thành nô lệ cho chồng con, không phát huy được tài năng của người phụ nữ, kìm hãm trong khuôn phép Phong Kiến Thần Giáo lạc hậu sai lầm.

    Sự giàu sang của gia đình, cũng như xây dựng xã hội, non sông, tổ quốc, thì người phụ nữ đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

    Ở thời cực đại của mạc pháp, con người rơi vào ác đạo đề cao âm đạo, (đề cao âm đạo khác với coi trọng âm đạo) dẫn tới một số đông tan vỡ hạnh phúc, mâu thuẫn xung đột luôn xảy ra, nếu không tan vỡ gia đình, thì hạnh phúc vợ chồng chỉ là con số không, nếu Chơn Dương đã bị Chơn Âm che lấp thì ông chồng khó mà làm nên nghiệp lớn.

    Vì thế Văn Hóa Cội Nguồn ra đời chỉ rõ Nguồn Cội của Âm Đạo, Dương Đạo, phải biết dung hòa đem lại sự cân bằng, hòa thuận âm dương, thương yêu nhau, bảo bọc nhau, cùng nhau tiến hóa đâm chồi nẩy lộc sanh sôi nẩy nở, tạo lên sự giàu có, tạo lên mùa xuân của hạnh phúc. Một gia đình văn minh là gia đình luôn sống hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau, vợ tôn trọng chồng, chồng tôn trọng vợ, không phân biệt giai cấp, hòa thuận yêu thương nhau để mà sống, âm nhờ dương hướng ngoại để sanh tài sanh lộc, Dương nhờ Âm trụ vững làm nên nghiệp lớn.

    Nói tóm lại Dương nhờ Âm quán xuyến nội gia củng cố nội lực để mà thành danh thành nghiệp, Âm nhờ Dương để mà sanh tài sanh lộc làm nên sự ấm cúng giàu sang của gia đình. Người chồng có làm nên nghiệp bá, mười phần hết chín, là nhờ có người vợ đảm đang, người vợ mà trở nên hữu ích cho xã hội là có người chồng biết dung hòa cuộc sống của Đạo vợ chồng biết làm cho vợ được tỏa sáng.

    Nam giới mà làm nên lịch sử, thì nhờ có phụ nữ biết lo liệu đảm đang, mọi bề gia đình, xã hội. Người chồng cố gắng làm nên sự nghiệp, là vì gia đình, vì vợ vì con, cao hơn nữa là vì dân vì nước. Người vợ cố gắng bảo vệ sự giàu sang, là vì gia đình, vì chồng vì con, cao hơn nữa là vì dân vì nước.

    Như vậy chí hướng của vợ, của chồng, chung cùng mục đích, không ngoài đem lại hạnh phúc cho gia đình, con cái, cao hơn nữa là tương lai về sau.

    Sự tranh hơn, tranh thua, dẫn đến tự ái bất hòa, đó là một việc làm ngu xuẩn, trước mắt là một hố thẳm tan vỡ, hạnh phúc.

    Nỗi lo sợ của người phụ nữ là sợ chồng bỏ rơi mình. Vì tính khí của bậc anh hùng, thường bị chinh phục bởi sắc đẹp và sự khôn khéo mềm yếu của người phụ nữ.

    Vì thế thường sanh ra cay cú, chính vì sự cay cú ấy đã đánh mất cái đạo tối cao âm tính của người phụ nữ. Đó là sắc đẹp, và sự khôn khéo nhu mì yếu mềm của người phụ nữ, đã từng cột chân ông chồng của mình từ khi mới gặp nhau.

    Thật ra mà nói lửa không hơn được nước, cứng khó hơn được mềm, nhu thắng cương, nhược thắng cường. Xưa nay vẫn còn giá trị, lịch sử cũng đã cho ta thấy, không biết bao nhiêu phụ nữ, làm điên đảo những bậc Anh hùng, không phải cái tài hùng bá làm nên nghiệp lớn của người phụ nữ mà chính là đạt đến trình độ của ÂM ĐẠO làm cho DƯƠNG ĐẠO mê hoặc, và bị khuất phục, bởi những đức tánh diệu kỳ, của sự khôn khéo biết núp bóng sau Dương, cột trói Dương bằng nhu mì mềm yếu khôn ngoan của người phụ nữ.

    Nói đến sắc đẹp không thì chưa đủ, làm mê hoặc bậc đại anh hùng, mà chính là đạt đến trình độ của ÂM ĐẠO, lẫn sự khôn khéo của người phụ nữ, mới giữ được cột trói người đàn ông đại tài kia.

    Như vậy ÂM KINH là kinh pháp không thể đọc qua mà hiểu, mà cần phải có sự nghiên cứu, mới đạt đến kết quả cao, ÂM KINH chính là báu vật của người phụ nữ, dùng nó để giữ gìn hạnh phúc.

    * * *

    Sự thay đổi xã hội, chính là sự thay đổi của nền văn hóa, dân tộc nào không có văn hóa, hoặc có văn hóa, nhưng đó là văn hóa đồi trụy độc hại. Thì không nói cũng biết, thì dân tộc đó không còn tự chủ được nữa, luôn luôn bị kẻ thù chi phối sai khiến, làm cho nước mất nhà tan, tương tàn nồi da nấu thịt.

    Vì thế muốn cứu đất nước thoát khỏi sự chi phối sai khiến của kẻ thù, giữ gìn độc lập, dân tộc đoàn kết, dựng xây cơ đồ bá nghiệp hùng mạnh.

    Nền tảng của sự cứu nguy đó, không có gì hơn được văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa dựng nước, và giữ nước.

    Người người có văn hóa, nhà nhà có văn hóa, chính là nền tảng kiên cố của nền độc lập, nền tảng kiên cố của sự phát triển, nền tảng kiên cố của sự giàu sang và hùng mạnh.

    Người người có hạnh phúc, nhà nhà có hạnh phúc, thì không nói cũng biết là non sông tổ quốc đó, rực thắm mùa xuân.

    Nam có tánh khiêu hùng của nam

    Nữ có tánh hiền thục của nữ

    Âm – Dương, hiệp nhau để tiến hóa, nam mạnh như rồng, nữ đẹp như tiên thì còn gì hay cho bằng.

    * * *

    MUỐN BIẾT NHÂN LOẠI CON NGƯỜI NĂM MÀU DA ANH EM RA ĐỜI Ở ĐÂU? CÁCH ĐÂY BAO LÂU. UY DANH CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN, UY DANH MẸ TRỜI ÂU CƠ. THÌ PHẢI TRUY TÌM LONG HOA THIÊN TẠNG. VĂN HÓA CỘI NGUỒN TỐI CAO CỦA NHÂN LOẠI CON NGƯỜI.

