Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn rồng tiên việt nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi shopoga, 1 Tháng mười một 2023.

  1. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 61

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về Chúa Tinh Yêu Chuột ba đầu, thấy quân Chuột chết hơn hai phần ba, càng lúc càng yếu thế, không thể nào chống trả lại quân Văn Lang, tức điên thét lên như sấm nổ sáu con mắt phát ra tia sáng đến rợn người, cái đầu chính giữa lúc lắc thổi ra một luồng quái phong đen ngòm, núi non như muốn sụp, cây cối ngã đổ ầm ầm, quân Văn Lang ngã rạp xuống đất, mở mắt không ra có người đã bị trận hắc phong yêu độc của Chuột tinh thời 20 vạn quân chết hết chẳng còn một mạng, thân xác bay đi khắp chốn chẳng biết đâu mà tìm.

    Cái đầu thứ hai bên tả lắc qua lắc lại vài cái liền thổi ra quân binh Chuột trùng trùng điệp điệp, đen trời đen đất bay tới tàn sát quân Văn Lang. Cái đầu thứ ba bên hữu lắc qua lắc lại vài cái liền phun ra Đao Kiếm mù trời mịt đất bay tới càn quét quân Văn Lang, tình thế nguy ngập. Thái Nga phóng Kiếm Tiên lên không niệm chú, muôn Đạo hào quang túa ra chống trả lại Chuột phép, Đao phép, Kiếm phép hắc phong do Chuột Tinh Chúa Yêu tạo ra, nhưng cũng không sao ngăn cản được chúng, Thái Nga vận hết cốt tâm lực điều khiển Kiếm Linh chống trả.

    Trước tình thế nguy ngập, An Lạc Tiên thấy Thái Nga đã trổ hết thần lực cũng không chống trả nỗi quân Chuột, Đao khí, Kiếm khí, hắc phong do Chúa Tinh Yêu Chuột tạo ra liền vận hết cốt thần lực gương thần tỏa ra muôn Đạo kim quang chống trả lại quân Chuột, Đao khí, Kiếm khí, Hắc phong ầm ầm cuồn cuộn ập tới mỗi lúc một khủng khiếp. Thái Nga, Lạc Tiên chỉ cầm cự một lúc nữa mà thôi, tình thế nguy cấp chỉ còn tính từng phút từng giây mà thôi. Lạc Tiên nghĩ đến quân Hồn Thiêng dân tộc sẽ giải cứu chúng ta.

    Đây nói về Chúa Tinh ba đầu của loài Dơi, thấy quân Dơi bị đánh xơ xác chết hơn hai phần ba là do quân Hồn Thiêng dân tộc tấn công, tức đến nổi miệng khạc ra lửa, cái đầu chính giữa gầm thét long trời chuyển đất, thổi ra một luồng quái phong đen trời mịt đất, cùng lúc với hắc phong chúa Chuột cuồn cuộn tuôn ra bao phủ một vùng trời rộng lớn làm cho quân Hồn Thiêng dân tộc xây xẩm, thất kinh hồn vía nhưng cũng cố gắng chống trả, đến khi nhìn thấy yêu Dơi trùng trùng điệp điệp tuông ra từ cái đầu bên hữu Chúa Dơi chật đất đen trời lại thêm Đao khí, Kiếm khí càn quét. Quân Hồn Thiêng dân tộc bay lên không trung tránh thoát nếu không chân khí ngũ căn tan hoại linh hồn tức khắc đi vào cõi luân hồi.

    Nói về Lạc Tiên nhìn thấy quân Văn Lang chỉ còn chờ chết, thiệt mạng có lẻ hơn 2 vạn người liền rọi gương thần lên không xem quân Hồn Thiêng dân tộc ở đâu không đến giải cứu, thời không thấy quân Hồn Thiêng dân tộc đâu nữa. Lạc Tiên vô cùng kinh khiếp, Lạc Tiên rơi nước mắt than: Thế là hết.

    Nói về quân Hồn Thiêng dân tộc bay lên tận mây xanh nhìn xuống, thấy Thiên Hương cởi con Tiểu Long bay lượng trong luồng hắc phong, quái phong do hai Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi thổi ra. Nhìn Thiên Hương tả xông hữu đột, phần thì chống trả Đao Kiếm cuồn cuộn lao tới, phần thì chống trả yêu Chuột, yêu Dơi tấn công. An Lạc Tiên nhìn thấy cảnh ấy càng rơi nước mắt, Hồn Thiêng dân tộc chỉ biết lắc đầu cầu Đức Cha Trời cứu giúp mà thôi.

    Bỗng Hồn Thiêng dân tộc la lớn:

    Kìa linh Kiếm Trấn Quốc đã xuất hiện, kìa sấm chớp đã nổi lên.

    Nói về Ngọc Thiên Hương nhớ lại mình còn một bảo bối nữa, đó là bảo bối chim ưng, liền lấy ra quen lên không hô biến, tức thời hiện ra một con chim ưng to lớn, quạt cánh ầm ầm xông vào mổ nuốt yêu Chuột, yêu Dơi nhưng lạ thay những con yêu Chuột, yêu Dơi nầy không sợ mà còn bao vây tấn công chim ưng tình thế mỗi lúc mỗi khốn nguy cho Thiên Hương. Thiên Hương đang cố sức chống trả, thời nghe sấm chớp nổi dậy ầm ầm, Kiếm Tiên bảo bối, chim ưng bảo bối, lảo đảo hào quang mờ đi vô cùng kinh hãi thâu bảo bối lại, nhìn xuống đất xem chuyện gì đã xảy ra, thời thấy Diệp Lang đang đấu phép với Chúa Chuột, Chúa Dơi yêu tinh.

    Thái Nga, Lạc Tiên cũng có tâm trạng như Thiên Hương, bỗng thấy bảo bối của mình giảm đi sức mạnh, hào quang mờ dần khi sấm chớp nổi lên. Thái Nga, Lạc Tiên kinh hãi thâu bảo bối lại, nhìn xem là chuyện gì thời thấy Diệp Lang đang chỉ Kiếm lên không sấm nổ ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ mịt càn quét vào luồng quái phong, hắc phong sấm chớp rung trời chuyển đất. Diệp Lang cỡi ngựa phi tới gần 20 vạn quân lùi ra sau, nhìn Diệp Lang đấu phép với hai Chúa Tinh Yêu Dơi, Yêu Chuột.

    Đây nói về Tây Thục Vương thấy các vị thần đến giúp sức, đứng ở trên không thời vô cùng mừng rỡ liền phất cờ chỉ Kiếm, 20 vạn quân ào ào xông tới, chiến đấu với các loài yêu tinh Chúa xà Rồng là con Rắn chín đầu vô cùng lợi hại pháp thuật vô biên, chúa tể của 36 loài bò sát. Thấy quân Văn Lang ào ào xông tới, thời hét lên một tiếng rung trời chuyển đất phất tay ra hiệu tấn công, yêu Tinh được lịnh, Rắn có cánh, Thuồng luồng có cánh, Cá Sấu có cánh, Khủng Long có cánh bay lên không trung đen trời mịt đất, tấn công xuống đầu quân Văn Lang vô cùng khủng khiếp, độc khí, cuồng phong, nanh vuốt tàn sát quân Văn Lang. Còn ở dưới đất, các loài Rắn không cánh, Thuồng luồng không cánh, Cá Sấu không cánh, Khủng Long không cánh nói chung là 36 loài bò sát không cánh ào ào xông tới tấn công quân Văn Lang, trên không dưới đất đồng loạt tấn công, phải nói là vô cùng lợi hại, khủng khiếp, lợi hại hơn hết vẫn là Rắn nhiều đầu, Thuồng luồng nhiều đầu, Cá Sấu nhiều đầu, Khủng Long nhiều đầu phải nói là khó đối phó vô cùng lợi hại đến kinh khiếp. Đầu phun khí độc, đầu phun lửa, đầu phun Đao khí, Kiếm khí chưởng lực tuông ra ầm ầm, lửa dậy đỏ trời, chưởng phong gào thét trên không dưới đất đồng loạt tấn công, vừa xáp chiến thời quân Văn Lang chịu không nỗi, một số quân binh đã bỏ mạng.

    Các vị thần đứng trên không xuống không được vì Độc khí Yêu Tinh mịt mù, đang lúc bối rối, thời một đạo hào quang bay đến, hiện ra một vị Tiên Ông. Bảy vị thần chấp tay thi lễ, Tiên Ông liền đưa bảy hoàng linh dược kháng độc cho bảy vị Thần rồi biến mất. Bảy vị thần uống linh dược xong, liền bay xuống xông vào trận độc khí, đánh với yêu Tinh nhưng yêu Tinh quá đông, một vị Thần phải chiến đấu với cả trăm cả ngàn quân yêu Tinh bao vây, chống trả mệt nhừ có thể nói là mất mạng tới nơi.

    Bỗng nghe quân reo ngựa hí trên không, quân Hồn Thiêng dân tộc bay xuống trùng trùng điệp điệp ào ào xông tới xáp chiến tấn công quân yêu Tinh, trên không cũng như dưới đất thấy quân Yêu Tinh bị đánh dội ngược trở lại hạn chế chận đứng sự tấn công của chúng.

    Quân Văn Lang tuy không thấy nhưng cũng biết quân Hồn Thiêng dân tộc kéo đến trợ giúp cho mình, quân Văn Lang vô cùng phấn chấn lấy lại khí thế, hò hét xông lên Đao, Kiếm, thương, lao, cung tên đánh chém phóng bắn như mưa trút xối xả vào quân Yêu Tinh ầm ầm.

    Nói về Man Công thấy thầy ra oai cũng phất cờ hò hét 5 vạn quân Ân xông tới cùng quân Yêu Tinh xáp lá cà giao chiến với quân Văn Lang. Thục Lao, Thục Di, Thục Chăm, Thục Liêu, Thục Châu như năm con mãnh hổ đầu đàn phi ngựa xông lên càn quét quân Ân tơi tả. Man Công phi ngựa xông tới thổi ra một luồng kình lực độc khí vô cùng lợi hại cuốn phen binh lính quân Văn Lang. Thục Chăm nhờ uống linh đơn xông vào kình lực độc khí, Đại Đao chém tới ầm ầm. Man Công tức giận múa Đại Đao giao chiến, trận chiến trên không, trận chiến dưới đất càng lúc càng khốc liệt, quân Yêu Tinh mạnh quá, áp đảo các vị thần, áp đảo quân Hồn Thiêng dân tộc.

    Quân Văn Lang dưới đất tuy tiêu diệt sạch năm vạn quân Ân. Hạ gục Man Công nhưng bị quân Yêu Tinh sát hại không ít, càng đánh quân Văn Lang càng yếu thế, trước thế lực hùng mạnh của các loài Rắn năm đầu, Thuồng luồng năm đầu, Cá Sấu năm đầu, Khủng Long năm đầu, chúng xông tới đâu là quân Văn Lang ngã tới đó, bị chúng nuốt sống chốc lát đi tiêu 2 vạn quân, tình thế nguy cập. Các vị thần mỗi người quăng lên không một bảo bối.

    1- Vệ Linh Thần Núi, quăng lên không một ngọn Đao Thần, Vệ Linh niệm chú hô biến, ngọn phi Đao nổ ầm ầm, bỗng to lớn khổng lồ, hào quang rực rỡ, bay lượng chém xuống các loài Yêu Tinh chết thôi là chết.

    2- Tiên Sơn Thần Núi, quăng lên không cái bầu Hồ Lô Thần hút, Tiên Sơn niệm chú hô biến, bầu Hồ Lô nổ ầm ầm, bỗng to như quả núi phóng ra muôn đạo hào quang, tốm hút Yêu Tinh, những Yêu Tinh yếu phép chống trả không lại Thần Hút liền bị hút vào bình chết sạch.

    3- Liên Sơn Thần Núi, quăng lên không một ngọn núi nhỏ, niệm chú hô biến, ngọn núi nhỏ nổ ầm ầm, biến thành ngọn núi lớn, hào quang tua tủa đánh xuống quân Yêu Tinh chết thôi là chết.

    4- Động Hồ Cốc Chủ, quăng lên trời một cái túi, niệm chú hô biến, tức thời tiếng nổ ầm ầm liên tục xảy ra, cái túi bỗng to như đám mây lớn, từ miệng túi tuông ra trùng trùng hào quang hóa thành một trận Đao Kiếm bay xuống tiêu diệt Yêu Tinh chết thôi là chết.

    5- Giang Công Thần Chủ, quăng lên không trung một xâu chuỗi ngọc niệm chú hô biến, tức thời tiếng nổ ầm ầm nổi lên, xâu chuỗi ngọc bỗng nhiên to lớn, như hàng chục tản đá tròn to lớn nối với nhau, tỏa ra muôn đạo hào quang đánh xuống các loài Yêu Tinh chết thôi là chết.

    6- Hùng Phong Thần Núi, quăng lên không trung một cái búa nhỏ, niệm chú hô biến, búa thần nổ đùng đùng, biến thành cái búa khổng lồ hào quang rực rỡ bay lượn chém xuống Yêu Tinh chết thôi là chết.

    7- Hải Nam Thần Biển, quăng lên không trung một viên Bảo Châu, niệm chú hô biến, tức thời viên Bảo Châu nổ ầm ầm to lớn khổng lồ phát ra tia sáng càn quét quân Yêu Tinh chết thôi là chết.

    Chúa Yêu Tinh xà Rồng thấy bảy vị Thần quăng ra bảy loại bảo bối tàn sát quân Yêu Tinh chết thôi là chết, tức giận gào thét rung trời chuyển đất, hiện nguyên hình là một con Rắn khổng lồ chín đầu, đầu chính giữa há mồm đỏ lé phun ra trùng trùng con Rắn chín đầu tấn công vào quân Hồn Thiên dân tộc, tấn công vào quân Văn Lang cùng bảy vị Thần.

