Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn rồng tiên việt nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi shopoga, 1 Tháng mười một 2023.

  1. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 9: TRIỂN KHAI LỰC LƯỢNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về Nguyên Dực cùng các Tướng họp bàn kế sách chống giặc, thực hiện theo kế sách của. Hầu Thái Công, thông tin cuối cùng về quân giặc, không ngờ bị quân Ân đánh lừa thông tin, là quân Ân còn án binh bất động chưa tiến đánh Ninh Châu, nhưng thật ra quân Ân đã bí mật triển khai điều động quân binh rồi, vì sao quân Văn Lang lại không phát hiện được, vì dân chúng lúc nầy, hỗn loạn, lo tìm đường lánh nạn, tiến về Nam tránh quân xâm lược, nên quân Văn Lang khó phát hiện điều quân bí mật của quân Ân.

    Được thông tin quân Ân vẫn án binh bất động, chưa triển khai lực lượng, tiến đánh Ninh Châu, Tướng Soái Nguyên Dực trở về doanh trại, điều khiển quân binh, theo kế sách đã dự định:

    Hầu Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, tướng quân thống lĩnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm nay đến đồi Vạn Lâm theo sự chỉ dẫn quân Ninh Châu, trước khi trời sáng, để tránh tai mắt quân Ân phát hiện, phân bổ lực lượng những chỗ trong yếu phục kích kín đáo, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực đi sâu vào ổ phục kích rồi ra hiệu lịnh cho quân binh đồng loạt tấn công, tuân lịnh.

    Việt Luân Tướng Quân, nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông Bắc, đi trong đêm vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm chừng hơn 15 dặm ẩn náu, không cho địch phát hiện, khi địch đi qua khỏi thời đưa quân đến chận đường rút lui, tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

    Bạch Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn quân đi theo đoàn quân vận chuyển lương thực khi nghe có trận giao chiến thời thần tốc tiến về đồi Vạn Lâm trợ lực cho quân ta, tuân lịnh:

    Chồn cáo thi nhau cướp giang sang

    Mưu mô xảo quyệt mấy vạn ngàn

    Hung tàn bạo ác ăn uống máu

    Chúng dày, chúng xéo nát ruột gan

    Dân lành khốn khổ biết bao

    Chúng đâm chúng chém thây phơi khắp cùng

    Ngoại xâm lũ giặc bạo tàn

    Chúng vơ chúng vét xóm làng còn chi.

    Đây nói về Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 20 vạn quân chủ lực từ Vân Châu tiền về Kinh Đô, Nam Kinh Xích Quỷ, đến Huyện Nam Giao thời thấy dân chúng thi nhau chạy giặc, một cảnh tượng vô cùng thê thảm.

    Đời sau có kể lại rằng:

    Chết đói đầy đường thê thảm thay

    Cái lạnh trùm lên cắt thịt da

    Kêu gào thê thảm con tìm mẹ

    Đau buồn ức nghẹn con lạc cha.

    Trong tình cảnh nầy, Quan Tướng Văn Lang đau xót vô cùng, nhìn cảnh mẹ dắt con mặt mày bơ phờ chạy theo đoàn người tỵ nạn, không biết bao nhiêu chết đói, những cảnh tượng khốn đốn ấy không ai là không căm phẫn quân thù xâm lược.

    Vận nước suy do Nguồn Cội mất

    Nạn khắp cùng khó thoát tai ương

    Nghĩ đời càng nghĩ càng thương

    Cũng vì lạc Cội ngoại xâm hoành hành

    Gươm Trấn Quốc đâu còn biến mất

    Nghĩa đồng bào tan nát loạn li

    Truyền thống tốt đẹp quên đi

    Làm sao tránh khỏi ngoại xâm quét càn

    Lòng mê muội học đòi phương Bắc

    Giặc chuyển xây họa khắp nước non

    Mắt mưu gian kế Bắc phương

    Dã tâm xâm lược còn chi nước nhà

    Nền Văn Hiến tôn thờ gìn giữ

    Thời lo chi lũ giặc ngoại xâm

    Con đường dân chủ trống không

    Độc tài phải chịu nát tan cơ đồ

    Cây mất gốc héo cành héo ngọn

    Sông không nguồn sông cạn sông khô

    Mê lầm văn hóa ngoại ban

    Hồn linh nô lệ còn chi giống nòi

    Dân lạc Cội dân tình xơ xác

    Nạn vần xoay chết chóc điêu linh

    Chia năm xẻ bảy còn chi

    Làm mồi cho giặc nuốt thời béo no

    Mất truyền thống tan hoang nghiệp Tổ

    Đời lệ nô bể khổ chất chồng

    Mất Nguồn, mất Cội cha ông

    Nước non, non nước, chất chồng nạn tai.

    Nói về Tướng Soái Nguyên Minh cũng hiểu được phần nào tình hình Bắc Văn Lang, vì ảnh hưởng quá nhiều văn hóa, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng, đoán nầy, đoán kia, mê hoặc bởi yêu, tinh, ma, quỉ, ứng nhập vào, lung lạc, lòng mê muội của dân chúng, ứng quẻ, lời dạy bảo của thần linh, ông nầy làm Vua, bà kia làm Chúa, tin theo, làm theo, nổi lên đòi tự trị theo phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà cũng xưng Vua, Vua nầy thôn tính Vua kia, Vua kia thôn tính Vua nọ làm rối loạn Bắc Văn Lang. Tạo ra thời cơ xâm lược những tay tham tàn bạo ác phương Bắc, hậu quả là không sao cứu vãn được. Tướng Soái, Nguyên Minh cho quân tạm dừng nghĩ, vì còn cách Kinh Đô không bao xa, cho người thám thính tình hình của giặc.

    Không bao lâu thời quân thám thính về báo:

    Quân Ân đóng dinh trại cách Kinh Đô không xa, chúng dựng lên một đài quan sát rất cao sáu bảy tần, để quan sát động tỉnh trên 20 dặm, có lẽ chúng đã thấy quân binh chúng ta đã tiến đến đây, nhưng không thấy chúng động tỉnh gì.

    Nguyên Minh dừng quân nghỉ không bao lâu thời có quân vào báo:

    Các Châu hỗ trợ quân binh tham chiến.

    Nguyên Minh mừng rỡ hỏi:

    Được bao nhiêu?

    Quân binh bẩm báo:

    Bẩm Tướng Soái, hơn năm vạn, các Châu Phủ còn hỗ trợ lương thực.

    Nguyên Minh hết sức an tâm về cuộc chiến nầy. Nguyên Minh chưa biết phải đóng quân tại đâu, thời có người vào báo:

    Có vị Đại Quan muốn gặp Tướng Soái.

    Nguyên Minh hỏi:

    Ông ta là ai?

    Bỗng có người lên tiếng hỏi tiếp:

    Có phải ông ta là Đa Kế không?

    Vị Quan binh kinh ngạc nói:

    Sao ngài biết.

    Ông ta vui mừng trả lời:

    Được người đó tới giúp thời lo gì không thắng được giặc Ân.

    Đa Kế là vị Quan thanh liêm tinh thông Binh Pháp, thích sống ẩn dật, có lẽ không thể ngồi yên khi vận nước sắp rơi vào tay quân giặc. Vị Quan biết Đa Kế đó là ai vậy, còn ai vào đó nữa, chính là Lạc Hầu Công, từ Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, vào Kinh Đô Văn Lang cầu cứu viện binh.

    Nguyên Minh nghe Lạc Hầu Công khen ngợi người đó như thế liền cho mời vào. Nguyên Minh thấy Đa Kế là người dị tướng, biết ngay là người có tài hay, liền tiếp đón mời ngồi.

    Nguyên Minh hỏi:

    Nghe ngài tinh thông lục kinh lời đồn có đúng chăng?

    Đa Kế khiêm tốn nói:

    May mắn tôi có đọc qua, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Luân, ở vào thời đại đó mà biết nhiều hiểu rộng như vậy.

    Quả đúng là dị nhân. Nguyên Minh hỏi:

    Có kế sách gì chống trả lại quân Ân không?

    Đa Kế bẩm:

    Khoang nói đến chuyện đó vội, mà tìm nơi lợi thế để đóng quân, quân địch muốn đánh ta cũng khó. Theo tôi thấy Huyện An Giao, Huyện Long Giao là hai nơi đóng quân tốt nhất, một nơi gần quân Ân, một nơi xa quân Ân, ta chia hai lực lượng, hỗ trợ nhau liên kết bảo vệ nhau, không cho địch biết sức mạnh của ta, chúng ta hoạt động một mặt nổi một mặt chìm, một hành động bí mật, một hành động công khai, có như thế mới đánh thắng chúng được, hiệu quả chiến thắng quân thù, phần lớn là những kế sách bất ngờ, ai chủ động cuộc chiến người đó thắng.

    Nguyên Minh bằng nghe theo kế sách của Đa Kế, chia hai lực lượng, một nửa âm thầm đến huyện An Giao, một nửa rầm rộ đến huyện Long Giao.

    Nói về hơn 10 vạn quân rầm rộ kéo đến Huyện Long Giao, không xa doanh trại quân Ân là mấy, dựng doanh trại theo ngũ hành trận, Đông – Tây – Nam – Bắc – Trung Ương, lại cho dựng quan sát đài cao năm tần không thua kém gì quân Ân.

    Họa nào hơn bằng họa xâm lược

    Khổ nào hơn nước mất nhà tan

    Buồn nào hơn nỗi buồn nô lệ

    Cảnh ngục tù, đánh đập lầm thang.

    Đây nói về quân Ân bao vây Kinh Đô hơn ba tháng, trong không thể ra ngoài không không thể vào, cắt đứt mọi thông tin liên lạc, lương thực cạn kiệt lần, theo tình hình nầy giặc không đánh cũng tự thua, đầu hàng cũng chết, không đầu hàng cũng chết, phải nói lúc nào cũng ngồi trên đống lửa, các Tướng không còn giữ bình tỉnh được nữa.

    Lạc Cao Giang nói:

    Con cháu Tiên Rồng có chết thời chết cho vinh quang, không thể chết đói, hay chết cúi đầu trước quân giặc được, để tôi ra giết chúng một trận cho đã tay rồi chết cũng được.

    Hầu Việt Yên cũng nói:

    Tôi cũng thế để tôi ra trận quyết một trận sanh tử với chúng, có chết cũng cam.

    Trong lúc đắn đo suy nghĩ thời có quân trên thành vào báo:

    Có lẽ quân cứu viện chủ lực quân Văn Lang đã đến, cách Kinh Thành không xa, về hướng Nam, đóng trại tại Huyện Long Giao.

    Hùng Lang Công, cùng các Quan Tướng Kinh Thành, nghe tin nầy như cây chết héo lâu ngày gặp nước, như người chết đuối gặp phao, tất cả đều kéo lên Thành xem có đúng là sự thật không, quả đúng như vậy xa xa cờ xí quân Văn Lang rợp trời rợp đất. Hùng Lang Công cùng các Tướng như muốn ngặt thở trước tin vui nầy.

    Các Tướng hét lên:

    Chúng ta có quân cứu viện rồi, chuẩn bị tử chiến với quân xâm lược, vui sướng quá.

    Luồng gió hồi sanh đã đến rồi

    Lòng đầy vui sướng tận chân trời

    Văn Lang chủ lực quân đã đến

    Niềm tin chiến thắng dậy trong tôi.

    Nói về quân Ân, bao vây Kinh Đô không đánh cũng thắng, đó là điều hiển nhiên không chối cãi vào đâu được, nếu không có quân chủ lực Văn Lang đến cứu. Ân Mao Vương cùng Nương Nương là Nghịch Phong, đang lên kế sách đánh chiếm luôn nước Văn Lang, không phải là Bắc Văn Lang nữa. Với mộng xâm lược, lòng tham vô bờ biến, chúng quá hiểu rõ nước Văn Lang vô cùng rộng lớn, chỉ cần một Châu cũng bằng một nước lớn ở phương Bắc, đất đai trù phú, nông sản, thủy sản, lâm sản, không làm gì cho hết, nhất là ngành đồng, thau, sắt, thép, không có một đất nước nào bằng, chỉ cần chiếm lấy được nước Văn Lang thời coi như đã đến cực đỉnh, của sự xưng hùng xưng bá, chỉ trong vòng mấy trăm năm mà dân số tăng lên đông không kém gì phương Bắc.

    Ân Mao Vương, coi nước Văn Lang sắp thuộc về mình, thứ nhất là có quân Hồ, quân Hung Nô, thứ hai nước Văn Lang tình hình dân chúng bất mãn, lòng dân không bằng lòng cách cư xử Vương Quan đối với dân, bất hòa, dân không cùng chung chí hướng, bất ổn, dân tình luôn xáo trộn không yên, bất thường, dân chúng không lập trường, thường nghe lời xúi dục, bất trị không thể dạy dỗ theo ý của mình, dân chúng nổi lên đòi tự trị như đã thấy, bất đồng không cùng chí hướng, chia năm xẻ bảy, bất trắc, không lường trước được sự việc, có thể nói là bất lực trước tình hình của đất nước.

    Đây chính là cơ hội cho ta thôn tính nước Văn Lang, đánh bại quân chủ lực Văn Lang. Ân Mao Vương, đang hứng chí với mộng bá Vương Chúa Tể của mình, thời có quân vào báo:

    Bẩm Chúa Vương, quân thám báo đưa tin là quân chủ lực Văn Lang, từ Kinh Đô Văn Lang đã đến Huyện Nam Giao.

    Ân Mao Vương tức thời triệu tập các Tướng Lĩnh xa gần trấn thủ khắp nơi, về hội họp bàn kế sách tiêu diệt quân Văn Lang, thông tin nhanh chóng được ban ra, không bao lâu thời các tướng lĩnh đến đầy đủ.

    Mao Vương nói:

    Quân Văn Lang đã tiến đến gần sát chúng ta, chỉ còn hơn bốn mươi dặm, hãy điều động toàn lực lượng bao vây tấn công chúng.

    Hồ Ma can:

    Chưa cần đánh vội như thế, tuy biết rằng quân chủ lực Văn Lang từ xa xôi hơn một nghìn mấy trăm dặm kéo đến đây, thời quân binh đã mỏi mệt, chận đánh là ưu thế thuộc về ta. Nhưng xét lại thời chưa hợp lẽ, vì quân Văn Lang phát xuất lên đường từ lâu, hơn cả tháng, nay chúng mới tới đây, chúng di chuyển quân đi rất chậm, luôn luôn củng cố sức mạnh của quân binh, như vậy chúng đã chuẩn bị trước sự tấn công của chúng ta, hơn nữa chúng ta chưa nắm bắt được lực lượng quân Văn Lang là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần cũng cố lực lượng đối mặc với sự tấn công của quân Văn Lang.

    Ân Vương nghe Hồ Ma nói cũng có lý liền theo kế sách của Hồ Ma. Không bao lâu thời có quân vào báo:

    Quân Văn Lang duy chuyển rất nhanh, chúng đã kéo đến Huyện Long Giao cách chúng ta chỉ hơn 10 dặm.

    Ân Mao Vương nói:

    Chúng di chuyển nhanh đến thế sao?

    Bằng ra lịnh cho các Tướng:

    Chuẩn bị cho chiến đấu, tiếp tục theo dõi xem chúng tiến đánh nơi nào trước.

    Đây nói về quân Văn Lang chia hai lực lượng một âm thầm tiến về huyện An Giao, đóng đô hạ trại bí mật, một kéo quân rầm rộ duy chuyển nhanh chóng về Huyện Long Giao, dựng trại đóng quân tại đây, bày binh bố trận đóng quân theo ngũ hành trận, xong đâu vào đấy khí thế dậy trời. Tướng Soái Nguyên Minh cùng các Tướng lên đài quan sát thấy dinh trại quân Ân đồn trú xa gần nhiều nơi, theo xa xa luân trận, chỉ cần tiến đánh một doanh trại, thời các doanh trại khác tiến đánh ngay, phải nói là lợi hại vô cùng, các Tướng lĩnh đứng trên đài quan sát, thấy một doanh trại rộng lớn gần Kinh Đô, có lẽ đây là tổng doanh trại chỉ huy, quân Ân, điều khiển quân binh. Các Tướng lĩnh Văn Lang ai nấy cũng háo hức ra trận, mở màn trận chiến.

    Nguyên Minh, hộp bàn với các Tướng nói:

    Cuộc chiến chúng ta là cuộc chiến lâu dài, khó mà thắng gấp được, vì quân Ân rất hùng mạnh, tùy thời cơ mà thắng nhanh hay chậm, đã giáp mặt với quân Ân là chúng ta đã đi vào quyết tử, đã vào trận thời một mất một còn, nhất là trận mở màn chỉ có thắng không được thua. Tướng Lĩnh nào ra trận trước đây?

    Nguyên Minh hỏi các Tướng Lĩnh ai nấy cũng đều tranh nhau ra trận, không ai chịu nhường cho ai. Đa Kế thấy các Tướng Lĩnh tranh nhau không ai chịu nhường ai, bằng nghĩ ra một kế.

    Đa Kế nói:

    Lão Thần có một đề nghị, thôi thì bốc xăm vậy, ai bốc trúng người đó đi.

    Tất cả Tướng Lĩnh đều nhất trí. Thế là cuộc bốc xăm diễn ra, trong xăm chỉ có một chữ xuất, ai bốc trúng thời người đó ra trận, gần 20 tướng lĩnh ai nấy đều bốc một xăm.

    Cự Lân bốc xăm rồi mở ra xem, mừng rỡ reo lên:

    Tôi bốc trúng rồi, tôi bốc trúng rồi.

    Tướng Soái, Nguyên Minh tức thời ra lệnh:

    Cự Lân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân điểm 5 nghìn quân, khiêu chiến với quân Ân, tuân lịnh.

    Trước khi ra quân Đa Kế dặn:

    Thắng giặc nhờ cơ trí hơn là ở sức mạnh.

    Cự Lân như hiểu ý làm ra vẻ yếu đuối. Đa Kế nói:

    Chúng ta thắng trận đầu rồi.

    Ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cho lời nói nầy, chưa đánh mà biết thắng. Nói về Cự Lân điểm 5 nghìn quân binh, rồi truyền khẩu lệnh rằng:

    Tử chiến ra trận thời coi như đã chết, lao tới quân thù mà tiêu diệt.

    Hào khí Anh Linh đất phương Nam

    Ung đúc hùng anh sắt dạ gan

    Tung hoành ngang dọc trên sóng dữ

    Bắt Cọp rượt Rồng dậy núi non.

    Đây nói về Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh ở trên đài quan sát, thấy từ doanh trại quân Văn Lang đóng theo vị trí ngũ hành, từ nơi Trung Ương một đội quân kéo ra, dẫn đầu quân binh gồm có ba Tướng, trong đó có một Tướng là đáng chú ý hơn cả.

    Hồ Ma nói:

    Vị Tướng nầy không phải tầm thường đâu.

    Các Tướng Lĩnh không chú ý đến lời nói của Hồ Ma, mà tỏ vẻ xem thường Tướng địch Văn Lang.

    Có Tướng nói:

    Văn Lang đã hết người rồi sao, chẳng thấy chút gì là oai phong cả.

    Trong Tướng giặc Ân, có một Tướng nổi tiếng là vô cùng ngạo mạn không xem ai ra gì, và cũng chưa từng gặp đối thủ bao giờ, đã từng giết chết hơn vài chục Tướng, danh vang như sấm, người đó là ai, chính là Ngụy Đan.

    Ngụy Đan thưa với Chúa Ân Vương rằng:

    Để thần ra trận giết quách Tướng giặc Văn Lang kia làm giảm uy phong của chúng.

    Ân Vương nói:

    Phải thắng không được thua.

    Ngụy Đan điểm 5 nghìn binh từ trại giặc Ân xông ra quát lớn:

    Mau xưng tên họ về chầu âm phủ.

    Cự Lân giục ngựa xông lên thét:

    Ta là Cự Lân, mau khôn hồn đầu hàng, ta cho chết toàn thây.

    Ngụy Đan hét lên như sấm:

    Con chuột nhắt khua môi múa mỏ lớn lối xem đây.

    Tức thời cây đại giáo nặng đến 80 cân múa lên vù vù thúc ngựa lao tới chém Cự Lân một giáo như trời giáng, Cự Lân không dám chống đỡ thúc ngựa né tránh, Ngụy Đan, chém hụt một đao, bằng hét lên một tiếng thúc nhựa lao tới chém liền mấy giáo như tia chớp. Trước sức mạnh kinh khiếp của địch, Cự Lân chỉ biết né tránh muốn hụt hơi.

    Ngụy Đan dừng ngựa quát:

    Ngươi chỉ có cái tài né tránh, sao gọi là anh hùng.

    Cự Lân quát:

    Lại ta sợ gì ngươi mà không chống trả.

    Nói xong liền giục ngựa lao tới chém Ngụy Đan một đao. Ngụy Đan đưa giáo lên đỡ choang đinh tai nhức óc. Ngụy Đan thấy địch thủ không có gì là mạnh, thời tỏ vẻ coi thường, xông ngựa tới tấn công tới tấp. Cự Lân ra sức chống đỡ, hai bên đánh nhau hơn sáu mươi hiệp, vẫn chưa phân thắng bại, biết rằng Ngụy Đan luôn áp đảo Cự Lân. Ngụy Đan càng đánh càng tức giận, tưởng chừng như vài hiệp là hạ gục Cự Lân được ngay, nào hay đâu đánh hơn sáu mươi hiệp mà vẫn chưa hạ gục được Cự Lân, thử hỏi không tức sao được. Ngụy Đan vô cùng tức giận, thúc ngựa lao tới chém tới tấp, Cự Lân chống đỡ không nổi sắp bại đến nơi.

    Thật là:

    Một bên giáo chớp sáng ngời

    Một bên đao pháp lạ đời cương nhu

    Cự Lân càng đánh càng thua

    Ngụy Đan càng đánh càng reo càng hò

    Hai bên chiêng trống vang trời

    Quyết cùng tiêu diệt tại thời nơi đây

    Cự Lân sắp bại đến nơi

    Ngụy Đan dồn dập giáo thời nổ vang

    Âm ầm đất chuyển trời rung

    Giáo, đao chơm chớp bịt bùng bủa vây

    Cự Lân ra sức chuyển xây

    Đường tơ kẽ tóc mạng vong tức thì

    Ngụy Đan tỏ vẻ vui mừng

    Con mồi sắp ngã tàn đời nát thây

    Nào hay trận thế chuyển xây

    Bất ngờ đảo lộn kinh thay bất ngờ.

    Trên đài cao Ân Mao Vương kinh hải khi nghe tiếng thét như sấm của Cự Lân, thấy Cự Lân đang thế bại chuyển thành thế thắng, đang thế yếu trở thành thế mạnh. Trường đao chém tới như tia chớp ầm một tiếng đinh tai nhức óc.

    Ngụy Đan cả người lẫn ngựa lảo đảo, chưa kịp lấy lại bình tỉnh, thời một tia chớp khác lại chém tới, Ngụy Đan tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng. Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên chém quân Ân tơi tả, thây phơi chật đất, kinh hồn bạt vía.

    Trên đài cao Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh sửng sốt, không thể tin vào mắt mình. Ân Vương tức tối nói:

    Có ai ra trận hạ gục tướng địch đó cho ta.

    Một Tướng nữ lên tiếng nói:

    Để thần ra trận hạ gục tên Tướng xảo quyệt đó, cho chúng biết thế nào là sức mạnh của quân ta.

    Tên nữ Tướng đó là ai mà lớn lối như vậy, còn ai nữa tên là Chiên La nổi tiếng khắp vùng Tây Vu Hồ Ân. Chiên La điểm 3 nghìn quân nhanh chóng xông ra hét lớn:

    Xem ta lấy đầu ngươi đây.

    Nói xong thời giục ngựa lao tới. Bỗng có tiếng quát lanh lảnh:

    Nữ tặc hỗn láo xem đây.

    Tức thời một nữ Tướng xông ra chận đầu Chiên La chém tới một kiếm. Chiên La múa kiếm chống đỡ choang đinh tai nhức óc. Chiên La thấy Tướng nữ xông ra chận đánh mình tuổi còn trẻ mặt như trăng rằm, môi đỏ như son, cặp mắt như hồ thu long lanh sáng ngời, tuy là thân hình mảnh khảnh, nhưng không kém phần oai phong.

    Tức giận thét:

    Nữ tặc ngươi là ai mau xưng tên rồi chịu chết.

    Tướng nữ xông ra chận đầu tiên la quát:

    Ta là Khơ Lan, đưa ngươi về chầu âm phủ.

    Khơ Lan, nhìn nữ Tướng giặc đoán tuổi cũng cở như mình, mặt hoa, da phấn, tuy có vẻ mảnh mai, nhưng không kém phần uy dũng, hai nữ Tướng gườm nhau, như nói với nhau rằng, gặp ta ngươi phải bỏ mạng.

    Khơ Lan trợn mắt quát:

    Mau xưng tên họ ta không giết kẻ vô danh.

    Chiên La lại càng dữ tợn hơn nữa trợn mắt quát:

    Ta là Chiên La, nghe cho rõ rồi đi chầu Diêm Vương.

    Nói xong Chiên La thúc ngựa lao tới ra đòn, song kiếm chém tới kình phong tuông ra ù ù. Khơ Lan ra oai nào chịu kém quát lên một tiếng, múa kiếm lên chống đỡ. Lời thơ khen rằng.

    Khơ Lan, nữ tướng anh hùng

    Lên non bắc cọp, cỡi Rồng xưa nay

    Đã từng đạp sóng cỡi mây

    Ngư kình bỏ mạng nổi danh anh hùng.

    Đường kiếm Khơ Lan, như Rồng bay Phụng múa, chém tới ầm ầm. Chiên La nào chịu kém, song kiếm trên tay như bão táp cuồng phong.

    Về sau có thơ rằng.

    Người đẹp dễ đâu phải tầm thường

    Cỡi Rồng cỡi cọp múa đao thương

    Tung hoành ngang dọc trên trận chiến

    Dễ mấy đàn ông vượt trội hơn

    Kia kìa cát bụi tung trời đất

    Mưa đao, bão kiếm dậy núi non

    Vang rền sấm nổ luôn không dứt

    Người ngựa xáp chiến kiếm loáng loang

    Chiên La càng đánh càng hay

    Khơ Lan, càng đánh càng thêm càng tài

    Cát bụi mịt mù rền vang tiếng thép

    Chiêng, trống, dậy trời, trận chiến dậy non.

    Chiên La, Khơ Lan đánh hơn trăm hiệp kẻ năm lạng, người nửa cân, không ai hơn ai. Ân Mao Vương thấy Tướng Văn Lang tài ba như vậy, không còn dám xem thường nữa, khó nắm chắc phần thắng, Ân Vương cho đánh trống thu quân.

    Quân Văn Lang thấy thế cũng đánh trống thu quân, tức thời hai bên ngưng chiến, quân Văn Lang thắng trận, đem lại khí thế cho toàn quân Văn Lang.

    Tưởng rằng đánh bại quân Nam

    Nào hay thua trận, thở than đứng ngồi

    Tướng Nam quả thật Tướng Trời

    Khó mà tiêu diệt mộng thời vỡ tan.

    Đây nói về quân Ân thua trận Ân Mao Vương vô cùng bực tức quát tháo ầm ĩ:

    Chỉ mấy thằng nhóc con mà không tiêu diệt được, thời còn nói gì chiếm lấy nước Văn Lang, tức ôi là tức.

    Thấy cha tức giận như vậy, Mao Lợi an ủi nói:

    Để mai con ra trận lấy đầu chúng dâng lên Cha hả cơn giận.

    Ân Mao Vương biết con mình tài ba hơn người, khó có ai địch lại, bằng ưng thuận gật đầu. Nói về quân Văn Lang thắng trận, rồi im bặt không thấy xuất quân, không hiểu là có chuyện gì, lên đài quan sát thấy doanh trại quân Văn Lang binh lính đi qua đi lại như đang tập luyện binh pháp, chiêng, trống, dậy trời. Đã qua bảy ngày vẫn không thấy quân Văn Lang đến khiêu chiến, cứ ở trong doanh trại đánh trống khua chiêng. Ân Mao Vương, lấy làm lạ chúng sợ gì mà không xuất quân khiêu chiến, khi Bắc Văn Lang quân ta chiếm cứ gần hết, sắp mất Bắc Văn Lang đến nơi.

    Hồ Ma nói:

    Chúng không tới khiêu chiến đánh chúng ta, thời chúng ta tới khiêu chiến đánh chúng. Đàng nào cũng phải tiêu diệt chúng, càng nhanh càng tốt, đi vào ổn định Bắc Văn Lang, rồi tiến đánh Trung Văn Lang, cuối cùng là thôn tính Nam Văn Lang.

    Ân Mao Vương cho lời nói của Hồ Ma là phải, bằng theo kế sách đó mà thi hành. Ân Mao Vương cho mời Mao Lợi tới nói rằng:

    Tướng Văn Lang khá lợi hại, con ra quân phải hết sức cẩn thận. Con nên chọn mấy danh Tướng tài giỏi theo con xung trận, dẫn quân tới doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến.

    Mao Lợi nói:

    Con xin tuân lệnh.

    Nói về Mao Lợi được lệnh khiêu chiến với quân Văn Lang, mặt hầm hầm đầy sát khí, chọn hai Tướng tài điểm 5 nghìn quân, hùng hùng, hổ hổ kéo đến trước doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến, chửi bới om sòm:

    Quân Văn Lang co đầu rụt cổ kia, nước Văn Lang sắp về tay ta, các ngươi chạy đâu cho thoát, mau ra quy hàng thời sống, chống lại thời gà chó cũng chẳng còn, thức thời hiểu thế mới là khôn.

    Trên đài quan sát Tướng Soái, Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh, nhìn thấy quân Ân tới khiêu chiến, chửi bới om sòm, nhịn không được nữa đòi xuất quân giao chiến, ở trên khán đài cao bảy tần.

    Nguyên Minh quan sát ba Tướng Lĩnh của quân Ân, người nào người nấy uy dũng vô cùng, biết là ba Tướng tài, không dễ gì thắng được. Nguyên Minh chưa biết phải đề cử ai.

    Đa Kế hiểu nỗi băn khoăn của Chủ Soái bằng nói:

    Trong các Tướng Lĩnh ta không phải có một danh Tướng, con nhà danh gia Võ Tướng nổi tiếng nhiều đời, đời Tổ Tằng Tổ Cố, đã từng đánh bại quân Ân thời nhà Ân đó sao.

    Nguyên Minh nói:

    Có phải Lão Tướng gia nói đến hai anh em nhà Cao Vương phải không?

    Đa Kế nói:

    Phải. Cao Hải Đại Đô Tướng thống lãnh 10 vạn quân âm thầm lập doanh trại tại Huyện An Giao, còn Cao Sơn đang thống lãnh đại quân trọng yếu chủ lực ở đây. Cao Sơn ra trận nhất định thắng.

    Nguyên Minh liền cho mời Cao Sơn đến nói rằng:

    Quân Ân đã đến khiêu chiến, xét thấy khó có người thắng được chúng, nên điều Tướng quân ra trận. Cao Sơn vui vẻ nhận lệnh.

    Nguyên Minh nói:

    Tướng quân cần bao nhiêu quân binh thời điều động bấy nhiêu.

    Cao Sơn điểm 5 nghìn quân binh mở cửa doanh trại xông ra. Cao Sơn là vị Tướng khác thường, luôn ẩn cái tài chỉ hiện cái Đức, nên được lòng quân binh Tướng Sĩ, ít ai nhận ra cái tài vô tận của người nầy. Đa Kế là người tinh tế, thấy Cao Sơn lúc nào cũng khiêm cung, không cho ai biết mình là có tài, ít tham gia góp ý kiến nhưng lại hết lòng tận tụy với quân binh. Có lúc Cao Sơn than rằng:

    Nước non khó giữ được rồi

    Cội Nguồn văn hóa không còn ngửa nghiêng

    Văn Lang khó nổi bình yên

    Dân tình loạn lạc còn chi sơn hà

    Nhớ thời Quốc Tổ ông cha

    Yêu tinh, quỉ dữ, khiếp kinh hãi hùng

    Phương Nam hưng thịnh thái bình

    No cơm ấm áo nở nhành Thiên hương

    Bây giờ nước đổ non nghiêng

    Ngoại xâm dày xéo đảo điên cõi bờ

    Dân tình đói khổ ngục tù

    Thân tàn nô lệ, nghẹn ngào thở than

    Quân thù đánh đập dã man

    Lê la vạn dặm xác phơi dọc đường

    Ôi thôi lũ giặc bạo tàn

    Yêu tinh quỉ dữ quét càn hại dân

    Cội Nguồn văn hóa nơi đâu

    Sao không xuất hiện cứu dân buổi nầy

    Hiển Linh Quốc Đạo chuyển xây

    Mới mong diệt hết lũ bầy sói lang.

    Nói về Cao Sơn nhận ấn lệnh, điểm 5 nghìn quân mở cửa doanh trại xông ra hét lớn:

    Lũ quân xâm lược kia, khôn hồn thời ra khỏi đất phương Nam, thời còn mạng sống, bằng không tất cả đều vùi chôn nơi đây.

    Tướng giặc Ân phi ngựa tới quát tháo lớn lối nói:

    Chúa Vương ta muốn là Trời muốn, không ai cản được, đất Văn Lang sẽ thuộc về Chúa Vương ta. Quy thuận Chúa Vương ta thời sống, chống lại Chúa Vương ta thời chết.

    Cao Sơn không nói không rằng phi ngựa tới chém Tướng giặc một đao như trời giáng, bộ mặt dữ tợn của Tướng giặc nào chịu thua, múa giáo chống trả, choang, đinh tai nhức óc. Cao Sơn võ nghệ cao cường bay lên khỏi mình ngựa với thế Chim Điêu Bắt Rắn, từ trên không lao xuống ánh đao chớp chớp kinh hồn, Tướng giặc ra sức múa đao lên đỡ, ầm ầm kinh thiên động địa.