    * * *
     
  8. shopoga

    Bài viết:
    512
    PHẦN 3

    NHƠN LUÂN DƯƠNG KINH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong phái nam hay là phái nữ

    Hiểu cho tường thấu rõ âm dương

    Nam nhơn là thể an bang

    Chương dương lý cứng nam nhơn phải hùng

    Nếu ngược lại yếu mềm nhu nhược

    Thời coi như khó đạt nên danh

    Sống thời trái nghịch tự nhiên

    Chết đi không khỏi luân phiên đổi dời

    Tánh nam nhơn phải thời cứng rắn

    Vì chơn dương hùng bá chuyển luân

    Làm trai chí ở bốn phương

    Quên mình vì nước giúp dân sang giàu

    Nếu ngược lại chồng sau vợ trước

    Thời rõ ràng nghịch lý âm dương

    Sống thời khó đặng nên danh

    Tiêu tan nề nếp gia phong chẳng còn

    Nên hiểu rõ cho tường tính lý

    Vì chơn dương có chí an bang

    Cho nên mạnh dạng đảm đương

    Giúp dân giúp nước hiên ngang ở đời

    Nếu ngược lại yếu hèn co rút

    Chí nhược nhu luồn cúi tựa nương

    Đó là trái lẽ chơn dương

    Sống thời khó đặng danh thơm đất trời

    Nên phải hiểu nam hùng chí lớn

    Thân làm trai xốc vác nhẹn nhanh

    Tung hoành ngang dọc dưới trên

    Trong ngoài thống nhất vững bền quản gia

    Nếu ngược lại nam nhơn chìm lỉm

    Tánh rề rà chẳng hiển tài năng

    Làm cho nghịch lý dương quang

    Sống thời phải chịu mọi đàng đắng cay

    Cũng nên hiểu âm sau dương trước

    Thời nam nhơn gánh vác sáng soi

    Đảm đương mọi việc trước sau

    Đối đầu hết thảy khó khăn trong ngoài

    Nếu ngược lại vợ bay chồng trói

    Thân đàn ông núp bóng vợ con

    Còn đâu ánh sáng dương quang

    Tối tăm mờ mịt nát tan cơ đồ

    Nếu âm dương thường hay đảo lộn

    Thời gia đình họ tộc sao an

    Đó là điềm dở rối ben

    Làm sao tránh khỏi đảo điên khốn nàn

    Cũng nên hiểu đất trời phân định

    Nên âm dương theo luật tự nhiên

    Làm vợ ứng dụng bên trong

    Làm chồng bộc phát vươn xa bên ngoài

    Nên nam nhân phải thầy, phải thợ

    Thường đối đầu tháo gỡ khó khăn

    Đó là hợp lẽ chơn dương

    Âm – Dương, tương hiệp tự nương xây thành

    Lại hiểu rõ ngọn ngành đạo lý

    Đạo làm chồng phải thấy hư nên

    Dù là công việc nhỏ nhen

    Hay là xã hội, nước non, trong ngoài

    Nếu ngược lại cúi luồn để sống

    Để quân thù gặm nhấm quê hương

    Phu quân núp bóng hiền thê

    Còn chi dương lý lộn bề hóa công

    Dương nào phải chơn âm co rút

    Mãi cuộn mình khó thoát tai bay

    Chơn dương chìm xuống ra chi

    Phải nên nhẹ nổi thênh thang bao trùm

    Lý chơn dương không hùng thì bá

    Bay lên cao tỏa sáng khắp nơi

    Làm cho sự sống ở đời

    Thái bình an lạc biển trời đầy xuân

    Nếu ngược lại chơn dương không sáng

    Thân đàn ông hèn yếu co ro

    Đó là lụn bại chơn dương

    Sống thời phải chịu nhiều đường thiệt thân

    Trong trời đất dương lên, âm xuống

    Âm lạnh tanh, dương nóng rõ ràng

    Cho nên đạo lý làm chồng

    Dắt dìu âm lý bay vào trời mây

    Cần phải hiểu rõ thông chân lý

    Âm tối đen dương sáng đâu sai

    Cho nên dương phải sáng soi

    Chiếu cùng khắp cả trong ngoài càn khôn

    Nếu ngược lại chơn dương mờ tối

    Thời coi như vùi lấp cuộc đời

    Lý dương sai trái lộn đường

    Chịu nhiều khốn khổ họa vươn lấy sầu

    Cũng vì thế phải nào rõ lý

    Phải anh hùng chí lớn uy nghi

    Vững chèo lèo lái hướng đi

    Công thành danh toại làm nên nghiệp trời

    Âm dương lý dung hòa hùng khởi

    Trải vàng son đầy rẫy báu châu

    Âm dương chung hiệp một bầu

    Lo gì chẳng được sang giàu, giàu sang

    Dương kinh đây có ai gặp đặng

    Thời cũng nên truyền tụng để đời

    Lưu truyền cho cả nhân loài

    Chung cùng lợi ích cho người cùng tu

    Được như vậy Tổ Tiên ấn chứng

    Ban phước lành muôn kiếp về sau

    Trăm nghìn ức kiếp làm vua

    Cháu con vinh hiển giàu sang vạn đời

    Chỉ cần truyền được một lời

    Tai qua nạn khỏi cuộc đời an vui

    Còn như biên chép ấn in

    Chuyển họa thành phúc cầu chi cũng thành

    Ông bà, cha mẹ nhiều đời

    Siêu sanh cực lạc nhờ lời truyền kinh

    * * *

    Chúng con là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nguyện cầu lên Tổ Tiên, Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ ban phúc lành cho toàn nhân loại cháu con, kẻ chết siêu thăng, người sống an vui, chung cùng hạnh phúc, thoát đời nghèo khổ, an hưởng giàu sang, phiền não tiêu tan, hội ngộ chân tâm, chân tánh, lên ngôi chánh đẳng chánh giác, không còn sanh tử tự tại an vui.

    NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ LONG HOA CỬU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY)

    * * *

    PHẦN 4

    NHẪN, NHỊN, NHỤC KINH

    Cội nguồn của ÂM – DƯƠNG, không có sự chia cắt phân biệt, mà là cội hòa hợp, thống nhất, gốc của NHẪN, NHỊN, NHỤC.

    Trai gái, lớn lên có chồng có vợ, thường trao nhẫn, đính hôn là có dụng ý như sau:

    Gói gắm trao con chiếc nhẫn nhà

    Rằng đây quà tặng của mẹ cha

    Báu vật nói lên trong dụng ý

    Trưởng thành con, cháu lên xe hoa

    Đeo nhẫn thường tình vật điểm trang

    Với ba chữ nhẫn quí hơn vàng

    Tiếp xúc xã giao thường đeo nhẫn

    Nhẫn là nhường nhịn nghĩa tào khang

    Nhẫn nhịn mẹ cha chẳng phải hèn

    Gặp phải sự đời quá khó khăn

    Tam nhẫn trải trang luôn hòa hiếu

    Vượt qua giông tố đến đất bằng

    Tam nhẫn hành trang nhớ công phu

    Đạo đời đeo nhẫn rạng đường tu

    Công thành danh toại nhờ đức nhẫn

    Tích đức tu tâm xóa hận thù

    Khôn để dạ nhớ câu thơ dặn

    Đạo vợ chồng hòa thuận cùng nhau

    Thủy chung một dạ trước sau

    Việc nhà mình liệu chớ so việc người

    Thơ giáo huấn sang giàu đức nhẫn

    Việc sanh tồn kính cẩn vào ra

    Mấy lời đưa tiễn mẹ cha

    Theo chồng con nhớ thuận hòa đừng quên

    Chữ lợi danh khi nên cũng tốt

    Bỉ hà thời hạt muối cắn hai

    Với ba chữ nhẫn hơn tài

    Vượt qua bể khổ bão bùng sông sâu

    Ngày kết tóc xe duyên con cái

    Trao cho con nhẫn báu đức nhu

    Ở đời chọn lấy đường tu

    Mai sau con cháu võng dù nghênh ngang

    Rạng danh nghiệp âm vang luân lý

    Xứng dâu hiền đẹp ý tông đường

    Vợ chồng trọn nghĩa tào khang

    Công thành danh toại làm gương để đời

    Cuộc dâu bể vô thường chuyển đổi

    Vẹn nghĩa tình chung thủy an khang

    Giàu, nghèo, trí, đức, trời ban

    Chồng xướng, vợ họa, ấm êm trong ngoài

    Còn nghĩ đến Ông Bà Cha Mẹ

    Nhớ tìm về Nguồn Cội tựa nương

    Cha trời, Địa mẫu chánh thân

    Hiếu trung, trung hiếu, trọn phần cháu con

    Tiên Rồng dòng giống Lạc Long

    Hiền nhu, nhẫn nhịn hồn linh về trời.