    Đầu bên hữu kế bên đầu chính giữa phun ra bảy viên ngọc Rắn nổ lên ầm ầm, vụt to lớn như bảy ngọn núi, chống trả lại bảy bảo bối của bảy vị Thần. Đầu bên tả phun ra ngọn yêu phong khủng khiếp cuồn cuộn bao trùm một vùng trời rộng lớn, còn lại sáu đầu ở hai bên tả hữu, đồng loạt phun ra Đao phong Kiếm khí, lửa dậy đỏ trời, thiêu đốt, càn quét tưởng chừng như trời đất sắp sụp đến nơi. Quân Hồn Thiêng không chịu nổi với yêu phong độc khí xây xẩm mặt mày tức tốc bay lên không trung để tránh. Chín cái đầu Rắn lại phun ra một luồng kình lực vô hình kỳ quái tốm sạch bảy bảo bối của bảy vị Thần nuốt hết thảy vào bụng. Các vị Thần khiếp quá bay lên không trung thoát ra khỏi luồng kình lực vô hình, luồng yêu phong độc hại.

    Quân Văn Lang chỉ còn chờ chết, xà Rồng Chúa Yêu Tinh thấy Hồn Thiêng dân tộc cùng bảy vị Thần trốn chạy tít trời xanh. Lão Chúa xà Rồng thấy 36 loài Yêu Tinh thây phơi chật đất cái đầu chính giữa gầm gừ liên tục, Chúa Yêu nhìn đệ tử Man Công của lão chết thê chết thảm, chín cái đầu gầm gừ nhìn quân Văn Lang sắp đi vào diệt vong vẫn chưa hả cơn giận.

    Tình thế vô cùng nguy cấp, Tây Thục Vương phi ngựa tới trước ra lệnh cho quan quân lùi lại, Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra thét lớn:

    Ngày tận số của người đã đến rồi.

    Kiếm Linh chỉ lên không, tức thời sấm sét ầm ầm, hào quang chơm chớp, Kiếm khí tuôn ra mù mịt. Tây Thục Vương một còn một mất đấu phép, đấu trí với Chúa Yêu xà Rồng.

    * * *

    PHẦN 62

    Đây nói về Điền Điền Lang cùng gần 20 vạn quân nhìn thấy quân Hồ đi trên mặt nước như đi trên đất bằng thời kinh dị vô cùng. Nói về yêu nữ ác Tinh là con Hồ Ly bảy đuôi, tu luyện thành người pháp thuật thần thông vô biên, nhìn thấy quân Văn Lang kéo đến thuyền thuyền lớp lớp, quân dưới nước quân trên bờ trùng trùng điệp điệp kéo tới bao vây. Hai con mắt Chúa Yêu Tinh Nữ phóng ra 2 luồng ánh sáng xanh lè, phất tay hét lớn, ra lịnh quân Hồ tấn công, tức thời quân Hồ có cánh bay lên không trung đen trời mịt đất tấn công xuống đầu quân Văn Lang.

    Quân Hồ Tinh không cánh ào ào xông tới chạy trên mặt nước, nhảy lên bờ, nhảy lên thuyền tấn công quân Văn Lang, thế là trận chiến xảy ra vô cùng khốc liệt, tên lao vun vút, Đao Kiếm ầm ầm, Ma gào Quỷ thét, quân reo ngựa hí, đánh nhau vang dậy đất trời, quân Hồ Tinh càng đánh càng lấn thế, lợi hại nhất vẫn là trên không tấn công xuống, quân Văn Lang chết thôi là chết, quân Hồ Tinh phun ra khí độc, phun ra chưởng lực các thuyền như muốn vỡ tan đến nơi.

    Huỳnh Trung Phong kinh hãi, nỗi trống, nỗi chiêng củng cố tinh thần tướng sĩ, bình tĩnh chiến đấu. Mai Đức Thọ, Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành ra sức chỉ huy trận chiến không cho rối loạn, quân Văn Lang vẫn giữ vững tinh thần quyết tử chiến đấu. Bỗng nghe quân reo ngựa hí trên không, quân Hồn Thiêng dân tộc đã kéo đến tấn công vào quân Hồ Tinh, trận chiến càng thêm khốc liệt. Quân Hồ Yêu Tinh chết như rạ, rớt xuống hiện nguyên hình là Chồn Cáo hai đuôi, ba đuôi, bốn đuôi, năm đuôi, đầy sông chật bãi, quân Văn Lang lấy lại khí thế thuyền thuyền lớp lớp ào ào xông tới.

    Hồ Ly yêu nữ bảy đuôi gào thét ra lệnh cho 400 chiến thuyền, 5 vạn quân ào ào xông tới giao chiến với quân Văn Lang nhưng lũ giặc Ân nào có biết. Quân Văn Lang nhờ uống linh dược sức lực võ nghệ tăng lên gấp ba gấp bốn lần, quân Ân vừa xáp chiến với quân Văn Lang chẳng khác nào Chuột đấu với Mèo, nháy mắt là Mèo chén sạch.

    Trận chiến trên không, trận chiến dưới đất vô cùng khốc liệt, quân Yêu Hồ càng đánh càng yếu thế hơn, bị quân Hồn Thiêng dân tộc cộng với tinh thần anh dũng của quân Văn Lang chiến đấu quên mình, quân Yêu Hồ chết thôi là chết, Hồ Yêu Yêu Nữ ác Bà tức tối đến mồm khạc ra lửa, phun ra một luồng yêu khí, yêu thuật Âm Dương Thần Công, hai con mắt phóng ra Đao khí, Kiếm khí càn quét quân Văn Lang. Âm Dương yêu thuật thần công cuồn cuộn tuôn ra mù trời mịt đất, tiếng lốp bốp như lúa rang phát ra vạn ức tia lửa độc tàn sát quân Hồn Thiêng dân tộc, quân Văn Lang sự tàn phá của Âm Dương yêu thuật quả là khủng khiếp, quân Hồn Thiêng dân tộc chịu không nỗi bay lên không trung tránh luồng yêu phong ghê gớm ấy, quân Văn Lang chỉ còn chờ chết mà thôi.

    Trước tình thế nguy cấp ấy, Điền Điền Lang tiến thuyền tới trước, chớp mắt mà quân Văn Lang chết hơn 2 vạn, Điền Điền Lang tức tốc rút Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm ra chỉ lên trời, tức thời hào quang chơm chớp sấm sét ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ trời mịt đất, một còn một mất với Hồ Ly ác Yêu Tinh.

    Hùng Cao Vương thống lãnh gần 20 vạn quân xông tới. Mao Ly Hương miệng lâm râm niệm chú phất cờ chỉ tay về phía quân Văn Lang đang ào ào xông tới. Quân Yêu Hồ tức thời gào thét vang động đất trời, quân Hồ Tinh có cánh bay lên không đen trời mịt đất tấn công xuống đầu quân Văn Lang như vũ bão. Thế là trận chiến xảy ra khủng khiếp rền trời rền đất, quân Hồn Thiêng dân tộc kéo tới kịp lúc đánh quân Yêu Hồ tơi tả.

    Bùi Xuân Mẹo, Cao Đình Luân cho quân lính đánh trống, dộng chiêng yểm trợ tinh thần binh sĩ, trận chiến mỗi lúc một thêm khốc liệt. Mao Ly Hương lòng muốn tốc thắng, phất cờ ra lịnh cho 5 vạn quân Ân ào ào xông tới. Mao Ly Hương phi ngựa xông vào chém quân Văn Lang cho hả cơn giận, nào hay quân Văn Lang vô cùng lợi hại, mỗi vị quân là mỗi vị tướng, sức mạnh võ nghệ cao cường, binh lính bao vây đánh Mao Ly Hương nhừ tử bỏ mạng đến nơi, tên lao phóng bắn với sức lực kinh người, 5 vạn quân Ân bỏ mạng thây phơi chật đất. Mao Ly Hương kinh khiếp thoát ra khỏi vòng chiến quăng xâu Đầu Lâu lên không niệm chú, tức thời xâu Đầu Lâu phát ra ánh sáng xanh lè bay lượng đánh xuống quân Văn Lang chết thôi là chết. Mao Ly Hương khoái chí điều khiển xâu Đầu Lâu tàn sát hơn nữa. Quân Văn Lang tình thế vô cùng nguy hiểm, quân Hồn Thiêng dân tộc tới gần xâu Đầu Lâu không được lại còn đang đánh với quân Yêu Hồ.

    Không còn cách nào hơn Hùng Cao Vương phi ngựa tới trước ra lịnh cho quân Văn Lang lùi lại, rút Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm Trấn Quốc ra chỉ thẳng vào xâu Đầu Lâu đang bay lượng đánh xuống đầu quân Văn Lang, chỉ thấy Hỏa quang sấm nổ, Kiếm khí tuông ra chém thẳng vào xâu Đầu Lâu ầm ầm, đùng đùng, ầm ầm liên hồi không dứt, xâu sọ người bị Kiếm khí chém nát ra từng mảnh, sấm sét đánh xuống quân Yêu Hồ chết thôi là chết. Mao Ly Hương ngơ ngác thời một tia chớp đánh xuống cháy ra than.

    Nói về Vi Tử Khải chứng kiến cảnh khủng khiếp ấy, mặt không còn chút máu lẳng lặng chuồng mất.

    Đây nói về Bạch Cốt Ma Tôn Ác Bà thấy quân Văn Lang phất cờ ào ào xông tới, liền nổi lên một trận cười đinh tai nhức óc, chỉ tay một cái Ma quân xông tới mù trời mịt đất, phát ra âm Ma kì lạ làm cho người nghe xây xẩm mặt mày, độc khí phun ra mịt mù. Bạch Cốt Ma Bà vô cùng kinh ngạc, thấy quân Văn Lang xông vào âm Ma Trận, Độc Ma Trận không hề hấn gì thời kinh ngạc không lẻ quân Văn Lang là quân trời, càng đánh càng hăng, quân Ma Cốt thú cầm, bò sát bị quân Văn Lang hạ gục tơi bời, xương phơi trắng đất, thành gò thành đống. Bạch Cốt Ma Tinh Ác Bà vô cùng tức giận thét lên một tiếng rung trời chuyển đất, thổi ra một luồng Ma phong hôi thúi, độc hại khủng khiếp cuồn cuộn phủ tới càn quét tàn sát quân Văn Lang.

    Đồ Ác Ma hỗn láo, tiếng thét lanh lảnh nổi lên, thì ra đó là tiếng thét của Hạ Tiên. Nói về Hạ Tiên lúc nào cũng chăm chú để ý đến Bạch Ma Bà, thấy bà phùng mang trợn mắt thổi ra luồng Ma phong hôi thúi làm cho quân Văn Lang xây xẩm mặt mày. Hạ Tiên vận hết Thần lực vào Tiên Kiếm, thi triển chiêu Lôi Âm Sấm Kiếm, tức thời hào quang chơm chớp lan tỏa một vùng rộng lớn sấm nổ ầm ầm, đánh xuống luồng Ma phong tức thời Ma phong tan biến đâu mất.

    Bạch Cốt Ma Bà kinh hãi:

    Hay cho con tiện tì xem đây.

    Tức thời vung tay một cái, trời đất mờ mịt, một bàn tay dài buôn ra chụp lấy Hạ Tiên. Hạ Tiên kinh khiếp múa Lôi Âm Sấm Kiếm chặt vào cánh tay ma quái của bà nhưng cánh tay Ma quái biến hóa vô cùng kỳ lạ không thể làm gì được, một cánh tay Ác Bà chụp lấy Hạ Tiên, một cánh tay chụp quân Văn Lang bốp nát như tương. Hạ Tiên khiếp quá quăng bảo châu như ý lên không niệm chú đánh xuống đầu Bạch Cốt Ma Bà. Bạch Cốt Ma Bà nổi lên một trận cười ghê rợn, đưa bàn tay chụp lấy viên bảo châu bỏ vào miệng nuốt mất. Hạ Tiên càng thêm kinh hãi.

    Đây nói về Khương Hào thống lĩnh 5 vạn quân Ân, thấy quân Văn Lang bị Bạch Cốt Ma Bà quật chết la liệt, đây chính là cơ hội tiêu diệt quân Văn Lang, liền phất cờ chỉ Kiếm 5 vạn quân Ân ào ào xông tới chém bắn xối xả vào quân Văn Lang.

    Cốt Bà lợi hại biết dường bao

    Ba quân tướng sĩ ngã lăn nhào

    Hạ Tiên liều mạng vào trận chiến

    Đấu cùng Bạch Cốt định thấp cao

    Càn, Khôn, Ly, Khảm vây tứ hướng

    Tốn, Chấn, Cấn, Đoài thượng hạ bao

    Cốt Bà cười khẩy nầy khá lắm

    Chút tài mà dọa được ta sao

    Cánh tay ma quái dài tóm bắt

    Hạ Tiên liều chết, xã lăn vào

    Quân Ân ập đến như bão thác

    Nguy cơ trùng điệp họa dân cao.

    Trong lúc vô cùng nguy cấp, bỗng trên không trung có tiếng nói:

    Thầy đến giúp con đây, mau thi triển chiêu Triệt Ma Ảo Ảnh Kiếm.

    Thì ra tiếng nói ấy là thầy của Hạ Tiên, Quang Âm Thánh Mẫu. Nói về Quang Âm Thánh Mẫu đang ngồi thiền định xem xét trận chiến giữa quân Văn Lang và các loài yêu Tinh, thấy Bạch Cốt Ma Bà quá lợi hại, e rằng 8 vạn quân Văn Lang sẽ chết hết. Hạ Tiên sắp lâm nạn chớp mắt Thánh Mẫu tới nơi, đứng trên mây ném xuống một đóa hoa sen thơm ngát, hào quang đủ màu sắc chiếu xuống làm cho Bạch Cốt Ma Bà đau nhức chịu không nổi, bị chiêu Triệt Ma Ảo Ảnh Kiếm chém trúng nổ ầm ầm, xương cốt Ác Độc Ma Bà nát thành đống.

    Thánh Mẫu thâu hoa sen lại biến mất trong không trung. Quân Văn Lang như đàn sư tử ào ào xông vào đàn dê tung hoành hạ gục quân Ma, quân Ân không còn một mạng.