    Cao Sơn với pháp Lưu Thủy Hành Vân, lượng mình bay trở về mình ngựa, nhanh như chớp thúc ngựa lao tới đánh chiêu Ngọa Hổ Tiên Du, kình phong ầm ầm cuộn tới. Tướng giặc kinh khiếp chưa từng thấy đao pháp nào lợi hại như vậy. Ánh đao như mưa sa bão táp, hết chiêu nầy tới chiêu khác liên miên bất tận. Tướng giặc đờ muốn hụt hơi, mới có 20 hiệp tướng giặc đã ê ẩm cả tay.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Bản sơ hào khí nhất phương Nam

    Đao pháp múa lên sấm nổ vang

    Đã từng chém chết yêu, tinh, quỉ

    Tung hoành ngang dọc cả Bắc Nam.

    Cao Sơn hét lên một tiếng như sấm nổ, đường đao chơm chớp giật lưng trời. Tướng giặc kinh hoàng khiếp vía la lớn:

    Tuyệt Thế Ma Đao.

    Dở hết sức bình sanh chống trả, đùng đùng ầm ầm, một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng tại sa trường. Nói về Tướng giặc đứng gần Mao Lợi thấy Tây Đô sắp mất mạng liền phi ngựa vào cứu Tây Đô, nhưng đã muộn Tây Đô hồn du địa phủ. Tướng giặc mới lao ra cứu Tây Đô chính là Tào Hổ. Tào Hổ gầm lên như quỉ dữ, múa giáo chém tới ầm ầm kình phong tuôn ra ù ù cát bay đá chạy. Cao Sơn múa đao chống đỡ, choang, choang, đinh tai nhức óc. Tào Hổ liền dở tuyệt chiêu Kim Tiền Vượt Thác đường giáo kỳ ảo không biết đâu mà lường. Cao Sơn dùng chiêu Ô Long Cổn Địa chống trả ầm ầm long trời lở đất. Cao Sơn không bỏ lỡ dịp may đánh luôn ba chưởng, Tào Hổ múa giáo chống đỡ, đùng đùng ầm ầm dậy núi dậy non, hai bên đánh nhau trên bốn mươi hiệp.

    Cao Sơn hét lớn, thúc ngựa lao tới tay phải ra chiêu Long Hổ Xuất Du, tay trái ra chiêu Xuyên Chỉ Triệt Ma ánh đao chớp chớp, chỉ phong véo véo. Tào Hổ ra sức chống đỡ chiêu đao, liền bị trúng ngay một chỉ, muốn nhào xuống ngựa, nhanh như tia chớp Cao Sơn lao tới chém một đao, chết không kịp ngáp.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Phương Nam nào dễ hết anh hùng

    Dời non lấp biển đất trời rung

    Đường đao chơm chớp muôn vạn dặm

    Khiếp vía kinh hồn giặc cáo chung.

    Nói về Mao Lợi thấy Tào Hổ lâm nguy liền phi ngựa ra cứu vãn, nhưng không còn kịp nữa Tào Hổ hồn lìa khỏi xác bỏ mạng sa trường.

    Mao Lợi thấy chết liền hai Tướng sôi gan hét lớn:

    Nộp mạng đây.

    Liền thúc ngựa lao tới chém như mưa trút, Cao Sơn chống đỡ muốn hụt hơi. Đúng là kỳ phùng địch thủ, kẻ năm lạng, người nửa cân, hai bên đánh nhau long trời lở đất, đao qua giáo lại ầm ầm đùng đùng dậy núi dậy non, đá chạy, cát bay, mịt mù trời đất, choang, choang, đinh tai nhức óc. Quả là trận chiến kinh thiên động địa, đánh hơn ba mươi hiệp, Mao Lợi muốn giết ngay địch thủ bằng niệm chú thổi ra một luồng âm phong. Cao Sơn kinh hãi bỏ chạy, Mao Lợi rượt theo, bỗng Cao Sơn biến mất, Mao Lợi kinh hãi, không biết Cao Sơn ở đâu thời liền trúng ngay một chỉ, té nhào xuống ngựa. Cao Sơn lao tới chém một đao chết tốt.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Mấy đời danh Tướng tiếng hùng anh

    Tung hoành trận địa đánh giặc Ân

    Đường đao tuyệt thế xơi ba Tướng

    Rền vang danh tánh rạng trời xanh.

    Nói về Cao Sơn chém chết Mao Lợi thời nghe trên không có tiếng quát, kèm theo tia chớp đánh xuống. Cao Sơn thất kinh né tránh, đùng đùng đùng hiện ra ba cái hố lớn. Cao Sơn thấy người đánh mình là một thiếu phụ xinh đẹp, mặt đầy sát khí, người thiếu phụ ấy là ai thế, còn ai nữa vợ hai của Ân Mao Vương, mẹ của Mao Lợi.

    Nói về Nghịch Phong mẹ của Mao Lợi thấy con mình lâm nguy liền bay xuống cỡi con thiên lý mã bay tới trận địa nhưng không còn kịp nữa, Mao Lợi đã trúng một đao bỏ mạng. Nghịch Phong quyết giết chết Cao Sơn trả thù cho con không ngờ Cao Sơn tránh được. Nghịch Phong còn ở trên không hóa phép, trời đất tối mù tối mịt, yêu tinh quỉ dữ hiện ra đầy trời, xông tới chém giết quân Văn Lang.

    Cao Sơn ra sức chống lại yêu tinh quỉ dữ, trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt, cuồng phong càng lúc càng mạnh, quân Văn Lang ngã rạp, yêu tinh chém giết tơi bời. Cao Sơn phóng ngựa thoát thân.

    Nhưng tiếng quát lanh lảnh:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời một luồng tia sáng ập đến, Cao Sơn múa đao chống đỡ, ầm ầm khủng khiếp, trước thần lực kinh hồn của nữ Tướng giặc. Cao Sơn chống trả hơn mười chiêu, thời trúng ngay một kiếm bỏ mạng.

    Giết chết Cao Sơn, Nghịch Phong thu phép tức thời trời quang mây tạnh, yêu tinh quỉ dữ biến mất, quân Văn Lang chết sạch không còn một người.

    Trên quan sát đài Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hồn bạt vía. Đa Kế thở dài nói:

    Không ngờ giặc Ân có Tướng nữ tài ba như vậy.

    Nguyên Minh cùng các Tướng đem xác Cao Sơn về doanh trại, tẩm liệm cho người đưa về quê an táng.

    Nói về Nghịch Phong giết chết Cao Sơn, tiêu diệt năm nghìn quân Văn Lang, ôm xác con bay về trại, Ân Mao Vương tức giận râu tóc dựng đứng, ra lệnh cho các Tướng Lĩnh về hộp, quyết một trận với quân Văn Lang. Cùng lúc ấy quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, chúng bắt hơn ba vạn dân Văn Lang, vận chuyển dầu, cây, dây, thang, lá chắn, những dụng cụ công phá thành, ở các Châu Phủ, chúng đã chiếm đóng, vận chuyển hết đến thành Xích Linh, mở ra trận đánh công phá thành quy mô, chiếm được thành Xích Linh coi như chiếm được Đông Bắc Văn Lang.
     
  2. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 10: ĐẠI PHÁ QUÂN HUNG NÔ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về quân Xích Linh, vừa lọt vào tầm ngắm của quân xâm lược. Tức thời hai bên đường cây cối rậm rạp tên bắn ra như mưa.

    Lạc Hồng thất kinh la lớn:

    Có quân mai phục, có quân mai phục. Lui quân, lui quân, lui quân mau.

    Trong tình thế tên giặc bắn ra xối xả. Quân Xích Linh lui ra khỏi đồi Vạn Linh chết chóc thương vong rất lớn. Tàn quân lui về thành Xích Linh trong tình cảnh vô cùng thê thảm, tả tơi chết chóc hơn phân nửa.

    Mới hay cuộc sống trên đời

    Lầm than khốn khổ bởi gì ngoại xâm.

    Họa nầy chưa hết thời họa khác đã kéo đến, quân Hung Nô từ các ngã kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu. Nhìn quân Hung Nô bao vây trùng trùng điệp điệp.

    Lạc Hầu Vương than rằng:

    Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, lệ thuộc nô lệ văn hóa phương Bắc, thời đại họa giáng xuống không sao tránh khỏi. Tinh thần dân chúng bị mê hoặc bởi văn hóa phi nghĩa xâm lược của ngoại lai, làm cho Bắc Văn Lang tan rã sự đoàn kết, chia năm, xẻ bảy, nổi lên đòi tự trị, theo văn hóa đấu tranh, tranh giành quyền lực, nồi da nấu thịt ở phương Bắc, thời làm sao tránh khỏi ngoại bang thôn tính.

    Nói về quân hung nô từ các ngã kéo đến đông như kiến bao vây thành Xích Linh. Sau ba ngày thời quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, nhờ lực lượng yêu tinh, quỉ dữ hỗ trợ. Nhờ kế sách của Lạc Kim Tiên, quân Hung Nô ý đồ tấn công đã thất bại vì yêu tinh, quỉ dữ chúng khiếp sợ uy linh Quốc Tổ. Hung Nô Vương là tay hung tàn bạo ác chúng không dễ gì chịu thua, bằng trăm phương nghìn kế, chiếm lấy cho được Xích Linh Giao Châu.

    Quân Hung Nô là quân hung tàn bạo ác, không có việc ác nào mà chúng không làm, chúng bắt dân chúng Bắc Văn Lang, cũng như tù binh Văn Lang có hơn ba vạn người, đày đọa không khác gì sống trong địa ngục. Chúng bắt dân chúng khuân vác dụng cụ, vận chuyển thang giây, vận chuyển dầu, vận chuyển cây, vận chuyển đá, vận chuyển những vật dễ cháy, từ các Châu, Quận, Huyện, chúng đã chiếm lấy được, vận chuyển cả ngày lẫn đêm, đến Xích Linh để chúng công phá thành.

    Lạc Hầu Vương cùng các Quan nhìn thấy quân Hung Nô vận chuyển dụng cụ công phá thành càng lúc càng nhiều, thời vô cùng kinh hãi. Trong lúc lo sợ thời có chim bồ câu đưa thơ từ Huyện An Giao gởi tới. Nội dung thơ như sau: Quân chủ lực đã đến An Giao, cho người đến gặp Đô Tướng, người báo Ngô Việt. Lạc Hầu Vương thấy hai chữ Ngô Việt liền tin tưởng hết sức mừng rỡ, liền cho người theo đường bí mật đến An Giao.

    Không thể ngồi yên khi quân thù xâm lược

    Không thể ngồi yên khi nước non loạn lạc

    Hãy đứng lên, nào hiệp lực chung tay cứu nước

    Giành lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc

    Quyền mưu sanh, quyền độc lập, quyền tự do.

    Đây nói về Đô Tướng Cao Hải, theo lịnh Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 10 vạn quân âm thầm đến Huyện An Giao, âm thầm dựng trại đóng đô ở đó, tùy cơ ứng biến triệt phá quân giặc. Cao Hải là người không những văn võ song toàn, mà cơ trí cũng hơn hẳn người, luôn luôn cho người nắm bắt thông tin, chính xác thành lập đội quân thám báo thiện nghệ, hoạt động rộng khắp. Nên hiểu rõ cánh quân Long Giao đã thắng trận, lại hiểu rõ quân Hung Nô đang ráo riết chuẩn bị tấn công Xích Linh Châu bằng gọi bố chính Ngô Việt, Huyện An Giao đến, dùng chim bồ câu đặc biệt gởi thư cho Lạc Hầu Vương.

    Cao Hải cùng các quan Tướng đang bàn kế sách đánh quân Hung Nô, thời có thám báo vào báo:

    Bẩm Đô Tướng quân, có người từ thành Xích Linh tới.

    Cao Hải nói:

    Cho mời vào.

    Cao Hải nhìn người mới đến thời nhận ra ngay, không phải là quân binh bình thường, mà là một Đại Tướng quân cơ trí hơn người, bằng thi lễ mời ngồi. Người làm nhiệm vụ quan trọng bí mật kia là ai thế, còn ai nữa nếu không phải Đinh Hoàng tướng quân thời ai đảm nhiệm trong trách nầy. Đinh Hoàng tướng quân đã từng nghe tiếng hai anh em nhà danh gia Cao Hải, Cao Sơn. Đúng là danh bất hư truyền. Cao Hải tướng người uy nghiêm, hai con mắt sáng ngời, trầm lặng khác thường, đúng là mẫu người có tài cơ trí hơn người.

    Đinh Hoàng thi lễ nói:

    Đinh Hoàng tôi được lệnh ký thác của Lạc Hầu Gia, đến đây bàn kế sách triệt phá quân Hung Nô.

    Hai bên thi lễ khách sáo xong rồi đi ngay vào vấn đề chính. Đinh Hoàng thông báo tình hình quân Hung Nô xong. Rồi nói rằng:

    Theo tình hình nhận biết của tôi, thời nội trong ngày mai chúng tấn công phá thành.

    Cao Hải hỏi:

    Tướng quân từ thành Xích Linh đến đây dọc đường có thấy quân Hung Nô mai phục không? Nếu có chúng phòng bị thế nào?

    Đinh Hoàng nói:

    Quân Hung Nô chiếm lĩnh các Châu Huyện một cách dễ dàng, sanh ra cao ngạo, xem quân binh Văn Lang không vào đâu. Nên sự đề phòng không cao độ, trên đường từ Xích Linh đến đây không thấy quân Hung Nô mai phục, quân Hung Nô rất mạnh về kỵ binh, chúng duy chuyển rất nhanh, chỉ trong vòng một giờ, chúng duy chuyển hơn mấy mươi dặm, muốn tiêu diệt hết chúng không phải dễ. Hiện giờ chúng tập trung lực lượng cao độ tấn công thành, nên không mấy chú trọng quân Văn Lang tấn công, vì chúng nghĩ quân Văn Lang chỉ là quân nhỏ lẻ, hiện đang trấn giữ các Châu thành, nên không còn cơ hội để tấn công chúng.

    Cao Hải hỏi:

    Chúng ta có thể chịu đựng được mấy ngày công phá thành của chúng.

    Đinh Hoàng nói:

    Tuy thành Xích Linh là thành trì kiên cố, có lợi thế phòng thủ cao, nhưng trước sức mạnh của quân Hung Nô, nếu khéo điều binh khiển Tướng, kết hợp toàn lực lượng dân chúng trong thành, có thể cầm cự hơn mười ngày.

    Cao Hải nói:

    Chỉ cần cầm cự ba ngày là đủ. Quân Hung Nô tính khí hung bạo, chúng tấn công ba ngày hao binh tổn Tướng, mà chưa chiếm được thành, chúng sẽ nổi điên lên tấn công luôn cả đêm, đến đêm thứ ba quân hung nô ráo riết công phá thành khi thấy Nam trại, Tây trại, Đông trại quân Hung Nô bị cháy, quân Hung Nô rối loạn, thời mở cổng thành ùa ra tiêu diệt chúng, chúng ta quyết tử với chúng một trận, còn mất thắng thua nầy.

    Hai bên bàn bạc xong đâu vào đấy, màn đêm buông xuống, Đinh Hoàng dùng thuật kinh công đi trong đêm như một bóng ma, với quân binh Hung Nô không có sự cảnh giác cao, nên Đinh Hoàng qua mặt chúng một cách dễ dàng, theo con đường bí mật trở về thành Xích Linh.

    Nước non gặp lúc nguy nan

    Vẫn còn những kẻ hiếu trung sáng ngời

    Kể gì sống chết cuộc đời

    Ngày đêm ra sức chống thời ngoại xâm.

    Đây nói về Hung Nô Vương, cùng hai người con là Hung Đa Di, Hung Quân Liệt mỗi người con thống lãnh 10 vạn quân. Hung Nô Vương thống lãnh 12 vạn quân ồ ạt xâm chiếm Đông Bắc Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre, cuồn cuộn như nước lũ tràn tới, tràn tới đâu cuốn sạch tới đó. Những bộ lạc Bách Việt Văn Lang, ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng nổi lên xưng Vua Chúa đòi tự trị, làm rối loạn tình hình Bắc Văn Lang, chia năm xẻ bảy, sức mạnh đoàn kết toàn dân không còn nữa, như một bó đũa đã rời từng cây. Chính người dân Bắc Văn Lang đã mở ra trang sử suy tàn, mở đường cho các thế lực ngoại ban, có cơ hội xâm lược Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, thấy thời cơ đã đến chúng làm gì bỏ qua cơ hội, liền kéo quân xâm lược Bắc Văn Lang, thế mạnh như cuồng phong vũ bão. Những bộ lạc, tự mình đánh mất truyền thống Anh Linh, Đại Nam Văn Lang con cháu Tiên Rồng, chạy theo văn hóa phương Bắc, học đòi theo văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà, cũng nổi lên xưng Vua, xưng Chúa, đòi tự trị, bị quân Hung Nô quét sạch, như quét rác, không mấy khó khăn, những Vua Việt nổi lên đòi tự trị chết thê chết thảm.

    Sau có thơ rằng:

    Ôi những kẻ lầm đường lạc lối

    Lạc tâm hồn vào lối yêu ma

    Tự mình rước giặc vào tha

    Chúng đâm, chúng chém, chúng xơi sạch sành.

    Chỉ còn thành Xích Linh, khí thế con Rồng cháu Tiên, luôn vang dội dòng máu hùng anh. Quân Hung Nô hiểu rõ chỉ cần chiếm được thành Xích Linh, thời coi như chiếm lĩnh hầu hết Đông Bắc Văn Lang, còn mấy Châu thành phía Nam Xích Linh là những Châu thành nhỏ, trục lợi giao thương không như thành Xích Linh, phải nói thành Xích Linh là trung tâm giao thương các Châu thành Đông Bắc Văn Lang, dân chúng nơi Xích Linh Giao Châu giàu có vô cùng, không những về ngành thủy sản, hải sản, nông sản, lâm sản, mà ngành giao thương, đa ngành buôn bán cũng vô cùng tấp nập, miếng mồi béo bở thèm muốn của quân Hung Nô, nên chúng quyết tâm chiếm cho được Xích Linh Giao Châu. Quân Hung Nô sau khi quét sạch, những ông Vua Việt nổi lên đòi tự trị, như giết một con chó. Rồi từ Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, địa phận Đông Bắc Văn Lang, chúng chia làm ba mũi chính, như ba con đỉa khổng lồ quơ cái vòi hút máu, từ ba hướng lao nhanh tới thành Xích Linh, bao vây chận nghẹt ba cổng chính trong bất xuất, ngoại bất nhập, hầu cô lập, nếu không đầu hàng thời chết lần chết mòn, cuối cùng cũng phải dâng thành cho chúng. Chúng chận nghẹt ba cổng chính, Nam cổng, Bắc cổng, Tây cổng, chúng quyết chiếm cho được thành Xích Linh, nên đóng đô lập doanh trại cách ba cổng thành không xa. Tây trại do Hung Đa Di, thống lãnh chỉ huy. Nam trại do Hung Nô Vương, thống lãnh chỉ huy. Bắc trại do Hung Quân Liệt, thống lãnh chỉ huy. Chúng bắt dân chúng Văn Lang hơn ba vạn người làm nô lệ vận chuyển dụng cụ công phá thành. Sau những ngày chửng bị đầy đủ, không chần chờ gì thêm nữa chúng ra lịnh tấn công, chúng tấn công ngay trong đêm thứ ba, những kế sách bị thất bại, và chúng chuyển sang tấn công bằng ngày.

    Trời thức giấc ôi mây mù trắng xóa

    Gió lạnh về như lan tỏa vào tim

    Mây lững lờ như buồn bã mông mênh

    Một cái chết đang gần kề trước mắt

    Những linh hồn âm phủ đã gọi tên.

    Quân Hung Nô bắt đầu chuyển động, tiếng tù thúc quân vang dậy cả non sông, chúng ào ào hò hét thi nhau lao tới cung thành.

    Nghe tù trận hụ lên vang dội

    Như báo rằng chiến trận đến nơi

    Kia kìa ác quỉ hò reo

    Ào ào nhanh chóng leo lên cung thành

    Chúng thét gào rền trời rền đất

    Như đòi hồn ăn nuốt kinh Thiên

    Nối đuôi chen lấn leo lên

    Vạn nghìn con chuột khiếp kinh bạc hồn.

    Quân Hung Nô như hàng vạn con chuột ào ào leo lên tường, bên dưới có quân xạ tiễn bắn như mưa yểm trợ.

    Đây nói về Lạc Hầu Vương, cùng các Quan nóng lòng chờ đợi, bỗng từ đường hầm bí mật xuất hiện một bóng người. Lạc Hầu Vương cùng các Tướng nhận ra ngay Đinh Hoàng, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đinh Hoàng nhanh chóng thuật lại tất cả những gì mình đã thấy, rồi lấy ra một bức thơ, do Cao Hải gởi nói lên những cơ mật tiêu diệt quân Hung Nô.

    Nội dung thơ như sau: Tất cả quân binh trong thành, ra sức chống trả đến ngày thứ ba, theo tính khí hung hãn của quân Hung Nô, thời chúng sẽ tấn công cả ngày lẫn đêm, từ đêm thứ ba trở lên. Khi trên thành thấy ba doanh trại của quân Hung Nô bị bốc lửa, thời mở cổng thành xông ra tử chiến với chúng, thắng hay thua cũng chỉ trong một trận đánh nầy. Lạc Hầu Vương cùng các Quan bàn bạc chiến thuật phòng thủ suốt ngày cả đêm, hầu tìm ra giải pháp tốt nhất. Quân dân thành Xích Linh đồng một lòng chống trả đến cùng, chuẩn bị cho tử chiến lên đến tột đỉnh. Trên thành quân dân nhìn thấy quân Hung Nô chửng bị tấn công, đều đồng loạt cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ phù hộ. Nhờ thế mà tinh thần quân dân bình tĩnh lạ lùng, để cho quân Hung Nô leo lên hơn nữa thành, thời trống chiêng nổi lên quyết tử.

    Thế là lao giáo như mưa

    Lửa, dầu, đổ xuống khiếp kinh bạc hồn

    Cây, đá, ném xuống ầm ầm

    Hung Nô bỏ mạng rồi đời lớp lang

    Đất trời rung chuyển rền vang

    Hung Nô phơi xác chết thôi kể gì

    Ba ngày ra sức công thành

    Cũng không chiếm được quân thù lộn gan

    Hung Nô gào thét dậy non

    Đêm về trận chiến càng thêm kinh hoàng

    Bỗng đâu lửa dậy đùng đùng

    Vang trời ngựa hí khắp cùng thiên la

    Hung Nô doanh trại cháy tiêu

    Binh trời ập tới bao vây trong ngoài

    Hung Nô khiếp vía kinh hồn

    Quân binh rối loạn dập dồn đạp nhau

    Cổng thành đã mở toan ra

    Quân binh lũ lượt xông ra chém nhàu

    Hung Nô ngã rạp tơi bời

    Mở đường tẩu thoát hãi hùng khiếp kinh.

    Đây nói về Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt vì xem thường tinh thần chiến đấu quân dân thành Xích Linh. Nên chuẩn bị không chu đáo, ỷ đông chỉ cần tấn công là chiếm được thành, không ngờ quân Văn Lang phòng thủ vững chắc. Quân Hung Nô chết như rạ, tấn công liền ba ngày đi tiêu hơn ba vạn quân, mà vẫn không chiếm được thành, điên tiết dồn quân tấn công luôn cả ngày lẫn đêm. Nhờ sự hỗ trợ của yêu tinh ma quỷ chúng làm cho trời đất tối tăm mù mịt, nhưng chúng không vào được trong thành, nên không gây ra sự rối loạn trong quân binh. Đang lúc hăng say tấn công, bỗng thấy lửa đỏ dậy trời, ba doanh trại Hung Nô bị bốc cháy.

    Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt kinh hãi la lên:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Bỗng nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, Hung Nô Vương hét lớn:

    Chúng ta bị quân Văn Lang chiếm lấy doanh trại, cũng như bao vây chúng ta, mau phá vòng vây lui quân.

    Cùng trong lúc ấy các cửa thành mở toan, quân binh ùa ra chém giết dữ dội. Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt khiếp vía, không biết địch ở nơi nào nhiều hay ít, chỉ nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, chiêng trống ầm ầm làm khiếp nhược tinh thần quân Hung Nô. Quân Hung Nô dẫm đạp lên nhau chạy toán loạn.

    Nói về Hung Đa Di dẫn bại quân phá vòng vây, ùa nhau chạy về phía Tây Bắc, thời nghe tên bắn xối xả như mưa, đội kỵ binh nhanh chóng vượt lên, thời nghe một tiếng quát long trời lở đất:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời tướng lĩnh quân Văn Lang múa đao chém tới Hung Đa Di, Hung Đa Di múa giáo chống đỡ rồi quày ngựa bỏ chạy, gặp phải quân phục kích, Hung Đa Di không còn tinh thần chiến đấu, thúc ngựa chạy thoát về hướng Bắc, quân Văn Lang không rượt đuổi vì chỉ có hơn năm trăm quân.

    Sau có thơ rằng:

    Văn lang con cháu Tiên Rồng

    Anh hùng gan dạ lẫy lừng muôn thu

    Đánh cho khiếp vía ngoại xâm

    Đánh cho hổ báo vùi chôn trận tiền

    Đánh cho quân giặc đảo điên

    Thây phơi rợp đất, xác phơi đầy đồng

    Vốn loài ăn cướp non sông

    Tàn đời lũ giặc vùi chôn tàn đời.

    Đây nói về Hung Quân Liệt kinh hồn bạt vía chưa biết chạy về hướng nào, thời nghe tiếng quát lanh lảnh:

    Chạy đâu cho thoát.

    Múa kiếm thúc ngựa lao vào chém Hung Quân Liệt, Hung Quân Liệt múa giáo chống trả.

    Bỗng có tiếng quát như sấm:

    Để thằng giặc nầy cho tôi.

    Đinh Hoàng múa thương đâm tới vèo vèo, Hung Quân Liệt ra sức chống trả, bỗng có tiếng nói quân gia chạy theo lối nầy, Hung Quân Liệt còn tinh thần đâu mà chiến đấu, đành thúc ngựa đào tẩu.

    Bỗng có tiếng quát:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời một người xuất hiện trường đao chém tới ầm ầm, Hung Quân Liệt kinh hãi:

    Tướng Văn Lang ở đâu mà đông thế.

    Ráng thúc ngựa chạy dài, quân Văn Lang tha hồ mà chém mà giết.

    Đây nói về Hung Nô Vương trong lòng chưa hết kinh hãi:

    Không hiểu quân Văn Lang ở đâu tới mà đông đến thế? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Từ dưới đất chui lên?

    Hung Nô Vương phá vòng vây chạy về hướng Tây. Bỗng một tiếng quát như sấm nổ:

    Ta chờ ngươi đã lâu mau nộp mạng đi.

    Tức thời thanh trường đao như sấm sét đánh tới, tướng Hung Nô Vương đưa lao lên chống đỡ ầm ầm đùng đùng, vị Tướng Văn Lang nào để cho Tướng Hung Nô kịp trở tay, thanh trường đao như tia chớp chém tới Tướng Hung Nô tránh không kịp trúng một đao ngã gục. Hung Nô Vương lấy làm kinh khiếp, liền hóa phép nổi lên một trận cuồng phong mù trời mịt đất, phá vòng vây chạy trốn thoát, người Tướng Văn Lang kia là ai làm cho Hung Nô Vương khiếp vía như vậy, người đó chính là Đô Đại Tướng Cao Hải.

    Đây nói về Đại Đô Tướng quân Cao Hải, sau khi thảo luận cùng Đinh Hoàng, những khó khăn cùng thuận lợi, những gì cần làm ngay, tất cả đều lên phương án cẩn mật cho trận tiêu diệt quân Hung Nô. Sau khi Đinh Hoàng đi rồi, Cao Hải cùng các Tướng Lĩnh với một quyết tâm cao, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, không hổ danh là con Rồng cháu Tiên.

    Sau có thơ khen rằng:

    Từ thuở cha ông thuở Hồng Hoang

    Anh Linh truyền xuống nước Văn Lang

    Tiên Rồng nòi giống uy Linh ấy

    Khí phách hùng anh ngút mây ngàn

    Truyền thống Anh Linh rền trời đất

    Quân thù cướp nước mộng tiêu tan

    Phương Nam rền mãi lòng bất khuất

    Trung, hiếu, trải lòng khắp nước non.

    Cao Hải nói:

    Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, luôn luôn thừa kế những gì ông cha để lại. Bổn phận làm con cháu như chúng ta, phải hết lòng bảo vệ non sông Tổ Quốc, không để mất đi một tất đất, dù phải hy sinh tính mạng. Giặc Ân, giặc Hung Nô, giặc Hồ, chúng là loài yêu tinh, quỹ dữ, chuyên hút máu người, và luôn có dã tâm xâm lược đất chúng ta, chúng đã tràn qua, cướp của giết người, bắt dân ta làm nô lệ, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp con gái, đàn bà, phụ nữ, vơ vét của cải, con gà con chó chúng chẳng tha, dân chúng khiếp sợ trốn chạy, bệnh tật, đói, rét, chết khắp nẻo đường, cha mất con, vợ mất chồng, mối thù xâm lược nầy chúng ta bắt chúng phải trả, chúng đã dẫm chân lên quê hương tổ quốc chúng ta, thời chúng không còn cơ hội để mà trở về, thân xác của chúng phải đổ xuống làm phân cho đất phương Nam. Chúng ta không thể đứng nhìn mà phải chiến đấu thật anh dũng. Chiến đấu quên mình, chiến đấu vì muôn dân, chiến đấu vì non sông tổ quốc. Đã ra quân thời quyết tử, các tướng nói theo đã ra quân thời quyết tử, đã ra quân thời quyết tử.

    Cao Hải ra lịnh:

    Bố Chính Ngô Việt, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân, tấn công vào Nam doanh trại của quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật kín đáo, cách xa doanh trại chúng chừng khoảng 20 dặm, không cho chúng phát hiện ra chúng ta, chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng, bất ngờ tấn công vào Nam doanh trại của chúng, tiêu diệt sạch, đốt sạch, tiến quân ra bao vây tiêu diệt quân Hung Nô, tuân lịnh.

    Phan Thanh Hải, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân tấn công vào Tây doanh trại quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật khéo léo kín đáo, phải đảm bảo an toàn bí mật cách xa doanh trại chừng 20 dặm chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào doanh trại tiêu diệt gọn đốt sạch, rồi kéo quân phục kích đường mòn chận đánh đường rút lui của chúng, tuân lịnh.

    Trương Việt Hàn, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo 5 nghìn quân, bí mật đi đường vòng bọc xuống phía Đông, vượt qua địa giới thành Xích Linh, khi trời sáng thời cho quân ẩn núp kín đáo, cách xa doanh trại chừng 20 dặm không cho chúng phát hiện ra chúng ta, đêm xuống thời duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào Bắc doanh trại quân Hung Nô, tiêu diệt sạch, đốt sạch, rồi kéo quân ra phục kích những đường mòn tiêu diệt quân hỗn loạn tháo chạy của chúng, tuân lịnh.

    Ngô Việt Tiên nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân, từ phía tây đánh xuống phía sau lưng địch, dồn chúng vào chân tường thành Xích Linh, tha hồ mà chém giết, tuân lịnh.

    Nguyên Hạo Hạo nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân từ phía Đông đánh thọc lên, bao vây tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

    Còn ta thống lãnh 3 vạn quân từ phía Nam sau lưng chúng đánh tới. Nói về các Tướng Lĩnh sau khi nhận lịnh âm thầm lặng lẽ triển khai lực lượng, di chuyển trong đêm, theo kế hoạch đã dự định, quân Hung Nô không hề hay biết gì cả, chờ đêm xuống là đồng loạt tấn công.

    Đây nói về quân Hung Nô chỉ lo tập trung lực lượng công phá thành, vì chưa nắm bắt được thông tin quân chủ lực Văn Lang đã đến, nên không có sự đề phòng, quân Văn Lang lại vô cùng bí mật di chuyển. Quân Hung Nô công phá thành ba ngày mà không chiếm được, lại hao quân tổn tướng rất nhiều, đi tiêu ba vạn, Hung Nô Vương sôi gan, hộp hai con cùng các Tướng lĩnh, bàn kế sách chiếm cho được thành Xích Linh nội trong một đêm một ngày.

    Hung Đa Di nói:

    Hãy huy động toàn lực lượng thang giây, và nhiều phương tiện công phá thành khác, dồn hết tấn công vào đêm nay, sáng mai là chiếm lấy thành Xích Linh.

    Hung Quân Liệt nói:

    Hãy triệu yêu tinh, quỉ dữ đến làm phép yểm trợ cho quân ta, làm cho mù trời mù đất chúng không thấy được quân ta, chúng ta mới ồ ạt xông lên chiếm lấy thành nhanh chóng.

    Hung Nô Vương khen:

    Con nói phải.

    Thế là trong đêm hôm đó quân Hung Nô dốc toàn lực lượng, công thành có sự yểm trợ của yêu tinh quỉ dữ. Ánh dương quang đã chìm lần trong đêm tối. Tiếng rỉ rả côn trùng, tiếng rì rào của gió, mãi rì rầm than thở liên miên, giọt sương còn chưa tượng hình thành. Thời bầu trời bỗng nhiên đen ngòm, tối mù tối mịt, đèn đuốc trên thành tắt ngúm hết thảy. Quân Hung Nô ào ào leo lên thành như nước tràn lên đê, trong đêm tối quân Xích Linh chém lớp nầy chúng ào lên lớp khác, không còn cách gì chống trả lại nổi. Trong tình thế nguy cấp cấp ấy.

    Thời thấy ba doanh trại quân Hung Nô bốc cháy ngùn ngụt, lửa đỏ rực cả bầu trời, quân reo dậy đất, cùng lúc ấy cuồng phong mây đen cũng tan biến hết, quân Hung Nô khiếp hoảng khi nghe tiếng tù rút quân bỏ chạy, bị quân Xích Linh chém, bắn, xối xả chết la liệt, nằm dày trên mặt thành. Thấy quân Hung Nô rối loạn không leo lên tường thành nữa, theo còi lịnh quân Xích Linh mở cổng thành lao ra chém quân Hung Nô như chém chuối.