    * * *

    Bình luận:

    Cội Nguồn của ĐẠO ÂM DƯƠNG, là sự hòa thuận, hòa hiệp hướng về hòa thuận hòa hiệp, là tìm thấy hạnh phúc của đạo vợ chồng, thương yêu nhau, tôn trọng lẫn nhau, chung trên một con đường đời chồng sao vợ vậy, chồng cứng thì vợ phải mềm, chồng càng hung bạo thì vợ càng hiền thục, chồng bạo động thì vợ phải trầm tỉnh, lối sống của người phụ nữ như thế, không phải là lối sống thấp hèn, mà là lối sống vô cùng cao sang, vô hiệu hóa, làm tiêu tan cái tánh nóng nảy bạo ngược của ông chồng, vì lửa thường không hơn được nước, đá tuy cứng cũng bị nước bào mòn, cứng thì dễ gãy, mềm nên khó dứt, chồng nóng nảy hung bạo mà vợ cũng có cái tánh nóng nảy hung bạo ấy, không chịu thua nhau thì sự đổ vỡ hạnh phúc chỉ là thời gian.

    Thứ vũ khí lợi hại của mỹ nhân không chỉ có ở sắc đẹp và nước mắt, mà còn là một thứ quyền năng, chính là sự mềm yếu, khôn khéo đạt đến đỉnh cao của âm đạo, như Tây Thi chẳng hạn.

    Quyền năng tối cao của người phụ nữ, không phải là sự hơn thua, đối đầu, mà chính là đỉnh cao sự khôn khéo của ÂM ĐẠO, cột trói các bật hung bạo, sai khiến các bậc anh hùng như Tây Thi, Đắc Kỷ, vân vân.. Bảo vệ hạnh phúc, cũng như sự nghiệp gia đình, ngoài sự hòa thuận tôn trọng lẫn nhau, đồng cùng chí hướng, mà còn phải biết phát huy tài năng, bẩm sinh của vợ lẫn cả chồng, ngoài xã hội vợ chồng sống theo hiến pháp, luật pháp, đạo pháp công bằng bình đẳng xã hội, trong gia đình vợ chồng sống theo thiên mệnh, sống theo cái đạo làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ, Âm Dương tương hiệp, hòa thuận thương yêu nhau cuộc sống con người, có hai lối sống như vậy, lối sống xã hội lối sống gia đình, không có sự lẫn lộn ở đây.

    Thủy chung dù một túp lều tranh

    Xuân, hạ, thu, đông vẫn ngọt lành

    Sung sướng nào hơn niềm hòa thuận

    Yêu thương luôn trổ búp chồi xanh.

    * * *
     
  9. shopoga

    Bài viết:
    512
    PHẦN 5

    ĂN Ở CHO CÓ ĐỨC KINH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mấy lời ăn ở dạy con

    Dầu mà gặp lúc nước non xoay vần

    Ở cho có nghĩa có nhân

    Mới mong có phước được ăn lộc trời

    Thương người khốn khổ ngược xuôi

    Thương người hoạn nạn ốm đau cơ hàn

    Thương người khốn khổ lầm thang

    Thương người sớm tối lạc đàng bơ vơ

    Thương người nghèo khổ xác xơ

    Tha phương cầu thực bến bờ thẳm thăm

    Thương người bồng ẵm ăn xin

    Thương người tuổi tác già nua khốn cùng

    Thương người cô phụ cùng đường

    Thương người yêu nước ngục tù khảo tra

    Thương người hoạn nạn hàm oan

    Vướng vòng lao lý nát tan cửa nhà

    Biết bao thảm cảnh trên đời

    Họa tai, tai họa con người mãi mang

    Thấy ai khốn khổ thời thương

    Nguyện cầu cho họ thoát đường khốn nguy

    Đồng tiền bát gạo giúp nhau

    Chia bùi sẻ ngọt đớn đau cuộc đời

    Cầu cho non nước yên bình

    Chúng dân thoát khổ đăng trình ấm no

    Thương người vì nước vì dân

    Vào tù ra tội muôn lần gian lao

    Miếng khi đói gói khi no

    Của tuy nhỏ bé nghĩa so nghìn trùng

    Của là vạn sự của chung

    Sống còn chết mất tay không được gì

    Giúp người tích đức tiếc chi

    Thơm danh vả lại bia ghi để đời

    Cháu con nhờ đức rạng ngời

    Bình an hai chữ sang giàu rạng danh

    Sống cho có nghĩa có nhân

    Lo gì chẳng được thêm phần tốt tươi

    Sống lâu hưởng phước trời ban

    Luật thiên nhân quả vững vàng niềm tin.

    * * *

    Bình luận:

    Muốn có một xã hội tốt đẹp, non sông tổ quốc giàu mạnh, thì không thể không gieo hạt giống phúc lành, những hạt giống cho nhiều kết quả tốt, loại bỏ những hạt giống mầm họa, hạt giống thái hóa, tốn nhiều công sức mà gặt hái thì chẳng được bao nhiêu, keo kiệt chỉ biết mình không nghĩ đến người.

    Chủ nghĩa cá nhân không đem lại kết quả tốt. Không những không tốt cho đời mà còn làm hại đến bản thân.

    Sự độc tài độc trị, không đem lại kết quả cao, vì nó đã quá lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại, không theo kịp sự tiến hóa, tiến bộ, dân trí của nhân loại con người.

    Phải đặc quyền lợi cá nhân theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng, dân chủ văn minh, làm kim chỉ nam cho cuộc sống, và cũng chỉ có HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG, mới thật sự đem lại sự độc lập tự do, đem lại cuộc sống bình yên ấm no cho toàn dân tộc.

    HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP CÔNG BẰNG BÌNH ĐẰNG. HIẾN PHÁP DỰNG NƯỚC, GIỮ NƯỚC, CHÍNH LÀ PHÁP VƯƠNG CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, VÀ CŨNG CHỈ CÓ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN THẬT SỰ MỚI ĐEM LẠI SỰ CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG CHO MỖI CON NGƯỜI, QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC, MỚI THẬT SỰ ĐI VÀO CUỘC SỐNG, CON NGƯỜI SANH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG NHƯ NHAU, TRONG NGÔI NHÀ CHUNG VŨ TRỤ.

    * * *

    PHẦN 6

    PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, KHÔNG TỪ ĐÂU ĐẾN MÀ TỪ TÂM CON NGƯỜI

    Những người có công, truyền bá chân kinh dìu dắt nhân loại con người, đi đến con đường giải thoát tội lỗi, tiến đến hạnh phúc, thì những người đó chính là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở tại thế gian ngay trong cuộc sống đời thường. Ở tương lai họ là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở thiên đàng.

    Chúng ta nên biết những người có công dìu dắt nhân loại con người đi đến con đường chính nghĩa độc lập, tự do, dân chủ, đem lại quyền sống, quyền tự chủ, quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản mà TỔ TIÊN KHAI HÓA, đã ban tặng cho mỗi con người, những người có công lao như thế, thì phải nói là một sự hi sinh to lớn, việc làm vô cùng cao cả, công đức ấy không thể nào ca ngợi cho cùng được, và lẽ đương nhiên họ sẽ được nhân loại tán tụng suy tôn.