    Đây nói về Bạch Cốt Ma Tôn thấy quân Văn Lang phất cờ ào ào xông tới, tức thời Lão Ma Tôn hét lên một tiếng như sấm nổ, ra lịnh tấn công, Ma binh ào ào xông tới, lớp bay lên không tấn công xuống đầu 12 vạn quân Văn Lang, lớp chạy dưới đất nhanh như tên bắn, thế là trận chiến xảy ra vô cùng khốc liệt, Ma binh đông quá võ nghệ cao cường vô cùng lợi hại, quân Văn Lang chống trả cả 2 mặt, trên không và dưới đất càng đánh càng yếu thế, loáng cái đi tiêu hơn vạn quân.

    Cao Hùng Phi, Trần Nhân Luân, Cao Lạc Hổ, Nguyễn Sinh Kỳ bị Ma quân bao vây ráo riết, một người phải đấu với mấy chục tên Ma quân, tình thế nguy cập đến nơi, thời nghe trên không trung quân reo ngựa hí, quân Hồn Thiêng dân tộc ào ào bay xuống, tấn công Ma binh, trận chiến trên không dưới đất, quân binh mù mịt bay lên bay xuống đánh nhau ầm ầm, quân reo ngựa hí, Quỷ gào Ma thét, gươm, Đao, giáo, mác cuồn cuộn rối rả vào nhau đùng đùng ầm ầm ì ì liên miên bất tận, cát bay đá chạy cây cối ngã đổ ào ào.

    Càng đánh Ma binh càng yếu thế, Khương Hoàng Nhân kinh hoảng, phất cờ ra lịnh cho 5 vạn quân ào ào xông tới, quân Ân vừa xáp chiến đã bị quân Văn Lang hạ gục rầm rầm, loáng cái quân Ân tướng tá chết sạch, Khương Hoàng Nhân chung cùng số phận.

    Bạch Cốt Ma Tôn thấy độc khí ma âm không hại được quân Văn Lang, quân Hồn Thiêng dân tộc, thời tức tối thét lên vang trời động đất Ma quân chết thôi là chết sắp bị chết sạch đến nơi. Ma Tôn la hét một hồi biến hóa ra không biết bao nhiêu Ma Tôn mà kể, tạo ra ma trận bao vây quân Hồn Thiêng dân tộc, quân Văn Lang.

    Mỗi Ma Tôn phun ra độc khí, phun ra Kiếm khí, Đao khí tàn sát quân Hồn Thiêng Dân Tộc, quân Văn Lang. Quân Hồn Thiêng Dân Tộc chịu không nổi trước Độc khí, Kiếm khí, Đao khí liền phá vòng vây pháp thuật của Ma Tôn bay lên không trung thoát nạn, chỉ còn quân Văn Lang và sắp mất mạng đến nơi, tình thế vô cùng nguy cấp.

    Cao Lạc Vương phi ngựa tới trước thét lớn:

    Xem Bảo Kiếm của ta đây.

    Tức thời Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra chỉ lên không hào quang sấm nổ ầm ầm, Kiếm tuông ra mù mịt. Nói về Ma Tôn đang đắc ý chuẩn bị phất tay là hốt sạch 10 vạn quân Văn Lang, bỗng nghe sấm chớp ầm ầm Kiếm phong cuồn cuộn mờ trời mịt đất xuống hàng vạn vạn Ma Tôn, hàng vạn vạn Ma Tôn chịu không nỗi tan biến đâu hết. Thế là cuộc đấu phép giữa Cao Lạc Vương và Ma Tôn.

    Ma Tôn tay chỉ quân Nam

    Mù trời mịt đất Kiếm tuông giáo gầm

    Ào ào lao tới ầm ầm

    Chém đâm càng quét kinh hồn khiếp kinh

    Cao Vương truyền ý Kiếm linh

    Sấm tuôn sét đánh tan yêu nhuộm màu

    Kiếm Linh càn quét ù ù

    Làm cho Bạch Cốt rã rời tay chân

    Ma Tôn niệm chú bay lên

    Tay dài mầu nhiệm cướp đi Kiếm Trời

    Nào hay Kiếm phép tuyệt vời

    Hóa ra lưới phép chụp thời Ma Tinh

    Ma Tôn khiếp vía hồn kinh

    Tàn hình biến mất hư không tàn hình

    Hóa ra ba mũi tên Thần

    Hầu mong lấy mạng diệt trừ Cao Vương

    Kiếm linh phát tỏa linh quang

    Ầm ầm sấm sét đánh tan tên Thần

    Cao Vương chỉ Kiếm quân thù

    Kiếm Linh nầy hởi diệt loài Ma quân

    Tức thời sấm dậy sét tuông

    Ầm ầm đánh xuống Yêu Tinh ầm ầm.

    Thế là trận chiến mỗi lúc một thêm dữ dội. Ma Tôn phóng lên muôn đạo Thần quang chống trả, tưởng như trời đất muốn sụp đến nơi. Ma Tôn hóa người to như trái núi cao tới mây, quân Văn Lang vô cùng khiếp đảm, bàn chân của lão Ma Tôn dẩm xuống cũng phải bỏ mạng vài ba trăm người.

    Khi ấy theo hướng Tây Nam bỗng nghe tiếng sấm nổ, hào quang chóa lọi cả phương Nam, cuồng phong dữ dội, xuất hiện năm con Rồng, năm con Phụng khổng lồ xuất hiện bay lượn trên không, hào quang rực rỡ đủ màu đủ sắc, một chuyện kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ.

    Cao Lạc Vương bỗng thấy Kiếm Linh như khác hẳn:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Cao Lạc nghỉ Lão Ma Tôn quyết tiêu diệt quân Văn Lang, hai bàn tay của lão như hai đám mây đánh xuống quân Văn Lang với hai luồng Ma Lực rung trời chuyển đất ầm ầm nện xuống quân Văn Lang, quân Văn Lang chỉ còn nhắm mắt chờ chết.

    Cao Lạc Vương truyền ý vào Kiếm Linh, tiêu diệt lão Ma Quỷ kia đi, kì lạ thay Kiếm linh vụt to lớn một cách kỳ lạ, tức thời một tiếng sấm nổ chấn động hư không, kiếm phong tuông ra làm chấn động đến các cõi trời, làm cho lâu đài cung điện rung động ầm ầm, tưởng chừng như muốn sụp đổ đến nơi.

    Nói về Lão Ma Tôn đang đắc ý, bỗng một tiếng sấm nổ khủng khiếp làm cho lão giật mình, Kiếm quang chiếu lên chặt đứt hai bàn tay Ma Quỷ của Lão. Lão ngơ ngác thời hàng nghìn hàng vạn tia sấm sét khủng khiếp đánh xuống đầu Lão, hàng loạt tiếng nổ chấn động vũ trụ. Lão Ma Tôn bị bị sấm sét đánh chết tan ra tro bụi.

    Cao Lạc Vương thấy Lão Ma Tôn đã chết, liền chuyển ý thâu Kiếm lại nhưng Linh Kiếm không theo ý của Lạc Vương mà theo một lực vô hình nào đó. Sấm Kiếm mỗi lúc một dữ dội, Kiếm phong mỗi lúc một khủng khiếp quét sạch Ma quân tan hồn tan xác.

    Cao Lạc Vương thấy Linh Kiếm không theo ý mình vô cùng kinh hãi như nhớ ra chuyện lạ nào đó, nhìn về hướng Tây Nam không còn thấy Ngũ Long, Ngũ Phụng nữa hào quang rực rỡ bầu trời phương Nam cũng biến mất. Tức thời Linh Kiếm liền nhỏ lại như xưa, Kiếm khí, sấm chớp tuy giảm xuống mấy chục lần nhưng Kiếm khí vẫn tuôn ra dữ dội, sấm sét rung trời chuyển đất ầm ì không ngớt. Bỗng một lực vô hình đoạt mất Kiếm Linh. Cao Lạc Hầu Vương chết điếng như kẻ mất hồn: Ta biết phải làm sao đây? Ta biết phải làm sao đây?

    * * *
     
  2. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 63

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói về Diệp Lang thấy Chúa Tể của loài yêu Dơi, yêu Chuột vô cùng lợi hại bằng phi ngựa tới trước rút Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm đấu phép với chúng, Kiếm Quang xuất hiện sấm sét ầm ầm, Kiếm phong tuông ra mờ trời mịt đất đánh vào yêu thuật quân Chuột, quân Dơi, lớp bay lên trời, lớp bay dưới đất ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang liền bị sấm sét, Kiếm khí đánh chém tơi bời, quân Yêu Tinh lớp nầy tan biến, lớp khác hiện ra xông lên, một trận đấu phép khủng khiếp chưa từng thấy.

    Địa Quang Linh Kiếm chiếu lên

    Hào quang chơm chớp sấm rền dậy non

    Diệp Lang múa Kiếm dọc ngan

    Chém vào yêu Chuột, yêu Dơi ầm ầm

    Chuột Tinh nổi giận hầm hầm

    Hiện đầy yêu Chuột rầm rầm xông lên

    Lao vào tàn sát quân Nam

    Trùng trùng điệp điệp ôi thôi trùng trùng

    Quân Nam chống cự mệt nhừ

    Khó bề chống lại ôi nào khốn nguy

    Ngã nhào chết thảm chết thê

    Khó bề chống cự ôi thôi khó bề

    Diệp Lang chỉ Kiếm lên thề

    Nếu không thắng được ta còn mà chi

    Tức thời Linh Kiếm vung lên

    Ầm ầm sấm nổ vang lên ầm ầm

    Kiếm Linh biến hóa không ngừng

    Hào quang sấm chớp đánh vào Dơi Tinh

    Kiếm phong càn quét khiếp kinh

    Chém vào yêu Chuột ôi thôi chém vào

    Yêu Chuột, yêu Dơi ngã nhào

    Chúa Dơi, chúa Chuột thét gào hô phong

    Chỉ tay một cái rung rinh

    Quân yêu sức mạnh tăng lên vù vù

    Diệp Lang nổi giận đùng đùng

    Một phen sống chết diệt trừ yêu Tinh

    Ý liền truyền đến Kiếm Linh

    Sấm tuông sét nổ rung rinh đất trời

    Đao phong Kiếm khí ào ào

    Tan thây quân Chuột ngã nhào quân Dơi

    Chúa Dơi Chúa Chuột hung hăng

    Thần thông biến hóa khiếp kinh lạ đời

    Phất tay một cái vậy thời

    Núi tuông đất sụp biển trời rung rinh.

    Thế là cuộc đấu phép mỗi lúc một thêm dữ dội đất trời mù mịt, Kiếm tuông sấm nổ mỗi lúc mỗi thêm kinh hoàng. Chúa Tinh Yêu Chuột, Chúa Tinh Yêu Dơi thân hình bỗng to lớn một cách kỳ lạ, thân to như núi, cao tới mây, nhìn xuống quân như đàn kiến, bốn bàn tay yêu quái to như bốn đám mây, quân Văn Lang vô cùng kinh hoảng chỉ còn nhắm mắt chờ chết khi bốn bàn tay khổng lồ đánh xuống.

    Lúc bây giờ Địa Quang Linh Kiếm bỗng to lớn một cách kỳ lạ. Diệp Lang chợt thấy hào quang sáng rực không gian, kinh ngạc nhìn về hướng Đông Nam thấy Ngũ Long, Ngũ Phụng đang bay lượn trên nền trời vô cùng đẹp mắt, hào quang đủ màu sắc rực rỡ cả không gian phương Nam. Nói về Chúa Yêu Tinh Chuột, Chúa Yêu Tinh Dơi sử dụng đến pháp thuật cuối cùng, vụt to lớn một cách kỳ lạ to như trái núi, cao lên tới tận các tầng mây, biến thành một thân hình sắt thép đâm không thủng chém không đứt, vô cùng đắc ý, bốn bàn tay như bốn đám mây chửng bị đánh xuống quân Văn Lang chỉ còn nhắm mắt chờ chết. Diệp Lang thấy Kiếm linh vụt cao to mấy chục thước nhưng nhẹ bổng, Diệp Lang chuyển ý vào Linh Kiếm mau diệt hai loài chúa Yêu Tinh đi. Tức thời một tiếng sét nổ chấn động đến tam thiên Đại thiên thế giới. Kiếm khí tuôn ra làm chấn động đến các cõi trời, làm cho cung điện lầu đài rung động ầm ầm, tưởng chừng như muốn sụp đổ.

    Chư Thiên Quỷ Thần vô cùng hoảng hốt:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Nói về Chúa Chuột, Chúa Dơi vô cùng đắc ý, bỗng nghe một tiếng sét nổ chấn động như muốn nổ tung lồng ngực, Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi khiếp hồn. Kiếm khí, Đao khí bay lên chặt đứt băm nát bốn cánh tay. Hai Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi định tàn hình chạy trốn nhưng đã muộn, hàng nghìn hàng vạn tia sấm sét đánh xuống người hai Chúa yêu Tinh, hàng loạt tiếng nổ ầm ầm chấn động vũ trụ. Hai con Quỷ yêu Tinh tan xương nát thịt ra tro ra bụi.

    Diệp Lang thấy hai con yêu Tinh đã chết bằng thu Kiếm lại nhưng không làm sao thu được: Biết làm sao đây? Biết làm sao đây?

    Diệp Lang phát hiện như có lực vô hình điều khiển, Kiếm Quang mỗi lúc mỗi thêm dữ dội. Diệp Lang kinh khiếp không khéo quả đất bị đánh vỡ tới nơi. Bỗng thấy Kiếm Quang giảm xuống mấy chục lần trở lại bình thường, thì ra Ngũ Long, Ngũ Phụng biến mất nhưng Kiếm khí sấm sét vẫn tuôn ra mù mịt sấm sét long trời lở đất. Bỗng như có bàn tay vô hình đoạt lấy Kiếm Linh cả Kiếm lẫn vỏ. Diệp Lang chết điếng hồi lâu mới trở lại bình thường than thở mãi: Ta biết phải làm sao đây? Ta biết phải làm sao đây?

    Đây nói về Tây Thục Vương thấy tình thế vô cùng nguy cấp, bằng phi ngựa tới trước đối mặt với yêu Tinh Chúa Tể xà Rồng. Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra thét lớn ngày tận số của ngươi đã đến, thế là một cuộc đấu phép xảy ra.