    Về sau có thơ rằng:

    Tiếng quân reo dậy trời dậy đất

    Chiêng, trống rền khiếp vía Hung Nô

    Đùng đùng đao kiếm như mưa

    Ầm ầm trận địa khiếp kinh hãi hùng

    Giặc Hung Nô bịt bùng gươm giáo

    Đạp lên nhau chạy tháo, chạy chui

    Tên bay, lao, giáo, khắp nơi

    Hung Nô bỏ mạng ôi thôi khắp cùng

    Một trận chiến lẫy lừng sông núi

    Quân Hung Nô khiếp vía hồn kinh

    Tiên Rồng nào phải dễ xơi

    Tàn đời xâm lược ôi thôi tàn đời

    Cờ đại nghĩa ngời ngời chiến thắng

    Quân Hung Nô phơi xác như non

    Đáng đời lũ giặc ngoại xâm

    Đáng đời lũ giặc vùi chôn đáng đời.

    Nói về quân Hung Nô bại trận chạy sống chạy chết khi không còn thấy quân Văn Lang rượt đuổi nữa, thời mới cho quân dừng nghĩ.

    Hung Nô Vương than vắng thở dài:

    Quân Văn Lang là quân Trời, mới lợi hại như vậy.

    Điểm lại quân binh thời chết hơn phân nửa, Hung Nô Vương cứ than thở mãi. Bỗng thấy quân binh lao tới, Hung Nô Vương kinh hãi, tưởng là quân Văn Lang đuổi theo, chừng khi nhìn kỷ thời không phải, đó là tàn quân của Hung Đa Di, và quân của Hung Quân Liệt, cha con gặp nhau than thở không thôi.

    Hung Quân Liệt, nói:

    Không hiểu quân Văn Lang ở đâu ra mà đông đến thế, chạy chỗ nào cũng gặp phải quân Văn Lang.

    Thật ra quân Văn Lang chỉ có 10 vạn mà thôi, chỉ khéo chủ động, bày binh bố trận, làm cho quân địch hoang mang khiếp sợ, cứ tưởng như hàng mấy mươi vạn quân. Trong chiến tranh, kẻ nào nắm chủ động, về tâm lý, chủ động về bày binh bố trận, chủ động về trận chiến, chủ động đường tiến lui, hiểu rõ về quân địch, mà địch chẳng hiểu rõ gì về mình, chủ động trong mọi tình huống, chủ động trong mọi thời cơ. Thời coi như phần thắng đã thuộc về mình, quân Hung Nô có hơn 30 vạn quân chỉ thua một trận mà đi tiêu hơn phân nửa, giờ chỉ còn, không đầy 15 vạn quân, Hung Nô Vương mất hết ý chí xâm lược.

    Hai người con Hung Nô thấy vậy liền khuyên:

    Còn nước còn tác củng cố lại lực lượng hợp với quân Ân, tiêu diệt quân Văn Lang.

    Hung Nô Vương như có tia sáng liền cho người thám thính quân Ân thắng bại ra sao rồi hể tính.
     
  3. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 11: BẠI LỘ CƠ MƯU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về tình hình chiến sự Ninh Giao Châu, Lạc Đại Vương, Hầu Thái Công, Nguyên Dực, cùng các Tướng Lĩnh, bàn bạc đưa ra nhiều giải pháp ưu việt nhất, hiệu quả nhất, tiêu diệt quân Ân, quân Hồ.

    Nào hay trong lúc bàn bạc, có hai con yêu tinh ẩn mình nghe lén, những cơ mật binh pháp, đây là một tổn thất lớn, có thể nói ván cờ đã bại lộ, đưa đến thất bại mà không hay biết gì cả. Sát Sát nương nương là tay xảo quyệt, nắm bắt tất cả cơ mật thông tin của quân Văn Lang, nhưng làm ra như mình không hay biết, quân binh không động đậy gì cả. Nhưng thật ra Sát Sát đã triển khai quân binh hết rồi, Tướng soái Nguyên Dực, nắm bắt được thông tin cuối cùng là quân Ân chưa xuất binh.

    Nguyên Dực cùng các Tướng rời khỏi thành Ninh Châu trở về doanh trại, triển khai lực lượng, điều động quân binh, theo kế sách đã thống nhất chung, chia quân làm ba đạo quân Một đạo quân đến đồi Vạn Lâm phục kích. Một đạo quân bọc về hướng Đông vượt qua đồi Vạn Lâm, đánh bọc sau lưng chận đường rút lui của giặc. Một đạo quân chủ lực bọc về hướng Tây vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm, chận đứng đường tháo chạy quân Ân, rồi tiến thẳng chiếm lại thành Kinh Châu, khí thế ra quân với niềm tin chiến thắng.

    Nói về Hầu Tướng Quân, theo lịnh của chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm tối, đến đồi Vạn Lâm phục kích, trước khi trời sáng hầu tránh tai mắt quân Ân phát hiện. Khi đạo quân đến gần đồi Vạn Lâm, thời thấy âm khí nặng nề, sương rơi lớp lớp, cơn gió âm u như mang đầy sự chết chóc, hầu Tướng quân bỗng rùng mình như linh cảm có chuyện không may.

    Số mệnh huyền cơ Trời đã định

    Văn Lang tai nạn bởi nghiệp xưa

    Hồn giặc phiêu phiêu trong gió bụi

    Che chở giặc Ân hóa gió mưa.

    Đồi Vạn Lâm cây cối rậm rạp, sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn. Sao mai đã mọc, nhưng màn đêm vẫn còn u tối, đại quân vừa tiến vào đồi Vạn Lâm.

    Thời có tiếng nói:

    Hầu Tướng Quân sao tôi linh cảm như có điều không may, chúng ta không nên tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, hãy cho người thám thính thử xem.

    Người vừa lên tiếng đó chính là nữ Tướng quân, Chăm Ly, Nữ Tướng tài năng quân Văn Lang. Hầu Tướng Quân, nghe Chăm Ly nói cũng phải, liền cho người đi sâu vào đồi Vạn Lâm thám thính.

    Quân thám thính xong rồi trở ra báo:

    Bẩm tướng quân ngoài sương mù dày đặc ra, thời không có động tịnh gì cả.

    Hầu Tướng Quân nghe báo cáo như thế thời hơi an tâm. Đạo quân tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, cả một khu đồi rộng lớn như thế, mà yên tĩnh lạ lùng.

    Chăm Ly nói:

    Theo kinh nghiệm của tôi, đáng lý ra giờ nầy thời nhiều loài chim đã thức giấc, chúng ríu ra ríu rít, nhiều loài thú đã đi ăn, nhưng đồi Vạn Lâm nầy cây cối vô cùng rậm rạp thế mà im tiếng lặng hơi.

    Hầu Tướng Quân cũng thấy nghi nghi:

    Nhưng đã kéo quân vào không lẽ lui quân trở ra, có lẽ chúng ta đa nghi quá cũng nên.

    Thế là đạo quân vẫn tiếp tục tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, đường sá quanh co rậm rạp, nhưng không có việc gì xảy ra, đồi rừng vẫn im lặng, một sự im lặng kỳ lạ vô cùng, khi đạo quân đã vào hết đồi Vạn Lâm.

    Hầu Tướng Quân mới thở phào nhẹ nhõm nói:

    Chúng ta đa nghi quá. Nào có thấy gì đâu?

    Hầu Tướng Quân ra lệnh:

    Hãy tìm nơi ẩn núp.

    Lúc bấy giờ sương chưa tan vẫn còn che chắn tầm nhìn, trên vài mươi thước thời không thấy gì cả, huống chi là rừng rậm. Bỗng nghe tiếng tù khai trận nổi lên inh ỏi. Hầu Tướng Quân kinh hồn bạt vía.

    Chăm Ly thét lớn:

    Có quân mai phục.

    Hầu Tướng Quân ra lệnh:

    Rút lui, rút lui.

    Quân binh tức thời hỗn loạn, dồn ép nhau thậm chí đạp lên nhau mà chạy, hai bên đường tên bắn ra như mưa trút, quân Văn Lang càng thêm hoảng loạn, bị trúng tên chết vô số kể.

    Hầu Tướng Quân thét lớn:

    Phá vòng vây rút lui.

    Nhưng quân Ân đã tràn ra, chém giết quân Văn Lang, biết không còn rút lui được nữa.

    Chăm Ly thét lên:

    Lấy lại bình tỉnh, xông vào quyết tử với quân thù, tiến lên, tiến lên, tử chiến tử chiến.

    Thế là quân binh bình tỉnh xông vào quyết tử với giặc Ân, trận chiến xảy ra long trời lở đất.

    Sau có thơ khen rằng:

    Tìm cái sống trong đường tơ kẽ tóc

    Chí hùng anh lớp lớp xông lên

    Dù ngã xuống nhưng linh hồn bất tử

    Hãy tiến lên nào ta hãy tiến lên.

    Quân Ân không ngờ quân Văn Lang anh dũng như vậy, anh dũng chống trả quyết liệt, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên. Nữ Tướng Chăm Ly như con Phụng Hoàng tung bay trên đầu bầy sói, đường gươm như mưa sa bão táp, chém xối xả xuống quân thù, quân Ân rơi đầu lớp lớp.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Nữ tướng tài cao được mấy người

    Đường gươm vun vút chém quân thù

    Thây người ngã gục ôi kinh khiếp

    Anh linh hào kiệt rạng muôn thu.

    Chăm Ly vừa chém quân thù vừa gào thét:

    Tướng quân phá vòng vây thoát đi, để tôi chận đứng chúng.

    Tức thời múa gươm chém tới ầm ầm, phá vòng vây cho Hầu Tướng Quân chạy thoát:

    Về sau có thơ khen rằng.

    Một mình tả đột hữu xông

    Mở đường cứu Tướng má hồng máu tuôn

    Đường gươm như ánh sao đêm

    Chớp lòa vun vút chém bay đầu thù.

    Hầu Tướng Quân rơi nước mắt, thét lên một tiếng như sấm nổ, múa đao lao vào chém giết quân Ân.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Cái chết gần kề có sợ chi

    Chết vì trung hiếu chết uy nghi

    Đường đao trung dũng đầy khí phách

    Tung hoành gào thét chết sá chi

    Đã chết thời chết một lần

    Chết cho non nước thêm phần uy linh

    Hy sinh đến lúc hy sinh

    Trải lòng trung hiếu còn chi vui bằng.

    Tướng lĩnh quân Ân là Võ Vu, thấy Tướng nữ Văn Lang vô cùng xinh đẹp, có ý bắt sống về làm đồ chơi. Bằng sai Tiểu Hổ:

    Ngươi xông xa bắt con nhãi đó cho ta.

    Tiểu Hổ hiểu ý Chủ Tướng, bằng nói:

    Tướng quân xài ớn rồi giao cho thuộc hạ.

    Tiểu Hổ, từ nơi ẩn núp phóng ngựa lao ra, múa giáo chém tới Chăm Ly. Chăm Ly đang hăng say chém giết quân Ân, nghe tiếng hét sau lưng, lại nghe có gió giáo chém tới, liền nhanh như chớp lách người cả ngựa né tránh. Tiểu Hổ vốn là tay háo sắc, đánh những đòn chí tử nhưng không nguy hiểm, vì y muốn bắt sống Chăm Ly. Chăm Ly lúc nầy đâu còn nghĩ gì đến cái chết, mỗi đường gươm là mỗi đường thí mạng, lợi hại vô cùng, Tiểu Hổ vì quá háo sắc, Chăm Ly chém rơi đầu.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Ghê thay nữ tướng anh hùng

    Trước bầy sói dữ tung hoành xông pha

    Đường gươm như ánh sao sa

    Quân thù bỏ mạng khiếp kinh quân thù.

    Võ Vu nhìn thấy nữ Tướng Văn Lang lợi hại như vậy, không còn mơ tưởng đến làm đồ chơi nữa, bằng ra lệnh:

    Bắn chết nữ Tướng kia cho ta.

    Tức thời hàng trăm hàng nghìn mũi tên lao tới, găm đầy mình như lông nhím, trước khi chết Chăm Ly hét lên một tiếng, đường gươm vun vút chém vào quân Ân, giết luôn một lúc mười tên nữa, vì sao Chăm Ly găm tên đầy mình mà không chết liền, là nhờ áo giáp đồng Trước cái chết đầy anh dũng của Chăm Ly.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Trước lúc chết đầy hào hùng khí phách

    Đầy hiên ngang lòng bất khuất biết bao

    Thân ngã xuống, nhưng tâm hồn không ngã

    Mãi sáng ngời như muôn vạn vì sao

    Sao Mai đẹp mãi vì sao

    Chăm Ly, đẹp mãi muôn thu sáng ngời.

    Nói về Hầu Tướng Quân thấy Chăm Ly anh dũng hy sinh, liền quát lên một tiếng, múa trường đao chém tới tấp vào quân thù, chém quân Ân như chém chuối. Võ Vu Tướng giặc Ân kinh hãi, hét lớn:

    Bắn chết Tướng Văn Lang kia cho ta.

    Quân theo lịnh tập trung bắn Hầu Tướng Quân, Hầu Tướng Quân trúng tên đầy mình, trước khi chết trường đao vẫn chém xuống quân thù quân Ân khiếp vía kinh hoàng.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Hầu tướng anh hùng khiếp ngoại xâm

    Sá gì cái chết nhẹ hơn lông

    Trung hoành ngang dọc xông pha chém

    Kinh hồn bạt vía lũ giặc Ân.

    Nói về quân Văn Lang như rắn mất đầu, thi nhau phá vòng vây bỏ chạy, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn, chạy trốn thất lạc khắp mọi nơi.

    Thắng bại xưa nay quá rõ thì

    Cơ mưu bại lộ hết đường đi

    Bị động khó mong giành chiến thắng

    Sử chép để đời có sai chi.

    PHẦN 12: BẠI TRẬN

    Cơ mưu bại lộ thật đớn đau

    Sa vào cạm bẫy chết thảm sầu

    Cơ Trời vận hóa còn đen thẩm

    Kiếp nạn truyền miên trước lẫn sau.

    Đây nói về Việt Luân Tướng Quân, thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông theo sự chỉ đường quân Ninh Châu, đạo quân đi đến gần sáng, khi đạo quân đi qua. Huyện Ninh Điền, bỗng có một luồng gió lạ thổi đến, làm gãy cây cờ chủ lực quân Văn Lang, ai nấy đều thất kinh, không hiểu là chuyện gì sắp xảy ra, địa phận Huyện Ninh Điền, không những dân thưa thớt, cây cối um tùm rậm rạp, khó mà phát hiện ra quân ẩn núp, lại thêm sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn, vượt qua Huyện Ninh Điền, thời coi như đã vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm.

    Việt Luân Tướng Quân, định cho đạo quân vượt qua khỏi Huyện Ninh Điền, thời cho quân dừng nghĩ ẩn núp tại đây, mới cho người thám thính động tỉnh của quân Ân. Lúc nầy trời cũng đã hừng hừng sáng, sương mù còn dày đặc chưa tan, đạo quân đang đi qua những chỗ hiểm địa, thời cây cối hai bên đường bỗng rung động, tức thời tiếng tù khai chiến nổi lên.

    Việt Luân Tướng Quân thét lớn:

    Có quân mai phục, có quân mai phục, mau vượt qua nơi hiểm địa.

    Nhưng không còn vượt lên được nữa. Hai bên đường hiểm địa tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Bỗng thấy một vị Tướng phi ngựa tới chỗ Việt Luân Tướng Quân nói:

    Quân địch đã bao vây tất cả, chúng ta đang kẹt trong các chỗ hiểm địa, chỉ còn tử chiến với chúng mà thôi.

    Việt Luân Tướng Quân lấy lại bình tĩnh ra lệnh cho toàn quân xông lên tử chiến, quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh không còn rối loạn nữa, chiến đấu chống trả quyết liệt, xông lên tấn công quân Hồ.

    Về sau có thơ rằng:

    Thế cùng đường còn chi để mất

    Nào xông lên càng quét quân thù

    Đã vào trận kể gì sống chết

    Hãy xông lên gào thét xung phong.

    Nói về Hồ Man Quân thấy quân Văn Lang lọt vào hiểm địa vòng vây, thời coi như nắm chắc phần thắng, tha hồ mà chém giết quân Văn Lang. Hồ Man Quân khoan khoái vô cùng, Hồ Man Quân ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ kinh hoàng khiếp vía, hỗn loạn bị trúng tên chết thôi là chết, không ngờ chiêng trống quân Văn Lang nổi lên, ngựa hí quân reo dậy đất, không còn rối loạn nữa, xông lên tử chiến, không còn biết sợ chết là gì nữa. Quân Hồ bất ngờ trước tinh thần anh dũng của quân Văn Lang, bị quân Văn Lang lao đến chém tơi tả.

    Hồ Man Quân kinh hoảng trước dũng khí anh hùng của quân Văn Lang, bằng thúc quân giao đấu. Quân Hồ đã lợi thế mà còn chủ động trận địa, nên dù quân Văn Lang anh dũng mấy cũng khó mà chuyển xây tình thế được. Trận địa kéo dài cho tới giữa trưa, quân Hồ đi tiêu ba vạn, quân Văn Lang không còn một mạng.

    Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng vẫn còn khiếp vía, nhìn lên trời than thở:

    Quân Văn Lang là quân Thần quân Thánh, thảo nào hai trăm năm về trước quân Ân đã thất bại, không còn gì nghi ngờ nữa.

    Hồ Man Quân, như muốn tiêu tan mộng xâm lược Văn Lang. Hồ Man Quân thắng trận những bao nỗi ê chề, đứt tiêu hơn ba vạn quân, thắng mà chẳng khác gì thua, thắng mà khiếp sợ trước quân Thần, quân Thánh, sự anh dũng không một người chạy trốn, không một người đầu hàng, chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Hồ Man Quân đây là lần đầu tiên nhìn thấy tinh thần chiến đấu, tinh thần quyết tử, cho Tổ Quốc quyết sinh của quân binh Văn Lang, đáng nể phục, đáng khiếp sợ. Hồ Man Quân nghĩ không hiểu những gì sẽ xảy ra đối với Địa Linh Sinh Nhân Kiệt nầy.

    Đây nói về Bạch Tướng Quân dẫn theo 5 nghìn quân theo bảo vệ đội quân vận chuyển lương thực, hể nghe tin có trận giao chiến ở đồi Vạn Lâm, thời kéo quân tới yểm trợ. Đội quân vận chuyển lương thực đi chậm, sương mù xuống ước cả áo, tiếng gà rừng gáy như báo hiệu trời sắp hừng sáng. Một nỗi buồn như len lỏi vào linh hồn quân binh, không hiểu nổi buồn vì quê hương Tổ Quốc đang bị ngoại xâm dày xéo thảm thê, hay là nỗi buồn vì nhớ nhà khi nghe tiếng gà gáy, gọi cả đàn thức dậy, vui vầy bên nhau một ngày mới. Bạch Tướng Quân đang đi linh cảm như đang có trận giao tranh, ở tận xa xa không lẽ đồi Vạn Lâm đã vào chiến trận, sao không đúng như dự định theo kế sách đã bàn, liền sanh nghi cho quân vận chuyển lương thực dừng lại, liền cho người thúc ngựa nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm nắm bắt tình hình.

    Không bao lâu người đó trở lại nói:

    Đồi Vạn Lâm đánh nhau rồi.

    Bạch Tướng Quân linh cảm như là có chuyện không may, liền cho quân tản ra phục kích, chỉ còn một số ít binh lính đang dừng nghĩ bảo vệ đoàn xe lương thực. Bỗng nghe từ phía sau lưng, tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một rõ, Bạch Tướng Quân đoán chắc đó là tiếng vó ngựa của giặc từ sau đánh bọc tới cướp lấy tất cả lương thực.

    Bạch Tướng Quân ra hiệu lệnh:

    Khi nào địch lọt vào lưới mai phục thời mới tấn công.

    Nói về Hổ Tiên Tướng giặc Ân dẫn theo 5 nghìn quân, nhanh chóng lên đường đánh bọc hậu cướp lấy lương thực vận chuyển quân Văn Lang. Hổ Tiên nắm bắt được thông tin tình báo là đoàn quân vận chuyển lương thực quân Văn Lang đã đến Huyện Gia Lâm.

    Hổ Tiên nói:

    Như vậy đoàn vận chuyển lương thực đã vượt qua chúng ta rồi, chúng ta từ phía sau bất ngờ đánh tới.

    Do sương mù che chắn tầm nhìn, quân Ân chỉ thấy trước mắt là đoàn quân vận chuyển lương thực đang dừng nghĩ, chớ không thấy được số người, cứ nghĩ đây chính là cơ hội cho chúng bất ngờ tấn công, nếu đoàn quân vận chuyển lương thực có phát hiện thời cho đó là quân Văn Lang mà thôi. Hổ Tiên thúc năm nghìn quân lao vào chém giết, nhưng đến khi phát hiện là không có bao nhiêu người, chỉ toàn là xe lương thực, thời thất kinh. Bỗng thấy pháo lệnh tử chiến, quân Ân chưa kịp trở tay, thời tên giáo lao, bắn phóng ra như mưa, chiêng trống nổi lên rền trời rền đất, quân Ân bất ngờ trúng tên chết lớp lớp, quân Ân rối loạn chạy loạn xạ, bị quân Văn Lang hạ gục dễ dàng, quân Văn Lang thắng thế xông lên gươm, đao, giáo, mác ào ào chém tới như mưa, ngựa người quân Ân dẫm đạp lên nhau phá vòng vây mà chạy.

    Hổ Tiên khiếp quá tìm đường tẩu thoát. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm:

    Chạy đâu cho thoát xem đây.

    Hổ Tiên nghe tiếng gió đao chém tới, tức thời múa trường giáo lên chống đỡ, choang đinh tai nhức óc, Hổ Tiên cả người lẫn ngựa muốn ngã quỵ, không hiểu người nào mà thần dũng đến thế. Hổ Tiên thấy người chém mình là một dũng tướng to lớn, mặt vuông, mắt sáng, mình mặt giáp đồng, đầu đội kim khôi, oai phong lẫm liệt, thảo nào mà chẳng có sức mạnh kinh người, người chém Hổ Tiên một đao như trời giáng đó chính là Bạch Tướng Quân. Hổ Tiên biết đánh không lại phóng ngựa chạy tẩu thoát. Nhưng chạy đâu cho thoát hàng loạt mũi tên bắn trúng đầy mình, nhào xuống ngựa mà chết, quân Ân như rắn mất đầu, quân Văn Lang tha hồ mà đâm mà chém.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Một trận chiến đầy mưu mô khôn khéo

    Thời lo gì không chiếm được thương phong

    Đường chiến thắng phải dựa trên mưu trí

    Đạp quân thù như đạp cỏ dưới chân.

    Mặt trời lúc nầy đã lên cao, nhưng che khuất bởi thời tiết âm u cái lạnh đã làm cho con người mau đói. Bạch Tướng Quân không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, tức tốc điều động năm nghìn quân, tức tốc đến đồi Vạn Lâm, thời lúc nầy trận chiến đã dừng hẳn, thấy xa xa trước mắt quân binh Văn Lang đang chạy thục mạng, mạnh ai nấy chạy không đoàn, không toán gì cả, thời đã biết quân Văn Lang đã thất trận. Bạch Tướng Quân cho bắn pháo hiệu là đã có quân cứu viện đến nơi, quân Văn Lang đang thất lạc chạy trốn thấy pháo cứu viện, liền cùng nhau chạy đến, người nào người nấy thở muốn hụt hơi, lăn đùng ra ngồi dậy hết nổi.

    Nói về quân Ân tuy thắng trận, nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, nên không đuổi theo quân Văn Lang bỏ chạy, mà chỉ ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lệnh, những tốp quân binh Văn Lang chạy trốn sợ sự truy đuổi quân Ân, bỗng thấy hiệu lịnh cứu viện quân Văn Lang tất cả đều kéo tới hết, tính đi tính lại chỉ còn hơn một vạn quân, đi tiêu bốn vạn quân.

    Bạch Tướng Quân liền hiểu rõ tất cả quân ta đã lọt hết vào ổ mai phục của chúng, nên mới thất trận thê thảm như thế nầy, các Tướng đều chết sạch, chỉ còn quân binh không. Bạch Tướng Quân cho người thám thính cánh quân bọc hướng Đông của Việt Luân Tướng Quân.

    Không bao lâu thời quân thám báo kinh hãi về báo:

    Bẩm Tướng Quân, quân ta đã chết sạch không còn một mạng tại Huyện Ninh Điền hết rồi.

    Bạch Tướng Quân kinh hoàng nghĩ: Quân Ân lợi hại đến thế sao? Biết không thể nào đánh lại quân Ân, nên đành rút quân trở về Ninh Giao Châu, củng cố lại lực lượng.
     
  4. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 13: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (1)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.

    Nguyên Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì đã xảy ra.

    Chủ soái Nguyên Dực hỏi:

    Các tướng có nghe thấy gì không?

    Có người nói:

    Không nghe thấy gì cả.

    Có người nói:

    Hình như có trận chiến xảy ra.

    Hai toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:

    Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến, không biết thua thắng thế nào.

    Toán quân thứ hai báo:

    Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.

    Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

    Hãy bày binh bố trận.

    Hiệu lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung niên vô cùng xinh đẹp.

    Nguyên Dực hỏi:

    Biết nữ Tướng đó là ai không?

    Tức thời có người đáp:

    Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.

    Người hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.

    Đây nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.

    Sát Sát hỏi:

    Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải không?

    Có một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:

    Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.

    Sát Sát nói:

    Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.

    Đạo Sĩ thưa:

    Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào nơi trọng yếu của ngũ hành trận.

    Sát Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.

    Sát Sát ra lệnh:

    Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành trận.

    Nói về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẫn còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận quân Văn Lang.

    Nói về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra kiêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ. Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.

    Hồ Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.

    Bằng viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.

    Nói về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang, nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố, lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tom góp ngọc ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu Hồ, tính đưa tay chụp một cô nõn nà, thời có người vào báo:

    Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.

    Hồ Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:

    Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.

    Hồ Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư của Hồ Man Quân.

    PHẦN 14: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (2)

    Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.

    Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

    In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân, chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh. Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hỗ trợ, những đạo quân, kim – mộc – thủy – hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng đài, tuân lịnh.

    Từ thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.

    Đây nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh râu dài:

    Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?

    Đạo Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:

    Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà lợi hại, nên khó mà đoán được.

    Sát Sát nói:

    Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.

    Sát Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.

    Đây nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu chuyển động.

    Nói về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm, chẳng qua cũng thế thôi. Bỗng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe đao kiếm đinh tai nhức óc.

    Hồ Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiễn do Hốt Ma điều khiển ào ào xông trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân địch tấn công, nhưng không thấy chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế nầy, trong lúc hoang mang thời bỗng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiễn. Hốt Ma kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lát không còn một mạng.

    Hồ Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu, điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hỗn loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân nửa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai, nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.

    Nói về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng, xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.

    Đạo quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận, không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ tấn công.

    Nói về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiễn xông vào hiệp lực tấn công. Đội quân xạ tiên tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiễn quân Ân tới tấp. Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiễn chống trả lại, nhưng không còn kịp nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân như chém chuối, chỉ trong chốc lát quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.

    Nói về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu, thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi trận, kinh hồn bạt vía.

    Về sau có thơ rằng:

    Tưởng rằng phá trận dễ như không

    Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn

    Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí

    Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh

    Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt

    Vùi chôn thân xác chẳng còn tên

    Kinh hồn bạt vía quân ăn cướp

    Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh

    Nghe chiến trận gươm đao gào thét

    Cõi trời Nam đau xót muôn dân

    Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân

    Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ

    Giờ đến lúc từ già đến trẻ

    Hãy đứng lên chống trả quân thù

    Đã chung dòng máu đồng bào

    Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.

    PHẦN 15: TỬ CHIẾN

    Nói về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. Điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.

    Ỷ mình cậy thế quân đông

    Ào ào lao tới phá tan ngũ hành

    Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào

    Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.

    Lô Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo quân Văn Lang.

    Đây nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được, liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh, Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào mà tấn công, ba Đạo quân Ân bỗng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng, chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bỗng quân Văn Lang biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.

    Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bỗng nghe một tiếng quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây trắng một người xuất hiện, oai phong lẫm liệt, múa trường thương người ngựa lao tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đỡ, hai bên đánh nhau mấy hiệp, Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại chính là Phô Rô.

    Nói về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.

    Nói về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi, không dám đưa quân vào phá trận nữa.

    Nói về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của ngũ hành, rượt đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẫn đến rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một mạng.

    Về sau có thơ rằng:

    Ngũ hành trận pháp của Ông Cha

    Đã từng vùi dập giặc can qua

    Lẫy lừng trận pháp rền sông núi

    Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.

    Đây nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng, nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.

    Hồ Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:

    Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.

    Hồ Cổn Quân nói:

    Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.

    Hồ Mị Hoa nói:

    Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.

    Hồ Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.

    Nói về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn công, chậm đứng thế mạnh ồ ạt tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác, quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.

    Thế là trận chiến long trời

    Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên

    Giáo gươm dậy núi dậy non

    Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù

    Quân Ân ỷ mạnh tràn vào

    Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn

    Trên đài cờ phất rút lui

    Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình

    Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm

    Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu

    Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh

    Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.

    Đây nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy, quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất, mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên chết la liệt, hỗn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang nhưng đội quân ma quỷ, bám theo chém giết ầm ầm.

    Nói về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao theo chém giết hò hét dậy trời. Bỗng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui, nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.

    Hồ Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ Cổn múa giáo chống đỡ, choang đinh tai nhức óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ gì một đao mà hạ gục được. Người bên trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.

    Nói về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hỗn loạn. Hồ Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch, đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.

    Nói về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nửa trong trận địa hỗn loạn, bị quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen, mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.

    Đây nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bỗng thấy một bóng ngựa từ trong trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.

    Hồ Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:

    Quân ta thế nào?

    Hồ Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:

    E chết hết trong trận rồi.

    Hồ Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra làm sao.

    Đây nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến, nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.

    Trên quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công. Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.

    Trên quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch, chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch, quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.

    Sau có thơ rằng:

    Hơn nhau chỉ một nước cờ

    Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm

    Hơn nhau chủ động điều quân

    Làm cho quân giặc hết mong sống còn

    Ngũ hành khiếp vía quân thù

    Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
     
  5. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 16: QUYẾT TỬ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về Lê Anh, Đoàn Minh, Hoàng Phi, được lịnh trấn giữ hành thủy. Lê Anh trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp rồi tách ra làm ba đạo quân, do Sát Sát chỉ huy, sai Tào Côn, làm tướng tiên phong phá trận. Tào Côn phất cờ đạo quân bộ binh ào ào xông vào trận, xáp chiến với quân Văn Lang, rồi có hiệu lịnh lui quân.

    Đạo quận xạ tiễn lao vào bắn quân Văn Lang xối xả, quân Văn Lang giã thưa bỏ chạy, quân Ân không đuổi theo mà lui quân ra sau, nhường cho quân kỵ binh lao vào nhanh như gió tấn công quân Văn Lang xối xả, rồi lui ra cứ như thế quân Ân tiến sâu vào trận địa, từng bước từng bước phá tan ngũ hành trận, quân Văn Lang không còn cách nào hơn là xông ra tử chiến, thế là trận đánh xáp lá cà, nhờ mây trận che chắn nên quân Văn Lang ít thiệt hại hơn, trận chiến cứ thế xảy ra cả hàng giờ, bất phân thắng bại.

    Nói về Sát Sát thấy quân Ân chưa làm gì được quân Văn Lang, liền điều động năm nghìn quân chủ lực, tiến vào trận. Tức thời gặp phải đạo quân áo giáp xạ tiễn chận đánh, đội quân chủ lực quân Ân đánh trả quyết liệt, hai bên tử nạn, thương vong vô số. Sát Sát vô cùng tức giận làm phép chỉ kiếm, tức thời giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân Văn Lang, tức thời mây đen, mây trắng cuồn cuộn chống trả. Sát Sát vô cùng kinh hãi, niệm chú hóa phép yêu tinh quỷ dữ hiện ra, tức thời mây trắng, mây đen hóa ra sấm sét yêu tinh quỷ dữ khiếp vía tan biến hết.

    Nói về đạo quân tinh nhuệ quân Ân quả nhiên lợi hại đánh bật đạo quân áo giáp. Mây trắng mây đen, bị áp lực thần thông Sát Sát làm cho giảm sút uy lực, vì thế quân Văn Lang cũng giảm sút đi sự biến hóa, quân Ân vì thế mà tấn công dữ dội, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên, quân Văn Lang ít quân hơn chỉ nhờ vào trận pháp ngũ hành biến hóa theo tiêu diệt kẻ thù.

    Sát Sát hết làm phép nầy tới làm phép kia, quyết phá tan mây đen mây trắng, đang trong lúc làm phép thời nổi lên tiếng quát như sấm: Yêu nữ kia nạp mạng đi. Tức thời một đạo quân thiết giáp đội quân tinh nhuệ nhất của đạo quân Văn Lang, từ trung ương ngũ hành, ào ào phi ra tấn công vào đội quân tinh nhuệ thiết kỵ binh quân Ân. Thiết kỵ binh quân Ân ra sức chống trả, nhưng không nổi sắp bị tiêu diệt đến nơi. Sát Sát kinh khiếp thúc quân phá vòng vây đánh bật đạo quân áo giáp lao ra khỏi trận, thấy Tào Côn mình đầy máu bị thương khá nặng, thoát ra khỏi trận trước mình. Sát Sát nhìn lên trời thở dài thế là đi tiêu gần hai vạn quân.

    Nói về quân Văn Lang tuy thắng trận nhưng cũng thiệt hại gần hai vạn quân, chỉ còn hơn tám vạn quân, định thừa thắng xông ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông quá, khó mà đánh cho lại, bằng cố thủ trong trận ngũ hành. Quân Ân cũng không dám tấn công nữa, chỉ bao vây bốn cửa một lúc một thêm chặt.

    PHẦN 17: ĐẠI PHÁ QUÂN VĂN LANG

    Đây nói về cùng lúc trận chiến cánh Tây quân Ân do Sát Sát chỉ huy, thời cánh Đông Ân Mao Vương, cùng vợ hai là Nghịch Phong sau khi thắng trận giết chết Cao Sơn một tướng kỳ tài của quân Văn Lang, thời lấy làm hả dạ, vì đã trả thù được cho con là Mao Lợi cùng Tây Đô, Tào Hổ, sau đó thời lên kế hoạch đánh phá trận ngũ hành tiêu diệt quân Văn Lang.