    Để được xứng đáng với công lao to lớn ấy, ngoài những địa vị xã hội, họ còn suy tôn lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Nói chính nghĩa chân chính thì không có độc tài độc trị, không có thể chế độc tài độc trị, mà chỉ có nền Hiến Pháp chân chính, nền Luật Pháp chân chính, nền Đạo Pháp chân chính, công bằng bình đẳng, pháp trị, không phải độc tài, độc trị.

    Con đường xây dựng lên nhà nước pháp trị, không phải bằng con đường đấu tranh giai cấp, bằng bạo lực mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc. Mà là bằng con đường đấu tranh Văn Hóa Chính Nghĩa không bằng bạo lực, mà bằng con đường bất bạo động, thắng nhau trên lẽ phải, đó là THÁNH CHIẾN, mà từ xưa đến nay chưa từng có hoặc có trên những nước cực đại văn minh.

    Những người đấu tranh bằng Văn Hóa Chính Nghĩa, là những bậc giác ngộ cao, trí thức lớn, thắng nhau trên lẽ phải, và được sự ủng hộ của đại đa số, tiến tới xây dựng lên nhà nước pháp quyền, HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP trên hết, nhà nước thật sự của dân do dân và vì dân.

    Thánh chiến là cuộc chiến ít đổ máu nhất, nhưng đạt kết quả rất cao, kết quả dân giàu nước mạnh độc lập lâu dài.

    Đứng về phương diện Thánh chiến mà nói, đương nhiên người có công, người vì chính nghĩa mà hi sinh, hoặc vì nhân loại mà cống hiến cả đời mình, những người như thế tất cả đều được phong thánh.

    Thánh chiến là cuộc đấu tranh sức mạnh của trí huệ, vũ khí của trí huệ chính là Văn Hóa Cội Nguồn, một loại vũ khí tối tân hiện đại nhất của nhân loại con người không có vũ khí tối tân hiện đại nào hơn, ánh trí huệ sáng soi khắp cả hư không vũ trụ, bóng đêm u minh phải lùi không còn tồn tại.

    Thánh chiến là giai cấp trí thức, giai cấp phật, thánh, tiên, thần, chúa, hành sự theo trời.

    Có thể nói rằng, dù ở thời đại nào, cổ hay kim, giai đoạn xã hội nào đi nữa, cũng có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, từ trong nhân loại con người hiện ra, nhất là giai đoạn chiến tranh giết người hàng loạt.

    Có thể nói Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng từ trong đủ thành phần giai cấp nhân loại con người mà ra, họ là những bậc đại trí tuệ, các ngài nhận thức ra đâu là Chính Nghĩa, đâu là Phi Nghĩa, mở ra hướng đi mới khai sáng linh hồn làm cho nhân loại nhận thức đâu là sự giả dối, cái bóng của cái hình, tuy giống nhau nhưng lại khác nhau, hình và bóng, họ chỉ cần làm sáng truyền thống yêu nước lên, tức thời cái bóng của sự yêu nước giả dối phải tự tan biến.

    Truyền thống dựng nước, giữ nước đã sáng, thì cái bóng, của truyền thống dựng nước, giữ nước giả dối cũng biến tiêu, Thánh chiến là cuộc chiến đấu trí, mà kẻ thua không phải là người chiến bại, mà tự chuyển đổi ý tưởng trở về với Chính Nghĩa mà thôi, mà chỉ có Thánh chiến mới xây chuyển những thiệt hại đổ máu.

    Giai cấp trí thức chân thiện là giai cấp giác ngộ, giai cấp loại bỏ những cái ác, loại bỏ những cái lỗi thời, những cái già cỗi đã xơ cứng, không đem lại hiệu quả, ngược lại còn tai hại cho cuộc sống.

    Sự nỗ lực đấu tranh vì chân thiện, sự hoàn mĩ, của sự sống xã hội văn minh hiện đại, dẫn dắt anh em nhân loại trở về Cội Nguồn, đi đến công bằng, bình đẳng, độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự.

    Những người có công như vậy, họ chính là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không từ đâu đến mà từ tâm họ mà ra.

    Những tư tưởng còn mê thường chạy theo chủ nghĩa cá nhân, độc tài độc trị, bị địa vị quyền lợi mê hoặc, không còn sáng suốt, tự mình dấn thân vào con đường địa ngục, mang tiếng ác để đời, trăm năm bia đá vẫn mòn nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ, có thể nói rằng đấu tranh bằng con đường bạo lực, thắng làm vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với vua cũng chẳng khác gì, đấu tranh bạo lực là đấu tranh đã lỗi thời lạc hậu, không đem lại kết quả cao dẫn đến thiệt hại quá lớn, xương máu đổ xuống quá nhiều, làm tiêu tan sức lực xây dựng hàng trăm năm của nhân loại con người.

    Nếu để cho các tư tưởng còn mê, chỉ biết mình bảo thủ củng cố sự độc tài độc trị, thì chỉ làm cho đời sống con người đi vào ngõ cụt, có thể nói là đi vào địa ngục.

    Con đường đấu tranh loại bỏ cái Ác, hướng đến cái Thiện đi trên con đường chính nghĩa thánh thiện, tất cả cho hòa bình, cho cuộc sống công bằng bình đẳng, theo thiên ý CHA TRỜI mỗi một người sanh ra đều có quyền bình đẳng.

    Hay nói một cách khác Thánh chiến là cuộc chiến theo mệnh trời, bảo vệ cái quyền mà trời đã ban cho mỗi con người, ổn định lại cuộc sống đi vào nề nếp trật tự vũ trụ.

    Như vậy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không từ đâu tới, mà từ con người đủ các tầng lớp. Giác ngộ hiện ra, cứu dân tộc thoát cơn nguy biến, tiến tới dân giàu nước mạnh, mở cửa thiên đàng lấp đường địa ngục đưa nhân loại anh em về trời.

    * * *

    Thưa các bạn

    Chúng ta đã đọc qua Kinh Nhân Luân, không ít thì nhiều chúng ta cũng đã hiểu được phần nào, nội dung cơ bản của ĐẠO và ĐỨC, ĐẠO ÂM – DƯƠNG sự hòa hiệp của VỢ và CHỒNG, sự đấu tranh loại bỏ cái ác, loại bỏ cái lỗi thời, loại bỏ sự già cỗi xơ cứng, loại bỏ sự độc tài độc trị, tiến tới nền văn minh dân chủ, độc lập tự do công bằng bình đẳng, bảo vệ quyền con người những quyền mà không ai có quyền xâm phạm.

    Có nghĩa là chúng ta truyền bá ánh sáng chính nghĩa văn hóa, ĐẠO ĐỨC để cho mỗi con người được tỏa sáng, làm chủ vận mệnh, làm chủ xã hội, làm chủ non sông tổ quốc, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, trên con đường đấu tranh bất bạo động, đấu tranh ôn hòa, sự thành công nào cũng đầy gian khổ. Chịu sự tu đày, tra tấn hành hạ, bởi cuộc thành công nào cũng có cái giá phải trả.

    Như Gia Tô, GIÊ SU phải chịu sự bắt bớ, giam cầm, tù đày, chịu sự hành hạ đóng đinh, chuộc tội thay cho nhân loại tội ác, vì đã phạm vào thiên luật thiên ý Cha Trời, đáng lý ra phải sa đọa xuống các tầng địa phủ, đằng nầy được cứu rỗi, tha thứ mà trở về cõi trên, phải nói chúa GIÊ SU, đã trả cái giá quá đắc rất xứng đáng để cho nhân loại tôn thờ.

    Như THÍCH CA từ bỏ quyền lực ngôi vị thái tử, tương lai sẽ là vua, hi sinh tất cả, hạnh phúc và cả sự giàu sang, đi vào khổ hạnh tìm con đường cứu vớt linh hồn nhân loại, sự hi sinh ấy phải nói là vô cùng lớn lao, cái giá phải trả cũng quá đắc, đáng được nhân loại kính trọng và thờ phụng.