    Xà Rồng tay chỉ quân Nam

    Yêu phong nổi dậy quét tan núi rừng

    Quân Nam binh lính ngã nhào

    Khiếp hồn khiếp vía xiếc bao hãi hùng

    Quân yêu xông tới mịt mùng

    Giáo tuông Kiếm chém đùng đùng dậy non

    Thục Vương rút Kiếm chỉ lên

    Kim Quang sấm nổ, Đao phong Kiếm rền

    Đánh vào yêu quỷ xông lên

    Đánh vào binh lính, yêu tinh đánh vào

    Sấm tuông Kiếm quét ầm ầm

    Yêu Tinh đứt cổ rụng đầu nát tương

    Xà Rồng tức giận thét lên

    Rùng mình hóa phép giáo tuông Kiếm gầm

    Trùng trùng lao tới ầm ầm

    Phân thây xẻ thịt nát nhừ quân Nam

    Thục Vương truyền ý Kiếm Linh

    Mau mau diệt lũ yêu Tinh hung tàn

    Mau mau hóa phép Địa Đàng

    Lưới trời ập xuống diệt loài yêu Tinh

    Mau mau chận đứng Đao phong

    Mau mau sấm sét đánh tan quân thù

    Tức thời trời đất mịt mù

    Xông vào quét sạch nuốt hồn quân Nam

    Thục Vương nổi giận thét vang

    Kiếm Linh quét dọc quét ngang ầm ầm

    Kiếm quang cuồn cuộn rầm rầm

    Chém vào yêu Quỷ đùng đùng dậy non

    Kiếm Linh bỗng mạnh hơn lên

    Đất trời đảo lộn rung rinh đất trời

    Kiếm Linh theo ý của người

    Thần thông biến hóa Đất Trời ngửa nghiên

    Tam Thiên thế giới chẳng yên

    Chín tầng địa ngục rung rinh chín tầng

    Quỷ Thần hốt hoảng kinh hoàng

    Tưởng đâu Trời sập Địa Đàng còn chi

    Kiếm Quang sấm nổ liền khi

    Long Trời lở đất khiếp kinh hãi hùng

    Đánh vào yêu Quỷ trùng trùng

    Tan thay nát thịt chẳng còn một tên

    Xà Rồng khiếp vía hoảng kinh

    Triệu liền yêu Quỷ, yêu Tinh khắp cùng

    Ba mươi sáu loài yêu Tinh

    Trên non dưới biển, dưới sông đất liền

    Ôi thôi đủ rắn đủ chình

    Đủ loài hung dữ sấu kình thiếu chi

    Thuồng luồng xà, mập, khủng long

    Mỗi loài mỗi phép bủa vây mịt trời

    Kiếm Quang vụt lớn tức thời

    Ầm ầm sấm sét diệt loài yêu Tinh

    Thánh Thần nhìn thấy khiếp kinh

    Yêu Tinh bỏ mạng tan thây chẳng còn

    Xà Rồng sét đánh nát nhừ

    Triệu Năm tu luyện còn gì nữa đâu

    Bất ngờ Linh Kiếm ai thâu

    Thục Vương chết điếng xiếc bao hãi hùng

    Kiếm Linh biến mất chẳng còn

    Làm sao nầy hỡi biết mà làm sao.

    Đây nói về Điền Điền Lang tức tốc rút Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm ra, tức thời hào quang chơm chớp sấm sét ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ trời mịt đất đánh xuống quân yêu Hồ chết thôi là chết. Mụ Hồ Ly yêu tinh gào thét chống trả quyết liệt, mụ hóa hết phép nầy sang phép khác nhưng bị Kiếm linh phá hết, mụ càng đánh càng yếu thế, bỗng Kiếm Linh nổ lên một tiếng làm mụ Hồ Ly xây xẩm mặt mày, Kiếm Linh vụt lớn trên không trung tuôn mưa sấm mưa sét xuống đầu mụ Hồ Ly. Mụ Hồ Ly không sao tránh được tan hồn nát xác thành tro bụi.

    Hùng Cao Lang cũng như Điền Điền Lang và Tây Thục Vương cùng lúc ấy thấy yêu thù, quân thù chết sạch, thâu Kiếm nhỏ lại nhưng không làm sao thu được, sấm sét càng lúc càng khủng khiếp, Kiếm phong càng lúc càng kinh hoàng, bỗng thấy Kiếm Linh giảm uy lực vài chục lần trở lại lúc bình thường. Thời bỗng có một lực vô hình đoạt mất Bảo Kiếm làm cho hai người sửng sốt, than vắng thở dài: Ta biết phải làm sao đây?

    Nói về Hạ Thiên vũ trụ, nơi Ngọc Linh Cung có vị Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn. Trên cai quản 6 tầng Trời cõi Dục, dưới cai quản chốn nhân gian và cõi âm phủ, thấy Thiên Cung rung chuyển như sắp sụp đổ thời kinh hãi hỏi:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Liền cho đòi Thiên Nhãn Thánh vào hỏi:

    Đại Thánh xem thử chuyện gì đang xảy ra?

    Tức thời Đại Thánh dùng con mắt thứ ba nhìn xuống chốn trần gian, thấy cuộc chiến xảy ra khủng khiếp, quân Văn Lang đại chiến với các loài yêu Tinh.

    Ngọc Hoàng hỏi:

    Chuyện gì thế?

    Thiên Nhãn Đại Thánh tâu:

    Muôn tâu Ngọc Hoàng, quân Văn Lang chống quân xâm lược nhà Ân, các loài yêu Tinh, Ma Quỷ ra phò nhà Ân đánh quân Văn Lang, có lẽ quân Văn Lang chống cự không lại nên đã sử dụng đến Linh Kiếm Tiên Thiên Trấn Quốc, uy lực của Kiếm làm chấn động sáu tầng trời Cõi Dục, 36 cung Trời, 72 cung Động, cung Điện như muốn sụp đổ. Tứ Hải Long ở bốn cõi quả Địa Cầu, 18 tầng Địa Ngục ở cõi âm phủ chao đảo làm cho Quỷ Thần khiếp sợ.

    Ngọc Đế hỏi:

    Chúa Tể của các loài yêu Tinh ra đời hại nhà Thương ở phương Bắc, chuyển đến giai đoạn phong Thần, sao lại đưa quân xâm lược phương Nam.

    Thiên Nhãn Đại Thánh liền chuyển sang pháp Nhãn nhập định nhìn về quá khứ, liền hiểu rõ tất cả tâu rằng:

    Bẩm Ngọc Đế, Ân Trụ Vương có mối thù từ thời dựng nước Văn Lang. Có lẽ phương Nam truyền khẩu có phần sai lệch về Văn Hóa Cội Nguồn nên suy giảm về phước Đức, yêu Tinh mới dám lộng hành như vậy.

    Ngọc Đế nói:

    Mê Ngộ, phước Họa, siêu Đọa, Chiến Tranh hay Hòa Bình là do tâm linh Mê Ngộ tạo ra tất cả, hể đã gieo nhân thời phải hưởng quả, phước họa do mình triệu đến. Có lẽ đây cũng là ý Trời mượn Linh Kiếm diệt bớt những loài yêu Tinh, Ma Quỷ hung dữ, pháp thuật cao cường hiểm ác lợi hại cũng có nghĩa là diệt bớt đi vây cánh sức mạnh của Chúa Tinh. Để cho Triệt Giáo thua Xiển Giáo mở ra hội phong Thần sau ba mươi năm nữa ở tại phương Bắc. Nhà Chu lên thay thế nhà Ân.

    Có lẽ Ngọc Đế không muốn bàn sâu vào chuyện nầy nữa, lộ nhiều thiên cơ. Ngọc Đế nói:

    Các vị Tiên phạm luật Trời nặng thời cho đầu thai xuống trần, phạm nhẹ cho xuống trần để gánh vát tai nạn theo huyền cơ chuyển xây của Tạo Hóa. Vị nào tỉnh ngộ lỉnh hội chân tâm, làm chủ được mình thời ở ngôi vị cũ, nếu có công khai sáng ý Trời thời thăng cấp tùy theo công trạng, vị nào không làm chủ được tâm bị lôi cuốn vào hận thù yêu ghét tàn sát lẫn nhau thời vào ngôi phong Thần, lập công tu chí, tu trí, tu phước, tu Đức, sau ba nghìn năm nửa vào Hội phong Thánh, Long Hoa Đại Hội.

    Khi ấy nơi Trung Thiên Vũ Trụ, nơi tần Trời thứ 16 Cõi Thiên Vân có hai vị Lão Tổ Tổ đang hội đàm với Đức Chí Tôn. Bỗng Huyền Cơ Lão Tổ Tổ cáo từ Đức Chí Tôn biến mất trong không gian, nháy mắt đến nơi trận chiến, nhìn thấy yêu Tinh, Ma Quỷ chết thôi vô số vô biên tan thây nát thịt chung cùng số phận với quân Ân.

    Lúc bấy giờ Kiếm khí đang càn quét dữ dội mờ trời mịt đất, Ngũ Long, Ngũ Phụng do Hậu Thiên Bảo Kiếm tạo ra đang bay lượn thu hút thần lực vũ trụ, truyền đến Ngũ Linh Bảo Kiếm, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sấm sét ầm ầm rung chuyển đến tam thiên đại thiên thế giới, lợi hại quá lợi hại sức mạnh của chúng ở Hậu Thiên Bảo Kiếm. Không phải Hậu Thiên Linh Kiếm thôi đâu, mà còn có cả Địa Linh Thiên Kiếm nữa, thì ra Hồng Quân Lão Tổ Tổ cũng đến, hai Lão Tổ Tổ phất tay một cái tức thời Hậu Thiên Linh Kiếm cùng Địa Linh Thiên Kiếm về tay hai Lão Tổ Tổ.

    Khi ấy ở Hạ Tiên Vũ Trụ một luồng Ngũ Sắc bay lên, hai Lão Tổ Tổ nở nụ cười bí mật nói:

    Thông Thiên ngươi tới trễ rồi, trò mà muốn hơn thầy sao được.

    Hai Lão Tổ Tổ biến mất trong không gian vô tận.

    Đây nói về Thông Thiên giáo chủ ở Bích Du Cung thấy trời đất rung chuyển, biết là có báu lạ vũ trụ xuất hiện, liền ra khỏi Bích Du Cung chớp mắt đã đến chỗ giao chiến quân Ân và quân Văn Lang, thấy quân Ân cùng các loài yêu Tinh chết la chết liệt là do bốn Linh Kiếm tạo ra. Thông Thiên giáo chủ nghỉ: Tất cả là của ta.

    Liền phất tay một cái không ngờ thâu không được, Kiếm Linh tỏa linh khí càng thêm mờ mịt, sấm sét bùng lên dữ dội, những thân xác yêu Tinh bị sấm sét đánh ra tro bụi, Thông Thiên giáo chủ giật mình: Lợi hại quá. Bằng tàn hình ẩn vào không gian thò tay cướp lấy bốn thanh Linh Kiếm, cả Kiếm lẩn vỏ biến mất trong không gian.

    Vì thiếu mất Địa Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm nên Thông Thiên giáo chủ đặc lại tên mới. Tứ Linh Triệt Kiếm.

    1: Tru Tiên Kiếm.

    2: Lục Tiên Kiếm.

    3: Hãm Tiên Kiếm.

    4: Tuyệt Tiên Kiếm.

    Sau nầy Thông Thiên giáo chủ dùng bốn Linh Kiếm, mở trận tru Tiên hãm hại Xiển Giáo.

    * * *

    PHẦN 64

    Đây nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương dẩn 10 vạn quân theo sau tiếp viện, đại quân rời khỏi Nam Kinh Xích Quỷ hơn 200 dặm thời nghe sấm chớp ầm ầm, nghỉ là do Linh Kiếm tạo ra liền nghỉ ngay đến Hậu Thiên Linh Kiếm. Hùng Tiên Lang Quốc Vương bằng rút Hậu Thiên Linh Kiếm ra mục đích là xem thử, thời bất ngờ một tiếng nổ long trời lở đất xảy ra muôn Đạo hào quang tua tủa phóng lên không trung, hiện ra Ngũ Long, Ngũ Phụng, hào quang muôn màu muôn sắc sáng rực cả phương Nam, Ngũ Long, Ngũ Phụng bay lên lộn xuống, cuồng phong nổi dậy ầm ầm. Mười vạn quân Văn Lang hộ giá Vua Hùng nhìn thấy kỳ tích lạ đời ấy quỳ lạy không ngớt.

    Tiên Lang Quốc Vương sửng sốt, một chuyện lạ phải nói hàng vạn năm chưa thấy một lần, chừng thấy Thiên Long Địa Chấn ầm ầm Đất Trời muốn sụp, Hùng Vương kinh hoảng thâu Kiếm vào vỏ nhưng không được, trong khi ấy trời đất mỗi lúc mỗi thêm mù mịt, sấm sét càng lúc càng dữ dội. Bỗng như có một lực vô hình nào đó đoạt mất Hạ Thiên Linh Kiếm, Vua Hùng còn đang sửng sốt thời sấm chớp các nơi cũng không còn nữa.

    Vua Hùng tự hỏi:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Nhưng không ai trả lời được câu hỏi ấy, kể cả Cao Lạc Tể Vương, Quân Sư đương thời.

    Đây nói về mục tiêu 1, mục tiêu 2, mục tiêu 3. Quân Ân đóng đô trên đất Văn Lang đã bị quét sạch không còn một mạng sống sót. Chuyển sang giai đoạn hai là giai đoạn ba mũi giáp công đánh thẳng vào trung tâm đầu não, hốt trọn ổ quân xâm lược, làm thịt tay Hôn Quân vô Đạo Ân Trụ Vương. Cánh quân do Điền Điền Lang, Hùng Cao Vương chỉ huy, sau khi triệt phá tiêu diệt sạch quân Ân tại huyện Trùng Giang, thời đưa quân vượt qua sông Nam Trường Giang, tiến thẳng ra Bắc sông Trường Giang đánh thẳng vào trung tâm đầu não doanh trại. Ân Trụ Vương đang ở Giang Giang Châu khí thế hừng hực gươm, đao, giáo, mác quân reo ngựa hí dậy trời. Cánh quân thứ hai do Diệp Lang, Tây Thục Vương sau khi quét sạch quân Ân tại huyện Tây Bắc Triết Nam Giang, thời đưa quân vượt qua sông Nam Trường Giang đánh bọc xuống Giang Giang Châu, quân reo ngựa hí rầm rầm rộ rộ cát bụi mịt mù ai thấy cũng phải kinh hãi.