    Trong lúc đang bàn thời có quân vào báo:

    Có Hung Đa Di, Hung Quân Liệt đến.

    Ân Mao Vương cho mời vào. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt sau khi diện kiến Ân Mao Vương thời kể lại tất cả bị quân Văn Lang đánh bất ngờ, thua đau thua đớn, thiệt hại hơn một nửa số quân.

    Ân Mao Vương, Nghịch Phong nghe qua lấy làm kinh hãi nói:

    Quân Văn Lang hùng mạnh đến thế sao?

    Hung Đa Di nói:

    Chúng thần cho người dọ thám thời mới biết quân Văn Lang chỉ có 10 vạn quân mà thôi.

    Ân Mao Vương nghe xong lấy làm kinh ngạc:

    Chỉ có 10 vạn quân mà đánh tiêu 30 vạn quân, mà toàn là những quân chiến mã thiện chiến, tung hoành trên thảo nguyên, từ phương Bắc đến phương Nam.

    Chuyện nầy nếu không phải là hai Tướng quân con của Hung Nô Vương nói thời khó mà tin được. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt nói:

    Nếu không chủ quan xem thường quân Văn Lang, thời quân Văn Lang sẽ không bao giờ đánh bại một cách dễ dàng như thế được, dù cho đó là lực lượng tương đương với nhau.

    Ân Mao Vương nói:

    Thua keo nầy gầy lại keo khác, mau về nói với Hung Nô Vương mau đến đây bàn kế tiêu diệt quân Văn Lang.

    Hung Đa Di tức tốc lên đường, không bao lâu thời Hung Nô Vương đến, hai bên chào hỏi với nhau. Ân Mao Vương liền vào đề:

    Một trận chiến nầy nếu chúng ta thắng, thời không chỉ chúng ta nuốt Bắc Văn Lang, mà Trung Văn Lang, cho đến cả Nam Văn Lang, tha hồ mà hưởng sung sướng, tha hồ mà làm bá chủ, phương Bắc cũng phải khiếp sợ chúng ta.

    Hung Nô Vương hỏi:

    Kế sách đó bằng cách nào?

    Ân Mao Vương nói:

    Tấn công phá ngũ hành trận, tiêu diệt đại quân chủ lực Văn Lang, một trận pháp vô cùng lợi hại của nước Văn Lang, nếu phá được thời quân Văn Lang không còn dựa vào đâu để đối địch lại chúng ta. Nếu Hung Nô Chúa Vương chịu đánh phá một cánh Đông ngũ hành, thời Ân Mao Vương ta sẽ hiến kế.

    Hung Nô Vương nói:

    Cứ đưa ra kế sách, Chúa Vương tôi quyết thực hiện theo.

    Ân Mao Vương nói:

    Chúa Vương chỉ cần năm vạn quân chịu trách nhiệm tấn công vào cánh Đông hành mộc ngũ hành trận, còn bao nhiêu quân thời phục kích, không được phục kích nơi đồi Mục Linh, vì phục kích nơi đồi Mục Linh, quân Văn Lang phát hiện bao vây đánh hỏa công ngay, vì lúc nầy trời có nắng, lại có gió to. Quân Văn Lang sẽ đi bọc qua đồi Mục Linh trong đêm đến Kinh Đô đánh cướp trại chúng ta. Khi nghe chúng ta dồn hết lực lượng công phá trận ngũ hành, thời chúng bí mật bất ngờ đốt phá doanh trại, phá hủy lương thực chúng ta, làm cho chúng ta hoang mang tinh thần đi đến hồn loạn, tức thời chúng đánh từ sau đánh tới, ở trong đánh ra, chỉ cần tiêu diệt được một cánh quân chúng ta, thời chúng tức tốc kéo quân bao vây từ sau cánh Đông đánh tới, trong đánh ra, sau đánh tới tiêu diệt mất hai cánh quân chỉ còn nước là bỏ chạy mà thôi, chúng thừa thắng hiệp lực với các cánh quân Châu Phủ, truy sát bại binh chúng ta, thời giấc mộng xâm chiếm Văn Lang coi như chấm hết, không khéo nhân cơ hội đó quân binh nhà Chu kéo đến chiếm mất ba nước chúng ta, thế là chúng ta tàn đời.

    Hung Nô Vương nghe xong vô cùng kinh hãi. Ân Mao Vương lại nói tiếp:

    Để thắng được trận nầy, phải hết sức bí mật, cho năm vạn quân phục kích, theo đường bọc của quân Văn Lang, bọc qua đồi Vạn Linh, đến Kinh Đô, phục kích cách xa đồi Vạn Linh hơn bảy dặm, chờ cho quân Văn Lang qua khỏi đồi Vạn Linh, chúng không còn cảnh giác cao độ. Khi quân Văn Lang sa vào ổ phục kích chúng ta, thời đồng loạt ra lịnh tấn công, quân Văn Lang không phải là quân hỗn tạp tầm thường chúng cố chống trả lui trở lại nhưng không trở lại thành Xích Linh, vì quân Văn Lang sợ chúng ta phục kích chận đường rút lui của chúng mà tiêu diệt, mà chạy về Huyện An Giao chúng ta chờ đợi chúng đến mà tiêu diệt.

    Hung Nô Vương nghe xong cho là diệu kế, tức tốc bí mật triển khai lực lượng, quân Văn Lang tuy có đội thám thính giỏi, nhưng cũng không phát hiện được gì, vì quân Hung Nô đánh lừa, thua chạy đóng trại bên kia sông, thật ra đó chỉ là doanh trại giả, mục đích đánh lừa quân thám thính Văn Lang mà thôi, cứ nghĩ quân Hung Nô thua trận cố thủ bên kia sông chưa hành động gì cả, ngày nào cũng quân reo ngựa hí, như đang tập trận.

    Đây nói về Ân Mao Vương lập đàn cầu sư phụ. Nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ đang ngồi tu thiền luyện khí, bỗng nghe hương trầm thoảng qua lấy làm lạ liền bấm tay độn quẻ, thời biết Ân Mao Vương đang cầu liền tức tốc đằng vân bay đến. Nghịch Phong xem thường trận ngũ hành nên không cầu sự phụ giáng lâm.

    Lại nói về Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh vô cùng thương tiết Cao Sơn vị Tướng tài ba của quân Văn Lang, và cũng vô cùng kinh hãi thần thông pháp thuật của tướng nữ giặc Ân, quân Ân đã nhiều lần đến khiêu chiến, nhưng quân Văn Lang chỉ cố thủ trong doanh trại ngũ hành, ngày đêm tập luyện củng cố trận pháp, từ nơi trận pháp ngũ hành xuất hiện mây đen, mây trắng, càng nhiều, lại có những tia hào quang phát lên từ trung tâm ngũ hành, cũng như bốn trung tâm, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa.

    Nguyên Minh, Nguyên Dực là hai anh em sanh đôi, cháu nhiều đời của quan Lạc Tướng Nguyên Đô, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu, khi còn nhỏ hai anh em đang chơi, bỗng một trận gió cuốn đi đâu mất, sau 10 năm trở lại, từ đó nổi tiếng là có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường. Nguyên Dực và Nguyên Minh được một Đạo Tiên râu tóc bạc phơ đưa ra biển đảo dạy cho võ nghệ cùng trận ngũ hành.

    Khi Nguyên Dực, Nguyên Minh học thành tài, thời vị Đạo Tiên ấy nói:

    Ta là Cao Tổ thời dựng nước, vì có nhân duyên với hai con nên ta xuống trần, truyền dạy võ nghệ cùng trận ngũ hành sau nầy đánh giặc Ân cứu nước.

    Nói xong Cao Tổ đưa cho Nguyên Dực, Nguyên Minh, mỗi người một lá cờ Thần, gọi là cờ trận, truyền dạy những pháp chú, xong đâu vào đấy, vị Đạo Tiên nói:

    Hai con hãy nhắm mắt lại để ta đưa hai con trở lại quê nhà.

    Nguyên Dực, Nguyên Minh, nghe theo lời dạy nhắm mắt lại chỉ nghe gió thổi ù ù bên tai, chừng không còn nghe gió thổi nữa, liền mở mắt ra thời ở trước sân nhà rồi. Cả nhà thấy Nguyên Minh, Nguyên Dực trở về, vui mừng khôn xiết, nhất là mẹ của Nguyên Dực, Nguyên Minh, nhìn thấy con khôn lớn, bà không cầm được giọt nước mắt, vì thương nhớ con bà già đi trước tuổi, sự đoàn tụ ấy không bao lâu thời mẹ mất, từ đó Nguyên Dực, Nguyên Minh văn ôn võ luyện chờ ngày lên đường giúp nước.

    Nguyên Minh ngồi trầm tư nhìn lá cờ thần mà nhớ lại chuyện xưa, tất cả đều hiện ra trước mắt như mới hôm qua, Nguyên Minh nghĩ: Non sông Tổ Quốc, và biển đảo, nó Thiêng Liêng làm sao.

    Nguyên Minh đang trầm tư hồi tưởng chuyện xưa, thời có quân vào báo:

    Bẩm Chủ Soái, quân Ân đã triển khai lực lượng đánh chúng ta.

    Nguyên Minh tức thời triệu tập các quan Tướng, lên đài quan sát xem tình hình quân giặc, thấy liên hoàn doanh trại giặc Ân đang huy động toàn lực lượng chuẩn bị công phá doanh trại ngũ hành quân Văn Lang.

    Đa Kế nói:

    Bẩm Chủ Soái, hãy viết ngay mật thư gởi cho Cao Hải Đô Thống Tướng Quân, đang ở thành Xích Linh, sau khi triệt phá quân Hung Nô, với kế sách đánh bọc hậu đốt phá doanh trại, cũng như lương thực của giặc Ân. Khi quân Ân đã dốc toàn lực lượng tấn công chúng ta.

    Và đúng như vậy chỉ mấy ngày sau thời quân Ân triển khai lực lượng bao vây doanh trại quân Văn Lang từ bốn hướng.

    Nói về Ân Mao Vương lập đài cầu ba sư phụ, không bao lâu thời Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, đến. Ân Mao Vương, Nghịch Phong tiếp đón lạy tạ, xong đâu vào đấy.

    Ân Mao Vương mời ba sư phụ ngồi ghế cao, rồi thưa rằng:

    Con cầu ba sư phụ đến đây giúp con phá trận ngũ hành, chỉ cần phá tan trận ngũ hành nầy thời con nhất định chiếm lấy được nước Văn Lang.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Trận ngũ hành phương Nam không giống như trận ngũ hành phương Bắc. Trận ngũ hành phương Nam vô cùng lợi hại, nhất là lá cờ trận ngũ hành. Ta có đi ngang qua cánh Tây, thấy Sát Sát thất bại khi phá trận ngũ hành, và đang huy động toàn lực lượng, hợp lực cùng quân Hồ, quyết phá trận cho bằng được. Sát Sát đang lập đàn cầu sư phụ đến giúp đỡ.

    Hồ Nhị Yêu nói:

    Trận ngũ hành ở phương Nam, không những lợi hại ở lá cờ trận, mà còn lợi hại biến hóa binh pháp ở người điều khiển trận địa.

    Hồ Tam Quỉ nói:

    Như vậy muốn phá trận ngũ hành, thời phải theo hai phương án: Phương án thứ nhất là phá tan pháp trận Uy Linh của cờ trận. Phương án thứ hai là phá tan binh trận, có như vậy mới thành công được.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh phá Trung Ương. Hành thổ đài chính nơi có lá cờ trận, cắm trên cao tần năm của đài quan sát, nơi cờ trận phát ra uy lực vô cùng tạo ra mây đen, mây trắng.

    Hồ Nhị Yêu nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành kim, phá tan sức mạnh của kim lệnh, tạo ra ảo giác, của hành trận.

    Hồ Tam Quỉ nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành mộc, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Ân Mao Vương, chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành hỏa, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.

    Hồ Nhất Tinh nói xong liền thổi lên khúc tiêu kỳ lạ, tức thời có một con chồn to lớn có cánh bay đến. Hồ Nhất Tinh nói:

    Con cỡi con Hồ Tiên nầy bay vào trung tâm hành hỏa phá trận.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Nghịch Phong, chịu trách nhiệm, cỡi con Thần Mã bay lên không đánh vào cờ trận, trung tâm hành thủy, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí. Cờ trận đã có người phá, còn binh trận phải chọn Tướng tài giỏi điều binh khiển tướng công phá.

    Ân Mao Vương, phân bổ lực lượng tấn công phá trận ngũ hành như sau:

    Hồ Ma nghe lịnh, có thuộc hạ. Lão Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Tây kim trận, tuân lịnh.

    Chiên La nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng nữ thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Bắc thủy trận.

    Hổ Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Nam hỏa trận, tuân lịnh.

    Beo Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, bảo vệ liên hoàn doanh trại, nhất là bảo vệ lương thực, đề phòng bất ngờ xảy ra, tuân lịnh, không bổ lực lượng đâu vào đấy.

    Ân Mao Vương nói:

    Chờ quân Hung Nô đến là triển khai quân tấn công.

    Không bao lâu thời có người vào báo:

    Quân Hung Nô đã đến.

    Thế là quân Ân, triển khai lực lượng phá trận, bốn đạo quân như bốn con mãng xà, từ trong doanh trại bò ra lượn mình lao tới doanh trại quân Văn Lang, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.

    Đây nói về Nguyên Minh cùng các Tướng trên đài quan sát nhìn thấy quân Ân như bốn con mãng xà từ liên hoàn doanh trại lao ra, cuồn cuộn bò tới bao vây doanh trại ngũ hành, quân binh đông như kiến. Nguyên Minh nhìn lên trời khấn rằng: Đây là trận sanh tử sống còn của nước Văn Lang.

    Trả nợ nước non lúc nầy đây

    Dù có hy sinh cũng vui vầy

    Hiếu trung một dạ lòng quyết tử

    Xả thân vì nước sướng vui thay

    Dòng máu anh hùng nòi Hồng Lạc

    Trải gan phơi mật chí tung bay

    Đền ơn xã tắc, dù ngã gục

    Tử chiến quân thù, chí hăng say.

    Nguyên Minh nói cùng các Tướng Lĩnh:

    Quân xâm lược tự nó dẫn xác đến, chúng nó sẽ bỏ mạng tại nơi đây, đền tội với đồng bào dân tộc ta. Chúng kéo đến nhiều chừng nào tốt chừng nấy, đây là cơ hội cho chúng ta quét sạch chúng. Các Tướng quân nghe lệnh, tất cả hãy vào vị trí chiến đấu, một còn một mất với quân thù.

    Nói về cánh Tây trận ngũ hành. Cự Lân, tổng chỉ huy, ở trên quan sát đài, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Xuân Thành, Kim Trọng, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Linh điều khiển đạo quân hành thổ Trung Ương. Cánh Đông ngũ hành. Huyền Trung, tổng chỉ huy, ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Hoàng Châu, Trịnh Chu, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Ngô Dụng, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Nam ngũ hành. Trần Bá, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng là Tôn Nghị, Dương Phàm, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Lan, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Bắc ngũ hành. Phan Lợi, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng ở dưới đất là Đổ Can, Ngô Đại, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Quốc Trung, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ.

    Cùng lúc ấy. Nguyên Minh phất cờ trận Trung Ương niệm chú, tức thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn hiện ra che phủ ngũ hành trận, Nguyên Minh lại phất cờ trận niệm chú tức thời Kim Thần, Mộc Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, xuất hiện trấn giữ các cờ trận Trung Ương ngũ hành. Tức thời ngũ hành trận uy lực vô biên, sát khí ngùn ngụt.

    Nói về Hồ Ma thống lĩnh năm vạn quân Ân, rầm rầm rộ rộ như con mãn xà lượn mình về hướng Tây lao nhanh tới cánh Tây trận ngũ hành bao vây trùng trùng điệp điệp. Hồ Ma chia ra làm ba đạo quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, đồng loạt tấn công, quân reo dậy đất ngựa hí vang trời. Tràng vào ngũ hành kim trận, bỗng thấy trên đài quan sát cờ trận phất theo thế quân binh ẩn sâu trong trận pháp, khí trận tỏa ra sương mù. Quân Ân tiến vào như tiến vào chỗ không người, bộ binh do tướng Mục Yêu, chỉ huy bộ binh quân Ân tiến vào như chỗ không người, thấy nơi đâu cũng toàn là sương mù, thời vô cùng kinh hãi. Cùng lúc ấy đạo quân xạ binh quân Ân cũng rơi vào tình cảnh như thế, tướng Phi La kinh hải. Đạo quân kỵ binh do tướng Hồ Phỉ chỉ huy cũng không khá gì hơn, không thấy chi cả, chỉ toàn là sương mù, trong lúc còn đang hoang mang. Thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới, che chắn hết tầm nhìn quân binh khó mà nhìn thấy được nhau. Quân Ân đang hoang mang thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, lao giáo phóng ra như mưa trút, quân Ân rối loạn binh mã, rối loạn đội hình tấn công lẫn nhau chết thôi là chết. Mây đen, mây trắng, sương mù phủ kín, quân Ân không biết đâu là đâu đạp càn lên nhau vì không nhận rõ đâu là kẻ thù, đâu là ta. Mục Yêu kinh hãi lao tới gào thét bình tỉnh không được giết lầm quân ta. Mục Yêu nghe tiếng quát như sấm, từ trong đám mây lao ra một dũng Tướng múa trường thương đâm Mục Yêu nhanh như tia chớp, Mục Yêu múa giáo chống trả, hai hổ đánh nhau dậy trời, người vừa lao ra đánh Mục Yêu không ai khác hơn chính là Xuân Thành.

    Xuân Thành võ nghệ cao cường, trường thương như mưa sa bão táp, Mục Yêu chống trả muốn hụt hơi. Trong khi ấy quân Văn Lang như ma quỷ ẩn hiện khắp nơi tấn công tới tấp, quân Ân càng lúc càng rối loạn, quân Văn Lang xông lên chém quân Ân như chém chuối.

    Sau có thơ rằng:

    Kinh thay chiến trận ầm ầm

    Tên bay dậy đất, giáo rền dậy non

    Gươm, đao, chơm chớp loáng loang

    Ầm ầm trận địa kinh thiên rợn người

    Ào ào người ngựa ào ào

    Đùng đùng dồn dập ôi nào khiếp kinh

    Đầu người rụng xuống như sung

    Thây người chồng chất núi non kể gì

    Một bên con cháu Tiên Rồng

    Một bên xâm lược bạo tàn ác ôn

    Ôi thôi đao kiếm rền vang

    Chờ xem trận chiến thắng thua phen nầy.

    Cùng lúc ấy Phi La đang ra sức dồn quân chống trả lại quân Văn Lang, từ mây trận bắn xối xả ra, bất thình lình đội quân áo giáp Văn Lang từ phía sau đạo quân xạ tiễn quân Ân, đánh bọc tới, đạo quân xạ tiễn quân Ân vô cùng rối loạn, tuôn vào mây trận, bị quân Văn Lang xơi sạch, tình thế vô cùng nguy cấp, nếu quân Ân không có giải pháp chống trả hữu hiệu.

    Cùng lúc ấy, đạo quân kỵ binh Ân, đang ra sức chống trả lại, đạo quân ma quỷ lúc ẩn lúc hiện quân Văn Lang. Tướng Hồ Phỉ giặc Ân ra sức thúc kỵ binh chống trả, Hồ Phỉ đang hò hét muốn hụt hơi. Bỗng thấy một đạo quân thiết giáp kỵ binh từ mây trận lao ra chém kỵ binh quân Ân như chém chuối. Hồ Phỉ kinh hãi lao vào xáp chiến, thời nghe một tiếng quát trong trẻo Khơ Linh thúc ngựa xông vào song kiếm chém tới như mưa. Hồ Phỉ múa giáo chống trả, Khơ Linh võ nghệ cao cường, thế võ kỳ bí, song kiếm biến hóa, Hồ Phỉ chống đỡ muốn hụt hơi, quày ngựa bỏ chạy.

    Về sau có thơ rằng:

    Phương Nam nữ Tướng anh hùng

    Đường gươm chơm chớp lẫy lừng biết bao

    Đánh cho Tướng giặc lao đao

    Kinh hồn bạt vía tả tơi kinh hồn.

    Cùng lúc ấy cánh Đông trận ngũ hành, Hung Nô Vương dồn quân xông vào trận như nước lở. Trên đài quan sát. Huyền Trung, thấy quân Hung Nô tràng vô hành trận như nước lở, liền phất cờ hiệu, dụ địch. Tức thời Hoàng Châu, điều khiển đạo quân kỵ binh ào ào xông ra chận đánh. Quân Hung Nô mạnh như vũ bão, không thế lực nào ngăn trở nổi, quân Văn Lang đánh không lại thi nhau bỏ chạy, quân Hung Nô rượt theo truy sát, một hồi lâu. Quân Văn Lang lao vào sương mù rồi biến đi đâu mất.

    Đạo quân thứ hai do Trịnh Chu chỉ huy từ trong sương mù xuất hiện, tấn công quân Hung Nô. Quân Hung Nô ỷ đông lại hừng hực khí thế áp đảo quân Văn Lang, xông tới đánh quân Văn Lang như sấm sét, quân Văn Lang chống trả không nổi thi nhau bỏ chạy. Quân Hung nô thừa thắng xông lên rượt đuổi truy sát quân Văn Lang, bỗng trên không nổ lốp bốp sương mù phủ tới không còn thấy chi cả. Hung Nô Vương, trực tiếp chỉ huy ba đạo quân tiến vào một lúc, với sức mạnh dời non lấp bể, quân Văn Lang không ngăn cản nổi. Hung Nô Vương là tay vô cùng hung bạo lại ỷ có pháp thuật, cùng kỵ bịnh tiến vào phá trận, rượt đuổi truy sát quân Văn Lang. Hung Nô Vương cùng ba đạo quân, kỵ binh, bộ binh, xạ binh, tiến nhanh sâu vào trận thời không thấy quân Văn Lang đâu cả, chỉ toàn là sương mù. Hung Nô Vương lấy làm kinh hãi định lui quân trở ra. Thời mây trận cuồn cuộn phủ tới, che chắn hết tầm nhìn người trước mặt nhìn không rõ, Hung Nô Vương càng thêm kinh hãi, niệm chú hóa phép đánh vào mây trận, thời mây trận càng mạnh thêm, khí lực dồn tới một cách kỳ lạ. Hung Nô Vương ra lệnh: Rút lui, rút lui. Nhưng đâu còn kịp nữa, quân Văn Lang từ bốn phương tám hướng ẩn theo mây trận đánh tới, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất, tên, lao, bắn, phóng ra như mưa bão. Quân Hung Nô tài phóng lao, bắn tên, cỡi ngựa, thời không ai bằng, nhưng không nhìn thấy địch thủ đâu cả, chỉ bắn phóng bừa vào mây trận, hiệu quả không cao. Quân Văn Lang nhờ vào mây trận chiếm ưu thế, quân Hung Nô bị động không làm chủ được trận địa. Càng đánh quân Hung Nô càng thiệt hại lớn, Hung Nô Vương lúc nầy không còn phân biệt đâu là Đông Tây Nam Bắc, Hung Nô Vương hò hét tìm đường trở ra nhưng không tìm thấy đường ra đâu nữa. Trước mặt là đạo quân thiết giáp quân Văn Lang chiến đấu dữ dội. Hung Nô Vương chỉ còn con đường, tìm con đường sống trong con đường chết mà thôi.

    Nói về Ngô Dụng thấy trên đài quan sát, phất cờ trận Trung Ương theo thế chận đứng đường rút lui quân địch, tức thời điều khiển một vạn quân, trong đó có đạo quân thiết giáp, chận đứng đường ra, không cho quân Hung Nô rút lui.

    Về sau có thơ rằng:

    Hung Nô kinh hãi rụng rời

    Lạc vào mây trận cuộc đời còn chi

    Ngựa người dẫm đạp lên nhau

    Đầu rơi máu đổ ôi thôi kinh hoàng

    Chiêng rền trống dội vang trời

    Gươm đao, giáo mác ầm ầm bủa vây

    Hung Nô chờ chết tan thây

    Còn xem tạo hóa mắn may thế nào.
     
  6. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 18: TỬ CHIẾN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cùng lúc ấy nơi cánh Nam hành hỏa ngũ hành, Trần Bá ở trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp, chia ra làm ba đạo quân, do Tướng Hổ Tinh tổng chỉ huy. Hổ Tinh phất cờ bộ binh, chỉ kiếm, tức thời đạo quân bộ bịnh do Sa Lị cầm đầu ào ào xông vào trận.

    Nói về Tôn Nghị Tướng Văn Lang nhìn thấy trên đài quan sát thấy cờ phất chận đứng đánh quân địch tại cửa trận, tức thời điều động bộ binh xáp chiến, gươm đao giáo mác đinh tai nhức óc.

    Về sau có thơ rằng:

    Chiến trận vang rền giáo, đao, gươm

    Quân Ân cuồn cuộn tiến xông lên

    Văn Lang binh lính đầy dũng khí

    Thét gào lao tới quyết tử sinh

    Con đường trung hiếu luôn phía trước

    Tiêu diệt quân thù lũ ngoại xâm

    Một mất một còn vì non nước

    Hào khí Anh Linh chí Cha Ông.

    Hổ Tinh thấy sức chiến đấu quân Văn Lang như vũ bão, tức thời phất cờ đạo quân xạ tiễn xông lên, bắn vào đạo quân Văn Lang như mưa, quân Văn Lang chống cự không lại bỏ chạy, quân Ân thắng thế ào ào rượt đuổi, bỗng nghe chiêng trống nổi lên ầm ầm, đội quân áo giáp Văn Lang xuất hiện, chận đánh đạo quân xạ binh quân Ân, sức mạnh như dời sông lấp biển. Đạo quân xạ binh quân Ân tiến lên không nổi.

    Hổ Tinh thấy thế hét lên một tiếng, điều động kỵ binh xung trận, khí thế như cuồng phong vũ bão, đội quân áo giáp đánh không lại. Dương Phàm ra lệnh rút lui. Ba đạo quân Ân thừa thắng xông lên, rượt đuổi quân Văn Lang, bất thình lình sương mù xuất hiện. Quân Ân không còn thấy quân Văn Lang đâu nữa, hoang mang kinh hãi. Quân Văn Lang tức thời phản công như sấm sét.

    Về sau có thơ rằng:

    Văn Lang nào phải nuốt dễ xơi

    Gặp phải Tiên Rồng chết như chơi

    Giặc Ân một lũ điên cuồng ngớ

    Bỏ mạng sa trường xác thây phơi.

    Nói về Tướng chỉ huy xạ binh quân Ân là Hạ Phu kinh khiếp trước trận pháp ngũ hành, thấy mây trắng, mây đen che phủ bảo bọc quân Văn Lang, vì thế quân Văn Lang không khác gì đạo quân ma quỷ, không thấy đầu, không thấy đuôi, quân Văn Lang thời thấy rõ quân Ân, quân Ân vô cùng bất lợi, càng đánh càng thất bại. Hạ Phu thúc quân xông vào mây trận. Hạ Phu xông lên hò hét, không ngờ quân Văn Lang vô cùng lợi hại, hạ gục quân Ân như hạ gục đàn chó dại. Hạ Phu phi ngựa bỏ chạy. Bỗng một tiếng quát nổi lên như sấm: Chạy đâu cho thoát. Tức thời tướng Văn Lang xuất hiện, thanh đại đao trên tay chém tới nhanh như tia chớp. Hạ Phu múa giáo chống trả, choang đinh tai nhức óc, Hạ Phu kinh hoảng: Đao pháp gì mà mạnh thế? Định phóng ngựa tẩu thoát, nhưng không còn kịp nữa một tia chớp nổi lên thế Hạ Phu trúng một đao chết tốt, người giết chết hạ phu chính là Tôn Nghị.

    Nói về Sa Lị đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, ra sức chống trả. Dương Phàm dương cung bắn một phát trúng ngay vào cổ, Sa Lị té nhào xuống ngựa chết tốt. Quân Ân như rắn mất đầu hỗn loạn vô cùng, Hổ Tinh kinh hãi thúc quân phá vòng vây tìm lối ra, nhưng bị đạo quân thiết giáp đánh bật trở vào, người chỉ huy đạo quân thiết giáp Văn Lang chính là Khơ Lan. Khơ Lan tả xông hữu đột, điều khiển quân binh, đội quân thiết giáp vô cùng linh hoạt, quân Ân lớp lớp bị hạ gục.

    Nói về cánh Bắc hành thủy, quân Ân cũng đang sa vào thảm cảnh sắp bị hủy diệt. Chiên La đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, sắp mất mạng đến nơi, nói chung quân Ân thua to nếu không phá được cờ trận.

    Đây nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, Ân Mao Vương, Nghịch Phong. Đồng loạt bay lên không xem xét trận ngũ hành, thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn che phủ trận ngũ hành không thấy gì cả, khí lực ngũ hành tuôn lên cuồn cuộn, sát khí ngùn ngụt, đã hơn một giờ mà chưa có cách phá trận. Ân Mao Vương lấy làm lo, vì quân Ân đã xông vào trận địa, chiến trận nổ ra rền trời rền đất, không còn chần chờ được nữa, Ân Mao Vương cỡi con Hồ Tiên bay xuống đánh phá cờ trận trung tâm hành hỏa.

    Ân Mao Vương vừa lao vào mây trắng, tức thời một đạo kim quang từ cờ đỏ trung tâm hành hỏa tỏa lên tấn công. Hồ Tiên liền thổi hắc quang chống trả, Ân Mao Vương rút bảo kiếm từ trên không chém xuống, bỗng thấy một vị thần xuất hiện, bay lên chống trả, chính là Hỏa Thần, hai bên đánh với nhau vô cùng ác liệt. Ân Mao Vương, nhờ học được ba thầy nên pháp thuật vô biên. Hỏa Thần yếu thế hơn nhưng nhờ thần lực cờ trận, nên Mao Ân Vương khó mà giành lấy phần thắng. Ân Mao Vương quyết hạ gục Hỏa Thần kiếm báu trên tay vung lên chém xuống lia lịa, kiếm khí tuôn ra chém tới ầm ầm. Hỏa Thần vung gậy phép lên chống trả, gậy qua kiếm lại ầm ầm đùng đùng dậy trời dậy đất, đánh nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.

    Cùng lúc ấy Nghịch Phong cỡi con Huyết Hãn thần mã bay vào mây trận, vung kiếm chém xuống lá cờ đen trung tâm hành thủy, tức thời một đạo hào quang từ lá cờ đen tỏa lên chống trả ầm ầm long trời lở đất. Nghịch Phong niệm chú hóa phép chỉ tay một cái, tức thời một đạo khí phong bay tới lá cờ đen. Bỗng một vị thần xuất hiện đó là Thủy Thần, múa gậy chống đỡ.

    Nghịch Phong nổi giận quát:

    Ngươi là ai mà dám đối địch với ta?

    Thủy Thần quát:

    Nhái ranh hỗn láo, xem gậy lão Thần đây.

    Tức thời chỉ gậy vào Nghịch Phong hô biến, tức thời cây gậy liền hóa ra một đạo kim quang đánh tới. Nghịch Phong chỉ kiếm niệm chú hóa ra một đạo kim quang chống trả, hai bên đấu phép với nhau liên miên bất tận. Nghịch Phong quyết hạ cho bằng được đối thủ, phi ngựa lao tới chém vào Thủy Thần. Thủy Thần múa gậy chống trả, đánh với nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.

    Lại nói về Hồ Nhị Yêu bay thẳng vào trung tâm kim trận, đánh một chưởng xuống lá cờ trắng, tức thời lá cờ trắng tỏa lên một đạo hào quang chống trả. Hồ Nhị Yêu nhanh như chớp đánh liền ba chưởng xuống lá cờ trắng, bất thình lình một vị Thần xuất hiện phất ba đạo kình phong chống trả, đùng ầm ầm long trời lở đất.

    Hồ Nhị Yêu quát:

    Kim Thần muốn sống thời biến ngay đi.

    Kim Thần quát:

    Không lo tu luyện còn giúp cho đồ đệ xâm lược quả là ngươi đã tới số.

    Hồ Nhị Yêu tức quá múa phất Trần đánh tới tấp vào Kim Thần, Kim Thần nào chịu kém, múa gậy Thần đánh tới tấp vào Hồ Nhị Yêu, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Gậy qua, Trầm lại hơn trăm hiệp bất phân thắng bại, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.

    Cùng lúc ấy nói về Hồ Tam Quỉ, đánh với Mộc Thần. Cả trăm hiệp bất phân thắng bại, Mộc Thần múa gậy kình phong tuôn ra ầm ầm, Hồ Tam Quỉ múa đôi bàn tay sắt vuốt nhọn chống trả. Hồ Tam Quỉ nhanh như chớp chụp xuống lá cờ xanh bỗng một đạo hào quang tỏa lên, Tam quỉ trúng tia hào quang đau buốt lấy làm kinh hãi. Không còn dám coi thường lá cờ trận, Tam Quỉ bị Mộc Thần tấn công, rất khó phá được cờ trận, hai bên đánh nhau chưởng phong ầm ầm, chỉ phong véo véo, bất phân thắng bại.

    Lại nói về Hồ Nhất Tinh, bay vào trung tâm ngũ hành trận, lao nhanh xuống lá cờ vàng, đang phát ra uy lực vô biên, đánh xuống một đạo hắc quang, tức thời lá cờ vàng tỏa lên một đạo hào quang chống trả, ầm ầm long trời lở đất. Hồ Nhất Tinh múa phất trần đánh xuống lá cờ trận, lá cờ trận tỏa hào quang chống trả, Hồ Nhất Tinh không làm gì được. Hồ Nhất Tinh bằng ném một vật lên hư không niệm chú, tức thời vật đó liền hóa ra một thanh xà kiếm, tỏa hào quang từ trên không lao xuống hầu phá hủy lá cờ trận. Bỗng Thổ Thần xuất hiện, ném gậy Thần chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Hồ Nhất Tinh thâu phép lại, bay xuống đánh với Thổ Thần, bất thình lình lao tới chụp lấy lá cờ. Thời nghe một tiếng quát long trời lở đất, trường đao vung lên như tia chớp chém tới Hồ Nhất Tinh. Hồ Nhất Tinh múa phất trần chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa.