    Các ngài thật sự là những người con gương mẫu của ĐẤNG TẠO HÓA, mà ĐẤNG TẠO HOÁ chúng ta Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, gọi là ĐỨC CHA TRỜI, hay TỔ TIÊN NHƯ LAI.

    Thưa các bạn

    Nhơn luân kinh mở màng cho những quyển kế tiếp sau, chúng ta cũng đã hiểu được phần nào cơ bản, của lẽ chân thật hạnh phúc, cũng như sự hi sinh, và cái giá mà chúng ta phải trả, hành sự theo thiên luật vũ trụ, thiên ý của Đức Cha Trời, thì không có gì để mà bàn cãi, mà chỉ phụng sự hết lòng, vì nhân loại anh em, vì hạnh phúc dân tộc, vì non sông tổ quốc, vì phụng sự CHA TRỜI, vì TỔ TIÊN, vì CHÚA.

    * * *
     
  10. shopoga

    Bài viết:
    512
    PHẦN 7

    PHẦN CÂU HỎI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1 - Thánh chiến, phàm chiến, khác nhau ở chỗ nào?

    Hãy nêu lên vài ví dụ cụ thể, biện minh cho điều đó, có tính thuyết phục cao, cơ sở khoa học.

    2 - Chiến tranh bất bạo động, chiến tranh bạo động khác nhau ở chỗ nào?

    Hãy nêu lên vài ví dụ cụ thể, biện minh cho điều đó.

    3 - Thiên đàng và địa ngục ở đâu? Trong gia đình có địa ngục thiên đàng không? Hãy dẫn chứng vài ví dụ, thuyết phục nhất.

    4 - Muốn có một xã hội, thật sự độc lập, tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ văn minh, thì chúng ta phải làm sao? Văn Hóa Cội Nguồn có phải là con đường kim chỉ nam, cho chúng ta không? Hãy biện minh cụ thể con đường ấy, và sự hiệu quả của con đường ấy.

    5 - Xã hội chân thiện, hoàn mĩ, là xã hội như thế nào?

    Tối cao của xã hội chân thiện là gì, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, hay là thể chế Độc Tài Độc Trị? Phân tích rõ cái lợi cái hại cả hai.

    6 - Vì sao dân tộc Việt Nam con cháu Rồng Tiên, cần phải hướng về Cội Nguồn? Có hại hay có lợi? Nếu là có lợi thì chúng ta phải làm sao? Duy trì, củng cố, phát huy, truyền bá đủ chưa, hay cần phải thêm những gì hãy viết bài luận văn có tính thuyết phục nhất biện chứng thật sự lợi ích của Văn Hóa Cội Nguồn, đối với dân tộc Việt Nam.

    * * *

    PHẦN 8

    GỐC VÀ NGỌN

    Hỏi: trong các tôn giáo, đạo giáo, NHO, LÃO, THÍCH, CHÚA, tôn giáo, đạo giáo nào là gốc?

    Đáp: NHƠN ĐẠO, ĐẠO CON NGƯỜI và ĐẠO LÀM NGƯỜI mới thật là cái gốc. Vì sao lại nói thế, vì Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng từ người mà ra. Vì thế Đạo Con Người và Đạo Làm người là cái gốc của tất cả Đạo.

    Hơn nữa con người là tiểu thiên vũ trụ.

    Có nghĩa là: Con người chính là vũ trụ được thu nhỏ, bao hàm cả VÔ VI, HỮU VI.

    HỮU VI phần thể xác, VÔ VI phần linh hồn.

    HỮU VI phần thể xác, gồm có tứ đại bốn thể, ĐẤT, NƯỚC, GIÓ LỬA, thể hơi – thể lỏng – thể chân hỏa – thể đặc.

    VÔ VI phần linh hồn, gồm có ba LINH GIÁC, LINH THỨC và THẦN LỰC.

    Linh Giác tự nhiên chính là linh giác NHƯ LAI, tánh như không, tướng không, thân không, ý không.

    LINH THỨC Như Lai, cái biết PHÂN BIỆT giác ngộ, mê muội đã thành lập.

    THẦN LỰC Như Lai, được sanh ra là do sự ĐẠI ĐỊNH, bất động tự nhiên của LINH GIÁC như lai.

    Và chính thần lực nầy, là Nguồn Cội tạo lên thế giới Vật Chất. Nuôi dưỡng LINH THỨC, linh thức do linh giác NHƯ LAI khởi sanh ra, linh thức như lai Tổ Tiên cùng thần lực như lai Tổ Tiên khai lập tạo lên vũ trụ, rồi tóm thâu tinh hoa vũ trụ khai lập lên con người, TIỂU THIÊN VŨ TRỤ. Tiểu thiên vũ trụ chính là Con Người.

    Hiểu cho hết con người không những hiểu rõ VÔ VI, HỮU VI, tiểu thiên vũ trụ con người, mà còn hiểu rõ Đạo Con Người và Đạo Làm Người thì coi như hiểu rõ tất cả Tôn Giáo Đạo Giáo Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Có nghĩa là hiểu rõ phần thể xác lẫn linh hồn con người. Tức là hiểu rõ Nguồn Cội linh hồn con người. Nguồn Cội thể xác con người. Nguồn Cội Lương Tâm con người. Cũng như hiểu rõ ngũ đại thể xác con người lực đại, khí đại, nước đại, hỏa đại, địa đại. Hiểu rõ chân tâm chân tánh, linh giác, linh thức con người, hiểu rõ lương tâm của con người, thì coi như hiểu rõ tiểu thiên vũ trụ tiến tới làm chủ vũ trụ, làm chủ sanh tử.

    Có thể nói: Chưa biết mình là ai, mà làm chủ thiên hạ đó là chuyện xa vời, chưa biết mình từ đâu đến, mà đòi dẫn dắt thiên hạ đi là chuyện không nên làm.

    NHƠN ĐẠO là cái đạo tối cao, không thể luận bàn cho hết được, dù cho cả trăm năm cũng luận bàn không hết, huống chi là một ngày hai ngày. Con người là tiểu thiên vũ trụ, là tổng hợp tinh hoa của TẠO HÓA. Muốn đạt đến cái gốc của vũ trụ, mà bỏ mất cái gốc của con người, cái đạo của con người, là đều không thể thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA.

    PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA cũng từ con người mà ra, con người giác ngộ hướng thiện mà thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Con người hiểu rõ Cội Nguồn của mình, hiểu rõ chân tâm chân tánh của mình làm chủ lương Tâm, sống theo lương Tâm. Sống vì nhân loại anh em, tận độ nhân loại anh em thời gọi là PHẬT TỔ, THÁNH TỔ, TIÊN TỔ, THẦN TỔ, CHÚA TỔ. Con người hiểu rõ đạo luật chân tâm chân tánh làm chủ đạo luật lương tâm thì gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Con người hiểu rõ nguồn cội của chính mình, không rời xa nguồn cội thì gọi đó là Viên Mãn, bảo vệ thiên luật vũ trụ, thiên ý CHA TRỜI, cũng chính là duy trì Đạo Luật lương tâm của mỗi con người. Có lòng thương người cứu vớt nhân loại anh em trở về với cội với nguồn thì gọi là những bậc GIÁO CHỦ.