    Cánh quân thứ ba do Cao Lạc Hầu Vương, Cao Lạc Hải chỉ huy, sau khi quét sạch quân Ân tại huyện Nam Giao, thống lãnh đại quân vượt qua Nam sông Trường Giang đánh bọc lên Giang Giang Châu rầm rầm rộ rộ gươm Đao giáo mác sáng ngời ai thấy cũng kinh.

    Đã đến lúc quân Nam càng quét

    Thời Đất Trời gào thét chuyển rung

    Quân Nam rầm rập tiến quân

    Binh hùng tướng mạnh giáo gươm dậy trời.

    Ba mũi đại quân từ ba hướng Đông Tây Nam tấn công đồng loạt về Giang Giang Châu khí thế ngút Trời, khi gần đến Giang Giang Châu thời phát hiện quân Ân đã rút đi tự bao giờ, tuy biết thế nhưng ba cánh đại quân vẫn ồ ạt như cuồng phong vũ bão ào ào lao tới, thời y như thám báo đã báo, doanh trại đã dọn đi từ lúc nào, quân Ân đã đi khá xa không đánh mà thắng, thế là giai đoạn hai mục tiêu hoàn thành, giặc Ân sợ hãi bỏ chạy, quân ta toàn thắng, niềm vui lan tỏa khắp đất nước Văn Lang.

    Hoa Độc Lập Tự Do vẫn như ngày nào, mùi hương nồng ấm thơm ngát non sông, đàn cò trắng vẫn bay qua xốm làng lũy tre xanh thẳm, trận chiến kết thúc nhưng còn chờ quyết định của Vua Hùng, chuyển sang giai đoạn ba. Một là tấn công chinh phạt đất Bắc. Hai là rút quân cũng cố bảo vệ chủ quyền Độc Lập.

    Qua hai ngày sau thời đại quân bảo vệ Vua Hùng đến, quan binh tướng sĩ hai bên đường đón chầu. Hùng Vương an ngự xong, quan văn tướng võ, Lạc Hầu, Lạc Tướng, Lạc Vương, Hầu Vương đến cung thỉnh lạy tạ.

    Nét mặt Hùng Vương vô cùng rạng rỡ nói:

    Các khanh bình thân miễn lễ.

    Vua Hùng nói:

    Mộng xâm lược nhà Ân đã tan theo mây khói, chúng thất bại ê chề nhục nhã, những tên háo chiến xâm lược dẫm chân lên đất Văn Lang, tất cả đều bỏ mạng làm phân cho đất nước chúng ta. Sự nỗ lực chiến đấu của quân ta, chiến đấu anh dũng, chiến đấu mưu trí, đã đưa lũ ngoại xâm vào con đường cùng, con đường chết tội ác của chúng đã rõ, theo quan văn tướng võ thời chúng ta phải làm thế nào cho hả cơn giận, khi chúng chà đạp lên non sông đất nước chúng ta.

    Quan văn Tướng võ đồng thanh nói:

    Muôn tâu Quốc Vương, chúng ta đánh tới Kinh Đô của chúng, nhổ cỏ tận gốc quét sạch những tên xâm lược còn sót lại.

    Vua Hùng yên lặng suy nghĩ. Thời Quốc Sư Cao Lạc Tể Vương nói:

    Muôn tâu Quốc Vương có năm điều chúng ta không nên làm.

    1: Là chúng ta là con cháu Tiên Rồng, con cháu nhà Trời, không phải là quân xâm lược chỉ bảo vệ Chủ Quyền Độc Lập, bảo vệ lãnh thổ Ông Cha ta đã gầy dựng lên, theo ý của Đức Cha Trời. Nếu chúng ta đưa quân sang đất Bắc thời họ sẽ liều mạng chống trả lại ta, toàn dân kháng chiến chống ngoại xâm sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm là sức mạnh thiêng liêng cao quí của mỗi dân tộc. Chúng ta không phải là quân xâm lược mà là đội quân Chính Nghĩa, vũ khí của chúng ta là Công lý, Tự do bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ xâm lược chúng ta vì họ là những kẻ tàn bạo, ác độc, tà đạo. Còn ta là những người yêu nước, sống theo Chính Nghĩa, vì thế chúng ta không tấn công qua nước họ mà chỉ giữ vững Chủ Quyền Độc Lập Bảo Vệ lãnh thổ của ta mà thôi.

    2: Truyền thống của ta từ xưa tới nay là thứ truyền thống chống ngoại xâm, tất cả mọi người dân đều sống theo Hiến Pháp dựng nước và giữ nước. Mà chỉ có Hiến Pháp dựng nước và giữ nước mới là Tôn Chỉ Chí Tôn vô thượng. Vua quan nối nhau giữ gìn như gìn giữ sinh mạng của mình, có thể nói các thế hệ con cháu vua quan nối tiếp nhau, trung thành hiếu thuận, phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước, mỗi ngày mỗi thêm đâm chồi nẩy lộc đơm bông kết trái. Hiến Pháp dựng nước là Hiến Pháp bình đẳng, quyền Độc Lập, quyền Tự Do, quyền mưu cầu hạnh phúc, được phát huy và bảo vệ tối đa, truyền thống dựng nước chính là nền Hiến Pháp Quốc Đạo Dân Tộc.

    Có thể nói Quốc Đạo là quả tim Dân Tộc.

    Quốc Hội là trung tâm đầu não Dân Tộc, Quốc Đạo hay Quốc Hội, Tôn chỉ mục đích là thế Thiên hành Đạo, bảo vệ Chính Nghĩa, giữ gìn Chính Nghĩa, phát huy Chính Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo, trừng trị cái tội ngoại xâm của chúng, khi chúng đã dẩm chân lên đất nước chúng ta và chúng ta đã làm được điều nầy. Để khỏi sai phạm về Thiên Đạo, Thiên Luật thời chúng ta không nên xâm phạm Chủ Quyền Độc Lập của chúng. Xét cho cùng Ân Trụ Vương là kẻ háo chiến còn dân Bắc chỉ là nạn nhân chiến tranh mà thôi, chúng ta không thể vì một tên Vua Trụ háo chiến mà dẫn đến đầu rơi máu đổ thêm nữa, mang tiếng xâm lược chúng ta không phải là Quân Đội hiếu chiến mà chỉ là Quân Đội bảo vệ tự do hòa bình, Quân Đội chính nghĩa.

    3: Không có cuộc chiến nào là có lợi mà chỉ dẫn đến sự đổ nát, đau thương cha mất con, vợ mất chồng, hận thù chồng chất lên nhau, hao tổn tài nguyên non sông đất nước, con người cũng như vật chất. Cuối cùng cũng chỉ là con số không, xâm lược gây ra đau thương cho những đất nước láng giềng là Đại tội ác, chúng ta cần phải tiêu diệt chúng, quét sạch chúng không còn một tên, không phải trên đất nước họ mà là trên đất nước chúng ta.

    4: Cuộc chiến tranh tốc chiến tốc thắng kéo dài hơn ba tháng, chết chóc thương vong cũng nhiều, lúc nầy là lúc chúng ta hướng về đau thương mất mác, chia sẽ vượt qua khó khăn, động viên giúp đỡ những anh em đã ngã xuống vì quê hương Tổ Quốc vì Đồng Bào dân tộc, vì tự do an lành. Họ là những vì sao sáng, mãi mãi soi đường chúng ta đi. Chúng ta chỉ có một nền Quốc Học truyền thống dân tộc và mảnh đất Tiên Rồng chống ngoại xâm. Ngoại xâm đã khiếp sợ bỏ chạy, chúng ta không nên rượt theo truy sát tận ổ của chúng vì chúng ta phải đối mặt với toàn dân kháng chiến trên đất Bắc. Lại mùa Đông đã đến phương Bắc nhiệt độ xuống thấp, bảo tuyết mưa tuyết phủ đầy, không phù hợp cho quân ta ở lâu trên đất chúng, chiến tranh càng kéo dài chúng ta càng bất lợi.

    5: Là ý Đức Cha Trời không cho chúng ta đánh qua đất Bắc, bằng chứng là Trời đã thâu hết 6 Linh Kiếm Trấn Quốc về Trời, vũ khí lợi hại nhất của chúng ta.

    Nghe tới đây các quan văn tướng võ đều ồ lên. Điền Điền Lang, Hùng Cao Vương, Diệp Lang, Tây Thục Vương, Cao Lạc Vương đồng loạt bước ra quỳ trước Hùng Vương tâu rằng:

    Muôn tâu. Quốc Thần đáng tội chết đã làm mất Bảo Vật Trấn Quốc.

    Vua Hùng chỉ biết làm thinh rơi nước mắt, các quan văn võ thấy Vua Hùng rơi nước mắt đều vô cùng sợ hãi.

    Vua Hùng nói:

    Báu vật truyền đời gần hai nghìn năm, nay tới đời ta thời Trời thâu mất, ta đã làm gì nên tội.

    Vua Hùng nói xong nước mắt chảy ròng:

    Các khanh đứng dậy các khanh không có tội, mà là ta.

    Quan văn tướng võ thấy thế đồng thanh nói:

    Bệ Hạ, Bệ Hạ.

    Cao Lạc Tể Tướng tâu:

    Không phải Bệ Hạ có tội mà Huyền Cơ đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn phong Thần nơi đất Bắc.

    Vua Hùng nghe có lý liền ra lệnh cho quân rút lui về Nam Kinh Xích Quỷ.

    Đây nói về Ân Trụ Vương, kinh sợ khiếp đảm trước sự phản công của quân Văn Lang. Cùng 30 vạn quân bỏ chạy, âm thầm lặng lẽ vượt qua Bắc sông Trường Giang nhắm hướng Tây Ân, Lạc Dương tiến thẳng về Tây Dương, Triều Ca, lòng buồn rười rượi uy quyền tôn nghiêm không còn như xưa. 700 trấn chư hầu vốn coi Ân Trụ Vương bật Thánh nhưng nay xem vua Trụ chỉ là một tên háo chiến, đem sinh mạng quân tướng vào họng Rồng Cọp vì cuộc chiến tranh xâm lược đầy tốn kém ấy, dẫn đến đói rét dân chúng lầm than, lại thêm thời tiết khắc nghiệt bệnh dịch nổi lên cùng khắp, xâu thế mỗi tháng mỗi tăng, Vua Trụ càng ngày càng mất lòng tin nơi dân chúng.

    Đã vậy Vua Trụ càng ngày càng tàn ác, mê say tửu sắc, dâm loạn vô cùng, trở thành một hôn quân Vô Đạo, đi ngược lại Đạo Đức, nghe theo lời tà Ma ngoại Đạo, Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, trộm cướp khắp nơi nổi lên khắp mọi nơi, thế là cuộc đàn áp nổi lên khắp mọi nơi không còn luật lệ gì nữa những trung Thần phản ảnh can gián liền bị xử tử.

    Đã thế Ân Trụ Vương còn chọc giận đến các Thánh Linh và Nữ Oai Nương Nương là một trong những số Thánh Linh ấy. Yêu Tinh ra phò Ân Trụ Vương mỗi lúc một nhiều làm hại muôn dân, các trung Thần khuyên can không được bị Vua Trụ ép vào đường cùng đành phải làm phản. Tạo ra một thế lực lớn chống trả lại triều Ân Vua Trụ và thế lực chống trả đó đứng đầu là Tây Bá Hầu Chu Văn Vương. Thế là Thiện Ác đối đầu, Tà Chánh phân tranh.

    Vua Trụ có Triệt Giáo yêu Tinh ra giúp. Văn Vương có Xiển Giáo Tiên Thánh ra giúp, Huyền Cơ đã mở màn cho hội phong Thần ra đời, bổ nhiệm vào các vì sao xưa nay vẫn vô chủ.

    Đây nói về Nam Kinh Xích Quỷ cờ xí tung bay phất phới, bông hoa các nơi tựu về chật nghẹt rực rỡ đủ màu đủ sắc. Không phải chỉ Nam Kinh Xích Quỷ không thôi mà các Bộ, Châu, Huyện khắp cả nước đều thế nhất là Kinh Đô Văn Lang càng rực rỡ hơn nữa. Tuy rằng Hùng Vương còn ở tận phương Bắc, trên đường thắng trận hồi Kinh, dọc hai bên đường hàng trăm dặm, dân chúng phất cờ nhảy múa, ca ngợi chiến công oanh liệt, đánh bại quân thù xâm lược, bảo vệ chủ quyền Độc Lập, bảo vệ lãnh thổ nước Văn Lang, hô vang khẩu hiệu:

    Con Cháu Tiên Rồng anh hùng, anh hùng, anh hùng, Non Sông Tổ Quốc mãi mãi Độc Lập, Tự Do mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi, Vua Hùng vạn tuế muôn năm, vạn tuế muôn năm.

    Cao Lạc Tể Vương cùng một số quan văn tướng võ nòng cốt, bận rộn suốt ngày, bề bộn nhiều việc, có thể nói mệt nhừ, nhất là công việc tấu trình, phong quan tiến chức, khen thưởng, đây là một việc làm hết sức khó khăn, cân nhắc, công minh trước khi dâng lên Vua Hùng.

    Hôm nay là một ngày đẹp đẽ, có lẽ Đất, Trời cũng muốn chia vui cùng con cháu Tiên Rồng, một ngày dịu mát, những đàn chim hôm nay cũng dậy sớm hơn mọi khi, nhảy nhót trên những nóc phố lùm cây, đường phố, ríu ra ríu rít vui nhộn, cơn gió nhẹ làm khoan khoái cả lòng người, ánh nắng hồng rực rỡ tràng về hôn nhẹ lên quê hương non sông Tổ Quốc, làm cho cây cỏ hoa màu ấm áp sanh sôi nảy nở đâm chồi nẩy lộc xanh tốt, chuyển mình đơm hoa kết trái.