    Hồ Nhất Tinh quát:

    Nguyên Minh ngày tận số của ngươi tới rồi.

    Thổ Thần quát:

    Loài yêu tinh hỗn láo.

    Thổ Thần múa gậy đánh tới như vũ bão, Nguyên Minh vì không biết bay chỉ biết đứng nhìn Thổ Thần cùng Nhất Tinh hỗn chiến.

    Trên không trận chiến ầm ầm

    Dưới đất binh hùng xáp chiến kinh thiên

    Ầm ầm đất chuyển trời rung

    Đùng đùng gươm giáo khiếp kinh ầm ầm

    Mặt trời sắp lặn non Tây

    Quân reo ngựa hí bủa vây không ngừng

    Kìa gươm giáo vang trời không dứt

    Chiêng, trống rền hò hét liên miên

    Đất trời như muốn ngã nghiêng

    Cát bay đá chạy khiếp kinh mịt mù.

    Hồ Nhất Tinh, đang đánh với Thổ Thần, bỗng rùng mình hóa phép, yêu tinh xuất hiện đầy trời, lao vào đánh với Thổ Thần, xáp chiến với Nguyên Minh. Nguyên Minh múa đao kinh phong tuôn ra ầm ầm chống trả với bầy yêu tinh. Bỗng nghe ầm ầm long trời lở đất, lá cờ trận đã bị Hồ Nhất Tinh chém rách, tức thời sương mù, mây đen, mây trắng biến mất, ngũ thần cũng biến theo. Nguyên Minh vô cùng kinh hãi, lúc nầy chỉ còn ngũ hành trận không còn cờ trận.

    Nói về Ân Mao Vương nhìn xuống ngũ hành trận thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau, thời thét lên lao xuống múa đao chém Trần Bá không cho Trần Bá điều khiển quân kỳ nữa, Trần Bá múa đao chống trả, hai bên đánh nhau vô cùng dữ dội. Còn Hồ Tiên liền thổi ra một luồng khí độc Trần Bá xây xẩm mặt mày, Ân Mao Vương lao tới chém một đao bỏ mạng.

    Về sau có thơ rằng:

    Ôi cái chết đi vào bất tử

    Vì non sông Tổ Quốc hy sinh

    Ôi cái chết tràn đầy uy dũng

    Xác mất rồi nhưng hồn mãi Uy Linh.

    Nói về Nghịch Phong đang đánh với Thủy Thần thời nghe tiếng nổ ầm ầm, sương mù, mây đen, mây trắng, biến mất, Thủy Thần cũng tan biến tự bao giờ. Nhìn xuống ngũ hành trận, thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau thời vô cùng kinh hãi, tuy mây trận biến mất nhưng ngũ hành trận vẫn còn, nơi Trung Ương Hành Thủy Phan Lợi, phất cờ điều khiển quân binh đánh quân Ân tới tấp. Nghịch Phong phi ngựa tới chém Phan Lợi, Phan Lợi múa đao chống trả, hai bên đánh nhau ầm ầm, đường đao Phan Lợi vô cùng lợi hại, Nghịch Phong khó mà làm gì được, bằng hóa phép cuồng phong nổi lên lên ầm ầm, yêu tinh ma quỷ hiện ra xông tới đánh Phan Lợi. Phan Lợi múa đao chống trả quyết liệt, hào khí ngùn ngụt yêu tinh không làm gì nổi Phan Lợi. Nghịch Phong bằng lấy một thanh kiếm nhỏ trong túi ra ném lên không niệm chú, tức thời một tia chớp lao xuống Phan Lợi không tránh kịp đành bỏ mạng, Nghịch Phong phi ngựa xuống đất đánh quân Văn Lang cứu quân Ân. Phan Lợi tuy chết nhưng hồn vẫn Hiển Linh hóa ra sương mù che chở quân Văn Lang.

    Về sau có thơ rằng:

    Thân ngã xuống nhưng hồn nào có chết

    Vẫn anh linh trong kiếp sống linh thiên

    Hóa mây mù luôn che chở quân binh

    Xác tuy mất nhưng linh hồn bất tử

    Chết là hết, nhưng nào đâu có phải

    Vân Anh Linh trong cuộc sống hiển linh

    Kìa mây mù luôn che chở quân binh.

    Lại nói về Hồ Nhị Yêu, không hạ gục được Kim Thần, vô cùng tức giận những không làm gì được, bỗng nghe tiếng nổ ầm ầm, cờ trận cùng Kim Thần biến mất. Hồ Nhị Yêu thấy Cự Lân phất cờ chỉ huy, liền lao xuống đánh một chưởng, bỗng thấy một người hiện ra đẩy Cự Lân bay sang một bên, ầm một tiếng muốn sụp cả quan sát đài, Cự Lân nhìn rõ người cứu mình chính là Trần Bá. Lúc nầy trời đã sẩm tối, Cự Lân phi thân xuống đất lẩn vào quân binh Văn Lang, Hồ Nhị Yêu không nhìn thấy Cự Lân đâu nữa bằng hóa phép đánh xuống quân Văn Lang. Bỗng thấy một con Rồng hiện ra, Hồ Nhị Yêu kinh hoảng tàn hình trốn mất.

    Cùng lúc ấy Hồ Tam Quỹ định ra tay giết chết Huyền Trung, bỗng thấy con Kỳ Lân xuất hiện, Hồ Tam Quỉ kinh hoảng trốn mất.

    Nói về Nguyên Minh nhìn thấy cờ trận rách nát thời kinh hồn bạt vía, mây trận không còn biết khó mà chống đỡ nổi quân Ân. Hồ Nhất Tinh, thâu phép bay tới thổi ra một luồng yêu khí định giết chết Nguyên Minh, bỗng thấy một con Rồng hiện ra thổi một luồng hồng quang. Hồ Nhất Tinh kinh hoảng trốn mất.

    Nguyên Minh thoát chết chưa biết phải làm sao thời có người lên tiếng nói:

    Chủ soái mau trốn đi.

    Người lên tiếng đó chính là Đa Kế. Lạc Hầu Công nói:

    Mau dồn quân chạy về sông Tây Giang.

    Tức thời pháo lệnh đỏ bắn lên, khẩu lệnh truyền ra dồn quân về cánh Nam, trời lúc nầy đã tối, ánh trăng soi đường, trận chiến còn vang dội, nhưng lúc nầy đã nghiêng về phía quân Ân, nhờ có Ân Mao Vương, Nghịch Phong, Hung Nô Vương thần thông quảng đại, quân Văn Lang bị đánh thê thảm.

    Được lệnh rút lui quân Văn Lang ào ào chạy về phía Nam, đánh bật Hổ Tinh, chạy về hướng Lũng Trung Châu, bại binh chạy suốt cả đêm, tới sáng thời tới Vân Châu, bại binh dừng nghĩ, người nào người nấy bò la bò lết đi hết nổi. Nguyên Minh cho người kiểm lại quân binh thời chỉ còn hơn bốn vạn, đi tiêu mất sáu vạn quân.

    Nhìn lên trời than thở:

    Không ngờ quân Ân nhiều nhân vật tài năng như vậy, ngũ hành cờ trận mà cũng phá được.

    Quân binh nghĩ không được bao lâu thời nghe tiếng ngựa hí từ xa vọng lại. Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hãi: Quân Ân đã đuổi theo đến nơi rồi sao?

    Nguyên Minh nhìn lên trời nói:

    Thôi thì quyết tử tại nơi đây vậy.

    Liền cho bắn pháo lịnh tử chiến.

    PHẦN 19: BẠI TRẬN

    Đây nói về Cao Hải, hiệp lực với quân Xích Linh đại phá đánh bại 30 vạn quân Hung Nô. Lạc Hầu Công, mời Cao Hải cùng các quan Tướng vào thành thiết đải, ăn mừng thắng trận. Cao Hải ở lại thành Xích Linh chưa được mấy ngày trong lúc đang bàn Quốc Sự thời có quân vào báo. Đô Tướng Quân có thư.

    Cao Hải nhận thư đọc xong thời nước mắt ràn rụa. Ai nấy cũng đều kinh hải tự hỏi: Chuyện gì thế? Trải qua một hồi lâu dằn cơn xúc động.

    Cao Hải nói:

    Cao Sơn chết rồi.

    Cao Hải liền đưa thơ cho các Quan Tướng xem. Lạc Kim Tiên xem xong nói:

    Quân Ân dồn hết lực lượng phá doanh trại ngũ hành trận, đây là cơ hội cho chúng ta, cướp phá lương thực chúng, rồi từ phía sau đánh bọc tới, tiêu diệt chúng, chỉ cần một trận nầy chiến thắng thời quân Ân sẽ khiếp kinh hồn vía.

    Lạc Hồng Hầu nói:

    Muốn tới Kinh Đô nhanh thời phải đi qua đồi Mục Linh. Đồi Mục Linh hiện giờ quân Ân đang phục kích ở đó, chỉ còn có cách là đi đường vòng, bọc qua đồi Mục Linh, rồi bất ngờ xông vào cướp doanh trại của chúng.

    Lạc Hầu Vương nói:

    Quân Xích Linh cùng tham gia trận chiến Đô Tướng Quân cứ ra lịnh.

    Cao Hải nói:

    Thành Xích Linh không thể bỏ trống, phải có quân binh trấn thủ.

    Trong lúc còn đang bàn tán, thời có quân thám báo vào báo:

    Quân Ân giao chiến với quân ta hơn nửa ngày rồi.

    Thời gian quá gấp Cao Hải từ biệt Lạc Hầu Công cùng các quan tướng thành Xích Linh, triển khai lực lượng, phân bổ như sau:

    Phan Thanh Hải, nghe lịnh Có thuộc hạ, Ngô Việt nghe lịnh. Có thuộc hạ. Hai Tướng Quân một trưởng, một phó, thống lĩnh một vạn quân mở đường đi trước, còn đại quân đi sau, tuân lệnh.

    Đi đường vòng hơi xa mặt trời chưa lặn quân binh đã lên đường rồi. Nói về Phan Thanh Hải, Ngô Việt, mỗi người thống lãnh một vạn quân đi trước, đạo quân Thanh Hải tiên phong đi trước, đạo quân Bố Chánh Ngô Việt tiếp theo sau bọc đường vòng qua khỏi đồi Mục Linh hơn 10 dặm ánh trăng vằn vặt, nếu đôi mắt sáng thời nhìn thấy tận xa xa, khi đạo quân, Thanh Hải, Ngô Việt qua khỏi đồi Mục Linh thời không còn lo sợ phục kích nữa.

    Nói về Hung Quân Liệt theo kế sách của Ân Mao Vương, chia làm hai đạo quân, phục kích đi đường vòng của quân Văn Lang nằm im chờ đợi. Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang xuất hiện thời khen Ân Mao Vương liệu tính như thần. Thấy Quân Văn Lang đã nằm gọn trong ổ phục kích, nhưng Hung Quân Liệt không tấn công, để cho đạo quân Thanh Hải đi qua lọt vào vòng vây thứ hai, khi đạo quân Ngô Việt lọt vào ổ phục kích.

    Hung Quân Liệt nói:

    Đây mới chính là đạo quân chủ lực.

    Chờ cho đạo quân Ngô Việt lọt vào vòng vây, thời Hung Quân Liệt thổi tù tấn công, thế là tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang bị đánh bất ngờ kinh hãi rối loạn, không rõ quân địch để mà chống trả.

    Nói về Phan Thanh Hải thúc quân di chuyển nhanh về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, thời nghe phía sau đạo quân trận chiến đã nổ ra ầm trời ầm đất, không lẽ đã bị phục kích, liền cho quân dừng lại không tiến nữa. Tiến tới không được lùi lại không xong, chưa biết phải làm gì thời nghe quân reo dậy đất quân Hung Nô ào ào lao ra tấn công, tên bắn như mưa, quân Văn Lang bị tấn công bất ngờ hốt hoảng rối loạn, quân Hung Nô chủ động trận địa đánh tới tấp, quân Văn Lang chết như rạ. Phan Thanh Hải thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tức thời quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh chiến đấu quyết liệt, xông lên xáp lá cà với quân Hung Nô.

    Về sau có thơ rằng:

    Một bên là lính Văn Lang

    Một bên là giặc bạo tàn ngoại xâm

    Quân giặc cuồn cuộn xông lên

    Chủ trì trận địa giáo gươm ầm ầm

    Văn Lang bị động hoàn toàn

    Thây nằm la liệt khắp cùng xiết bao

    Tinh thần quyết tử dâng cao

    Chỉ còn hơi thở cũng nào xông lên

    Hung Nô cũng phải khiếp kinh

    Văn Lang quyết tử dâng lên cuộn cuồn

    Hung Nô thiệt hại cũng nhiều

    Mới hay con cháu Tiên Rồng Uy Linh

    Dù cho đất lở trời nghiêng

    Tinh thần quyết tử hùng anh lạ đời

    Kinh thay dòng máu Lạc Hồng

    Tử sanh, sanh tử, lông hồng nhẹ tênh

    Hy sinh vì nước vì dân

    Linh hồn nhẹ bỗng chín tầng Trời Cha

    Vì non vì nước vì nhà

    Tử sanh, sanh tử, sá gì như không.

    Quân Hung Nô thấy Phan Thanh Hải, múa đao chém quân Hung Nô như chém chuối, tức thời quân Hung Nô tập trung bắn tới Phan Thanh Hải. Phan Thanh Hải trúng tên khắp cả mình đành phải bỏ mạng. Quân Văn Lang tuy rắn mấy đầu nhưng không bao giờ bỏ chạy, người nầy ngã xuống người khác xông lên, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, quân Hung Nô khiếp vía kinh hoàng, trước khí phách hào hùng quân Văn Lang.

    Nói về Ngô Việt biết mình đã lọt vào ổ phục kích của quân giặc, từ nơi ẩn núp quân Hung Nô bắn tên ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Ngô Việt thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tử chiến tử chiến, tức thời quân Văn Lang hò reo dậy trời dậy đất, lao vào quân Hung Nô như vũ bão, tiếng gào thét tiến lên tiến lên, thế là trận đánh xáp lá cà, gươm đao giáo mác dậy trời dậy đất.

    Về sau có thơ rằng:

    Ầm ầm trận đánh kinh thiên

    Đao gầm, kiếm thét, liên miên ầm ầm

    Tên lao rợp đất rợp trời

    Thân người ngã gục xác người như non

    Chiến trường nổi gió nổi dông

    Quân binh ào tới giáo gầm kiếm tuôn

    Rền trời hai tiếng xung phong

    Giáo gươm xối xả ôi thôi bịt bùng

    Đùng đùng vang dội đùng đùng

    Văn Lang quyết tử, mất còn tại đây.

    Nói về Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang chiến đấu anh dũng như thế cũng phải khiếp hoảng. Quân Văn Lang gan đồng dạ sắt chăng, coi cái chết như không, không lẽ đây là tinh thần Quốc Đạo Văn Lang, được kể qua truyền thuyết, Hung Quân Liệt càng khiếp hãi.

    Nói về Bố Chính Ngô Việt, thương tích đầy mình, cố thúc ngựa phá vòng vây lao ra khỏi trận địa chạy về phía đại quân Văn Lang đang đi phía sau.

    Đây nói về Cao Hải nghe chiến trận nổ ra phía trước liền biết là hai đạo quân tiên phong đã sa vào ổ phục kích của quân giặc, liền cho đại quân dừng lại, với tinh thần chuẩn bị chiến đấu cao, khi có quân địch tấn công.

    Cao Hải phi ngựa lên phía trước xem xét tình hình, thời thấy Ngô Việt mình đầy máu me cỡi ngựa lao tới nói:

    Tướng quân mau cho quân rút lui, quân giặc phục kích khắp nơi.

    Nói xong Ngô Việt tắc thở. Cao Hải đau xót vô cùng, biết là quân Ân đã lường trước tất cả, đón được ý đồ của chúng ta, phục kích chận đánh khắp nơi, nên không dám rút quân về thành Xích Linh, sợ quân giặc phục kích đánh bọc hậu. Nên nhanh chóng rút quân về Huyện An Giao, quân đi đến gần sáng, tưởng là đã thoát ra khỏi sự phục kích của quân giặc, đại quân vừa mới chạm chân đến Huyện An Giao, thời nghe tiếng tù nổi lên, hai bên đường tên bắn ra như mưa. Quân Văn Lang bất ngờ hốt hoảng. Cao Hải thúc quân tiến tới, chống trả nhanh chóng thoát ra khỏi ổ phục kích của giặc. Quân giặc, ào ào rượt đuổi theo, quân Văn Lang không chạy về Huyện An Giao, mà chạy về Vân Châu.

    Nguyên Hạo Hạo chạy trước mở đường khi đến Vân Châu thấy có quân phía trước, thời vô cùng kinh hãi, quày ngựa trở lại báo với Cao Hải:

    Bẩm Đô Tướng Quân, phía trước có quân mai phục.

    Cao Hải giật mình kinh sợ, thở dài nói:

    Quân giặc tài đến thế sao? Ý Trời đã thế, chúng ta đành bỏ mạng tại Vân Châu vậy.

    Cao Hải cho quân dừng nghỉ dưỡng sức, rồi quyết một trận sanh tử với giặc. Đến khi nhìn thấy pháo lệnh tử chiến, biết đây là pháo lệnh của quân Văn Lang, Cao Hải mừng rỡ vô cùng, cho bắn pháo lệnh đáp trả, để nhận ra nhau.

    Nguyên Minh thấy pháo lệnh nói:

    Đó là quân ta, quân của Đô Tướng Quân Cao Hải.

    Nguyên Minh biết Cao Hải cũng đã thất bại, nên mới chạy đến đây. Không bao lâu Cao Hải dẩn tàn quân chạy đến, Nguyên Minh, Cao Hải ôm nhau mà rơi nước mắt, hơn hai mươi vạn quân giờ chỉ còn không đầy mười vạn, một tổn thất nặng nề, Nguyên Minh cũng cố lại lực lượng, xin viện binh từ Kinh Đô Văn Lang, chờ cơ hội đánh trả, chận đứng không cho quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, Nguyên Minh chưa có tin tức gì về Nguyên Dực.
     
  7. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 20: PHÁ TRẬN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về Nguyên Dực, cùng quân binh nhờ trận ngũ hành giặc Ân chưa làm gì được, lại còn đánh cho quân giặc tả tơi chết vô số kể, định tiến quân ào ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông như kiến, không thể nào đánh bại được.

    Lại nói về Sát Sát, ỷ mình quân đông lại có pháp thuật, có thể phá trận ngũ hành dễ dàng, không ngờ không phá được lại đi tiêu hơn bốn vạn quân giờ mới biết sợ hãi, lập đàn cầu sư phụ. Không bao lâu thời một Đạo Cô xuất hiện, tên là Hồ Bạch Hoa.

    Sát Sát lễ lạy rồi nói rằng:

    Con đang gặp phải khó khăn, lời đồn quả không sai phương Nam có trận ngũ hành vô cùng lợi hại, không dễ gì phá được.

    Hồ Bạch Hoa nói:

    Ta biết vậy nên đến đây giúp con, phương Bắc nhà Chu cũng có ngũ hành trận, nhưng không lợi hại như ngũ hành trận phương Nam. Vì ngũ hành trận phương Nam, kèm theo ngũ kỳ trận uy lực vô biên, muốn phá được ngũ hành trận, phải phá ngũ kỳ trận trước, nếu không có công tu luyện hàng nghìn nghìn năm thời không bao giờ phá được.

    Bằng thắp hương lâm râm niệm chú, không bao lâu thời có hai Đạo Cô, một Đạo Tiên xuất hiện. Hồ Bạch Hoa giới thiệu hai Đạo Cô. Hồ Bạch Hoa chỉ Đạo Cô mặc áo xanh nói:

    Đây là Thanh Xà Đạo Cô, còn đây là Tý Bạch Đạo Cô, còn đây là Bạch Hầu Đại Tiên.

    Sát Sát theo lời giới thiệu mà lạy tạ. Sát Sát mời các sư phụ vào ghế ngồi. Hồ Bạch Hoa nói:

    Phá ngũ kỳ trận đều nhờ hết vào Đại Tiên.

    Bạch Hầu Đại Tiên nói:

    Bạch Muội, chịu trách nhiệm đánh vào Tây kỳ, phá cho được cờ trắng. Thanh Xà Đạo Cô, đánh vào đông kỳ, phá cho được cờ xanh. Tý Bạch Đạo Cô, đánh vào Nam kỳ, phá cho cho được cờ đỏ. Sát Sát, đánh vào Bắc kỳ, phá cho được cờ đen, chỉ cần phá được một trong năm kỳ, thời bốn kỳ kia tự biến mất.

    Sát Sát là người nóng lòng phá trận, bằng cỡi thiên lý mã bay lên không lao xuống trung tâm Bắc kỳ trận, rút kiếm chém xuống lá cờ đen, không ngờ lá cờ đen tỏa hào quang chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa. Sát Sát bị mây đen, mây trắng cuồn cuộn bao vây che chắn tầm nhìn khó mà đánh trúng lá cờ đen. Sát Sát tức quá cỡi ngựa thần lao xuống, vung kiếm báu chém xuống ầm ầm, bỗng Thủy Thần xuất hiện múa gậy thần chống trả, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Sát Sát hóa phép liên miên, nhưng bị thần lực ngũ kỳ hóa giải cả. Sát Sát thất kinh. Sát Sát võ nghệ cao cường áp đảo Thủy Thần, bất thình lình Sát Sát lao xuống chém Hắc Kỳ một nhác như tia chớp, thời có tiếng quát xem nầy, một lằn ánh sáng chớp lên chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Người ra đòn chống đỡ đường kiếm của Sát Sát là ai thế, còn ai vào đó nữa chính là Lê Anh.

    Nói về Lê Anh ở trên đài quan sát, thấy Sát Sát cỡi ngựa từ trên không lao xuống chém vào Hắc Kỳ thời vô cùng kinh hãi, múa đao chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Thủy Thần cũng múa gậy đánh tới. Sát Sát múa kiếm chống trả, Sát Sát đảo ngựa bất ngờ đánh xuống một chưởng, tức thời Hắc Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm một tiếng long trời lở đất. Sát Sát quyết tâm phá cho được Hắc Kỳ, đã trôi qua mấy giờ nhưng vẫn chưa làm gì được.

    Cùng lúc ấy Hồ Bạch Hoa múa phất trầm tới tấp đánh xuống Bạch Kỳ, Kim Thần xuất hiện múa gậy chống trả, nhờ có thần lực Bạch Kỳ hổ trợ Kim Thần, nên Bạch Hoa chưa thể hạ gục được Kim Thần, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Hồ Bạch Hoa hóa phép liên miên nhưng chưa phá nổi uy lực Ngũ Kỳ. Hồ Bạch Hoa phất tay một đạo chỉ quang đánh xuống Bạch Kỳ, Bạch Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm đinh tai nhức óc. Kim Thần múa gậy xông tới, đánh Bạch Hoa, Bạch Hoa múa phất trần chống trả, hai bên đánh nhau dậy trời dậy đất, bất phân thắng bại. Hồ Bạch Hoa bất ngờ ném lên một vật, hóa thành con chồn có cánh bay nhanh chụp xuống cờ trận, tức thời một tia chớp nổi lên chém tới con chồn có cánh. Ầm một tiếng, con chồn nát tan, ai mà có đường đao nhanh đến thế, còn ai nữa chính là In Đô.

    In Đô theo dõi trận chiến giữa Kim Thần và Bạch Hoa, nhất là chú ý Bạch Hoa, thấy Bạch Hoa ném ra một vật, hóa thành con chồn lao xuống cướp lấy cờ trận, tức thời In Đô múa đao chém tới, con chồn trúng một đao tan xác. Bạch Hoa thấy mất bảo bối vô cùng tức giận thét lên inh ỏi. Phất trầm trên tay phất lên lia lịa, những trận cuồng phong tuôn ra tưởng chừng như đất trời muốn sập đến nơi. Kim Thần múa gậy kình lực tuôn ra chống trả quyết liệt, ầm ầm đùng đùng liên miên bất tận.

    Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, ra sức đánh với Hỏa Thần. Hỏa Thần cũng không chịu kém, hai bên đánh nhau, mù trời mịt đất. Tý Bạch múa phất trần đánh Hỏa Thần tới tấp, bất ngờ biến mất, là cờ đỏ bỗng tỏa hào quang ầm ầm đùng đùng. Tý Bạch Đạo Cô chưa có cách nào phá được cờ trận, lại bị Hỏa Thần tấn công tới tấp. Tý Bạch Đạo Cô liền hiện nguyên hình một con chuột bạch to lớn, thổi ra một luồng bạch quang, xuống cờ trận tức thời hàng loạt tiếng nổ nổi lên rung chuyển đất trời, đài quan sát như muốn sập, nhưng cờ trận vẫn còn không hề hấn gì. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, cây gậy Thần tỏa hào quang đánh xuống, con chuột bạch tức thời biến mất, lao xuống quan sát đài chụp lấy lá cờ trận. Dương Điền luôn theo dõi trận chiến giữa Hỏa Thần với Tý Bạch Đạo Cô, thấy Tý Bạch Đạo Cô hiện nguyên hình là con chuột bạch to lớn, thổi ra luồng bạch quang, xuống lá cờ trận, Dương Điền sít chút nữa thời bỏ mạng, thấy con chuột bạch biến mất liền sinh nghi liền chém tới một đao, đến chỗ lá cờ chỉ nghe nổ ầm một tiếng, hình như trúng phải một cái gì, con chuột bạch đỡ được đường đao của Dương Điền, liền hiện lại nguyên hình là Tý Bạch Đạo Cô. Tý Bạch Đạo Cô định phóng ra một lưỡi kim đao nhỏ xíu giết chết Dương Điền. Hỏa Thần liền lao tới gậy Thần trên tay vùn vụt đánh tới tấp vào Tý Bạch Đạo Cô, Tý Bạch Đạo Cô càng đánh càng kinh hãi không ngờ ngũ hành cờ trận lại lợi hại như vậy.

    Đây nói về, Thanh Xà Đạo Cô là một con trăn tu luyện mấy nghìn năm, thần thông pháp thuật cao cường, đánh mới Mộc Thần, Mộc Thần nhờ ứng hiệp theo cờ trận nên Thanh Xà Đạo Cô chưa làm gì được. Thanh Xà Đạo Cô liền hóa ra một trận cuồng phong hầu quét sạch mây trận, đánh tan che chắn tầm nhìn, không ngờ mây trận lại cuồn cuộn tuôn ra dữ dội hơn nữa. Thanh Xà chỉ tay một cái, tức thời xuất hiện một tia sáng đánh xuống lá cờ xanh, lá cờ xanh liền tỏa hào quang chống trả, ầm ầm đùng đùng. Mộc Thần múa gậy giông tố nổi lên ầm ầm đánh tới Thanh Xà Đạo Cô, hai bên đánh nhau càng về sau càng dữ dội. Thanh Xà vừa đánh với Mộc Thần bất thình lình thổi ra một con trăn có cánh, bay xuống cắn nát là cờ Thần, nào hay bị chém trúng một đạo biến mất. Thanh Xà Đạo Cô đau đớn như trúng phải một đao, tức giận gầm lên hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, mồm con trăn phun ra lửa dữ, hầu đốt cháy sạch quan sát đài.

    Nói về Lô Gô, chém trúng con trăn nhỏ do Thanh Xà Đạo Cô thổi ra, Thanh Xà Đạo Cô tức giận hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, miệng khè ra lửa, đuôi quật lên dông bão ầm ầm làm khiếp kinh quân binh. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, gậy Thần tỏa ra hào quang sấm nổ nổi lên sấm sét đánh xuống. Con trăn to lớn biến mất, những tiếng nổ ầm ầm liên miên bất tận. Lô Gô bị kình lực giao tranh giữa cờ trận Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô hất rớt xuống quan sát đài. Lô Gô kinh hãi, cuộc chiến Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô càng trở nên quyết liệt. Lô Gô bị trúng kình lực ê ẩm cả mình, nếu không có áo giáp thời coi như toi mạng rồi.

    Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, chiến đấu với Thổ Thần long trời lở đất chưa có cách gì phá được cờ trận, bỗng thấy Thần lực cờ trận yếu xuống, thời biết đây là cơ hội may ra phá được, liền hóa phép tức thời yêu tinh quỉ dữ đầy trời xông vào đánh với Thổ Thần, lao xuống trung tâm quan sát đài đánh với Nguyên Dực.

    Nói về chủ soái Nguyên Dực ở trên đài quan sát theo dõi trận chiến giữa Thổ Thần với Bạch Hầu Đại Tiên, bỗng thấy yêu tinh quỉ dữ xuất hiện đầy trời, lao xuống đài quan sát tấn công mình, Nguyên Dực vốn võ nghệ cao cường lại có pháp thuật thần thông nên chống trả lại yêu tinh quỉ dữ, cuộc chiến xảy ra kinh thiên động địa. Bỗng nghe một tiếng nổ long trời lở đất, cờ trận đã bị phá lá cờ vàng đã bị rách nát, sương mù, mây đen, mây trắng, ngũ thần biến tan hết thảy. Nguyên Dực kinh hoàng khiếp vía, ngũ hành cờ trận mất đi thời sức mạnh huyền bí của quân Văn Lang không còn nữa, chỉ còn nhờ vào cái tài điều binh khiển Tướng mà thôi.

    Đây nói về Sát Sát thấy cờ trận tan biến không còn vô cùng mừng rỡ nhìn thấy rõ quân Văn Lang, chỉ cần tiêu diệt năm vị Tướng trên quan sát đài thời coi như ngũ hành trận bị phá vỡ. Sát Sát liền cỡi ngựa lao xuống đài quan sát chém Lê Anh múa đao chống trả, đường gươm Sát Sát nhanh khôn tả, lại ẩn tàn một kình lực vô biên. Lê Anh múa đao như mưa sa bão táp chém tới ầm ầm, con thiên lý mã bay lên không Sát Sát niệm chú tức thời một trận cuồng phong nổi lên cuộn xuống Lê Anh. Lê Anh không còn đứng vững được nữa, Sát Sát lao xuống chém một gươm bỏ mạng. Thế là cánh Bắc ngũ hành trận bị phá vỡ, Sát Sát bay tới chỗ quân Ân ra lệnh tấn công. Thế là Tào Bá, con của Tào Côn ra lệnh ba đạo quân binh ào ào xông vào Bắc trận, quân Văn Lang chỉ còn ra sức chống trả. Sát Sát hóa phép cuồng phong cuốn tới quân Văn Lang tối tăm mù mịt nghiêng ngả quân binh, quân Ân lao tới chém như mưa, quân Văn Lang thi nhau ngã gục.

    Nói về Thanh Xà Đạo Cô thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng còn ngũ hành trận pháp cũng vô cùng lợi hại, nên bay xuống giết chết Lô Gô phá vỡ trận pháp. Thanh Xà Đạo Cô thổi ra một luồng hắc khí Lô Gô xây xẩm mặt mày. Thanh Xà Đạo Cô lao tới đánh một chưởng kết liễu mạng sống Lô Gô. Bỗng một con Phụng Hoàng xuất hiện, hào quang rực rỡ, Thanh Xà Đạo Cô khiếp vía tàn hình trốn mất. Lô Gô thoát chết, nhưng không còn đứng dậy nổi, quân binh thấy thế đưa Lô Gô xuống đài chữa trị.

    Nói về Võ Vu thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá liền xua quân ào ào lao vào trận địa tấn công quân Văn Lang, quân Văn Lang chống trả quyết liệt, hai bên đánh với nhau rền trời rền đất.

    Thế là trận đánh kinh thiên

    Đao gầm kiếm thét liên miên ầm ầm

    Ngựa người lao tới rầm rầm

    Cuộn cuồn lớp lớp đạp càn lên nhau

    Kiếm đao xối xả như mưa

    Thây người ngã gục nào thua lở đồi

    Hai bên đánh xáp lá cà

    Chiến trường gào thét ôi là kinh thiên

    Đất trời như muốn ngã nghiêng

    Cuồng đao, bão kiếm, mưa tên bịt bùng

    Núi non rung chuyển đùng đùng

    Rồng Tiên, cọp, sói, tranh hùng dậy non.

    Đây nói về Hồ Bạch Hoa, thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng ngũ hành binh pháp vẫn vô cùng lợi hại, không dễ gì quân Ân chiếm lấy ưu thế, liền bay xuống hạ gục In Đô. In Đô múa đao chống trả, Hồ Bạch Hoa thấy In Đô võ nghệ cao cường, khó mà hạ gục nhanh chóng được, bằng thổi ra một luồng hơi độc, In Đô xây xẩm mặt mày. Hồ Bạch Hoa bay tới kết thúc sanh mạng của In Đô. Sanh mạng In Đô chết sống trong đường tơ kẽ tóc, bỗng một con Rồng xuất hiện, múa vuốt chụp Bạch Hoa. Hồ Bạch Hoa khiếp vía tàn hình trốn mất. In Đô vì trúng độc mắt mở không ra nằm yên bất tỉnh, quân binh khiêng xuống lo chạy chữa.

    Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, đang chiến đấu với Dương Điền. Dương Điền võ nghệ cao cường, Tý Bạch Đạo Cô chưa thể hạ gục được ngay, bằng thổi ra một luồng yêu thuật, bỗng thấy một con chim điêu xuất hiện, hào quang sáng chóa. Tý Bạch Đạo Cô kinh hãi hóa ra một trận cuồng phong trốn mất. Dương Điền, thấy quân Hồ tràn vô như nước lở phất cờ chỉ huy đánh trả. Quân Hồ bị hỏa trận quân binh Văn Lang vô cùng lợi hại. Đánh quân Hồ tơi tả. Hồ Mị Hoa phi ngựa tới hét lớn, niệm chú chỉ kiếm, tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, ập tới quân Văn Lang, quân Văn Lang ngã rạp, quân Hồ ập tới chém xối xả, quân Văn Lang chết thôi là chết.