    Như vậy các Tôn Giáo, Đạo Giáo cũng từ NHƠN ĐẠO, đạo con người, đạo làm người mà ra. Chỉ tại con người chạy theo danh từ, phân biệt danh từ, lệ thuộc danh từ, mà cho đạo nầy hơn đạo kia, tôn giáo nầy hơn tôn giáo nọ. Thật ra PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA cũng từ nhơn đạo con người mà ra. Nhơn Đạo ví như tòa nhà có nền móng, không có nền móng thì tòa nhà sụp đổ, nền móng vững chắc của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, chính là Nhơn Đạo, Đạo Con Người và Đạo Làm Người.

    Như chúng ta cũng biết, linh hồn con người phần vô vi có ba phần. Linh giác, linh thức, thuộc trí, thần lực, tinh lực, khí lực, nhị thể thân.

    Phần linh giác, linh thức, không tự nhận thức ra chính mình, thì gọi còn mê, linh giác, linh thức VÔ MINH. Nhận thức hiểu rõ về mình gọi là giác ngộ, bổn lai diện mục (minh tâm kiến tánh) gọi là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, làm chủ linh giác linh thức minh tâm kiến tánh của chính mình phát Tâm độ tận nhân loại anh em gọi là Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ. Những người còn mê, không tự giác ngộ hiểu biết về mình, không làm chủ được vận mệnh, không làm chủ được chân Tâm chân Tánh của chính mình, không tự biết mình từ đâu đến, và phải trở về đâu, lạc cội lạc nguồn sa vào con đường ác Đạo, gây ra không biết bao nhiêu là tội lỗi, luân hồi mãi mãi, những người như thế không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa được.

    Đấng tối cao vũ trụ, khai hóa tối thượng TỔ TIÊN từ bản thể tối cao LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN, an trụ thật tướng, thật tánh, của chính mình, khai tạo ra thần lực vũ trụ, và cũng từ bản thể LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN nầy, khởi động tạo ra vô lượng vô biên linh thức chuyển hóa thành thức tánh, làm cho ngũ thể chuyển theo tạo hình tạo vật, khai lập lên vũ trụ, và cũng từ bản thể LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN nầy, khởi dụng tạo ra vô lượng vô biên linh thức, tóm thâu tinh hoa khí hóa chơn dương hiện thân ra CHA TRỜI, chơn âm vũ trụ hiện thân ra ĐỊA MẪU. Tức là Tổ Tiên Khai Hóa hiện thân ra con người, một nam, một nữ, NAM CỐT CÁCH RỒNG, NỮ CỐT CÁCH TIÊN. Hay nói một cách khác TỔ TIÊN NHƯ LAI hiện thân là con người tức là CHA TRỜI, Cha của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Những con chiên những người đi theo Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa gọi Cha Trời là Chúa Trời. Cha Trời, Mẹ Trời sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người cho tới ngày nay (xem kinh Long Hoa Mật Tạng, Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rõ hơn). Con người là tiểu thiên tinh hoa vũ trụ, vì thế làm chủ được con người làm chủ Chân Tâm Chân Tánh con người thì coi như làm chủ của sự vạn năng, làm chủ vũ trụ.

    Đạo con người, và Đạo làm người, là cái Đạo vô cùng vô tận, tương ứng với cái Đạo của tạo hóa, ứng dụng cùng khắp trời đất. Đạo con người, là cái Đạo đi vào sự sống. Sự sống bản thân, gia đình, xã hội, non sông tổ quốc, tề gia, trị quốc, luận bình thiên hạ.

    Ở gia đình con người hiện ra cái đạo tề gia, ở xã hội con người hiện ra cái đạo trị quốc, ở giác ngộ con người hiện ra cái đạo cứu khổ, ban vui, luận bình thiên hạ.

    Đối với vợ thì người nam thể hiện ra cái đạo làm chồng, đối với chồng thì người nữ thể hiện ra cái đạo làm vợ.

    Đối với con cái thì người chồng, người vợ thể hiện ra cái đạo làm cha làm mẹ.

    Đối với cháu, chắt, chút, chít, thể hiện ra cái đạo làm ông làm bà.

    Đối với em thể hiện ra cái đạo làm anh làm chị.

    Đối với anh chị, thể hiện ra cái đạo làm em.

    Đối với thầy, thì thể hiện ra cái đạo làm trò.

    Đối với non sông tổ quốc, thì thể hiện cái đạo làm dân, thể hiện cái đạo làm chủ.

    Đối với chủ, thời thể hiện cái đạo làm tôi làm tớ.

    Nói tóm lại

    Cái đạo làm ĐẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, làm QUAN, thì phải hết lòng vì xã hội, hết lòng vì dân, hết lòng vì non sông tổ quốc.

    Đạo làm PHẬT làm THÁNH, làm TIÊN, làm THẦN, làm CHÚA, thì phải hết lòng vì TRỜI, vì THIÊN LUẬT, vì nhân loại con người, đem lại sự công bằng bình đẳng, bảo vệ quyền thiêng liêng mà TẠO HÓA đã ban tặng cho mỗi con người, những quyền cơ bản, những quyền bất khả xâm phạm. Như Quyền con người, quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, quyền hội họp, quyền theo hoặc không theo, quyền tự nguyện, quyền lập hội, quyền tự chủ, nói chung là 36 quyền chính 72 quyền phụ nhân quyền con người.

    Hay ngược lại: Làm ĐẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, làm QUAN, mà coi dân như nô lệ, coi dân như giai cấp phụng sự cho mình, độc tài, độc trị, tham lam tàn bạo, cửa quyền, sách nhiễu, vơ vét của công, đặt mình lên trên truyền thống Ông Cha, lên trên non sông tổ quốc, thì phạm phải đại kỵ của sự tổn đức. Đáng lý làm ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA, QUAN, rất nhiều đời, đằng nầy mới một đời mà đã lụn bại. Như vậy: Cái Đạo con người, cái Đạo làm người, chính là tu thân, xử thế, sống Công Bằng Bình Đẳng, tôn trọng lẫn nhau sống đúng lương tâm của mỗi con người. Thật là vô tận, vì thế có nhơn đạo là PHẬT ĐẠO, THÁNH ĐẠO, TIÊN ĐẠO, THẦN ĐẠO, CHÚA ĐẠO tự thành. ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA tự có.

    SAU ĐÂY LÀ PHẦN KINH TU THÂN XỬ THẾ ỔN ĐỊNH GIA ĐÌNH:

    * * *

    GIA ĐẠO KINH

    Trong cuộc sống không gì bằng đạo

    Mất đạo rồi nhân loại ngả nghiêng

    Làm người phải rõ nhơn luân

    Anh em chồng vợ cha con thực hành

    Nhơn luân chánh giáo chơn truyền

    Gắng công tu học đặng thành Thánh tâm

    * * *

    Đạo làm cha phải nghiêm minh

    Giới luật, khuôn phép, luôn luôn làm đầu

    Ăn ở mực thước mọi điều

    Làm gương soi sáng dắt dìu cháu con

    Sống theo đạo đức lương tâm

    Sáng bừng chân lý, sáng lòng Đức cha

    Tôn nghiêm trật tự sáng soi

    Thái sơn sừng sững, trước sau trọn lành

    Sống theo đạo luật đất trời

    Giữ thân trong sạch lìa đường tà gian

    Truyền kinh dạy đạo cháu con

    Khuyên răn, uốn nắn, nghĩa nhân ở đời

    * * *

    Cha có đạo con thời bắt chước

    Tập hiếu trung yêu nước yêu dân

    Làm cha vô đạo không xong

    Dễ bề sanh loạn ở trong gia đình

    * * *

    Làm mẹ trong sáng hiền lành

    Sanh con đẻ cái giữ gìn tông môn

    Sanh con không dạy là sai

    Lưu truyền nòi giống đi đôi đạo mầu

    Truyền cho con cháu mai sau

    Những lời dạy bảo đạo mầu tổ tiên

    Vợ chồng làm được như trên

    Cha Trời, Địa Mẫu, ứng linh hộ trì

    Công lao sánh tựa biển trời

    Vào ngôi Phật, Chúa, Thánh, Thần, chẳng sai

    * * *

    Làm con biết nghĩ, biết lo

    Theo lời dạy bảo mẹ cha dạy truyền

    Làm con hiếu hạnh trước tiên

    Thờ cha, kính mẹ, thuận, hiền, trước sau

    Ăn ở có nghĩa có nhân

    Chăm lo học tập mai sau nên người

    Trước tiên học lễ ở đời

    Sau là văn, võ, đức tài, hiếu, trung

    Chánh chân độ lượng rộng dung

    Kính trên nhường dưới sớm hôm khiêm hòa

    Xa nơi cờ bạc, rượu chè

    Gái trai lãng mạn đua đòi phí phung

    Tham lam, trộm cướp dứt đi

    Cống cao ngạo mạn khó thì nên danh

    Tự cao, tự phụ, ác gian

    Mong gì thành đạt vẻ vang cuộc đời

    Khoan thai độ lượng khiêm nhường

    Đuổi xua cho hết tánh tình sân si

    Rung đùi hách dịch tật hư

    Tà dâm rối loạn, tông môn còn gì

    * * *

    Bội ơn bạc nghĩa ở đời

    Làm sao lập đặng danh thời thơm danh

    Làm con hiếu đạo nhớ luôn

    Đáp đền sanh, dạy, mẹ cha biển trời

    Muôn đạo lấy hiếu làm đầu

    Hạnh cao như núi đức nào mà hơn

    Làm con đạo đức như trên

    Làm cho cha mẹ sớm hôm vừa lòng

    Cha mẹ đẹp dạ vui mừng

    Xứng dòng dõi đạo con Rồng cháu Tiên

    Cha Trời, Địa Mẫu trên cao

    Phật, Tiên, Thánh, Chúa, khắp nào càn khôn

    Hộ trì hiếu nghĩa nhân luân

    Làm cho sáng dạ thông minh đức tài

    Đạo con như vậy là thành

    Danh thơm khắp chốn tiếng lành đồn xa

    * * *

    Muốn cho gia đạo bình an

    Không gì hơn được nhân luân ở đời

    Chỉ có đạo nghĩa cao vời

    Làm cho hạnh phúc gia đình ấm êm

    * * *

    Làm chồng đạo nghĩa nhớ ghi

    Yêu thương đùm bọc chở che vợ hiền

    Thủy chung giữ trọn đời mình

    Một chồng một vợ trọn lành yên vui

    Đường đời chồng vợ cùng đi

    Vượt qua gian khổ đồng chia ngọt bùi

    Vượt qua biển khổ cảnh trần

    Vượt qua nghèo đói nghĩa tình biết bao

    Vượt qua bao cảnh gian lao

    Nghĩa chồng tình vợ biết bao đậm đà

    Bể trần gian khổ đường đời

    Đồng hành chồng vợ nương thời cùng nhau

    Vượt qua bể cả sông sâu

    Đường dài thiên lý có nhau đồng hành

    Thân nữ vốn đã yếu mềm

    Sanh con khó nhọc thân hình kém suy

    Bệnh tật đau ốm thường khi

    Cuộc đời khổ sở xiết chi khốn cùng

    Vậy nên trong đạo vợ chồng

    Thương yêu hết mực trọn phần thủy chung

    Sống theo nhân nghĩa sớm hôm

    Đẹp nhân đẹp nghĩa còn hơn đẹp người

    Làm chồng như vậy là lành

    Thánh, Thần, là đó chẳng lầm chẳng sai

    Chúa, Tiên, cũng vậy xưa nay

    Làm tròn bổn phận, làm cha, làm chồng

    * * *

    Làm vợ tiết hạnh trọn đời

    Kính chồng, chăm sóc, thuận lời đừng sai

    Thuận chồng thuận vợ lâu dài

    Trọn đời hạnh phúc có sai bao giờ

    Yêu chồng vợ khéo tôn thờ

    Cho chồng tỏa sáng cậy nhờ sớm hôm

    Làm vợ như vậy mới khôn

    Làm cho hạnh phúc càng thêm đậm đà

    Yêu chồng nào có thiệt thòi

    Trọn đời dâng hiến đức là hiền nhu

    Làm vợ như vậy mới cao

    Trăm năm hạnh phúc biết bao nghĩa tình

    Tiếng thơm lan tỏa xa gần

    Vợ chồng đạo nghĩa đạt thành đề thi

    Về trời sống mãi an vui

    Cháu con vinh hiển, hiển vinh rạng ngời

    * * *

    Vợ cùng chồng thuận hòa như vậy

    Làm tấm gương để lại về sau

    Cháu con lấy đó soi chung

    Hành trang đạo đức, vàng son cuộc đời

    * * *

    Vợ cùng chồng soi đường như vậy

    Thời gia đình họ tộc yên vui

    Làm chồng như ánh thái dương

    Sáng bừng chân lý gia môn rạng ngời

    Làm vợ như ánh trăng rằm

    Hiệp nhau soi sáng ở trong gia đình

    Để cho con cháu theo lần

    Con đường đạo đức Cha Trời truyền ban

    Nhơn luân đạo nghĩa cao thâm

    Tu hành phúc đến giàu sang vững bền

    * * *

    Làm anh nhớ chữ công bằng

    Nhớ cùng một cội một dòng máu ra

    Chung cùng một mẹ một cha

    Đã cùng một cội phải hòa nhịn nhau

    Làm anh phải nghĩ trước sau

    Sống theo lẽ phải siêng trau đức lành

    Ruột rà chung một gia đình

    Thương yêu đùm bọc thắm tình anh em

    Làm anh giới đức tinh nghiêm

    Ở ăn mực thước nói năng dạy bày

    Gương mẫu đạo đức gia đình

    Soi đường chỉ lối dắt dìu các em

    Một là không được tham lam

    Của ai xong nấy đừng mong làm gì

    Hai là không được sân si

    Hận thù ganh ghét được gì khổ thân

    Ba là không được dệt thêu

    Chuyện không nói có lắm điều diềm pha

    Bốn là nạnh hẹ cạnh tranh

    Phân bì nầy nọ lựa phần thiệt hơn

    Anh em như thể tay chân

    Tựa nương giúp đở xa gần xẻ chia

    Năm là không được hơn thua

    Làm cho huynh đệ sớm trưa tương tàn

    Sáu là không được làm càn

    Việc gì cũng phải rõ ràng phân minh

    Làm anh như vậy mới cao

    Sáng bừng đạo đức biết bao đẹp lành

    Trời ban hồng phúc nên người

    Mai sau ắt có võng dù, giàu sang

    * * *

    Làm em có nghĩa có nhân

    Kính anh nhường chị dạ vâng lựa lời

    Thuận anh thuận chị đạo trời

    Làm càn ngang bướng cuộc đời ra chi

    Làm em nhường nhịn tôn ti

    Thuận hòa trên dưới có gì không vui

    Nhiều khi anh chị lỗi sai

    Không nên đối đáp trả treo làm gì

    Một nhịn là chín sự lành

    Mai sau gặt hái vạn nhành hoa thơm

    Giàu sang nhờ biết luyện tu

    Kính trên nhường dưới mới nên danh vàng

    * * *

    Đạo làm em nhất thời hiện tại

    Khi lớn lên trở lại làm anh

    Làm thầy dạy đạo cứu dân

    Làm cha, làm mẹ, làm ông làm bà

    Nhơn luân chuyển hóa không ngừng

    Trải qua thứ tự từng phần thứ ngôi

    Làm người ai cũng như ai

    Lượt lần ngôi vị trải qua lượt lần

    * * *

    Kinh nầy từ trẻ đến già

    Thành tâm đọc tụng chỉ là một câu

    Họa tai liền bị biến tan

    Cha Trời, Địa Mẫu phóng quang hộ trì

    Huống chi tụng đọc thuộc lòng

    Huệ khai trí sáng học hành thông minh

    Thành tâm biên chép ấn in

    Cháu con đều đặng nên danh rạng ngời

    Giàu sang muôn kiếp vạn đời

    Biện tài vô ngại cõi trời tổ sư

    Phật, Tiên, Thánh, Chúa lạ chi

    Nhân Luân tu học tức thì hiện ra

    * * *

    Chúng con: Là Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa, nguyện cầu ơn trên CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, từ bi gia hộ cho toàn pháp giới cháu con, sớm dứt nghiệp ác, căn lành tăng trưởng, trở về Nguồn Cội, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.

    NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ LONG HOA CỬU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI (LẠY)

    NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY)

    CHÚ GIẢI TRỪ TAI HỌA:

    Nam mô Phật, nam mô Thánh, nam mô Tiên, nam mô Thần, nam mô Chúa. Nam mô ứng hóa Cửu Huyền, Cha Trời, Địa Mẫu, linh linh ứng ứng chuyển họa thành phúc, giải trừ oán nghiệp. Hai tay bắt ấn tý ngọ, miệng lâm râm đọc Nam Mô A Men, họa tai ác nghiệp biến.

    BÌNH LUẬN

    Dù cho ở thiên đàng, mà mất cái đạo con người và cái đạo làm người, thì cũng bị sa đọa như thường. Làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, mà không dạy con cái, cháu chắt, sống theo đạo đức, thì cũng có tội.

    Trời tuy giáng phúc nhưng cũng giáng họa, thưởng cái công lưu truyền nòi giống, nhưng phạt cái tội không lưu truyền đạo đức cho con, cho cháu. Xã hội cũng vậy, phát triển vật chất mà không đi đôi với văn minh tinh thần, thì đại họa sanh ra không sao tránh khỏi. Xem thường cái đạo con người, và cái đạo làm người tu nhân xử thế, thì kể như xã hội đó xây nhà không có nền móng, càng xây lên cao thời càng sụp đổ.

    Một khi con người nhận thức về đạo đức còn kém, trình độ dân trí còn thấp, mà bỏ mất văn hóa nhơn đạo thì xã hội đó không nói cũng biết, không khác gì xã hội rác rưởi, không đạo đức dối trá, mầm họa của sự tai họa, Sống theo cái đạo con người, và cái đạo làm người, thì đã có cái gốc của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, tất cả Đạo Giáo, Tôn Giáo, Chính Nghĩa, không ngoài cái Đạo con người và cái Đạo làm người, tu nhân xử thế.

    Làm cha làm mẹ trong gia đình cần phải hiểu rõ nhơn đạo, có hiểu rõ nhơn đạo, mới làm sáng cái đức, của đạo làm cha làm mẹ, tỏa sáng như mặt trời, mặt trăng, thì trong gia đình mới xóa ta đi sự u ám, sống có nề nếp, trật tự, trên dưới hòa thuận,

    Làm chồng là trụ cột trong gia đình, trên một nền tảng vững chãi của người vợ, để cho con cái bám trụ, vượt lên, những tầm cao trong xã hội sau nầy.

    Làm ĐẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, mà nắm vững cái Đạo làm người, trị quốc dạy dân, làm cho xã hội non sông tổ quốc thái bình thịnh vượng, dân chúng yên vui. Thì công đức của những ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA ấy phải nói là không thể nghĩ bàn, muôn kiếp thường hiện thân làm vua Chuyển Luân, trên tất cả Đế, Vương, Vua, Chúa, ngự trên châu báu, cõi Trời, cõi Người.

    PHẦN THƯA HỎI

    HỎI:

    Vì sao Đức Long Hoa CHA TRỜI, còn gọi là Cửu Huyền THẤT TỔ?

    ĐÁP:

    Chữ Cửu là chín, TỔ TIÊN hiện thân ra con người CHA TRỜI, MẸ TRỜI, có chín khiếu: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, lỗ tiểu, lỗ tiện. Chín khiếu thông thương khắp vũ trụ.

    Còn chữ HUYỀN, là nói đến thân người là tinh hoa vũ trụ thu nhỏ, tiểu thiên vũ trụ, không khác gì đại thiên vũ trụ, con người là động vật tối linh của trời đất. HUYỀN LINH không động vật nào linh bằng. Như vậy hai chữ Cửu Huyền là có ý nghĩa như trên.

    THẤT TỔ là nói đến CHA TRỜI CỬU HUYỀN khai ra THẤT GIÁO:

    1) PHẬT GIÁO, 2) THÁNH GIÁO, 3) TIÊN GIÁO, 4) CHÚA GIÁO, 5) THẦN GIÁO, 6) NHƠN GIÁO, 7) THẦY GIÁO.

    Bảy đại giáo nầy, CỬU HUYỀN CHA TRỜI sáng lập truyền xuống nên gọi là Cửu Huyền THẤT TỔ.

    TỔ TIÊN KHAI HÓA, HIỆN THÂN RA CHA TRỜI, CỬU HUYỀN THẤT TỔ, hay còn gọi là chúa Trời ĐẤNG CHA LÀNH ĐỘC TÔN VÔ NHỊ, TỐI CAO VŨ TRỤ.

    Ở PHẬT GIÁO có vô lượng PHẬT TỔ,

    Ở THÁNH GIÁO có vô lượng THÁNH TỔ,

    Ở TIÊN GIÁO có vô lượng TIÊN TỔ,

    Ở THẦN GIÁO có vô lượng THẦN TỔ,

    Ở THIÊN GIÁO có vô lượng CHÚA TỔ,

    Ở ĐỊA GIÁO có vô lượng ĐỊA TỔ,

    Ở NHƠN GIÁO có vô lượng THẦY TỔ,

    Tuy bảy giáo nhưng thật ra chỉ có một ông tổ Tối Cao đó là Đức CHA TRỜI, bảy nhánh chung cùng một Cội.

    NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý

    Sự chuyển luân trong vũ trụ, đến một thời điểm nào đó có đấng tối cao xuất hiện, thay thế cho Cha Trời, đấng tổng đà la ni của tạo hóa, tổng mật tạng vũ trụ, nói ra pháp đại đồng vũ trụ, đấng tối cao ngài là đức Hư Không, không ở trong bảy giáo, nhưng không xa rời bảy giáo, tùy thuận dân trí nhân loại mà chuyển pháp luân theo Thiên Ý Cha Trời.

    Đức Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời sáng lập ra bảy giáo, Cha Trời ngự trong trong tâm thức của mỗi con người, và dìu dắt con người đi đến chân thiện, trở thành vô lượng PHẬT TỔ, vô lượng THÁNH TỔ, vô lượng TIÊN TỔ, vô lượng THẦN TỔ, vô lượng CHÚA TỔ, vô lượng ĐỊA TỔ, vô lượng THẦY TỔ. Khi tất cả giáo trở về là một, hiệp vào chân tánh vũ trụ, Chân Tánh Đại Đồng, thì tổng trì ĐÀ LA NI, theo Thiên Ý Cha Trời, chuyển đại pháp luân, tận độ khắp ta bà thế giới, tam thiên đại thiên như số vi trần.

    * * *

    HẾT QUYỂN 1

    * * *
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...