    Trên Lễ Đài. Vua Hùng nét mặt rạng rỡ, toát lên vẻ anh minh hiền từ như người cha đối với các con, ngồi dưới trước bức tượng Kinh Dương Vương Bồng Quốc Tổ. Nhìn thấy bức tượng các quan văn tướng võ như nhớ lại, hồi tưởng cách đây gần hai nghìn năm, tình phụ tử cha con mà Kinh Dương đã dành hết cho Quốc Tổ Vua Hùng vì Quốc Tổ Thiên Tài vĩ đại.

    Thấy bá quan văn võ đủ mặt, quân, dân trùng trùng điệp điệp. Vua Hùng đứng dậy hướng mặt nhìn về bức tượng Kinh Dương bồng em bé, Quốc Tổ Vua Hùng hồi còn nhỏ lễ lạy. Các quan văn tướng võ, ba quân tướng sĩ, Đồng Bào đồng lạy theo. Những phút mặc niệm, nhớ đến Quốc Tổ Vua Hùng:

    Một vị Quốc Tổ lớn lên trong tình thương Cha, Mẹ, tình thương non sông Tổ Quốc nước Xích Quỷ. Quốc Tổ lớn lên thông minh khác thường, Tự Tu, Tự Chứng tiếp nhận ý Cha Trời mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, Cội Nguồn của toàn nhân loại Vũ Trụ, thống nhất bá tánh muôn dân trăm họ từ trên Non, Đồng Bằng, Hải Đảo.

    Quốc Tổ thống lãnh bá tánh muôn dân, Đồng Bào trăm họ, mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, đặt chân đến Địa Long Vũ Trụ, mở ra thời đại mới, thời đại Văn Minh, Đồng, Thau, Sắt, Thép. Văn Minh hội họa, nghệ thuật điêu khắc, vẽ hình, họa cảnh. Mở rộng nền nông nghiệp Văn Minh lúa nước, Văn Minh Đạo Giáo vượt xa nền phong kiến Thần giáo, phong kiến Quân Chủ, phong kiến Địa Chủ, phong kiến chiếm hữu nô lệ.

    Tiến đến lấy dân làm gốc, lấy luật làm thầy, lấy nền Hiến Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo làm Vua, lấy cán cân công lý là lẽ sống cho xã hội, bình đẳng Vua, quan, tướng, dân, hể có công thời khen thưởng, có tội đều được nghiêm trị, Vua, quan, dân, tướng như nhau. Quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, Hiến Pháp ban hành, luật phát bảo vệ triệt để.

    Thời đại Văn Minh tinh thần lẫn vật chất, thời đại lấy Chính Nghĩa, Đạo Đức uốn nén dân, lấy luật trị dân. Bạo lực, độc quyền không dùng đến, chỉ theo Hiến Pháp luật pháp, thượng viện Quốc Đạo, hạ viên Quốc Luật mà thôi, trước sau như một. Phải nói Quốc Tổ là vị vua anh minh, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp triệt để, vượt xa các bật vua chúa ở vào thời đại đó. Quốc Tổ Vua Hùng về Trời để lại hai di sản.

    Một là: Tổ Quốc Non Sông.

    Hai là: Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc.

    Và từ đó đến nay bao thế hệ con cháu nối nhau gìn giữ phát triển không ngừng, nghỉ đến công lao dựng nước, khai đạo đứng đầu là Hùng Tiên Lang Quốc Vương, đời thứ 26 thượng Hạ Hùng Vương, đời thứ ba Hạ Hùng Vương, quỳ trước bức tượng chân dung hai vị Quốc Tổ Kinh Dương Vương và Hùng Vương, thành tâm lễ bái, Trung Hiếu triệt để, tuân theo lời dạy của Quốc Tổ, giữ yên bờ cõi cho tận mai sau, cuộc hành lễ tưởng nhớ công ơn người dựng nước xong, quan văn tướng võ an vị chỗ ngồi.

    * * *
     
  3. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 65

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bài diễn văn khai mạc, lễ phong sắc, phong hàm phong vị, khen thưởng có công chống ngoại xâm, giọng sang sảng vang xa trầm ấm:

    Hỡi ba quân tướng sĩ, hỡi Đồng Bào trăm họ, từ khi Quốc Tổ dựng nước Văn Lang tới nay đã gần hai nghìn năm, truyền thống dựng nước, giữ nước luôn luôn được giữ vững phát huy tiếp nối. Các thế lực ngoại xâm luôn luôn dòm ngó, chúng đã bao phen xâm lược nhưng đều thất bại, thất bại khiếp đảm, thất bại kinh hoàng.

    Chúng thất bại phần lớn là do tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần chịu khó đã đưa Quân Đội ta, dân tộc ta hết thắng lợi nầy sang thắng lợi khác, hết chiến công nọ đến chiến công kia, trở thành dân tộc Thần Thánh, nở hoa anh hùng, kẻ thù nào cũng đánh thắng, thế lực nào cũng bị đánh bại. Sống trên mảnh đất Tiên Rồng, mỗi lần có ngoại xâm là mỗi lần làm cho giặt thấy sức mạnh, tinh thần yêu nước, sức mạnh quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, triệu triệu người như một, chung lưng đấu cật, chung tay chung vai gánh vác khó khăn, trong đó có các vị Thần, có cả Hồn Thiên dân tộc bao đời hiện về giúp cho thế hệ con cháu chúng ta quét sạch ngoại xâm.

    Vua Hùng nói tới đây. Thời trên không trung Hồn Thiêng dân tộc hiện ra trùng trùng điệp điệp, bảy vị Thần hiện ra nói:

    Chúng Thần đến trễ xin Quốc Vương thứ tội.

    Vua Hùng nói:

    Miễn lễ.

    Rồi mời bảy vị Thần vào ngôi vị danh dự. Vua Hùng lại tiếp tục bài diễn văn. Vua Hùng nói:

    Theo Hiến Pháp Văn Lang có tài có đức, ra phò Chính Nghĩa trừ tà diệt ác, có công bảo vệ nền Quốc Đạo, có công với Non Sông Tổ Quốc đều được phong hàm, phong vị, khen thưởng tùy theo công trạng của mỗi người mà Phong Hầu, Phong Vương, Phương Thần, Phong Thánh. Cao Lạc Tể Vương tiếp chỉ. Có Thần.

    Tiếp chỉ xong Cao Lạc Tể Vương đọc rằng:

    Phụng Thiên thừa vận. Chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang.

    Sắc phong Hồn Thiêng Dân Tộc, có công bảo vệ Chánh Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo yêu Tinh, cứu bá tánh trăm họ thoát khỏi cảnh lầm than. Sắc phong: Từ Hồn Dân phong lên Hồn Thần, từ Hồn Thần phong lên Trung Thần, từ Trung Thần phong lên Đại Thần, từ Đại Thần phong lên Thánh, từ Thánh phong lên Đại Thánh, từ Đại Thánh phong lên Nữ Thánh Mẫu, Nam Thánh Tổ. Hồn Thiêng Dân Tộc nghe nhận sắc chỉ sắc phong xong vái tạ Vua Hùng rồi biến mất.

    Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc:

    Sắc phong các vị Thần trấn thủ khắp nơi, có công bảo vệ Chính Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo yêu Tinh, cứu bá tánh trăm họ thoát khỏi lầm than.

    1: Sắc phong: Vệ Linh Thần Núi nay phong lên là Vệ Linh Quang Thánh.

    2: Sắc phong: Tiên Sơn Thần Núi nay phong lên là Tiên Sơn Dũng Thánh.

    3: Sắc phong: Liên Sơn Thần Núi nay phong lên là Liên Sơn Hùng Thánh.

    4: Sắc phong: Động Hồ Thần Chủ nay phong lên là Động Hồ Công Thánh.

    5: Sắc phong: Giang Công Thần Chủ nay phong lên là Giang Công Đức Thánh.

    6: Sắc phong: Hùng Phong Thần Núi nay phong lên là Hùng Phong Trung Thánh.

    7: Sắc phong: Hải Nam Thần Biển nay phong lên là Hải Nam Đế Thánh.

    Bảy vị Thần nhận lỉnh sắc phong xong vái tạ Vua Hùng biến mất.

    Nhìn ba quân tướng sĩ, dân chúng trùng trùng điệp điệp, Vua Hùng nổi lên một tấm lòng yêu thương vô hạn. Nghĩ đến cảnh toàn quân, toàn dân kháng chiến, kháng chiến anh dũng, kháng chiến quên mình vì nước, tất cả đều có công, nào phải riêng ai, thời tất cả đều được khen thưởng phong hàm phong vị.

    Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc bản sắc phong toàn Quân, toàn Dân:

    Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Văn Lang Hiến Pháp, muôn dân trăm họ có công, góp công, góp của, góp sức, đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ, giữ vững chủ quyền Độc Lập nước nhà.

    Sắc phong: Từ dân thường nay phong lên "Thần" Thần Dân trăm họ. Miễn thuế cho những Châu, Quận, Huyện bị giặc tàn phá, nặng mười năm, nhẹ năm năm, còn các Châu, Quận, Huyện khác thời giảm thuế một năm. Những gia đình có con, có cha, có chồng, có anh, có chị, có em hi sinh vì Tổ Quốc cũng như thương tật, người thờ phụng, chăm sóc được cấp cho ruộng làm ăn, miễn thuế.

    Dưới lễ đài, dân chúng mừng vui khôn tả hô vang khẩu hiệu:

    Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm, Con Cháu Tiên Rồng anh hùng, anh hùng, anh hùng. Hùng Vương vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm.

    Âm thanh lan truyền nối nhau vang dội khắp non sông Tổ Quốc, mây ngũ sắc đầy Trời, Đức thơm vạn cõi.

    Sắc phong: Ba quân tướng sĩ, từ Quân Dân phong lên Quân Thần, từ Cấp Tướng phong lên Thần Tướng, từ Tướng Soái phong lên Trung Thần. Từ Chủ Soái, Thống Soái, phong lên Đại Thần. Đại Thần, Hầu Tướng, Lạc Tướng bổ nhiệm về các Châu Phủ. Trung Thần, Tướng Soái, Bố Thánh Đại Nhân bổ nhiệm về các Châu nhỏ, Quận, Huyện lớn đông dân. Thần Tướng, Quan Lạc Điền, Lạc Dân gọi là Hữu Chính, Quan Hữu Chính bổ nhiệm về các Quận, Huyện, còn các phó tướng bổ nhiệm vào cấp xả tiếp tục lo cho dân, lo cho nước.

    Sắc phong ba quân tướng sĩ vừa dứt, tiếng reo mừng ba quân tướng sĩ làm chấn động đến Thần Linh, đến cõi Trời ở gần Hạ Giới, làm cho các Thần Tiên cũng vui lây. Tiếng hô vang Hùng Vương vạn tuế vạn vạn tuế không ngớt. Lệnh phất cờ tất cả đều im lặng.

    Cao Lạc Vương tiếp tục đọc bản sắc phong kế tiếp:

    Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang, có Tài có Đức ra phò Vua giúp nước, lập nhiều công trạng đều được phong hàm, phong vị, phong quan, phong tước, phong hầu, phong Vương, phong Thần, phong Thánh.

    Sắc phong: Hùng Cao Vương, Cao Lạc Vương, Tây Thục Vương tiếp chỉ. Ba vị Vương Gia nghe tên liền đứng dậy tiến ra lễ đài, nghe nhận sắc phong chiếu chỉ. Sắc phong ba vị Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên ba vị Đức Thánh.

    1 - Tây Thục Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên là Tây Vương Đức Thánh.

    2 - Hùng Cao Vương Đại Đại Thần nay phong lên là Bắc Vương Đức Thánh.

    3 - Cao Lạc Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên là Đông Vương Đức Thánh.

    Bỗng lộc khen thưởng: Ba xe vàng, ba xe bạc, mười xe gấm, trích ra một phần ba, khen thưởng cho các Bộ, Vương phủ, Châu phủ có công gián tiếp chống ngoại xâm. Ba vị Vương Gia nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ, lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

    Kế đến sắc phong chín người con của Tây Thục Vương, tức thời mười hai người con cả dâu tiến ra lễ đài để nhận sắc phong, cha chết thời con thế.

    Sắc phong: Từ Đại Thần Lạc Tướng, Hầu Tướng nay phong lên Đại Đại Thần, Hầu Vương, Lạc Vương từ Châu phủ lên Vương phủ, bỗng lộc tăng gấp đôi, ruộng đất cũng tăng gấp đôi, từ 50 mẫu tăng lên 100 mẫu, vàng nghìn lượng, bạc nghìn nén, gấm 100 cây cho mỗi Hầu Vương, Lạc Vương.

    Sắc phong: Ba vị phu nhân tuy là phận nữ nhi nhưng không kém gì nam nhân hảo hán, hiếm thấy gan dạ đối mặt với quân thù. Sắc phong ba vị phu nhân thành ba vị phu nhân anh hùng Kiên Trung Đại Nương, vàng nghìn lượng, gấm trăm cây.

    Mười hai vị con cháu Tây Thục Vương nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi. Và cứ thế lần lượt Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc chiếu chỉ sắc phong.