    Về sau có thơ rằng:

    Dù cho nát thịt tan xương

    Cũng không lùi bước tiến lên diệt thù

    Kìa lũ giặc ào ào tràn tới

    Hỡi xông lên tử chiến hùng anh

    Liệt oanh anh dũng liệt oanh

    Đánh cho quân giặc tan tành khói mây

    Thân ngã xuống hồn bay trận chiến

    Đánh quân thù tan biến tiêu ma

    Văn Lang non nước sơn hà

    Dễ gì cướp được yêu tà ngoại xâm.

    Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, phá tan ngũ hành cờ trận, nhưng ngũ hành binh pháp cũng vô cùng lợi hại, bằng bay xuống tiêu diệt Nguyên Dực. Nguyên Dực võ nghệ cao cường lại có pháp thuật, không dễ gì vài ba mươi hiệp, hạ gục được. Bạch Hầu Đại Tiên liền hóa phép, yêu tinh quỉ dữ bao vây bốn phía tấn công Nguyên Dực. Nguyên Dực múa gươm chống trả, đường gươm như mưa sa bão táp, yêu tinh tuy đông nhưng không làm gì được. Bạch Hầu Đại Tiên nổi giận, liền nhả ra một viên ngọc ném lên không hô biến, tức thời những tia hào quang chiếu xuống Nguyên Dực trúng phải những tia hào quang liền xây xẩm mặt mày, ngã gục xuống sàn, yêu tinh quỉ dữ lao tới xé xác. Bỗng Hoàng Long xuất hiện, nuốt mất viên ngọc tu luyện hơn mấy nghìn năm mới thành của Bạch Hầu Đại Tiên. Bạch Hầu Đại Tiên kinh hồn bạt vía, tàn hình trốn mất. Nguyên Dực thoát chết, nhìn thấy cánh Bắc, cánh Nam, đã bị quân Ân, quân Hồ phá vỡ.

    Chưa biết phải làm sao thời có tiếng nói lớn:

    Chủ soái mau ra lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông, chạy về Ninh Châu, cố thủ.

    Người lên tiếng đó chính là Hầu Thái Công. Nguyên Dực tức thời truyền lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông. Võ Vu chống trả không nổi đành bỏ chạy, quân Văn Lang ào ào tuôn ra chạy về Ninh Châu, quân Ân rượt theo một đoạn, không rượt theo nữa, vì lúc nầy trời đã tối. Nguyên Dực dẫn tàn binh về gần tới Ninh Châu, thời thấy Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân dẫn quân ứng cứu.

    Hầu Thái Công hỏi:

    Sao biết quân ta thua mà ứng cứu.

    Lạc Đại Vương cùng Bạch Tướng Quân nói:

    Chúng tôi luôn luôn cho quân thám báo theo dõi tình hình cập nhật liên tục trận chiến, nghe nói mây trận đã bị phá vỡ, thời biết quân ta không thể nào chống cự lại được, liền dẫn quân đến ứng cứu.

    Khi quân binh về hết thành Ninh Châu, cửa thành liền đóng lại phòng thủ nghiêm ngặt. Lúc nầy Nguyên Dực cho người điểm lại binh lính, thời đi tiêu năm vạn chỉ còn năm vạn, thời chỉ biết thở dài. Bằng hỏi qua tình hình, đồi Vạn Lâm, cũng như đạo quân của Việt Luân Tướng Quân. Bạch Tướng Quân, rơi nước mắt kể lại tất cả những gì quân thám báo đã báo. Rồi nói rằng:

    Chiến dịch ra quân chúng ta đã bị bại lộ, là do hai con quỉ nghe lén thông tin, sau nầy mới phát hiện được. Là vì chúng tiếp tục nghe lén, khi phát hiện ra chúng thì chúng biến mất. Quân Ân vì thế mà đi trước ta một nước cờ, là do bại lộ thông tin, khi chúng ta bàn kế sách. Chúng đưa quân phục kích đồi Vạn Lâm trước ta, và tiêu diệt quân ta. Hầu Tướng Quân, cũng như Chăm Ly bỏ mạng, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn. Không những thế quân Ân phục kích ở địa phận Ninh Điền khi quân ta đi qua đường quanh co hiểm trở, chúng liền tấn công Việt Luân Tướng Quân bỏ mạng năm vạn quân chết sạch không còn một người.

    Nguyên Dực nghe xong thời than thở không thôi. Hầu Thái Công nói:

    Việc binh thắng bại là lẽ bình thường, quân Ân lắm nhiều yêu tinh quỉ dữ, trợ giúp khó mà đánh lại chúng. Chủ soái nói rõ tình hình quân giặc xin viện binh củng cố lại lực lượng, quyết một còn một mất với chúng.

    Nguyên Dực nghe theo viết thơ dâng lên Vua Hùng cầu thêm viện binh.

    Vận nước suy vong nạn dập dồn

    Quân binh tướng sĩ lấp vùi chôn

    Hết thịnh tới suy thường là thế

    Huyền cơ tạo hóa luật nhân sinh

    Kiếp nạn Văn Lang Nguồn Cội mất

    Gieo mầm chinh chiến khổ đao binh

    Nước non lắm cảnh nhiều tai kiếp

    Chờ mong Quốc Tổ cứu sanh Linh.

    PHẦN 21: KỲ TÍCH XUẤT HIỆN

    Ở các thời kỳ Hùng Vương. Anh Linh Quốc Tổ Long Đế Sùng Lãm, người khai sinh ra nước Xích Quỷ thời đại Kinh Dương Vương. Long Đế Sùng Lãm chính là Thiên Long Vương đầu thai, khi mãn kiếp trần gian trở về Trời. Thường hiển Linh hiện về trên khắp đất nước Văn Lang, nhất là thời hậu Hùng Vương. Giúp cho dân Văn Lang luôn trúng mùa, no cơm ấm áo. Anh Linh Quốc Tổ Thiên Long Vương, Sùng Lãm, thường hiện về, với hình dáng người mây, người mây to lớn, dấu chân Anh Linh Thiên Long Vương Quốc Tổ to lớn, đi đến đâu là in dấu chân xuống đó. Không những ở trên đất mà ngay cả trên đá, dấu chân Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, không chỉ có trên đất nước Văn Lang, Trung – Nam – Bắc Văn Lang, mà cùng khắp địa cầu, cả Đông lẫn Tây, tạo ra những cơn mưa trái mùa làm cho hoa màu, ngô, lúa, tốt tơi đem lại sự no cơm ấm áo cho toàn nhân loại.

    Thiên Long Vương, ở trên Thiên Cung lâm phàm đầu thai xuống thế, khai sinh ra nước Xích Quỷ, mở ra thời đại Kinh Dương Vương. Truyền xuống chín đời, tới đời thứ mười, thời chuyển sang giai đoạn thời đại Hùng Vương, nước Xích Quỷ được mở rộng trở thành nước Văn Lang, 2959 trước Công Nguyên. Anh Linh Quốc Tổ, thời đại Kinh Dương Vương, thường hiện về để lại dấu chân khắp nơi, với hình thể người mây khổng lồ to lớn, để lại dấu chân cũng to lớn.

    Người Nam Văn Lang gọi là dấu chân ông Đổng, người Bắc Văn Lang gọi là dấu chân ông Khổng Lồ. Anh Linh Quốc Tổ hiện về không chỉ là hình người, mà chuyển hình người thành hình đám mây che phủ cả một vùng rộng lớn, sau đó thời mưa như trút, những cơn mưa trái mùa, làm cho ao hồ, suối sông, sung mạch trở lại, người dân được trúng mùa lớn. Lúc thời chuyển thân thành hình xoắn ốc, tạo ra những cơn bão lốc, cuốn đi tất cả những ai ăn lộc Trời mà không biết kính trọng Trời, những kẻ bất kính đối với đấng sanh thành Tạo Hóa.

    Chuyện lạ ấy cứ xuất hiện mãi, ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân. Có những lần dân thấy Anh Linh Quốc Tổ hiện về, tạo ra cảnh mưa to gió lớn trái mùa, chỉ trong vòng có một ngày mà khai ra nhiều dòng chảy, thành sông thành lạch, đem phù sa về bồi đắp cho làng quê, dân chúng lại trúng mùa lớn, càng thêm no cơm ấm áo. Người dân Nam Văn Lang đã quen gọi sự Anh Linh Quốc Tổ là Ông Đổng.

    Có lần dân thấy Ông Đổng tuy là người mây, nhưng lại có hai con mắt sáng chóa. Bàn tay Ông Đổng hễ chạm xuống núi, là núi đó không còn, chỉ trong vòng một đêm ngọn núi biến mất, vì Ông Đổng trút nước xuống làm trôi đi hết, Ông đem đất ấy lấp xuống chỗ sâu, tạo ra những cánh đồng bát ngát, dân chúng vì thế mà có nhiều ruộng để canh tác. Nơi nào xem nhẹ quyền Tạo Hóa, xem thường Thiên Ý của Trời, thời Ông Đổng sẽ lấy đi tất cả, mùa màng thất bát, đồng khô cỏ cháy, vì không có những cơn mưa trái mùa, đói khổ vô cùng.

    Có lần dân chúng thấy Ông Đổng, có lần tạo ra những cơn mưa trái mùa khai ra dòng chảy, vun đất thành đồi, tạo ra sấm sét đánh tan những cơn dịch bịnh, hơi thở Ông Đổng phun ra mây đen cuồn cuộn, làm dịu đi cơn nóng oi bức. Ông Đổng khổng lồ thường xuất hiện trong những ngày đầu hè, giữa hè, cuối hè, đem lại nguồn nước Trời, cho cây cối, hoa màu, ngô, lúa, tốt tươi.

    Anh Linh Quốc Tổ xuất hiện để lại dấu chân khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở làng Gióng, nổi tiếng là quê hương xứ sở vườn cà, cà ở làng Gióng coi như là đặc sản được đưa đi giao dịch trao đổi khắp nơi. Và cũng từ làng Gióng nầy, xảy ra một kỳ tích được coi như là một huyền thoại chuyện lạ nhất trên đời truyền tụng mãi cho đến ngày nay.

    Bắt đầu từ câu chuyện vườn cà.

    Xóm dừa nhìn bãi dâu xanh

    Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê

    Cánh cò bay lả bay la

    Bay qua bến nước bờ tre ruộng đồng

    Trâu nhìn đò chạy trên sông

    Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh diều

    Khói lam tìm ánh nắng chiều

    Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non

    Bao la trời nhớ đất thương

    Non xanh nước biết vấn vương đất trời

    Ánh trăng vằn vặt đêm về

    À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru

    Ánh đèn soi dáng người thân

    Sạm da vì bởi gió sương tháng ngày

    Hồ thu nhớ ánh trăng đầy

    Nhớ hừng đông dậy, nhớ gà báo tin

    Gâu gâu chó hỏi người đi

    Vườn cà làng Gióng có ai giữ gìn

    Người rằng có một người hiền

    Tên là Phù Thị xấu người đẹp tâm

    Mười năm ở với Đức ông

    Công, dung, ngôn, hạnh, khéo khôn ai bì

    Đức ông cảm thấy hài lòng

    Xem như con cái chẳng hề so đo

    Vườn cà chăm sóc sớm hôm

    Lòng vàng tỏa sáng còn hơn ngọc ngà

    Tiếng hiền cứ mãi bay xa

    Đến tai Thượng Đế, Trời Cha, Chúa Trời

    Huyền cơ chuyển biến tất thời

    Thiên Long Sùng Lãm xuống trần đầu thai

    Vườn cà để lại dấu chân

    Trong đêm mưa gió bão giông đùng đùng

    Bình minh rực rỡ chân trời

    Gió thu hôn nhẹ vườn cà xanh xanh

    Phù Thị nhẹ gót nhanh nhanh

    Vườn cà một lược nên hư thế nào

    Chợt nhìn kinh ngạc làm sao

    Dấu chân to lớn nao nao lòng người

    Phù Thị ướm thử chân vào

    Tự nhiên thấy cả thân người chuyển rung

    Tâm hồn kinh hãi hoang mang

    Trong người khác lạ càng thêm hãi hùng

    Từ đây Phù Thị âm thầm

    Dấu đi tất cả những gì xảy ra

    Ngày qua tháng lại ngày qua

    Bụng càng to lớn dấu đi được nào

    Tránh sao được tiếng xì xào

    Không chồng mà chửa phạm vào làng qui

    Cuộc đời họa phúc éo le

    Mấy ai tránh khỏi xưa nay thường hằng

    Sau đây câu chuyện của người

    Sử Kinh để lại cho đời xem coi

    Sự đời là tấm gương soi

    Cho bao thế hệ đời sau răn mình.

    Ở vào thời hạ Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 6 Hùng Huy Vương, 961 đến 893 trước Công Nguyên, ở bộ Vũ Ninh, Huyện Tiên Du, nơi làng Gióng. Có hai vợ chồng giàu có, là nhờ những vườn cà do ông bà Tổ Tiên để lại, nổi tiếng là đối nhân xử thế, ăn ở phúc Đức, nên dân làng thường gọi hai ông bà là Đức ông, Đức bà.

    Đức ông, Đức bà chỉ nuôi một người làm vườn, tên là Phù Thị, quê ở làng Phù. Cũng giống như Đức ông Đức bà, hiền lành nức tiếng, nhưng phải người hơi xấu, không được dễ coi, nên không có người dạm hỏi, tuổi thanh xuân vì thế mà trôi qua, tuổi trung niên như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã hơn bốn mươi tuổi, hơn hai mươi năm ở với Đức ông Đức bà Phù Thị lúc nào cũng xem Đức ông Đức bà như Cha Mẹ của mình, Đức ông Đức bà cũng vậy vì không có con, nên coi Phù Thị như con. Thời gian không chờ đợi ai cứ mãi trôi qua, hết ngày nầy đến ngày khác, hết năm nọ đến năm kia, Phù Thị sống cuộc sống bình yên, như mặt nước hồ thu không gợn sóng.

    Chữ ngờ ai biết được đâu

    Chỉ trong nháy mắt bể dâu cuộc đời

    Hồ thu nổi sóng ngậm ngùi

    Phải chăng số phận con người Trời ban.

    Ở làng Gióng trải qua một đêm mưa gió, sấm chớp hải hùng, hoa màu bị hư hại. Khác hơn mọi khi Phù Thị hôm nay dậy rất sớm, vì lo sợ vườn cà bị mưa to gió lớn làm hư hại. Trời vừa hừng sáng Phù Thị đã ra vườn cà, thời vô cùng ngạc nhiên vì vườn cà vẫn xanh tốt, như không có chuyện gì xảy ra, trong khi các vườn cà nhà kế bên xơ xác. Phù Thị nghĩ có lẽ Đức ông Đức bà ăn ở hiền lành nên có Thần Linh che chở bảo hộ, nên vườn cà không bị hư hại như thế nầy, Phù Thị đang đi xem xét các luống cà, bỗng phát hiện một dấu chân to lớn. Bà Phù Thị lấy chân mình ướm thử vào, để xem thua kém bao nhiêu, không ngờ vừa ướm chân vào thời thấy toàn thân rung động, chạy khắp người bà Phù Thị vô cùng kinh hãi, không dám kể lại chuyện kỳ lạ nầy với Đức ông Đức bà.

    Không ngờ sự ướm chân thử đó, bà Phù Thị dần dần mang thai, cái bụng càng ngày càng lớn.

    Đức ông Đức bà kêu Phù Thị hỏi:

    Cha nó là ai? Quê quán nơi đâu?

    Phù Thị cứ mãi làm thinh không nói ra sự thật. Đức ông Đức bà giận lắm quát mắng:

    Ta không ngờ ngươi là con đàn bà cứng đầu không biết lễ giáo như thế, làm những chuyện tày trời, mà không biết xấu hổ gì cả.

    Phù Thị biết rưng rưng nước mắt nói:

    Ông bà tha tội cho con, chuyện nầy con đâu có muốn, nhưng số con như thế con đành phải chịu.

    Bây giờ đã ra người tội lỗi

    Mặt cho đời nước chảy hoa trôi

    Hóa công sao khéo trêu ngươi

    Một mình một cảnh như người lạ xa

    Phước trong họa chuyển xây ngao ngán

    Nhằm thân nghèo xấu xí mà xây

    Nhân duyên số phận láy lay

    Chờ xem tạo hóa chuyển xây cuộc đời.

    Trong khi ấy dân làng cứ mãi xầm xì, bàn tán lan rộng ra khắp các vùng, tai tiếng của Đức ông Đức bà không nhỏ. Nhất là Đức ông là người mang tiếng hơn hết: Nào là Đức ông lấy con ở, cũng phải thôi phải có người nối dòng, nối dõi chứ, ăn ở hiền lành mà tuyệt nòi tuyệt giống sao được. Nhất là Đức bà vì không chịu được sự đàm tiếu nầy, bằng yêu cầu làng xét xử. Ngày xét xử bà Phù Thị, không những người trong làng Gióng, mà nhiều người dân trong các làng lân cận cũng kéo đến xem. Lạc Điền là vị Quan làng nghiêm khắc đã từng xử không biết bao nhiêu vụ, nhưng đều trôi chảy êm xuôi, để được làm rõ vấn đề.

    Vị Quan làng hỏi:

    Nầy bà Phù Thị, Cha của đứa bé trong bụng là ai? Tại sao không chịu ra mặt nhận trách nhiệm của mình. Bà cứ nói thật đi ai là Cha của đứa bé trong bụng.

    Bà Phù Thị không sợ hãi gì cả, trả lời thẳng thắng:

    Đứa bé trong bụng là con của Ông Đổng.

    Những người đến nghe đều giật cả mình, ông Quan làng há mồm trợn mắt, Đức ông Đức bà như muốn bật ngửa.

    Ông Quan lấy lại bình tỉnh hỏi:

    Bà Thị bà nói sao, đứa bé trong bụng bà là con Ông Đổng. Bà không sợ Ông Đổng bẻ cổ bà sao?

    Và ai cũng nghĩ bà Thị đã hóa điên, xúc phạm đến Thần Linh. Quan làng hỏi:

    Ông Đổng ăn ở với bà thế nào?

    Bà Phù Thị dõng dạc nói:

    Không ăn ở thế nào cả, tôi chỉ ướm chân tôi vào chân của Ông thế là tôi đã mang thai.

    Nghe bà Thị trả lời như thế ai nấy đều cười ồ lên, có người nói mỉa mai rằng:

    Mai tôi tới những chỗ có dấu chân ông Đổng ướm vào để sinh con.

    Và ai cũng cho bà Thị là người làm bậy xấu hổ quá hóa điên, Đức ông coi như không dính liếu gì đến vụ nầy, nên không tham gia ý kiến tùy Quan làng xét xử.

    Lạc Điền, Quan làng tức giận nói:

    Bà nói toàn là những chuyện vô căn cứ, lừa dối mọi người, với cái tội không chồng mà chửa làm xấu mặt cả làng.

    Cùng lúc xét xử ấy cũng không ít người mắn nhiếc bà, có người mắng nhiếc thậm tệ. Bà Phù Thị chỉ biết rơi nước mắt, chấp nhận số phận, mà Đấng Tạo Hóa đã an bày. Chỉ trong chốc lát bà già đi thấy rõ, có người thương xót cho số phận của người con gái không may mắn xinh đẹp như người ta, giờ lại thêm tai họa giáng xuống.

    Hồng trần trong cõi người ta

    Mấy ai thoát khỏi nạn tai cuộc đời

    Thương người cũng chính thương mình

    Hại người Trời hại thường tình xưa nay.

    Dân làng Gióng cứ nghĩ bà Phù Thị vụng trộm ăn ngủ với người ta không chịu khai nhận tội một mình. Để lắng dịu sự mắn nhiếc của dân làng.

    Quan làng xử như sau: Theo hương ước của làng, thời tội nầy đáng xử tử, nhưng nể Đức ông Đức bà, chỉ trục xuất bà Phù Thị ra khỏi làng.

    Bà Phù Thị biết không còn ở với dân làng được nữa, một mình lủi thủi đi về nơi rừng núi cách làng Gióng khá xa.

    Lủi thủi xa làng đến núi non

    Chân đầy nặng trĩu bụng mang con

    Chim kêu vượn hú lòng trống vắng

    Thảo mãng hoang vu dạ sắc son.

    Bà đến gần mé rừng ngồi dưới một gốc cây, bà nhìn những chiếc là vàng, rời khỏi cành trở về với đất, một nỗi niềm cay đắng, biết tỏ cùng ai.

    Lá vàng nầy hỡi lá vàng rơi

    Lá theo cánh gió về nơi Cội Nguồn

    Còn ta lạc bước phong sương

    Rừng xanh che chở náo nương tháng ngày.

    Bà Phù Thị mệt lã ngủ thiếp đi lúc nào không hay, đến khi thức dậy thời thấy chim muôn vạn thú đến ở xung quanh bà, chúng đem đến nhiều trái cây hoa quả, bà đã đói mấy ngày, nên bốc lấy ăn ngấu nghiến. Đêm về các nàng Tiên hiện đến dựng cái chòi tranh để cho bà ở, hơn cả tháng dân làng không biết, dân làng không thấy bà xuất hiện, hàng đêm nghe tiếng hổ gầm voi hú, dân làng đồn rằng bà bị cọp ăn thịt rồi, có người cũng lấy làm thương xót cho số phận con người, ngày lại ngày qua bà sống bình yên trong túp lều tranh.

    Thế là cuộc sống tạm yên

    Non xanh nước biếc cũng yêu Thị bà

    Rừng xanh sai quả sai hoa

    Để bà sanh sống vượt qua cơ hàn

    Sống đời cô độc một mình

    Sớm chiều làm bạn thú cầm mua vui

    Xuống đồng bắt ốc mò cua

    Đem ra làng đổi kiếm ăn qua ngày.

    Bà Phù Thị ngoài ăn hoa quả, bà còn xuống đồng, xuống mương bắt ốc mò cua sanh sống còn đem ra làng đổi lấy gạo, nuôi thân. Dân chúng thấy bà xuất hiện vô cùng kinh ngạc bà không bị cọp ăn thịt sao, không thể tin được, ở một mình trong rừng hơn cả tháng mà vẫn bình yên đây mới là chuyện lạ. Ban đầu dân còn ấn tượng không tốt với bà, có những ngày không đổi được gạo đành đem cua ốc về nấu ăn. Nhưng vì cuộc sống nuôi thân nuôi con, bà luôn luôn nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại, chịu khó dần dần dân chúng không còn ghét bà nữa, ngược trở lại thương bà, từ đó bà mò cua bắt ốc đổi lấy gạo rất thuận lợi. Bà yêu chim thú như yêu bản thân mình, nên chim thú thường đến với bà, và giúp đỡ bà, trong những ngày mưa gió, cũng như những ngày bà không bắt ốc mò cua.

    Lòng chân thật động lòng chim thú

    Làm bạn đời khuya sớm có nhau

    Màn trời chiếu đất náo nương

    Hổ, voi, chim chóc đến chung một nhà

    Chim ca hát, hổ gầm voi hú

    Làm trò vui giải trí giải sầu

    Làm cho người mẹ vui vầy

    Quên đi nỗi khổ tháng ngày cô đơn.

    Dân làng thấy bà Phù Thị ở nơi hoang vu rừng núi, chim kêu vượn hú, tối về hổ voi gầm rú suốt đêm, mà bà Phù Thị vẫn bình yên, không hề hấn gì cho là có Thần Linh che chở, nên không coi Phù Thị là người xấu nữa. Có những lần bà Phù Thị xuống đồng mò cua bắt ốc, nhưng không được bao nhiêu.

    Bà liền khấn vái rằng: Nếu Trời thương hại mẹ con tôi, thời cho tôi bắt thật nhiều cua ốc, thế là bà mò đến đâu thời có cua có ốc đến đó.

    Nên lúc nào cũng bắt được nhiều cua ốc, đổi được nhiều gạo dự trữ nuôi thân, trong lúc những ngày mưa gió. Dân làng thấy bụng bà đã lớn, biết cũng sắp đến ngày sanh nở, có người thương còn cho thêm gạo. Có một hôm bọn trẻ con thấy bà Phù Thị một mình trở lại rừng xanh, bằng hát rằng.

    Lanh quanh đường đến rừng xanh

    Có người phụ nữ bước chân nặng nề

    Vai mang gạo bụng thè lè

    Chịu thương chịu khó ai bì được đâu.

    Sau có người hỏi:

    Ai dạy cho mà hát như vậy?

    Bọn trẻ trả lời:

    Có một Ông Già xuất hiện dạy hát như thế.

    Bỗng một hôm bà Phù Thị, nghe trong mình khác lạ, bằng tính đi tính lại, mang thai đã tròn mười hai tháng. Thường thường mang bầu chín tháng mười ngày là sinh, có những lần bà Phù Thị nghĩ: Thánh đầu thai nên mới khác thường như vậy. Bà thường nghe có người mang thai đến ba năm mới sanh, và bà vẫn cứ chờ đợi ngày khai hoa nở nhị, và rồi ngày đó cũng đến. Bà thấy trong mình chuyển dạ, lòng bỗng lo lắng ở nơi hoang vu rừng núi thời biết nhờ ai giúp đỡ, bà thở dài thôi thì mặt cho số phận vậy.

    Nghe trong dạ từng cơn đau thắt

    Như báo rằng con sắp chào đời

    Niềm vui quên hết đau thời

    Chỉ mong con trẻ rạng ngời bình yên

    Kìa rừng đã lặng yêm đêm phủ

    Sương đã về ru ngủ tịnh yên

    Cô đơn trong lúc đẻ sinh

    Chỉ nghe gió thổi rung rinh căn lều

    Đèn không có mịt mù tăm tối

    Sao chị hằng chậm thế chưa lên

    Ruột càng quặn thắt liên miên

    Bỗng nghe hương tỏa lan thơm khắp cùng

    Nghe trong dạ nhẹ nhàng nhẹ bổng

    Nhiều nàng Tiên bồng ẵm hài nhi

    Mệt nhoài bà đã thiếp đi

    Chừng nghe chim hót mới hay sáng trời

    Nhìn con trẻ lòng đầy sung sướng

    Con của ta là Gióng, Gióng ơi

    Bình minh rực rỡ chân trời

    Bao la rừng núi tràn đầy ấm êm.

    Nói về bà Phù Thị thấy trong mình chuyển dạ, thời đã biết mình sắp sinh, nhưng ở nơi hoang vu rừng núi nầy, biết nhờ cậy ai, trời đã lặng, đèn không có, chỉ còn biết trông chờ ánh trăng lên, bà bỗng thấy một con Rồng xuất hiện rồi biến mất, sau đó thời sanh con, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Bà thấy Tiên nữ xuất hiện, bồng ẵm hài nhi nhưng vì mệt quá bà đã thiếp đi và không còn biết gì nữa, chừng nghe tiếng chim hót líu lo giật mình tỉnh giấc, thời mới hay trời đã sáng, ánh bình minh đã tràn về khắp núi non, một ngày mới, một ngày đẹp nhất của đời bà, các nàng Tiên cũng biến đi đâu mất, chỉ còn nghe mùi hương thơm lan tỏa khắp nơi.
     
  8. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 22: THÁNH CHÚA RA ĐỜI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Niềm vui lớn nhất của bà Phù Thị là nhìn thấy người con mà mình mang trong bụng bấy lâu, cậu bé dễ thương khôi ngô tuấn đến lạ lùng, lòng dâng trào một niềm vui vô hạn.

    Lòng vui sướng nhìn con bé bỏng

    Mắt sáng ngời như tỏa hào quang

    Khôi ngô tuấn tú dễ thương

    Trời cho non nước Văn Lang kỳ tài

    Bà ôm Gióng vào lòng trìu mến

    Tình thương con lai láng trào dâng

    Cảm ơn trời đất non sông

    Cho bà một đấng hùng anh sau nầy.

    Nói về Bà Phù Thị cứ mãi ôm Gióng vào lòng, mà quên đi cả đói khác, từ đó bà Phù Thị không đi bắt ốc mò cua nữa, chỉ ở lều chăm sóc con thơ, nhờ tích trữ được khá gạo qua những ngày gian khổ bắt ốc mò cua, chim thú thi nhau đêm thật nhiều hoa quả đến, để bà ăn có sữa nuôi con. Suốt cả năm liền bà chỉ lẩn quẩn túp lều tranh, dân làng không thấy bà đi bắt ốc mò cua, cũng như xuống làng đổi cua ốc lấy gạo, thời nghĩ bà đã bị cọp ăn rồi, sói nuốt rồi, cũng không ít người rơi giọt lệ, vì cảm thương số phận đầy gian truân, xót xa đến thế.

    Một hôm có người nói:

    Nầy anh ba anh tư, nầy chị bốn chị bảy chúng ta là những người yêu thương bà Thị nhất, nhưng không dám bao che giúp đỡ vì sợ quy ước của làng, nay bà chết hay còn sống chưa rõ, sao chúng ta không đến đó một chuyến cho biết.

    Có người nói:

    Nơi bà ở có nhiều thú dữ lắm, chỉ có thợ săn mới dám đến đó mà thôi.

    Người kia trả lời:

    Chú tư, chú ba không thợ săn là gì.

    Thế là họ âm thầm tìm đến khu rừng bà Thị đang ở, nơi bà Thị ở là nơi cỏ dại hoang vu rừng núi cây cối rậm rạp, không bao lâu thời họ cũng tới khu rừng xa xa nhìn thấy túp lều tranh. Lòng họ bỗng nổi lên bao nỗi niềm thương cảm, cho con người bất hạnh, nỗi hiu quạnh cô đơn, một mình nơi rừng núi, sống nơi hoang vu không một bóng người, không hiểu bà còn sống hay đã chết. Và họ quá bất ngờ chợt nghe một giọng hát ru con từ xa vọng lại, có người nói hình như là tiếng bà Thị.

    À ơi con ngủ đi con

    Cho con mau lớn trông nom rừng già

    Con lên non núi cỡi voi

    Xuống đồng cỡi hạc bay qua ruộng đồng

    Trở thành những bậc anh hùng

    Cứu dân cứu nước giống nòi Rồng Tiên.

    Có người nói:

    Bà sanh rồi, bà đang ru con thì phải.

    Và họ đi lần đến túp lều tranh. Nghe tiếng người nói, bà liền im tiếng hát, và cũng nhận ra tiếng nói của những người tìm đến đây. Những người rất thương yêu bà, và thường hay cho gạo bà, vừa bước vào túp lều tranh họ vui mừng reo lên kìa em bé. Thì ra bà sanh con nên không đi mò cua bắt ốc xuống làng đổi gạo. Họ thi nhau xem mặt em bé, người nào người nấy đều kinh ngạc, vì em bé quá khôi ngô tuấn tú, nhất là cặp mắt sáng long lanh.

    Chị tư liền nói:

    Con Trời có khác, tôi mà có được đứa con như vầy thời khổ mấy tôi cũng chịu.

    Chị bảy nói:

    Kìa cặp mắt em bé giống cặp mắt Ông Đổng.

    Chú tư, chú ba nói:

    Tôi tin lời nói của chị Thị khi chị nói trước dân làng, quả đúng là con Ông Đổng.

    Chị bảy nói:

    Ông Đổng đầu thai chớ con Ông Đổng gì.

    Kẻ nói qua người nói lại người nào cũng có cái lý của mình, nên không ai chịu cho mình là đoán sai. Nhìn em bé quá kháu khỉnh không ai muốn xa rời, chừng nghe tiếng hổ gầm thời ai nấy đều kinh hãi, họ liền từ giả Mẹ con Phù Thị trở về làng. Cũng từ đây tiếng đồn lan xa, bà Phù Thị sanh ra Ông Đổng con, khôi ngôi tuấn tú lạ đời, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Thế là khắp nơi dân làng bị đánh thức sự tò mò, nhất là những người không gây ác cảm đối với bà, họ rủ nhau kéo tới một ngày một đông, họ đem cho Phù Thị đủ thứ, bà khỏi phải xuống đồng mò cua bắt ốc đổi lấy gạo nữa.

    Nói về Đức ông Đức bà, nghe bà con làng xã bàn tán ca ngợi, Phù Thị có phúc sanh ra bé trai vô cùng kháu khỉnh, tôi chưa chưa từng thấy người nào khôi ngô tuấn tú như thế, hai con mắt sáng như sao, quả đúng là một nhân tài sau nầy, quả đúng là con Ông Đổng, hay Ông Đổng đầu thai cũng vậy, tôi mà có được người con như thế thời sung sướng biết bao. Đức ông Đức bà vô cùng ăn năng qua lối cư xử không mấy sáng suốt của mình, cũng bởi gì không chịu nổi sự tai tiếng mà bỏ đi một cơ hội, hiếm có Trời cho. Nhất là Đức ông cứ tiếc nuối mãi, nước đổ khó mà hốt lại, tuổi đã già lại sanh ra nhiều phiền não buồn rầu ăn năng không bao lâu sanh bịnh qua đời. Đức ông qua đời không bao lâu, nỗi cô đơn một mình Đức bà cũng theo ông lìa trần thế, dân làng ai cũng thương Ông Bà, nhưng cũng đáng tiếc cho Ông Bà, tiếng lành, tiếng kính Ông Bà không còn như trước nữa, thay vào đó là tiếng ác, tiếng dại.

    Rừng công Đức trăm năm chăm bón

    Chỉ một mồi lửa nóng đốt tiêu

    Tiếng lành đồn khắp bao nhiêu

    Biến thành tiếng ác đổi thay vận đời.

    Nói về bà Phù Thị, nghe tin Đức ông Đức bà qua đời ôm mặt khóc lóc, dù gì đi nữa Đức ông Đức bà không coi bà là người ở, mà chỉ coi như con, ơn Đức ấy không sao đền đáp đáp được, bà Phù Thị cầu nguyện cho Đức ông Đức bà sớm siêu sanh về Trời. Túp liều không vắng lặng vì có nhiều người đến thăm, nhưng lòng bà đau đớn, vì nỗi thương nhớ Đức ông Đức bà, cũng đúng thôi, vì bà Phù Thị sống với Đức ông Đức bà trên 20 năm, tình nghĩa ấy không dễ gì phai mờ được, nhìn bà khóc như vậy.

    Những người đến thăm nói:

    Đức ông Đức bà đối xử với bà không được tốt, thương khóc mà làm gì, kìa em bé nhìn bà kìa. Tên em bé là gì?

    Ai nấy chờ nghe câu trả lời của bà. Bà Phù Thị trả lời:

    Tôi đặt tên cho con là Phù Đổng, vì quê tôi ở làng Phù, quê con ở làng Đổng.