    Sắc phong: Trung Đại Nhân, Cao Lạc Hổ, An Lạc Điền, Cao Lạc Hải, Ngô Thời Nhuận. Sắc phong năm vị Quan phủ lên Vương phủ, Thượng Quan Hầu Vương, Lạc Vương Đại Đại Thần, bỗng lộc khen thưởng, ruộng đất 100 mẫu, vàng nghìn lượng, bạc nghìn nén, gấm trăm cây cho mỗi Hầu Vương Gia, Lạc Vương Gia, năm vị Vương Gia nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

    Sắc phong: 1 An Lạc Sơn, 2 Nguyễn Sinh Kỳ, 3 Trần Nhân Luân, 4 Nguyên Chấn Lạc, 5 Cao Hùng Phi, 6 Huỳnh Trung Hải, 7 Đinh Hùng Quân, 8 Mai Đức Thọ, 9 Huỳnh Trung Phong, 10 Cao Đình Luân, 11 Văn Quang, 12 Lô Gô, 13 Bùi Xuân Mẹo, 14 Trung Hoài Nghĩa, 15 Mường Thái, 16 Đinh Hoàng, 17 Tùng Quang, 18 Phan Anh Tuấn, 19 Nguyên Gia Thành, 20 Hoàng Độ, 21 Hoàng Cao, 22 Đại Lực, 23 Thần Quân, 24 Ngô Gia Đông, 25 Ngô Thạch Hãn, 26 Mai Xuân Lành, 27 Thi Đại An, 28 Lê Công Minh, 29 Lê Đại Đại, 30 Thạch Lam, 31 Vũ Hà. Còn các vị phó tướng lên tới cả trăm vị, 31 vị tướng lĩnh kể trên sống thời bổ nhiệm làm quan phủ, bổ nhiệm về các Châu phủ, chết thời nhận lảnh bỗng lộc khen thưởng, phong quan tiến chức theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sĩ. Bỗng lộc khen thưởng cấp quan phủ 31 vị trên sống cũng như chết, ruộng đất 50 mẫu, vàng trăm lượng, bạc trăm nén, vải gấm 50 cây cho mỗi vị. Một trăm vị phó tướng sống thời bổ nhiệm làm quan Bố Chánh, làm quan Hữu Chính, bổ nhiệm về các Quận, Huyện theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sĩ chết thời nhận bổng lộc, phong quan tiến chức theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sỉ bổng lộc khen thưởng cấp Quận, Huyện, Quan Bố Thánh, Quan Hữu Chính, vàng ròng 50 lượng, bạc 50 nén, gấm vóc 10 cây, ruộng đất 20 mẫu. 131 vị quan cấp Châu phủ, cấp Quận Huyện nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

    Sắc phong: Tám vị nhi nữ anh hùng: 1 Ngọc Thiên Hương, 2 An Lạc Tiên, 3 Hạ Tiên, 4 Ngọc Linh Châu, 5 Nê Diêng, 6 Khơ Nia, 7 Chăm Pha, 8 Ba Na sắc phong sống cũng như chết, Đệ Nhất nhi nữ anh hùng, Kiên Trung hào kiệt, bổng lộc khen thưởng, vàng nghìn lượng, gấm trăm cây, những vị chết, cha mẹ, anh, em thay thế nhận lãnh.

    Sự xuất hiện trên lễ đài ba vị tuyệt thế quốc sắc giai nhân như ba vị Tiên Nữ giáng trần, ba quân tướng sĩ không ngớt lời trằm trồ khen ngợi.

    Hùng Vương, Điền Điền Lang nhìn Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên gục đầu khen ngợi mãi, hình như rất vừa ý, nói với Diệp Lang:

    Cháu khéo lựa lắm.

    Còn Cao Lạc Vương Gia tức là Đông Vương Thánh nhìn Hạ Tiên không ngớt trằm trồ khen ngợi:

    Cao Lạc Đệ khéo lựa ở đâu ra cô vợ tương lai tài sắc vẹn toàn như thế.

    Những cử chỉ biểu hiện của Vua Hùng ông nội, cũng như Điền Điền lang cha của Diệp Lang, nhìn Thiên Hương, Lạc Tiên gật đầu khen ngợi mãi. Đều không qua được mắt của hai vị Vương Gia An Lạc Điền và Trung Đại Nhân, hai vị Vương Gia cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Năm vị Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng nhận lãnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

    Khi ấy sương mù bỗng nổi lên mù mịt không chịu tan, ai nấy đều lấy làm lạ, không hiểu là chuyện gì.

    Vua Hùng hỏi:

    Chuyện gì thế?

    Cao Lạc Tể Vương thưa:

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ đây là lỗi của Thần.

    Vua Hùng lấy làm lạ:

    Sao là lỗi của Quốc Sư được.

    Cao Lạc Tể Vương thưa:

    Vì Thần đã viết bản tấu sớ thiếu.

    Vua Hùng hỏi:

    Thiếu những ai?

    Cao Lạc Tể Vương tâu:

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ.

    1: Là ghi thiếu Hồn Quân Binh tử sĩ.

    2: Là ghi thiếu phủ Thánh Tư Mã Đại Nhân.

    Bố Thánh Hầu Bưu, Bố Thánh Đại Nhân Bố Cừ Bố Khôi, Bố Thánh Dĩ An ba cha con đều chết sạch.

    Hùng Vương cho người mang bút mực viết chiếu chỉ phong cấp, phong sắc cho Hồn Thiên tử sĩ cùng những vị sót thiếu, phong xong mà Hồn Thiêng tử sỉ chẳng chịu tan.

    Hùng Vương kinh ngạc:

    Còn chuyện gì nữa?

    Cao Lạc Tể Vương thưa:

    Trên lễ đài Quỷ hắc bạch vô thường khâm sai, từ cõi âm phủ dẫn cha con Hữu Tài đến cho Quốc Vương bệ hạ phán xử vì thế Hồn Thiêng ba quân tướng sĩ nán lại để xem.

    Vua Hùng nghe kể về tội ác chất chồng, phân thây xẻ thịt muôn lần cũng chưa hết tội, lợi dụng chức quyền hại dân hại nước, vơ vét của dân, của công, tội ấy dư chết, huống chi bắt đàn bà con gái về làm hầu thiếp, kẻ tố giác hay chống lại đều bị con ngươi bắt nhốt, quăng vào ngục rắn cho rắn ăn thịt, tội ác như non như núi, chưa hết cha con ngươi nối giáo cho giặc, bán nước cầu vinh phản bội lại Non Sông Tổ Quốc, phản bội lại nòi giống Tiên Rồng, đi ngược lại lời dạy Quốc Tổ, phạm luật Trời ắt khó dung tha.

    Vua Hùng phán:

    Chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang thời cha con ngươi đọa vào địa ngục làm súc sanh, Trâu, Bò, Ngựa trả quả cho những người mà cha con ngươi làm hại, hết kiếp Ngựa Trâu, sanh ra làm người thời mù điếc câm tàn tật tay chân, trị cái tội lừa dối Chính Nghĩa, đi ngược lại Cội Nguồn, lời dạy của Đức Cha Trời, hủy bán Hiến Pháp vũ trụ. Mãn kiếp tật nguyền sanh lại làm người thời ngu si nghèo đói ăn xin, để cho Thiên Hạ khinh khi, chửi rủa, trị cái tội hiếp đáp dân lành, xem thường Đạo Đức.

    Vua Hùng phán xử cha con Hữu Tài xong thời sương mù tan biến, Trời Đất trong suốt trở lại. Vậy mới biết sống cũng như chết, đều sống chung một quy luật Thiên Đạo như nhau mà Thiên Đạo Cội Nguồn chính là Hiến Pháp Quốc Đạo nước Văn Lang.

    * * *

    PHẦN 66

    Diễn văn bế mạc, giọng Vua Hùng sang sảng vang ra trầm ấm:

    Hỡi ba quân tướng sĩ, hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta có chung một nguồn gốc đó là Tổ Tiên Khai Hóa, hiện thân ra Đức Cha Trời, Mẹ Trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ông bà tối cao chúng ta sinh ra từ một bọc, bào bọc anh em, năm màu da rực rỡ, 50 Nam, 50 Nữ, mỗi người lấy một họ ngày xưa, trăm họ còn ngày nay thời muôn họ.

    Chúng ta hôm nay lại chung một truyền thống Tiên Rồng, chung một Quốc Tổ, chung non chung nước vì phát xuất nhiều cái chung ấy nên con cháu Tiên Rồng ta mang đậm dấu ấn đoàn kết, hàng nghìn hàng triệu năm ăn sâu vào tâm hồn mỗi con cháu chúng ta. Không những chúng ta có chung một Cội Nguồn truyền thống lâu đời mà còn có chung dòng Chính Nghĩa chống ngoại xâm, giữ vững chủ quyền Độc Lập, Độc Lập tự do là báu vật vô giá, không có một báu vật nào có thể đánh đổi được một báu vật mà ông cha ta phải trả giá bằng xương máu, sức lực trí huệ, mồ hôi và nước mắt, gần hai nghìn năm qua, bao thế hệ nối tiếp nhau gìn giữ nhau cho đến ngày hôm nay.

    Với mưu đồ xâm lược từ lâu và lần nầy chúng đã xâm lược với quy mô lớn chưa từng thấy trong chiến tranh xâm lược của chúng, có thể nói ta một, chúng ba nhưng chúng có ngờ đâu Dân Tộc ta sinh ra và lớn lên trên tinh thần Quốc Đạo, gươm trí huệ được tôi luyện mài dũa trong nền Quốc Giáo.

    Quốc Tổ, Quốc Giỗ, Quốc Lễ, Quốc Giáo, Quốc Đạo là năm tần Bảo tháp rực thắm hoa sen, từ nơi đây tinh thần đoàn kết triệu người như một. Một sức mạnh dời non lấp biển. Bằng chứng là quân xâm lược dù mạnh hơn ta, đông hơn ta. Nhưng chúng đã bị chúng ta hạ gục đánh bại. Chỉ cần chúng đặt chân lên đất chúng ta là chúng không còn mạng sống trở về. Mỗi lần có ngoại xâm là mỗi lần dân kháng chiến. Thêm mỗi lần nở hoa anh hùng, Trung Hiếu chóa ngời.

    Ngày hôm nay chúng ta có thể ăn ngon ngủ yên, chồng cày vợ cấy, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, quê hương Tổ Quốc ngày càng phồn thịnh. Cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, xa nhau rồi để gặp nhau, tình yêu thương vì thế mà càng thêm lớn, chia tay không phải là chia ly vĩnh viễn, chúng ta sẽ gặp gỡ lại nhau qua trôi đổi buôn bán làm ăn trong những ngày hội văn hóa, ngày hội thể dục, thể thao, án mây đen đã qua, bầu trời rực sáng, mùa xuân non sông Tổ Quốc lại trở về. Trăm dân tộc anh em nở hoa đoàn kết nở hoa chung tình. Dòng máu Lạc Hồng bừng lên ánh hào quang rực rỡ trên mảnh đất yêu thương nở hoa Độc Lập. Lễ phong sắc, phong hàm, phong vị đến đây là bế mạc. Chúng ta từ đâu đến thời về chỗ đó, bắt tay vào nhiệm vụ mới, hành trình mới, xây dựng mái ấm gia đình, xây dựng Quê hương Tổ Quốc.

    Nghe bài diễn văn bế mạc, ba quân tướng sĩ cũng như Thần Dân 100 họ nỗi lên một tấm lòng yêu kính trọng đối với các vị Vua Hùng như mặt trời nối tiếp nhau, tỏa sáng đem lại sự ấm áp trong cuộc sống, trong lòng người.

    Hùng Cao Vương thống lãnh ba quân tướng sĩ, đưa tiễn ba Đại Quân về Nam hơn 30 dặm. Đại Quân Thủ Đô Nam Kinh Văn Lang, Đại Quân Trung Đông Văn Lang, Đại Quân Tây Trung Văn Lang. Nhìn An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương người ta nổi lên bao điều cảm xúc không diễn tả được, có thể nói cành Liễu thướt tha, miên man chờ đợi gió xuân đưa hồn vào giấc mộng bể trần, trăm năm hạnh phúc.

    An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương ríu ra ríu rít đi sát hai bên Diệp Lang như không muốn rời xa. Hùng Vương, Điền Điền Lang, Trung Đại Nhân, An Lạc Điền như nhớ lại hồi còn trẻ, một thời rực thắm tình yêu. Nào phải An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương, Diệp Lang không thôi mà còn những cặp tình nhân nẩy sinh từ cùng cam, cọng khổ, giữa cái sống và cái chết trong gang tấc đối mặt với quân thù, tình yêu đồng đội trở thành tình yêu đôi lứa và giờ đây không sao rứt ra được nữa, sợi dây tình yêu vô hình thắt chặt gắng bó họ thêm.

    Kìa tôi nói có sai đâu, Hạ Tiên lúc nào cũng đi sát bên Cao Lạc Hải như cặp uyên ương chẳng muốn rời nhau. Lạ hơn nữa, hai dân tộc khác nhau nay gắn bó với nhau, phải chăng tình yêu là một thứ tình thiêng liêng, nhịp cầu nối liền các dân tộc lại với nhau, xóa bỏ lần quan niệm phân biệt chủng tộc, tiến tới một xã hội chân thiện hoàn mỹ, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc.

    Tôi nói có sai đâu xem kìa, Tùng Quan tướng quân cùng Khơ Nia tướng quân liếc mắt đưa tình vô cùng mùi mẫn, họ giống như gió cùng mây chẳng muốn rời nhau. Đinh Hoàng tướng quân cùng Nê Diêng tướng quân cũng thế, như hai cục Nam Châm cuốn hút lấy nhau, tình yêu là thế ư, chỉ họ mới là người hiểu, 30 dặm tiễn đưa sắp hết sự quyến luyến càng thêm khắn khít.

    Người về Nam tận xa xôi

    Chia ly sợi nhớ bồi hồi xót xa

    Hẹn ngày gặp lại chung vui

    Như Chim liền cánh bay đi về Nguồn

    Phương trời em mãi nhớ thương

    Tình chàng nghĩa thiếp vấn vương chung tình

    Phòng Khuê chờ đợi hồi tin

    Hoa xuân chờ đợi Chúa xuân ấm nồng

    Ba mươi dặm tiễn đầy lòng

    Nhớ thương, thương nhớ ngập tràng tim em.

    Nhìn Đại Quân xa dần xa dần rồi mất hút về Nam. Ngọc Hương con, Lạc Tiên con thì ra đó là tiếng gọi của hai vị Đại Nhân, à phải gọi hai vị Đại Vương mới đúng. Nghe tiếng gọi hai người con gái nhìn lại chỉ còn cha và anh, còn Đại Quân chỉ là lớp bụi mờ trở lại Nam Kinh Xích Quỷ. Hai vị Đại Vương bắt tay nhau như bắt một lời là bảo vệ tình anh em cho đến ngày nhắm mắt, thế là cuộc chia tay sau cùng, ba cha con An Lạc Điền, ba cha con Trung Đại Nhân, kẻ nhắm hướng Tây Giang Châu, người nhắm hướng Kinh Giao Châu trên ba xe chở đầy vàng bạc, gấm lụa vượt qua bao địa phận vẫn an toàn, không kẻ nào dám vuốt râu hùm vuốt Phụng. Hai vị Vương Gia về đến địa phận Tây Giang Châu, Kinh Giao Châu thời dân chúng đứng chật hai bên đường 12 – 20 dặm.