    Dân làng đến thăm viếng nghe bà Phù Thị đặt tên cho con hay làm sao, ai nấy cũng khen. Có người nói:

    Chị kết hợp bộ ba đặt tên cho con hay quá.

    Có người nói:

    Tôi phải thầm phục cho chị Phù, chị kết hợp làng Phù của chị, làng Đổng của con chị, cọng với tên Đổng Cha khổng lồ, ôi cái tên vừa đẹp vừa Linh Thiêng, Phù Đổng nghe hay quá.

    Có người nói:

    Tên Phù Đổng Linh Thiêng quá, vì động đến Ông Đổng Long Đế Khổng Lồ Cha, không ai dám gọi đâu, chi bằng xóm cà là xóm Gióng, thôi đặc cho em một tên phụ là Gióng.

    Ai nấy cũng cho là quá phải, từ đó tên bé Gióng lan truyền khắp nơi. Gióng vẫn lớn bình thường như bao em bé khác, nhưng điều khác lạ ở đây là đã gần ba năm mà Gióng không cười không nói, ngoài ăn uống ra gióng không muốn chơi đùa với ai cả. Những người đến thăm viếng thiếu kiên nhẫn, cho đây là điềm chẳng tốt đẹp gì, niềm tin đối với bé Gióng ngày càng càng giảm sút, tiếng đồn lan ra dần dần cũng ít người đến. Bà Phù Thị không lấy đó làm buồn, sự đời là thế, nghe Ông Đổng con thời ai cũng đến, vì con Trời con Thánh, chừng khi nhìn không phải thời ai ai cũng dần dần bỏ đi.

    Có quyền có lực có uy

    Nghìn non vạn núi người ta cũng tìm

    Sa cơ khốn khổ cùng đường

    Ở trong đô thị ai mà thấy chi.

    Buổi chiều thu tuy rừng núi chưa chìm trong vắng lặng, nhưng lòng bà Phù Thị đã chìm trong nỗi buồn, cảnh nơi đây vốn là u tịch, lại thêm cuộc đời đơn chiếc.

    Lòng buồn cảnh có vui đâu

    Cảnh buồn người lại âu sầu cô đơn.

    Đúng thôi ngay cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội vã trở về, thế mà còn ta, ta về đâu nhĩ, thân nghèo lại bị người ta ruồng bỏ, xa lánh.

    PHẦN 23: TRỞ LẠI QUÊ LÀNG

    Bà Thị nhìn con rồi nói thầm: Hãy đến một nơi khác đi con, nơi mà hai mẹ con mình không ai biết đến, vì không muốn làm phiền đến ai nữa.

    Bà bồng con đến sống dưới bóng cây cổ thụ, cách nơi ở chỗ bà khá xa, trên một cái gò nổi giữa đầm. Nơi đây có nhiều hoa quả, dưới đầm thật nhiều cua ốc, bà no đủ qua ngày.

    Các Nàng Tiên lại xuất hiện, tắm rửa cho Gióng, và thường nói với Bà:

    GIÓNG là Thiên Long Vương xuống trần đầu thai, sau nầy lớn lên đánh giặc Ân cứu nước.

    Hơn ba năm GIÓNG cứ nằm yên hết chõng tre giờ đến chỏng đá, bà Thị nhìn con mà trong lòng vô cùng thương cảm, lâm râm khấn rằng.

    Con là Long Đế giá lâm

    Cớ sao con mãi nín câm thế nầy

    Bây giờ non nước nầy đây

    Giặc Ân xâm lấn ôi nầy khổ dân

    Con ôi hãy nói cười lên

    Con mau chóng lớn mà đi diệt thù.

    Lời cầu khấn Mẹ Gióng vừa xong, Thời GIÓNG mở to đôi mắt, tỏa ra hai đạo hào quang, cất tiếng kêu Mẹ đầu tiên vang lên như sấm, làm chấn động đến núi rừng, làng bản.

    Đến lúc đó GIÓNG mới rời khỏi chõng đá nói với bà Thị rằng:

    Hãy trở về làng sống với dân chúng.

    Nói về bà Phù Thị khấn vái xong liền thấy Gióng mở to hai con mắt hai đạo hào quang tỏa ra sáng ngời, bà lấy làm kinh dị, chừng nghe Gióng gọi Mẹ làm chấn động cả núi non làng bản, bà vô cùng mừng rỡ reo lên, con đã nói cười được rồi con của ta bà ôm Gióng vào lòng. Gióng để cho Mẹ lắng dịu qua cơn xúc động, liền nói hãy trở về với dân làng đi Mẹ, dân làng đang trông đợi, kiếp nạn đã hết. Đây nói về Huyện Tiên Du trúng mùa một cách kỳ lạ, nhất là hai làng, làng Phù, và làng Gióng, cũng như xốm cà, lúa thời trổ hai bông trĩu hạt, ngô khoai xanh tốt trúng mùa lạ kỳ, nhất là vườn cà dân làng trúng mùa chưa từng thấy, dân chúng Huyện Tiên Du đang thu hoạch trúng mùa lấy làm vui sướng vô cùng, cho là điềm lành Trời đãi. Ông Đổng đã ban cho dân chúng trúng mùa, họ liền nhớ đến Ông Đổng con, không hai mẹ con bà Thị hiện bây giờ đang ở nơi đâu. Bỗng dân chúng thấy trên bầu trời, nhiều đàn chim bay khắp Huyện Tiên Du hát rằng.

    Thánh Gióng về làng, Thánh Gióng về làng

    Kìa hai mẹ con, không bao lâu sẽ đến

    Hãy mau tiếp đón

    Thánh Gióng về làng

    Hãy mau tiếp đón

    Thánh Gióng về làng.

    Đàn chim cứ bay trên bầu trời ca hát như thế, dân chúng nghe theo kéo đến Làng Gióng đông như ngày hội, rồi ra khỏi làng đi đón hai mẹ con Gióng. Dân chúng vừa kéo nhau ra khỏi làng, thời thấy voi, hổ, sư tử, đại bàng, chim điêu đưa Mẹ con Gióng về làng, dân chúng thấy voi, cọp, sư tử, chim điêu, có người sợ đến ngất xỉu.

    Gióng nói với dân chúng:

    Không có gì phải sợ.

    Tiếng nói như sấm chấn động cả núi non làng bản. Đàn voi, đàn hổ, đàn sư tử, đàn chim điêu, không tiễn Mẹ con Gióng về làng nữa, mà quay trở lại về rừng, dân chúng giờ đây tuyệt đối tin Gióng chính là Ông Đổng đầu thai, bằng thi nhau mà lạy và gọi bé Gióng là Thánh Gióng.

    Trời thương Bách Việt sơn hà

    Từ trong thảo mãng sanh ra Kỳ Tài.

    Dân làng khắp nơi tiếp đón Mẹ con Gióng vô cùng rầm rộ, để chuộc tội ngày xưa lầm lỗi xử oan cho bà Thị. Ông Quan trưởng làng Lạc Điền, dẫn cả nhà đến tạ tội và xin nguyện cùng dân làm nhà cho bà Thị ở. Mẹ con Phù Thị được dân làng khắp nơi sùng kính kẻ góp công người góp của chỉ trong vòng một ngày thời có một ngôi nhà khang trang sạch đẹp, dân làng nấu cơm dân lên cho Mẹ con Gióng ăn.

    Gióng nói:

    Ta sắp đi đánh giặc Ân, dân làng hãy cho ta ăn thật no, ta mới đủ sức đánh giặc Ân được.

    Dân làng nói:

    Thánh cứ ăn thật no.

    Nhưng lạ thay Gióng ăn cơm với cà hết nồi nầy sang nồi khác mà vẫn không thấy no. Dân làng kinh hãi ăn như thế nầy thời cơm gạo lấy đâu ra ăn cho đủ, dân làng thấy Gióng mau lớn một cách kỳ lạ, chỉ trong vòng ba ngày mà đã cao lớn như đứa trẻ mười tuổi, chuyện kỳ lạ nầy đồn ầm lên khắp Huyện Tiên Du, dân chúng thi nhau gánh cơm gánh gạo, gánh cà đến nấu cho Gióng ăn. Nhất làng Phù, quê bà Phù Thị, cùng làng Đổng thi nhau dâng cơm dâng cà cho Đổng ăn. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà tiếng đồn lan đến Kinh Thành.

    Xóm Gióng bừng lên Đấng Kỳ Tài

    Danh rền vang động đến bên tai

    Vua Hùng sai sứ xem hư thiệt

    Văn Lang kỳ tích rạng trời mây.

    PHẦN 24: TRIỀU ĐÌNH

    Trời cho Bách Việt Việt Sơn Hà

    Lạc Hồng nòi giống sanh ra Kỳ Tài.

    Nói về Hùng Vương thứ 6, Hùng Huy Vương, (Pháp Hải Lang) 961 đến 893, trước Công Nguyên. Gặp thời binh đao máu lửa nổi lên khắp Bắc Văn Lang, phần thì giặc nội loạn, nhiều bách tộc Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị, tự xưng Vua, xưng Chúa, nổi lên chiếm lĩnh từng vùng, làm đau đầu cho triều đình. Nhất là Hùng Huy Vương, ăn không ngon ngủ không yên, ra sức dẹp yên nội loạn nhưng không được, trở thành cảnh nồi da nấu thịt, Bách Việt Bắc Văn Lang tàn sát lẫn nhau, Đây là cảnh đầu tiên xảy ra trên đất nước Bắc Văn Lang, nguyên nhân là bởi hấp thụ nền văn hóa phương Bắc, đi theo chiều hướng của phương Bắc, nổi lên đòi tự trị chia ra nhiều nước nhỏ, không ai chịu dưới quyền ai, dẫn đến thôn tính lẫn nhau, trở thành cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt, dân chúng đồ thán khốn khổ vô cùng, cảnh chết chóc xảy ra hằng ngày, lọt vào âm mưu của nhiều thế lực phương Bắc, chờ cho Bắc Văn Lang suy yếu là chúng đưa quân xâm lược. Và điều đó cũng đã đến.

    Hùng Huy Vương, đã lấy làm đau đầu cho tình cảnh nội loạn Bắc Văn Lang chưa giải quyết xong, thời quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, đã tràn qua xâm lược. Với thế mạnh của ngoại xâm tràn qua Bắc Văn Lang như nước lở, tiêu diệt sạch những ông Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị, đây là điều đáng mừng cho nước Văn Lang, nhất là Hùng Huy Vương. Nhưng quân xâm lược không chỉ chiếm lấy Bắc Văn Lang, mà muốn nuốt trọn nước Văn Lang, một thứ giặc vô cùng đáng sợ, lại hết sức tàn bạo, chúng đi đến đâu thời dân Văn Lang trở thành nô lệ thảm khốc đến đó, chúng vơ vét sạch chẳng chừa một thứ gì, cảnh sợ hãi làm cho dân Văn Lang ăn ngủ không yên.

    Nước non binh lửa dậy khắp nơi

    Dân chúng khổ sai hận ngập trời

    Móng vuốt sói lang loài ác quỷ

    Xốm làng thê thảm chúng nuốt xơi.

    Hùng Huy Vương, đưa quân chống trả nhưng đều thất bại, hết Tướng tài, bằng ra cáo thị cầu hiền tài khắp đất nước ai có tài thời ra cứu nước, sẽ được phong Quan Chức lớn, không ít người ra cứu nước nhưng tất cả đều đi vào thất bại. Tin thất trận dồn dập báo về Triều Đình, làm Hùng Huy Vương càng thêm lo lắng, lập đàn cầu Trời, cầu Tổ ngày đêm không dứt.

    Thỉnh thoảng nàng mây tự ngẩn ngơ

    Quê hương binh lửa tự bao giờ

    Khắp nơi tràn ngập mùi chết chóc

    Xốm làng vắng ngắt cảnh xác xơ

    Hồn nghe rét buốt luồn trong gió

    Quê gầy, làng úa, xốm héo khô

    Nước non tan tóc quân giặc xéo

    Tràn ngập hung tin nát cơ đồ.

    Ngày nào cũng vậy Triều Thần đi dự họp đầy đủ, Quan Văn Quan Võ đủ mặt, lúc nào cũng bàn kế sách chống giặc Ân, có lẽ các Quan Văn Võ cũng đã hết mưu kế, nên mấy ngày nay không ai đưa ra kế sách gì mới.

    Hùng Huy Vương lấy làm buồn phiền, nhưng rồi cũng phải hỏi:

    Các Quan Văn Võ có kế sách gì mới không?

    Các Quan chỉ biết im hơi lặng tiếng. Khi ấy có một vị Quan Lạc Thư chuyên coi về sổ sách, bước ra tâu rằng:

    Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Thần nghe ở Huyện Tiên Du có một cậu em tên là GIÓNG, nói sẽ đi dẹp giặc Ân, theo Thần nghĩ Quốc Vương Bệ Hạ nên cho mời em bé ấy đến ban cho ấn lệnh đi chống giặc Ân.

    Triều Thần nghe Quan Lạc Thư tấu trình như vậy thời cười ô lên. Hùng Huy Vương hỏi:

    Các khanh cười chuyện gì?

    Các Quan trả lời:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quan Lạc Thư nghĩ giặc Ân toàn là trẻ con chắc, nên mới đề cử chuyện lạ đời như vậy. Tài giỏi như Nguyên Dực, Nguyên Minh, như Cao Sơn, Cao Hải đành phải thất trận, xin thêm 20 vạn quân nữa may ra mới chống trả lại ngăn bước tiến quân Ân. Huống chi chỉ là một trẻ con, lời đồn nầy chỉ là khích lệ tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm mà thôi, xin Bệ Hạ minh xét.

    Hùng Huy Vương nghe các Quan tâu cũng có lý, ý định cho qua không bàn tới nữa. Bỗng có một vị Quan Lạc Hầu lên tiếng:

    Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Theo Hạ Thần nghĩ lời Quan Lạc Thư cũng có lý, lúc này là lúc cần người tài ra giúp nước, dù người đó là ai, bà già, trẻ con, người dân bình thường mà nổi tiếng như vậy, thời cũng nên xem xét, thực hư. Hạ Thần sẽ đảm nhiệm việc nầy tới làng Đổng xóm Gióng để xem hư thực ra làm sao.

    Thế là Vua Hùng giao nhiệm vụ cho Quan Lạc Hầu Thượng Thư. Đây nói về Quan Lạc Hầu Thượng Thư, đến Huyện Tiên Tu nghe dân chúng đồn ầm khắp nơi, Gióng là người Trời có khác ăn hoài mà chẳng thấy no chỉ trong vòng ba ngày Gióng cao lớn một cách kỳ lạ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư đi gần đến làng Gióng thời thấy dân chúng kẻ khiêng gạo người khiêng cà, tới xóm Gióng tấp nập. Quan địa phương Lạc Điền, nghe có Quan Thượng Thư từ Triều Đình đến, liền tiếp đón tử tế, hành lễ xong.

    Quan Lạc Điền hỏi:

    Bẩm Quan trên Quan trên đến làng, xóm nghèo khổ nầy chẳng hay có chuyện gì?

    Quan Lạc Hầu Thượng Thư nói:

    Ở đây có chuyện Thánh Gióng thật sao?

    Bẩm Quan lớn:

    Quả là đúng như vậy, Thánh Gióng chính là Ông Đổng Khổng Lồ đầu thai, Ông ăn dữ lắm có lẽ Ông ăn hết sạch lúa gạo dân chúng mất.

    Quan Thượng Thư càng nghe càng kinh khiếp, sau đó Quan làng Lạc Điền, dẫn Quan Lạc Hầu Thượng Thư đến gặp Gióng, khi ấy Gióng không phải là trẻ con, mà là một thiếu niên. Quan Thượng Thư vừa đến chứng kiến thấy Gióng vừa ăn hết mấy chảo cơm, thời quả lời đồn không sai. Gióng nghe Quan làng giới thiệu vị Quan mới đến là Quan Lạc Hầu Thượng Thư, vị Quan lớn thuộc hàng bậc nhất bậc nhì trong Triều, ai nấy nghe xong cũng đều kinh hãi, Gióng như không nghe lời giới thiệu đó, chỉ thi lễ mời vị Quan Thượng Thư ngồi, vị Quan Thượng Thư không dám khi dễ đáp lễ rồi cùng ngồi. Vị Quan nóng lòng không chờ đợi lâu lên tiếng hỏi, hỏi tới đâu Gióng trả lời thông suốt đến đó, vị Quan đến giờ nầy mới thật sự kinh hãi, liền vái lạy Gióng, cầu xin Gióng hãy cứu lấy nước non.

    Thánh Gióng nói:

    Ta lâm phàm xuống trần là để cứu nước cứu non trả lại sự bình yên cho dân chúng, nhưng ta có những yêu cầu Triều Đình phải chu cấp cho thật đầy đủ.

    Quan Thượng Thư nói:

    Thánh yêu cầu gì, Thần về sẽ tâu lên Quốc Vương.

    Gióng nói:

    Cấp cho ta thật nhiều lương thực, nuôi đủ mười vạn quân trong một tháng, vận chuyển đến đây mười tấn thép, mười tấn sắt, một nghìn thợ rèn giỏi, năm nghìn lượng vàng, một nghìn con ngựa chiến, nghìn cung tên tốt, hàng vạn mũi tên. Nhớ là sắt, thép, vàng, không thiếu một cân, thợ rèn không thiếu một người, ngựa phải đủ không thiếu một con, cung, tên, nhất nhất đều đúng như vậy, phải đúng là trong vòng nửa tháng tất cả đều có đủ không thiếu một món nào, thời ta sẽ đánh tan giặc Ân, trong vòng nửa tháng.

    Vị Quan Thượng Thư nghe Gióng nói tới đâu lấy làm kinh hãi đến đó, liền từ biệt Gióng cấp tốc về Kinh Đô trình tấu lên Vua Hùng.

    Sau có thơ rằng:

    Quan về Quan nói với Vua

    Xuất kho mười tấn thép nguyên ta dùng

    Chọn cho nghìn vị thợ rèn

    Đưa thêm mười tấn sắt, đồng, cho mau

    Kim loại sạch đã luyện tôi

    Đưa thêm nửa tấn vàng nguyên ta dùng

    Cấp cho lương thực thật nhiều

    Để ta no bụng tiến hành diệt Ân

    Ngựa nghìn con, vạn vạn cung tên

    Để cho chiến sĩ xông lên diệt thù

    Hãy về tâu với Triều Đình

    Không nên để thiếu dù là nửa cân

    Trong vòng một tháng không hơn

    Thời ta đánh bại quân Ân tơi bời

    Giặc Ân khiếp vía kinh hồn

    Hết mong xâm lấn cõi bờ Văn Lang

    Nước non trở lại bình an

    Thái bình thịnh vượng giàu sang yên lành

    Mau mau không được trễ chầy

    Trong vòng nửa tháng phải thời có ngay.

    Nói về Lạc Hầu Quan Thượng Thư lấy làm vui mừng vì chứng bao chuyện lạ của Gióng, bằng nhanh chóng trở về sáng ngày cho kịp buổi Chầu Vua. Hôm nay là ngày đẹp trời không còn u ám như ngày hôm qua, ánh bình minh rực rỡ như báo hiệu nước non sắp yên bình trở lại, các Quan đi chầu rất sớm.

    Trên bệ Rồng Hùng Huy Vương nói:

    Trẫm thấy hôm nay khỏe khoắn lạ kỳ có lẽ là điềm lành xuất hiện chăng.

    Các Quan cũng đồng thanh nói:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ chúng Thần cũng cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, không hiểu là có điềm lành gì.

    Hùng Huy Vương kiểm lại các Quan thời chỉ thiếu Quan Lạc Hầu Thượng Thư vì còn bận công tác đi đến làng Gióng chưa về. Hùng Huy Vương nói:

    Không hiểu ở làng Gióng hư thật thế nào, Trẫm nóng lòng quá.

    Hùng Huy Vương vừa dứt lời thời thấy Quan Lạc Hầu Thượng Thư bước vào. Hùng Huy Vương lấy làm mừng nói rằng:

    Quan Thượng Thư quả thật Linh Thiên, vừa nhắc đến thời có ngay.

    Các Quan vô cùng hồi hộp chờ lời xác minh của Quan Thượng Thư về đứa trẻ nơi làng Đổng xóm Gióng, với vẻ điềm nhiên của Quan Lạc Hầu Thượng Thư làm cho các Quan càng thêm sốt ruột.

    Hùng Huy Vương nói:

    Quan Thượng Thư sao bữa nay ông tấu trình chậm thế.

    Đến lúc nầy Quan Thượng Thư mới tấu trình rằng:

    Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ, quả xốm Gióng đã xuất hiện Thánh Gióng.

    Cả Triều Đình ai nấy cũng đều ồ lên: Có Thánh Gióng xuất hiện thật sao?

    Quan Thượng Thư nói:

    Nhưng sự yêu cầu Thánh Gióng không phải là nhỏ.

    Hùng Huy Vương nói:

    Thánh Gióng cần bao nhiêu vạn quân, bốn mươi vạn hay năm mươi vạn.

    Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ:

    Thánh Gióng không yêu cầu thứ đó.

    Nghe lời nói của Quan Thượng Thư, không chỉ các Quan Văn Võ, mà ngay cả Hùng Huy Vương cũng bất ngờ phải nói là vô cùng kinh ngạc.

    Hùng Huy Vương ngơ ngác:

    Thánh Gióng yêu cầu thứ gì? Quá mức của triều đình ta chăng?

    Quan Thượng Thư nói:

    Có thể nói là quá mức, nếu không quyết tâm thời khó mà thực hiện được.

    Hùng Huy Vương nóng ruột nói:

    Khanh cứ nói đại ra triều đình ta có đáp ứng được không.

    Đến lúc nầy Quan Lạc Hầu Thượng Thư mới đi vào vấn đề chính, kể lại tất cả những gì tai nghe mắt thấy, ai nấy cũng lấy làm kinh dị cho sự xuất hiện một Đấng Trời sanh Thánh Đế nầy, cứu lấy vận mệnh nước Văn Lang.

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ, Thánh Gióng yêu cầu:

    Cấp đủ lương thực nuôi một vạn quân trong vòng một tháng. Một nghìn con ngựa chiến, một nghìn chiếc cung loại tốt, năm vạn mũi tên, nửa tấn vàng.

    Nói đến đây Quan Thượng Thư dừng lại. Hùng Huy Vương nghe xong thời cười nói:

    Những thứ yêu cầu đấy đối với nước Văn Lang ta thời chỉ là hạt cát, yêu cầu như thế thời có gì là khó đâu.

    Muôn tâu Quốc Vương:

    Nếu chúng ta không quyết tâm thời khó mà được sự yêu cầu đó chỉ trong vòng nửa tháng.

    Hùng Huy Vương hỏi:

    Sự yêu cầu đó là gì? Ông hãy nói mau cho ta nghe.

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ:

    Thánh Gióng yêu cầu Bệ Hạ xuất mười tấn thép, bảy tấn sắt, ba tấn đồng, với một nghìn thợ rèn giỏi, cấp tốc đến làng Đổng, chỉ trong vòng nửa tháng phải có, không được chậm trễ, thép, sắt, đồng, vàng, không được thiếu một cân.

    Hùng Huy Vương nghe sự yêu cầu nầy liền ngớ người ra, vì vận nước như dầu sôi lửa bỏng, phải thực hiện cho bằng được, bằng cho mời quan giữ kho thép đến hỏi:

    Còn được bao nhiêu?

    Kho thép là kho báu vật Quốc Gia, dùng để chế tạo ra các vũ khí sắc bén, không có thép nước nào sánh lại được thép nước Văn Lang.

    Quan giữ kho tâu:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ, trong kho chỉ còn tám tấm.

    Hùng Huy Vương liền tức tốc cho thu hồi thép khắp đất nước, chọn một nghìn thợ rèn giỏi cùng khắp đất nước, tất cả đều chuyển đến làng Đổng, trong vòng mười ngày, nếu chậm trễ chém đầu. Thế là các quan mỗi người một việc, ra sức ngày đêm không nghĩ và tất cả đều hoàn thành sau mười ngày.
     
  9. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 25: THAO LUYỆN BINH MÃ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lúc bấy giờ làng Gióng người ta như hội kẻ tới người lui tấp nập, GIÓNG giờ đây tuy mặt còn non trẻ, nhưng cao lớn như người thanh niên vạm vỡ oai phong lẫm liệt, ra sức chỉ huy một nghìn thợ rèn chế tạo rèn đúc áo giáp thép, mão thép, áo giáp ngựa thép, roi thép, áo giáp sắc, áo giáp đồng, áo giáp ngựa sắt, áo giáp ngựa đồng.

    Nói về nghìn thợ rèn ngày đêm tốc lực, rèn đúc mài dũa chế tạo ra bộ áo giáp người, giáp ngựa, như vảy con tê tê, tiếng búa đập chan chát, dậy làng dậy xóm dậy núi dậy non, tiếng mài dũa rào rào nghe mà kinh mà khiếp.

    Tiếng rèn đúc âm vang mấy cõi

    Tiếng rào rào mài dũa kinh thiên

    Ầm ầm dội đến quân Ân

    Làm cho khiếp vía hồn kinh hãi hùng.

    Đây nói về khắp Bộ Vũ Ninh, cũng như các Bộ các Châu, các Quận, các Huyện xa gần lân cận Bộ Vũ Ninh, nghe tin Thánh Gióng xuất hiện chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc Ân, thời khắp nơi, nhân tài kéo đến lũ lượt xin gia nhập đội quân của Gióng. Nói về ở Hội Xá Gia Ninh, có nhiều đoàn trẻ chăn trâu chân bò, chúng thường chơi nhau lập trận, rước cờ bông lau, đánh trống da ếch số đông lên đến cả trăm, gõ thanh tre, chơi tập trận.

    Nhìn bọn trẻ chơi nhau tập trận

    Trống dập dồn quân tiến quân lui

    Gõ thanh tre bao vây quân dịch

    Tiếng xung phong rền núi dậy non

    Cỡi trâu cát bụi tung bay

    Cỡi bò tay phất cờ lau vù vù

    Reo hò trống dậy trống dồn

    Thanh tre rôm rả vang lừng đồng quê.

    Tiếng la hét của bọn trẻ dậy non dậy núi, quân Ân thua rồi, quân Ân thua rồi. Cùng lúc ấy nhiều đoàn trẻ chăn trâu chăn bò, xa gần Hội Xá kéo đến số đông lên đến cả trăm, chúng hội nhau gia nhập đoàn quân của Gióng. Thế là hơn mấy trăm trẻ chăn trâu chăn bò kéo đến làng Gióng xin gia nhập đội quân của Gióng. Gióng chấp nhận, và cho luyện tập binh mã, mỗi lần GIÓNG phất cờ điều khiển trận pháp, tức thời đàng trẻ chăn trâu, chăn bò lớn lên một cấp, từ thiếu niên vụt lớn thành thanh niên tráng sĩ, thịt bắp vai u sức mạnh vô địch. Gióng lúc nầy tuy mặt vẫn còn trẻ con, đã biến thành một tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Gióng cho người khiêng giáp người giáp ngựa, gươm đao giáo mác đến, trang bị cho đội quân chăn trâu, chăn bò, đã biến thành đội quân dũng sĩ. Đội quân dũng sĩ, trang bị ngựa mặt giáp sắt, giáp đồng, người mặt giáp sắt, giáp đồng, với thanh đại đao trong tay sáng ngời, các dũng sĩ đồng lên ngựa diễn trận, dân chúng xem coi kinh hoàng khiếp vía, ánh đao tuôn ra lạnh cả người, dân chúng la lên ngựa sắt, người sắt, khiếp quá, khiếp quá, đoàn quân ngựa sắt lao tới lao lui nhanh như cuồng phong vũ bảo. Dân chúng hò reo đội quân bách chiến bách thắng, đội quân bách chiến bách thắng.

    Nói về làng Môi, làng Mòi, những trai tráng khỏe mạnh cũng xin gia nhập đội quân Gióng, trong đó có ba anh em nhà Ba Chạ, có sức khỏe lạ đời, một tay cầm lấy ba trăm cân như cầm lấy một hòn đá nhỏ.

    Nói về một số người thường câu cá trên các dòng sông nghe tin GIÓNG chuẩn bị xuất quân đánh giặc Ân, liền kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng. Những người thợ săn khắp nơi xa gần cũng thế, kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng.

    Đây nói về làng Y Na, có một người đàn bà ăn ở phúc Đức, ba đời đều chữa bệnh cho dân, khắp nơi xa gần ai cũng mến phục, người đàn ấy tên là Cao Thị.

    Một hôm có một cái cầu vồng năm sắc hiện ra trên bầu trời, và nhắm thẳng người đàn bà sa xuống, bà Cao Thị liền thấy trong mình khác lạ. Từ đó bà mang thai, đến ngày sanh nở bà sanh ra một bọc, sanh ra năm người con trai. Năm anh em khi đến 12 tuổi, bà Cao Thị qua đời, nhưng nhờ gia tộc bà Cao Thị cũng khá giả nên năm người con không lấy gì làm khổ nhọc, năm anh em cùng trong một bọc mau lớn lạ đời nầy tài năng vô cùng, một người tên Kim, một người tên Mộc, một người tên Thủy, một người tên Hỏa, một người tên Thổ.

    Hùng Huy Vương ra cáo cầu hiền khắp đất nước, năm anh em xé bản cầu hiền, tức thời Quan dán bản cáo thị báo cho Vua Hùng biết. Hùng Huy Vương cho người đến khảo sát tài năng, thấy năm anh em trong một bọc sanh ra, quả là tài năng vô cùng võ nghệ cao cường thần thông quảng đại, bằng dâng tấu sớ lên Vua Hùng, phong cho Quan tước, cũng như theo sự yêu cầu của năm anh em, nhà Cao Thị, là gia nhập vào đội quân của Gióng. Các bô lão trong làng Y Na lại tiến cử 35 người con trai khỏe mạnh tài giỏi nhất làng theo năm anh em Ngũ Tài. Cả làng mổ trâu, mổ bò, mổ dê, mổ lợn, gà vịt tế lễ trời đất, khao thưởng năm anh em Ngũ Tài, cùng 35 người con trai khỏe mạnh, lên đường đánh giặc Ân sát nhập với quân Gióng nơi làng Đổng.

    PHẦN 26: HỘI TỤ TINH HOA

    Khi Gióng trở về làng Đổng tuyên bố đánh giặc Ân, những người tin Gióng theo Gióng đầu tiên, là ba vị Kỳ nhân tên là ông Trấn, ông Trâu, ông Bạch Sam ở núi Tiên, theo sự yêu cầu của Gióng, một nghìn thợ rèn dốc sức ngày đêm không nghĩ hơn nửa tháng thì hoàn thành đến lúc nầy GIÓNG mình cao hơn trượng cao lớn như người Khổng Lồ. Gióng hú lên một tiếng làm chấn động núi non rừng thẳm, thời từ xa xôi có tiếng ngựa hí đáp lại, trên không trung liền xuất hiện một con ngựa Thần bay tới, to lớn gấp mười lần con ngựa thường, to lớn hơn một con voi to, ngựa đáp chân xuống đất làm rung rinh nhà cửa, dân làng kinh hãi khiếp sợ. Hỡi dân làng giờ xuất trận cũng gần đến dân làng hãy cho quân binh ăn thật no. Riêng nấu cho ta đầy bảy nong cơm, cà muối ba nong.

    Sau có thơ rằng.

    Bảy nong cơm, ba nong cà

    Uống một hơi nước cạn đà khúc sông.

    Nói về các thợ rèn chỉ rèn đúc lắp ráp theo lời chỉ bảo của Gióng, chớ không động đậy gì nổi những đồ của Gióng dùng, chỉ cần roi thép của Gióng cũng nặng hơn hai tấn dài to vót như một cây tre, mấy chục thước, không có quân binh nào khiêng cho nổi. Gióng bước đến nhiều mảnh áo giáp ngựa, mỗi mảnh giáp nặng gần cả tấn, thế mà Gióng xách lên nhẹ như không, như xách con gà con, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía. Gióng ráp xong các mảnh giáp lên mình ngựa xong, biến con ngựa Thần thành con ngựa thép sắt, tức thời hơi thép lành lạnh tuôn ra đến khiếp người. Gióng mặt giáp xong liền biến thành con người thép sắt khổng lồ, Gióng bước tới cây roi thép dài to vót như cây tre, cuối người xuống cầm lên một cách nhẹ nhàng, như cầm một cây roi tre chăn bò, với một sức mạnh chưa từng thấy bao giờ, Gióng múa roi một cái tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, cát bay đá chạy, dân chúng nhìn thấy sức mạnh Thần Kỳ của Gióng, có người sợ muốn xỉu, dân chúng nhìn Gióng cỡi lên con ngựa thép, ánh thép sáng ngời ngời tay cầm roi thép, phóng lên yên ngựa tức thời đất đai liền sụt lún xuống, con ngựa dẫm chân làm rung rinh nhà cửa, dân chúng có người sợ đến muốn chết ngất, vì quá khiếp. Gióng vỗ vào lưng ngựa, tức thời con ngựa phun ra lửa sấm sét nổi lên. Gióng phi ngựa một vòng, ngựa phi tới đâu, thời thành ao tới đó, kình phong tuông ra ầm ầm làm cho cây cối ngã đổ ai nấy đều kinh hồn bạt vía. Gióng phi ngựa trở về chỗ cũ, bọn trẻ thấy ngựa Gióng vẫn còn chỗ trống hở, liền lấy bông lau dắc vào cho kín. Gióng chưa xuất quân hình như chờ đợi ai đó, khi ấy dân làng nghe tiếng hổ gầm, voi hú, dậy trời như chờ Gióng xuất trận là lao theo. Bỗng dân làng thấy mấy người nông dân làm ruộng, mấy người nông dân trồng tre, đến gia nhập đạo quân, Gióng nói tất cả đều đến đầy đủ rồi, chuẩn bị xuất quân Gióng liền vỗ vào hông ngựa con ngựa hí lên rung trời chuyển đất, mồm phun lửa rực đỏ cả bầu trời.

    Gióng chỉ roi về hướng Bắc thét lớn:

    Tiến quân.

    Tức thì đoàn quân hỗn hợp, cuồn cuộn lao về hướng Bắc. Dân chúng thấy quân Gióng đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, không cần đường mòn, vượt qua sông không cần thuyền bè. Sau có thơ rằng:

    Quân Gióng là quân nhà Trời

    Vượt qua sông núi lạ đời như không

    Quân binh cuồn cuộn bão dông

    Tiến về phương Bắc quyết tâm diệt thù.

    PHẦN 27: DIỆT THÙ

    Lại nói về Nguyên Minh, bị quân Ân phá trận ngũ hành đánh bại, quân binh chết vô số kể, kéo tàn quân chạy về Vân Châu, tránh sự truy sát của quân Ân. Cánh quân Cao Hải bị quân Hung Nô đánh bại cũng chạy về Vân Châu, Nguyên Minh, Cao Hải gặp nhau trong tình thế vô cùng bi đát, bại trận thê thảm, than thở mãi không thôi, nhưng sau đó lấy lại khí thế cũng cố lại lực lượng, cố thủ Vân Châu quyết một còn một mất với chúng, Nguyên Minh viết thư báo cáo tình hình quân địch khó mà chống cự cho lại trình lên Hùng Huy Vương, xin viện binh, chờ cơ hội đánh trả, cũng như ngăn bước tiến quân Ân không cho tiếng vào Trung Văn Lang.

    Nội dung thư như sau:

    Quân giặc nhiều vô số

    Tướng giặc lại tài cao

    Quân binh như ma quỷ

    Khó thắng biết là bao

    Quân binh đang cố thủ

    Địa phận tỉnh Vân Châu

    Viện binh như cứu hỏa

    Mới ngăn nổi giặc Ân

    Tiến vào Trung Văn Lang

    Xin Quốc Vương minh xét.

    Nguyên Minh, cùng Cao Hải, đang bàn kế sách ngăn chặn quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, và cho người liên lạc với Nguyên Dực.

    Thời có quân binh vào báo:

    Bẩm chủ soái quân Thánh Gióng sắp đến Vân Châu rồi.

    Nguyên Minh nói:

    Mau đến như thế sao?

    Cao Hải nói:

    Nghe nói quân Gióng là quân nhà Trời, không phải là quân Triều Đình, ta mau gia nhập vào đội quân của Gióng, tiến đánh quân Ân.

    Anh em cùng ra trận

    Hiếu trung nổi tiếng nhà

    Quyết một phen tử chiến

    Vì dân chết cũng là

    Diệt thù quân cướp nước

    Quyết tử tiến xông pha

    Rồng Tiên niềm bất khuất

    Nối gót chí ông cha

    Cứu nước cứu non kể chi là

    Tình riêng gói lại chí xông pha

    Một mất một còn quân cướp nước

    Trải lòng trung hiếu diệt yêu ma.

    Nguyên Minh, Cao Hải thống lãnh gần mười vạn quân đón quân Gióng đến gia nhập. Nguyên Minh, Cao Hải nghe tiếng quân binh duy chuyển ầm ầm, nghe cuồng phong ù ù thời lấy làm kinh hãi, loáng một cái quân Gióng đã tới nơi. Nguyên Minh, Cao Hải vô cùng kinh hãi, vì thấy một đạo quân người sắt, ngựa sắt, đạo quân thiết giáp đi sau, hơi thép tuôn ra lạnh cả người.

    Nguyên Minh, Cao Hải, tới lễ lạy Thánh Gióng, gia nhập gần mười vạn quân vào quân Gióng tiến đánh giặc Hồ ở Kiến Giao Châu. GIÓNG vỗ vào lưng ngựa chỉ roi về hướng Kiến Giao Châu tức thời ngựa Thần hí lên rung trời chuyển đất, đoàn quân Gióng lao đi như cơn bão lốc. Nguyên Minh, Cao Hải chỉ còn biết thúc năm nghìn kỵ binh lao theo đoàn quân của gióng mà thôi, còn tất cả thời lẽo đẽo theo sau, đoàn quân loáng một cái là mất hút.

    Đây nói về Hồ Nghi Vương quyết lấy thành Kiến Châu cho bằng được chiếm trọn Tây Bắc Văn Lang, với hơn 20 vạn quân, Hồ Nghi Vương chỉ cần khôn khéo là chiếm được ngay, nhưng Châu Tiên con của Quan Trung chính Châu Ân quá lợi hại, lại có một vị Tướng vô cùng tài đó là Cao Khang nên Hồ Nghi Vương chưa thể chiếm thành ngay được, và rồi Hồ Nghi Vương cũng tìm ra kế để phá thành.

    Trận chiến bắt đầu mở màng, Hồ Nghi Vương dùng độn tẩm dầu bắn vào thành, rồi bắn lửa vào đốt cháy, hỏa công đánh trước, bộ binh leo tường đánh sau, xạ binh bắn yểm trợ, còn một đạo quân khác mượn thế liên hoàn ròng rọc công phá cửa thành, Thành Kiến Châu chỉ còn chờ chết. Tiến reo hò quân Hồ dậy trời dậy đất.

    Hồ Nghi Quân kêu gọi đầu hàng lần cuối:

    Đầu hàng thời còn mạng sống, chống lại thời chết không còn một mạng.

    Châu Tiên quát:

    Con quỉ Hồ Ly kia, con cháu Tiên Rồng thà chết quyết không chịu đầu hàng.

    Hồ Nghi Vương trợn mắt quát:

    Hãy sang bằng Kiến Châu cho ta.

    Tức thời tiếng tù thổi lên rền trời rền đất, quân Hồ chuẩn bị tấn công. Thời bỗng nghe đất trời rung chuyển, quân Hồ bỗng thấy người sắt, ngựa sắt bỗng xuất hiện lao tới đánh xối xả, tới tấp vào quân Hồ. Quân Hồ bị đánh trúng văng đi tứ phía cả người cả ngựa nát như tương. Hồ Nghi Vương kinh hồn bạt vía thấy ngựa sắt Khổng Lồ lao tới phun lửa đốt quân Ân cháy đen, người sắt Khổng Lồ mỗi lần múa roi thép sắt lên là mỗi lần quân Hồ toi mạng cả trăm lớp nát như tương lớp bay như rác. Hổ, Voi, Sư Tử, lao tới xé xác, cảnh tượng xảy ra khiếp vía kinh hồn. Hồ Nghi Vương khiếp quá, ra lệnh cho quân binh bắn tên xối xả vào ngựa sắt, người sắt, nhưng nào có ăn thua gì, ngựa sắt người sắt cứ lao tới, đánh quân Hồ ngã rạp lớp lớp đạp nhàu quân Hồ nát như tương. Hồ Nghi Vương hãi hùng hóa phép bay lên không chạy trốn, nhưng nào có kịp Thánh Gióng chỉ roi lên không một cái, một tia hào quang bắn lên Hồ Nghi Vương liền tan xương nát thịt, 20 vạn quân Hồ chỉ trong chốc lát, tiêu tan thây nằm la liệt.

    Sau có thơ rằng:

    Nghe động đất đùng đùng ập tới

    Nghe cuồng phong bão tố đến nơi

    Ầm ầm vó ngựa khiếp kinh

    Ầm ầm roi sắt rung rinh đất trời

    Quân hỗn hợp Thánh Thần xuất thế

    Càn quét nhanh khủng khiếp kinh hồn

    Quân Hồ bị đánh tơi bời

    Lớp thời nát thịt, lớp thời cháy đen

    Lớp thời bị cọp nuốt ăn

    Kinh hồn bạt vía hết phương sống còn.

    Lại nói về, Quan Trung Chính, Châu An, Châu Tiên, Cao Khang, quyết tử chiến với quân Hồ cho đến phút cuối, bỗng nhìn thấy xa xa ở phương Nam xuất hiện một đạo quân, không biết là quân địch hay quân ta, chỉ loáng một cái đoàn quân tốc hành đã đến nơi.

    Châu Tiên la lớn:

    Quân người sắt.

    Cao Khang, Châu An thấy đoàn quân người sắt lao vào 20 vạn quân Hồ như vào chỗ không người, giống như hàng nghìn cái chổi sằm quét rác, quân Hồ bị quét bay lên tứ tung, trông thấy mà kinh hồn bạt vía, nhất là người sắt Khổng Lồ, ngựa sắt Khổng Lồ, tên, lao, giáo, kiếm, lao tới như mưa, nhưng người ngựa Khổng Lồ không hề hấn gì cả, ngựa phun lửa dữ đốt quân Hồ cháy đen cháy thui, cứ mỗi lần người sắt Khổng Lồ vung roi là cả trăm người tan xác.

    Châu Tiên, đứng trên thành la lớn:

    Thánh Gióng Thánh Gióng, kìa cờ đề Thánh Gióng, quân nhà Trời đã xuất hiện.

    Quân Trời kinh khiếp làm sao

    Tướng Trời xuống thế cứu dân sống còn

    Cứu non cứu nước trường tồn

    Đánh tan yêu quỹ hết còn xâm lăng

    Kinh hồn bạt vía từ đây

    Văn Lang có chủ giặc bây đừng hòng

    Xâm lăng không có ngày về

    Thây phơi chật đất ê hề thây phơi

    Quân Hồ bị đánh tả tơi

    Làm phân cho đất ôi thôi còn gì

    Đây là bài học nhớ đời

    Cho quân xâm lược nhớ thời nhớ ghi.

    Châu Tiên nhìn thấy cờ chủ soái Nguyên Minh nói:

    Cha nhìn có quân chủ lực Văn Lang nữa kìa.

    Thánh Gióng nói tiếng vang như sấm:

    Mau mở cổng thành đem quân truy sát quân Hồ.

    Nói xong Thánh Gióng chỉ roi về Ninh Châu tiến, thế là đoàn quân Gióng như cơn bão nổi lên ầm ầm lao đi, loáng cái mất dạng, Châu An nhìn theo khiếp vía: Quân Trời có khác.
     
  10. shopoga

    Bài viết:
    487
    PHẦN 28: TIÊU DIỆT QUÂN ÂN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về Nguyên Dực thua trận kéo tàn quân chạy về thành Ninh Châu, cố thủ, quân Ân kéo đến bao vây, nhưng không tấn công liền, chờ cho quân binh trong thành Ninh Châu kiệt sức vì đói mới ra tấn công.

    Than ôi non nước nạn luôn luôn

    Cũng bởi chúng dân lạc Cội Nguồn

    Âu bởi số Trời nên đành thế

    Đông tàn xuân đến nạn qua truông

    Còn lòng trung hiếu còn non nước

    Đựng dậy hồn thiên, dậy anh linh

    Chờ cơ, chờ vận, chờ trời sáng

    Rồng Tiên phất phới, rạng anh minh

    Độc lập tự do tung đôi cánh

    Yên bình hạnh phúc trải xuân Thiên.

    Đây nói về Nguyên Dực, bị Sát Sát quân Ân đánh bại rút tàn quân chạy về thành Ninh Châu, đóng cổng cố thủ trong thành, không bao lâu thời quân Ân kéo đến bao vây, có trên 25 vạn quân. Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, cùng nhiều Tướng Lĩnh khác nữa ở trên thành nhìn thấy quân Ân đông như vậy khó mà đánh cho lại. Hơn nữa Sát Sát thần thông pháp thuật vô biên, thành Ninh Châu quân binh chỉ hơn sáu vạn, nhưng nếu bị bao vây hơn nửa tháng sẽ dẫn đến chết đói, quân Ân không đánh cũng thua. Quân Ân bao vây hơn mười ngày rồi, chỉ cần thêm năm ngày nữa sẽ dẫn đến quân binh kiệt sức vì đói. Nguyên Dực, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương lấy làm lo lắng vô cùng.

    Bạch Tướng Quân nói:

    Trước sau gì cũng chết, thay gì lúc còn đang no, đang đêm mở cổng thành ra quyết chiến với chúng một trận chết cũng vui sướng.

    Dương Điền nói:

    Bạch Tướng Quân nói phải lắm, chết đói sao cho bằng đánh với một trận chết no cũng vui.

    Nguyên Dực nghe cũng có lý nói:

    Thôi thì tận trung Báo Quốc vậy.

    Được lệnh mở cổng thành tấn công quân Ân, các Tướng bàn bạc sôi nổi và thống nhất:

    Một giờ đêm nay là mở thành tấn công vào quân Ân tận trung Báo Quốc, coi như chúng ta ăn bữa cơm cuối cùng.

    Bằng cho mổ bò mổ lợn, gà vịt khao đải quân binh, bữa ăn cuối cùng từ giã trần gian.

    Một trận chiến lẫy lừng sông núi

    Khí hùng anh có chết cũng vui

    Tiên Rồng nòi giống uy linh

    Sợ gì quân giặc tiến lên diệt thù

    Nhìn dân chúng giặc dày giặc xéo

    Cảnh ngựa trâu giặc chém giặc đâm

    Làm cho máu chảy non sông

    Quê hương binh lửa núi non hận thù

    Hãy tiến lên chiến sĩ đồng bào

    Đánh cho tan tác quân thù tác tan.

    Nhìn trời về chiều ánh nắng đã ốm vàng hồng, không bao lâu nữa mặt Trời sẽ lặng về non Tây, các Tướng Lĩnh thấy tâm hồn khoan khoái nhẹ nhổm không còn nặng nề như mấy bữa trước đây.

    Bỗng Bạch Tướng Quân la lên:

    Xem kìa! Xem kìa! Chuyện gì thế? Quân Ân kéo binh đến nữa chăng?

    Khói bụi mịt mù ở tận xa xa, loáng một cái đoàn quân đã lao tới gần quân Ân, tiếp theo đó là một trận chiến kinh hồn, quân Ân bị đánh bay lên như hốt đá mà ném bay lên tứ hướng nhà Trời, quân Ân kinh hoàng khiếp thi nhau chạy toán loạn.

    Ngựa sắt dồn chân chuyển đất trời

    Đạp nhầu quân giặc nát tả tơi

    Ầm ầm roi sắt rền sông núi

    Muôn vạn giặc Ân mạng tơi bời

    Kinh hồn bạt vía quân cướp nước

    Thịt xương tung tóe xác pháo rơi

    Cuồng phong gào thét roi vun vút

    Quét sạch xâm lăng giặc đi đời.

    Các Tướng trên thành la lớn:

    Người sắt, ngựa sắt, kìa người Khổng Lồ, tay múa roi lớp lớp quân Ân tan xương nát thịt bỏ mạng, ngựa sắt phun lửa đỏ rực bầu trời.

    Lạc Đại Vương la lớn:

    Cờ Thánh Gióng, quân binh nhà Trời.

    Nguyên Dực cũng la lớn:

    Kìa quân binh chủ lực Văn Lang cờ chủ soái Nguyên Minh phất phới.

    Nguyên Dực như đứng tim nhìn sức mạnh của quân Gióng đánh quân Ân như đánh loài chuột. Đây nói về Sát Sát, đang hừng hực khí thế chiến thắng, thời nghe tiếng ầm ầm từ xa vọng lại, loáng một cái nghe quân Ân gào thét sợ hãi chạy toán loạn.

    Sát Sát la lớn:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Nói về Hồ Man Quân, Hồ Mị Hoa, nhìn thấy người sắt từ hướng Tây lao tới xơi sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa hóa phép giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân người sắt. Không ngờ quân người sắt chẳng hề hấn gì, lao nhanh tới chém sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa sợ quá cỡi ngựa Thần phi lên không trốn chạy, nhưng không còn kịp nữa năm con ngựa sắt bay lên không bao vây, đồng loạt tấn công cả con ngựa Thần cùng Hồ Mị Hoa bị chém đứt ra nhiều mảnh. Quân Ân, quân Hồ nhìn thấy cảnh ấy chỉ còn biết dẫm đạp lên nhau bỏ chạy. Năm con ngựa sắt bay lên không giết chết Hồ Mị Hoa chính là năm anh em Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.

    Cùng lúc ấy Sát Sát thấy người sắt Khổng Lồ đánh quân Ân lớp lớp tơi tả, liền niệm chú phóng kiếm Thần lao tới giết chết người sắt Khổng Lồ. Gióng không hề sợ hãi chút nào kiếm Thần lao tới Gióng đưa roi đánh vào kiếm Thần một cái tức thời một tiếng nổ long trời, kiếm Thần nát ra từng mảnh vụn.

    Sát Sát sợ quá la lớn:

    Bắn chết người sắt Khổng Lồ đó cho ta.

    Thế là hàng nghìn mũi tên bắn vào người sắt Khổng Lồ, nhưng nào có ăn thua gì. Gióng lao đến đâu quân Ân lớp lớp bỏ mạng đến đó. Sát Sát hóa phép liên miên, nào yêu tinh quỷ dữ hiện ra, cũng không làm gì được Gióng, bị Gióng múa roi đánh yêu tinh quỉ dữ khiếp hồn. Sát Sát hóa cuồng phong ầm ầm cũng không làm gì được Gióng. Sát Sát sợ quá phi ngựa lên không trốn chạy, không ngờ con ngựa sắt Khổng Lồ bay theo. Gióng đánh cho một roi cả người lẫn ngựa nát như tương.

    Nguyên Dực cùng các Tướng Lĩnh trên thành Ninh Châu há hốc mồm mà nhìn, cứ tưởng như là một giấc chiêm bao. Chừng nghe nói:

    Hãy mở cổng thành truy sát quân Ân chạy trốn, và cho người đem đồ ăn thức uống dâng lên cho đoàn quân của Gióng.

    Người lên tiếng đó chính là Nguyên Minh em của Nguyên Dực. Nguyên Dực như tỉnh giấc mơ liền mở cổng thành cho quân đuổi theo truy sát quân Ân đang chạy trốn tứ hướng, 25 vạn quân Ân giờ đây chỉ là những đống thịt, những cái xác không hồn, la liệt chồng chất lên nhau, cuộc chiến kết thúc thần tốc như thế, không ai dám nghĩ tới, nói gì tận mắt chứng kiến.

    PHẦN 29: QUÉT SẠCH QUÂN ÂN

    Sử đời chép lại để coi

    Xâm lược rốt cuộc chẳng qua lũ hề

    Trò cười muôn ức vạn đời

    Ra gì một lũ ngông cuồng xâm lăng.

    Nói về quân Gióng sau khi quét sạch 25 vạn quân Ân, thời được Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, đón rước tất cả vào thành vì trời đã tối, các Quan Tướng đều đến lạy Gióng. Lạc Đại Vương cho người dâng lên đồ ăn thức uống cho đoàn quân của Gióng, không ngờ đoàn quân của Gióng ăn mạnh quá, nốt sạch khẩu phần của hơn sáu vạn quân, chuẩn bị cho bữa cơm tối, bữa cơm cuối cùng cho trận chiến một giờ đêm. Nhất là Gióng ăn liền bảy nong cơm, ba nong cà muối, làm khiếp đảm những người chứng kiến. Quân Gióng ăn no nê rồi đánh một giấc ngủ.

    Ông mặt trời đã thức dậy, ngày cuối cùng tiêu diệt giặc Ân. Tất cả quân binh thành Ninh Châu suốt đêm không ngủ vì chuẩn bị đồ ăn thứ uống cho đoàn quân của Gióng ăn sáng trước khi lên đường đánh giặc. Quân dân thành Ninh Châu lại phải chứng kiến quân Gióng ăn uống khủng khiếp, nhất là Gióng nuốt sạch mười nong cơm, năm nong cà.

    Nguyên Dực giờ đây đã gia nhập vào đoàn quân của Gióng những kỵ binh giỏi nhất đi theo Gióng quét sạch quân thù xâm lược, còn tất cả binh lính đều ở lại thành Ninh Châu. Quân Gióng ăn uống no nê, chờ lệnh Gióng xuất phát. Gióng cầm roi leo lên lưng ngựa, roi Gióng vót nhọn dài mấy mươi thước to dài như cây tre lồng ngà, nặng hơn hai tấn. Gióng chỉ roi về hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ hét lớn tiến quân, tức thời con ngựa Gióng hí lên vang động đất trời, mồm phun ra lửa dữ, dậm chân ầm ầm lao đi, quân Gióng lao theo ầm ầm như cơn bão, loáng cái đã mất dạng, quân binh Ninh Châu nhìn theo khiếp vía.

    Đây nói về quân Ân, quân Hung Nô, ngày đêm ráo riết, đánh chiếm các Châu Quận Huyện hầu như gần nuốt sạch Bắc Văn Lang. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ sắp mất đến nơi quân Ân bao vây lớp lớp trùng trùng. Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, biết thế nào quân Ân cũng chiếm được Kinh Đô nhưng thà chết không chịu đầu hàng cố thủ tử chiến. Nhất là Hùng Lang Công vô cùng căm giận Giặc Ân, xâm lược cướp nước, còn giết chết hai người con là Hùng Tướng và Hùng Điền, nên ra lệnh cố thủ thành dù sắp chết đói đến nơi, dân chúng cũng như quân binh đã lai rai chết đói, quân Ân hiểu rõ thời cơ đã chín mùi chỉ cần ra tay là chiếm được được Kinh Đô và ngày giờ đã quyết định là tấn công vào Kinh Đô khi lúc mặt trời lên với hơn ba mươi vạn quân Ân bao vây Kinh Đô đông như kiến, đao kiếm ngùn ngụt, ngựa hí vang trời, quân reo dậy đất.

    Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên ở trên cung thành nhìn quê hương non nước như nhìn lần cuối, tay nắm chặt thanh đao như nói thầm rằng hãy quyết tử với chúng.

    Nước Văn Lang lửa thù soi giếng hận

    Lũ quân thù, lũ tán tận lương tâm

    Lũ ngoại xâm, nầy hỡi lũ ngoại xâm

    Mi gieo rét, bao ngục tù chết chóc

    Giờ quyết tử, ta sẵn sàng chiến đấu

    Nguyện theo về, với thế giới Cha Ông

    Thân xác nầy, trả lại với non sông

    Giờ quyết tử, quyết chiến quyết xông.

    Nói về Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên nhìn mặt trời lần cuối trước khi vĩnh biệt cõi trần. Tiếng còi khai trận trên đài quan sát Ân Mao Vương phất cờ lệnh tấn công, tức thời nghìn nghìn thang dây lao tới bắt lên thành, có đội quân xạ tiễn yểm trợ bắn lên thành như mưa.

    Cùng lúc ấy từ phía Tây một cơn bão lốc cuồn cuộn ập tới, tiếng vó ngựa ầm ầm vang rền trời đất, thoáng chốc đội quân người sắt xuất hiện lao vào hơn 30 vạn quân Ân xơi ráo riết, quân Ân bị đánh văng bay lên trời như giấy, kẻ bể đầu, người nát như tương, với chiếc roi sắt dài mấy mươi thước. Gióng vung lên vù vù quân Ân bỏ mạng lớp lớp. Nghịch Phong kinh hoàng khiếp vía cỡi ngựa bay lên không phóng đao Thần tới người sắt Khổng Lồ chỉ nghe nổ ầm ầm đao Thần nát vụn. Nghịch Phong niệm chú hóa phép yêu tinh quỉ dữ hiện ra lao vào người sắt, ngựa Thần phun lửa đốt sạch, bỗng ngựa sắt bay lên không roi sắt đánh tới Nghịch Phong. Nghịch Phong múa kiếm lên đỡ, nào ngờ một tiếng bộp dữ dội, Nghịch Phong cả người lẫn ngựa nát như tương. Ân Mao Vương nhìn thấy kinh hồn bạt vía, Ân Mao Vương chưa kịp chạy trốn thời Gióng bay đến đánh một roi quan sát đài cao bảy tần chỉ nghe ầm một tiếng kinh thiên động địa quan sát đài nát vụn. Ân Mao Vương nát như tương. Roi sắt cũng gãy làm ba khúc. Gióng dắt khúc roi còn lại vào lưng, phi ngựa tới bờ tre nhổ lấy tre đánh vào quân Ân tơi tả chết la chết liệt, cây tre nầy hư nát, Gióng lại nhổ cây tre khác cứ thế hết cây tre nầy đến cây tre khác. Quân Ân không còn sống sót để mà trở về quê hương, xác quân Ân la liệt thành gò thành đống. Không ai là không khủng khiếp cho trận chiến diệt quân Ân thần tốc nầy.

    Về sau có thơ rằng:

    Rầm rầm dậy đất dậy trời

    Cuồng phong bão táp ầm ầm kinh thiên

    Ngựa Gióng phun lửa liên miên

    Roi Gióng cuồn cuộn đảo điên đất trời

    Quân Ân lớp lớp tơi bời

    Cháy đen, nát thịt, bể đầu, tan thây

    Đùng đùng ngựa dẫm quân Ân

    Chôn vùi tan xác còn chi cuộc đời

    Quân Ân hồn vía rụng rời

    Xác văng tứ phía rụng đầu sứt chân

    Ào ào muôn trận cuồng phong

    Đường roi bão táp cuốn phen quân thù

    Đường roi cuồn cuộn ù ù

    Ầm ầm nện xuống nát nhừ quân Ân

    Quân Ân khiếp vía hồn kinh

    Ném gươm ném giáo chui mình trốn chui

    Lũ chuột trốn chạy khắp nơi

    Chạy đâu cho thoát ôi thôi còn gì

    Đáng đời lũ giặc đáng đời

    Ngông cuồng xâm lược để rồi mạng toi.

    Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên cùng quân binh trên thành ngơ ngác, quên cả chiến đấu chừng thấy quân Ân từ trên thang dây nhảy xuống đất lớp chết lớp gãy tay gãy cẳng, thời mới giật mình, thời quân Gióng đã biến mất lao về hướng Đông thẳng đến thành Xích Linh.

    Hùng Lang Công nói:

    Thánh Gióng người thiếu niên Khổng Lồ, Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, đã hiện về cứu nước Xích Quỷ khỏi rơi vào tay giặc.

    Ai đời đánh giặc lạ đời

    Dùng tre thay giáo tuyệt vời khó tin

    Bờ tre khắp chốn khắp nơi

    Để cho Thánh Gióng nhổ lên diệt thù

    Tre thành roi Thánh nhà Trời

    Đánh cho quân giặc rụng rời khiếp kinh

    Tre thành gươm giáo uy linh

    Đánh cho quân giặc hãi kinh khiếp hồn

    Tre là biểu tượng anh hùng

    Giặc mà nhìn thấy hãi hùng hoảng kinh.

    (Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, là Quốc Tổ khai sanh ra nước Xích Quỷ, thời đại Kinh Dương Vương).

    PHẦN 30: QUÉT SẠCH HUNG NÔ

    Đây nói về thành Xích Linh quân Hung Nô chưa làm gì nổi chỉ ở thế bao vây mà thôi, chờ cho quân Xích Linh đói chết tự đầu hàng, quân Hung Nô sau những lần bại trận chỉ còn không đầy 10 vạn, nay đã hồi phục trở lại lên đến 15 vạn, với tình cảnh nầy quân Hung Nô như con hổ rình mồi. Chờ cho con mồi đói lả, lao tới ăn thịt không cần tốn công mệt sức. Hung Nô Vương cùng hai con là Hung Quân Liệt, Hung Đa Di lấy làm đắc ý vì con mồi đã ở trong tầm tay. Ba cha con Hung Nô, đang hảm hiếp những cô gái đẹp Bắc Văn Lang chúng hảm hiếp hết cô nầy đến cô khác, rồi chúng quăng ra cho binh lính hảm hiếp. Nhìn thấy cảnh ấy không ai là không sôi gan, cho quân tàn bạo cướp nước. Chúng đang hả hê hảm hiếp những cô gái trẻ. Bỗng nghe cuồng phong kéo tới ầm ầm, quân Hung Nô giật mình khiếp sợ, không hiểu là có chuyện gì.

    Đây nói về Lạc Kim Tiên, trong lúc chợp mắt thời thấy Sư Phụ hiện về nói:

    Khi mặt trời lên sẽ có Thánh Gióng xuất hiện, đánh tan quân Hung Nô, giải thoát kiếp nạn cho Bắc Văn Lang.

    Lạc Kim Tiên giật mình tỉnh giấc không thấy Sư Phụ đâu cả, khi ấy trời cũng sắp hừng sáng. Lạc Kim Tiên liền nói với cha là Lạc Hầu Vương cũng như anh trai là Lạc Hồng Hầu những gì Sư Phụ đã hiện về nói cho biết là quân Hung Nô sắp bị đánh tan, khi Thánh Gióng xuất hiện, lúc mặt trời lên. Tin nầy được lan truyền nhanh chóng khắp trong thành Xích Linh, binh lính cũng như dân chúng kéo lên tường thành chờ đợi Kỳ Tích xuất hiện.

    Mặt trời đã lên cao, nhưng sao chưa thấy Kỳ Tích xuất hiện, niềm tin đã bắt đầu lung lay. Bỗng Lạc Kim Tiên la lớn:

    Khói bụi từ hướng Tây đã xuất hiện.

    Lạc Hầu Vương la lớn:

    Tới rồi.

    Đoàn quân Gióng đã xuất hiện, quân dân trên thành thấy Gióng cầm cây tre múa vù vù đánh vào quân Hung Nô như cơn bão lốc quân Hung Nô bị đánh văng tứ tung lên không như giấy, quân Gióng xơi quân Hung Nô như mèo xơi bầy chuột, chúng bị đánh văng đi tứ tung, bể đầu, gãy chân, gãy tay, người thì nát như tương, người thì bẹp lép, chết la chết liệt thành gò thành đống. Kim Tiên thấy Thánh Gióng như người Khổng Lồ nhưng mặt còn trẻ con, nhổ lấy tre đánh giặc không khỏi phì cười, đúng là trò trẻ con có một không hai trên trần thế.

    Chỉ trong phút chốc quân Hung chết sạch, Hung Nô Vương cùng hai con bỏ mạng. Gióng đánh tan quân xâm lược Gióng liền phi ngựa về hướng Nam mất hút, đoàn quân của Gióng cũng mất hút theo. Nguyên Dực, Nguyên Minh bỏ lại quân binh Tướng Lĩnh theo chân Gióng chỉ còn lại quân Triều Đình, và những quân binh theo Gióng ra trận.

    Anh tài hào kiệt anh hùng

    Cứu dân cứu nước diệt nầy ngoại xâm

    Giữ gìn độc lập non sông

    Để cho non nước bình yên thái bình

    Gương lành để lại cho đời

    Uy danh muôn kiếp sáng ngời anh linh

    Hiếu trung sách sử chép ghi

    Công lao cứu nước sáng soi đời đời

    Lời còn nhớ mãi anh hào cứu dân.

    Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Lạc Kim Tiên, Đinh Hoàng, Nguyên Thông nhận ra Cao Hải. Nhất là Lạc Kim Tiên vừa nhìn thấy Cao Hải thời lòng vui mừng không sao kể xiết, như vừa nuốt phải một lạng sâm vào bụng ra lệnh cho người mở cổng thành phi ngựa ra gặp Cao Hải.

    Nhìn thấy xuân về sau gió đông

    Nghìn hoa đua nở đợi bướm ong

    Xao xuyến tình duyên lòng con gái

    Bến đợi sông chờ, khách qua sông

    Đôi môi vừa hé hôn làn gió

    Cháy bổng hồn xuân ấm tình nồng

    Đa cảm phải đành ôm nỗi nhớ

    Bóng dáng người tình mãi đợi trông

    Lòng em như vạn mùa xuân

    Trời thu trong vắt, biển đông dậy tình

    Em nghe ngọt lịm tâm hồn

    Đa tình đầy ắp biển trời nhớ thương.

    Cao Hải gặp lại Kim Tiên cũng không kìm nỗi lòng xúc động, tưởng như là sẽ không còn gặp lại nhau nữa, Cao Hải giới thiệu một số Tướng Lĩnh cho Lạc Kim Tiên. Lạc Kim Tiên thi lễ chào hỏi xong thời cũng vừa lúc. Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Đinh Hoàng, Nguyên Thông vừa tới thi lễ đón rước các Tướng Lĩnh vào thành, thiết đãi ăn mừng chiến thắng cũng như bàn luôn việc Quốc Sự, chính đốn lại trật tự an ninh Bắc Văn Lang, ra lệnh cho quân binh truy nả quân giặc còn đang chạy trốn, cũng như ra cáo thị cho dân chúng, phải tuân theo pháp lệnh của nhà nước Văn Lang, nếu ai không tuân theo sẽ bị xử trảm.

    Các Quan Tướng đang bàn việc Quốc Sự thời có quân vào báo:

    Có thư của Hùng Lang Công nơi Kinh Đô Xích Quỷ gởi tới.

    Nội dung thư như sau: Các Quan, các Tướng, các bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, cũng như các Quan Tướng Triều Đình về Kinh Đô hợp gấp, bàn nhiều việc trọng đại.

    Theo công văn Bệ Hạ Hùng Huy Vương. Người viết thư Hùng Lang Công. Thế là các Quan Tướng tức tốc lên đường đến Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ để dự họp.

    Đây nói về Nam Ninh Xích Quỷ, Kinh Đô Bắc Văn Lang các Quan Tướng ra vào tấp nập, nhanh chóng đi vào cuộc họp chấn chỉnh lại Bắc Văn Lang đã trải qua một thời gian dài đi vào hỗn loạn, nhiều Bộ Lạc nổi lên đòi tự trị khắp nơi. Xưng Vua xưng Chúa, theo trào lưu phương Bắc, Nhà Thương, Nhà Chu. Với chính sách khoan hồng của triều chính Văn Lang, Hùng Huy Vương ân xá tất cả những tội lỗi của những Bộ tộc trong Bách Việt Văn Lang, có sự lầm đường lạc hướng, nổi lên đòi tự trị, gây ra bao cảnh chết chóc, nồi da nấu thịt, làm cho đất nước suy vong. Nếu bộ tộc nào có ý phản loạn, học đòi theo phương Bắc nổi lên xưng Vua, xưng Chúa thời giết chết không tha. Nhờ chính sách khoan hồng ân xá, không làm tổn hại những Bộ Tộc gây ra tội lỗi trước đây, mà còn có chính sách nâng đỡ, nên được lòng dân, nước Văn Lang vì thế bình yên thêm mấy trăm năm nữa, thái bình an lạc. (Điều đáng tiết ở đây, nước Văn Lang thời bấy giờ văn hóa Cội Nguồn không còn nên không lấy gì để dạy dân, mà chỉ dạy dân theo thể chế phong kiến, theo xu thế phương Bắc, hết họa nầy nối liền theo họa khác, do phương Bắc thao túng làm hại).
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...