    Đoàn quân đi về phía Nam hơn nghìn dặm, thời Đại Quân Cao Lạc Vương Gia tách đi về hướng Đông, đi được vài trăm dặm nữa thời Đại Quân Tây Thục Vương tách về hướng Tây, còn lại hơn 40 vạn quân cùng Hùng Tiên Lang Quốc Vương tiếp tục trên đường về Nam, đi tới đâu thời dân chúng hai bên đường hò reo ca ngợi tới đó, thấy dân hết lòng thành kính ngưỡng mộ, đốt trầm hương, dân hoa nhảy múa ca hát mừng Đại Quân chiến thắng trở về.

    Thấy dân yêu mến hạnh phúc ôi

    Ba quân tướng sĩ hát vang trời

    Chiến công oanh liệt rền vang khắp

    Thắng giặc trở về rạng Chúa, Tôi.

    Đại quân về tới Long Biên thời chiêng trống dậy trời, đờn ca sáo thổi, Bộ, Châu, Quận, Huyện, quan tướng, dân chúng chặt ngật hai bên đường hò reo ca ngợi nhảy múa. Đáng lý Đại Quân đi ngược lên Phong Châu về Kinh Đô Văn Lang. Mà tiến thẳng vào Nam, có người nói khổ cho ba quân tướng sĩ quá, hết bình định phương Bắc giờ tới dẹp loạn phương Nam. Nghĩa lý gì quân phiến loạn phương Nam chỉ năm mười vạn, giặc Ân trên dưới 200 vạn quân còn bị hạ gục tơi bời, chiến nầy quân phiến loạn không còn con đường sống.

    Đây nói về Nam Văn Lang có Ba Bộ.

    1: Hoài Nam.

    2: Cửu Đức.

    3: Nhật Nam gồm có những Châu lớn như sau:

    1 Linh Hải, 2 Xương Châu, 3 Thanh Châu, 4 Hà Châu, 5 Tôn Châu, 6 Vĩnh Châu, 7 Hồ Nam Châu, 8 Hải Đông Châu, 9 Bình Châu, 10 Tây ai Châu, 11 Tam Điệp Châu, 12 Thanh Hải Châu, 13 Hòa Tây Châu, 14 Hồng Lĩnh Châu, 15 Kỳ Hải Châu, 16 Quảng Hà Châu, 17 Tuyên Hóa Châu, 18 Tri Châu, 19 Nam Châu, còn một số Châu nhỏ, tức là Quận, Huyện lớn đông dân khác nữa.

    Đại Quân càng đi sâu vào Nam Văn Lang càng thấy dân thưa thớt, hầu như đã có xảy ra chuyện gì.

    Vua Hùng cho người hỏi, thời mới biết phần bị giết, phần bỏ đi theo Chiêm Quân sâu vào Nam. Chiêm Chiêm Vương đã bị Chiêm Quân giết đoạt hết binh quyền, nghe đâu dẫn quân tiến xâu vào Nam rồi.

    Vua Hùng bây giờ mới vỡ lẽ, vì sao Chiêm Chiêm Vương không tham chiến chống ngoại xâm, càng đi sâu dân lại càng thưa thớt hơn nữa, thậm chí các Châu, Quận, Huyện không có, thấy xác người rải rác khắp nơi.

    Vua Hùng thở dài nói:

    Không ngờ con cháu Tiên Rồng lại tàn sát lẫn nhau như thế. Chiêm Quân tội ác như non như núi, phản Quốc hại dân, giết anh họ đoạt ngôi vị, tội ác khó tha.

    Theo tin mật báo ta đã nhận được, cách đây gần hai tháng nhưng vì đang lúc dầu sôi lửa bỏng cuộc chiến xảy ra quyết liệt một còn một mất đối với giặc Ân. Vua Hùng lệnh cho ba quân tướng sĩ hơn 40 vạn quân đi tới đâu chôn cất dân tử tế đến đó.

    Đây nói về Chiêm Chiêm Vương, trấn thủ Nam Văn Lang, đóng đô ở Bình Châu, không có giấy da triệu tập của Vua Hùng Tiên Lang, sanh lòng buồn bực nghỉ: Sao lạ thế? Từ xưa tới nay, những cuộc họp quan trọng đều có Chiêm Chiêm Vương ta, nay nước nhà giặc Ân xâm lấn, ta đang nóng lòng chờ Vua Hùng triệu tập bàn kế sách chống ngoại xâm, chờ hoài sao không thấy Vua Hùng gọi. Nghe nói các vương gia ở Tây, ở Đông cùng Vua Hùng thân chinh chống giặc. Còn ta là Nam Hầu Chiêm Chiêm Vương một trong bốn trụ cột nước Văn Lang lại không được tham dự chống ngoại xâm là có ý gì? Chống ngoại xâm nào phải của riêng ai, toàn dân toàn quân kháng chiến khi đất nước có ngoại xâm. Vua Hùng xem thường ta quá, lẽ nào Nam Văn Lang lại thua kém Tây Văn Lang, Đông Văn Lang, Bắc Văn Lang.

    Bằng họp các Bộ, các Châu, Quận, Huyện lại. Nam Chiêm Chiêm Vương nói:

    Từ khi Quốc Tổ Vua Hùng dựng nước Văn Lang tới nay đã gần hai nghìn năm, bao đời các Bộ Tộc Chiêm ta có nhiệm vụ khai hoang mở rộng vào Nam, khi nào Con Cháu Tiên Rồng làm chủ Địa Long vũ trụ, thời Quốc Tổ trở lại trần gian phong Thánh cho các Bộ Tộc Chiêm ta, vì thế các bộ Tộc Chiêm ta hết lòng vì Non vì Nước. Nam Văn Lang, Tây Văn Lang nói chung theo Hiến Pháp Văn Lang. Các Châu, Quận, Huyện khai hoang mới thành lập thời miễn thuế 20 năm. 30 năm, 40 năm, tiến lần về Nam làm chủ lần Địa Long theo ý của Đức Cha Trời, Lạc Long Quân. Các Bộ Tộc Thượng anh em cũng thế, theo Đại Ngàn tiến lần vào Nam, con đường du canh du cư. Nay có giặc ngoại xâm, sao lại bỏ quên chúng ta, hay là cho chúng ta là người ngoài, hay có ý gì đây lành hay dữ sao ta lo quá.

    Các quan tướng Bộ, Châu, Quận, Huyện nằm sâu Nam Văn Lang nghe qua tình hình có người lấy làm hoang mang, có người lo sợ, có người tức giận, tình hình rối ben không hiểu chuyện gì sắp xảy ra.

    Bỗng có quân vào báo:

    Bẩm Chiêm Chiêm Vương Gia có người cần gặp.

    Chiêm Chiêm Vương nói:

    Cho người ấy vào. Tuân lịnh.

    Không bao lâu người ấy được đưa vào ra mắt Chiêm Vương. Chiêm Vương hỏi:

    Ngươi ở đâu gặp ta có chuyện gì?

    Người ấy thưa:

    Hạ dân quê ở Hồng Châu, huyện Hồng Hải, xả Ninh Quan, lúc vào rừng đi săn gặp một người bị thương rất nặng, hỏi ra mới biết người ấy bị cọp vồ, cuối cùng người ấy cũng hạ được con cọp to lớn, người ấy nói với tôi được bấy nhiêu thời bất tỉnh không biết gì nữa, hơn mười ngày hạ dân thuốc than chạy chữa, người ấy cũng không khỏi, cuối cùng người ấy đã ra đi, trước khi đem chôn người xấu số hạ dân phát hiện ra có một bức mật thư nhưng hạ dân ngu dốt không biết đọc nên không hiểu bức mật thư nói gì, sau khi chôn cất xong hạ dân mới tìm người đọc dùm mới hay người xấu số ấy là khâm sai của triều đình. Đem mật thư đến cho vương gia.

    Người ấy nói xong liền dân mật thư lên cho vương gia, Chiêm Chiêm Vương Gia nhận lấy mật thư rồi đọc, nội dung thơ như sau: Chiêm Vương Gia nhận được thơ nầy, thời cấp tốc về Kinh Đô Văn Lang để hộp, bàn những vấn đề cần thiết chống ngoại xâm.

    Chiêm Chiêm Vương đọc xong mật thơ thời kinh hãi, linh cảm như có điều chẳng lành sắp xảy ra, nghỉ: Không lẽ đây là ý Trời.

    Chiêm Chiêm Vương không dám nghỉ sâu thêm nữa, Chiêm Chiêm Vương liền triệu tập quân lực các Châu, Quận, Huyện do Hồ Chiêm Quân lãnh đạo đứng đầu, chuẩn bị xong lực lượng thời lên đường tiến về Bắc chung tay tiêu diệt giặc Ân. Vương phủ Bình Châu khi ấy có hơn hai vạn quân từ các Châu, Huyện, Quận tụ về chờ đợi các cánh quân khác tới do Hồ Chiêm Quân lãnh đạo.

    Bỗng nghe quân reo ngựa hí dậy trời dậy đất, vương phủ Bình Châu bị tấn công: Quân nào thế? Không ai ngờ được Hồ Chiêm Quân làm phản, thống lĩnh 10 vạn quân lật đổ Chiêm Chiêm Vương. Tai hại hơn 1 vạn quân trong thành làm nội ứng nên cuộc nội chiến tàn sát 10 vạn quân ùa vào, hơn 1 vạn quân chống trả sao lại, chỉ trong chốc lát đều bị giết sạch.

    Chiêm Chiêm Vương thét lớn:

    Thằng phản phúc, Trời sẽ diệt mày, Vua Hùng sẽ băm thịt mày, nòi giống Tiên Rồng sẽ lột da mày.

    Thét xong Chiêm Chiêm Vương phi ngựa tới định giết chết Hồ Chiêm Quân nhưng than ôi. Hồ Chiêm Quân ra lệnh bắn. Tức thời hàng trăm mũi tên bắn xối xả vào người Chiêm Chiêm Vương, thế là Chiêm Chiêm Vương về chầu Trời.

    Cuộc tàn sát nội chiến xảy ra đẩm máu tàn sát chưa từng có trong các Bộ Tộc Chiêm, giết chết Chiêm Chiêm Vương, Hồ Chiêm Quân nắm quyền sanh sát trong tay, ai theo thời sống ai chống thời chết, xưng Đế xưng Vương biệt lập. Hồ Chiêm Quân lợi dụng Văn Hóa Cội Nguồn không truyền xuống dân nên dân không hiểu gì cả. Có lẽ vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá lạc hậu, hơn nữa chữ viết còn quá đơn sơ khó mà diễn tả được ý của Đạo nên ai muốn giản sao thì giản, phần lớn truyền khẩu cho nhau tam sao thất bổn.

    Hồ Chiêm Quân giết anh họ của mình chiếm đoạt ngôi vị, tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, anh em chém giết lẫn nhau mà Hồ Chiêm Quân cho sự chém giết ấy là Chính Nghĩa và đó là lời dạy của các Đấng Thần Linh, nghe theo làm theo thời sống, chống lại Thần Linh thời chết, có lẽ lúc ấy trình độ dân chúng còn quá lạc hậu lại thêm bao trùm bởi bùa phép bá đạo, mê tín dị đoan.

    Hồ Chiêm Quân sau khi giết anh họ của mình dẩn 10 vạn quân buộc dân chúng đi theo tiến sâu vào đất lĩnh Nam hàng nghìn dặm, mang theo nền Văn Minh lúa nước, nói chung là Ngũ Cốc được dân chúng mang theo sâu vào Nam. Không những nền Văn Minh lúa nước mà cả nền văn minh sắt thép, đồng, thau, chạm trổ hội họa, chăn tằm dệt cửi, gốm sứ dựng lên nền Văn Minh Chăm. Trong đó có nền Văn Minh gốm sứ Sa Huỳnh.

    Hồ Chiêm Quân xưng Đế xưng Vương biệt lập, không theo lệnh của Vua Hùng nữa. Cũng từ đây Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, nền Quốc Đạo Dân Tộc. Hồ Chiêm Quân không cho nhắc tới nữa, tất cả đều bỏ lại sau lưng dần dần, phai mờ quên lãng.

    Phải chăng quên mất Đạo Trời

    Họa tuông máu đổ đầu rơi khắp cùng

    Quên đi lời dạy Vua Hùng

    Anh em tàn sát họ hàng máu tuông

    Nồi da nấu thịt sớm hôm

    Từ đây Bộ Lạc Chiêm Vương khổ sầu

    Chia đàn rẽ nghé tan bầu

    Lê dân khốn khổ biết đâu Cội Nguồn

    Đồng Bào chung một con đường

    Đại Đồng bình đẳng náo nương về Trời

    Thánh Thần Tiên Phật đây rồi

    Do tâm mê ngộ, tạo thời mà nên

    Ác thời thành Quỷ thành Tinh

    Thiện thời thành Phật, thành Tiên, Thánh Thần

    Hồ Chiêm lạc lối đã đành

    Kéo theo vô số dân lành khổ sa

    Từ đây binh lửa can qua

    Đầu rơi máu đổ tai bay họa cùng

    Khi nào lời dạy Vua Hùng

    Tái sanh trần thế Tiên Rồng nở hoa

    Văn Lang sống dậy lời ca

    Thái bình Độc Lập nở hoa thái bình

    Chiêm Vương trở lại hồi sinh

    Hồ Chiêm phải chịu cực hình trước dân

    Trước muôn vạn ức Thánh Thần

    Trị trừng cái tội ngông cuồng nay xưa.

    Đây nói về Tiền Thân kiếp trước của Hồ Chiêm Quân và Chiêm Chiêm Vương. Một hôm Chiêm Chiêm Vương phu nhân đang say ngủ, bỗng thấy một con Chồn có cánh bảy đuôi đấu với con chim Hồng Lạc to lớn, giông bão ầm ầm mờ trời mịt đất, đấu phép dữ dội, cuối cùng bị con chim Hồng Lạc giết chết, bà nghe con Chồn có cánh gào thét trước khi chết: Trả thù, ta phải trả thù. Con Chồn có cánh bảy đuôi chết không bao lâu thời con chim Hồng Lạc cũng chết luôn vì bị thương quá nặng. Chiêm Chiêm phu nhân giựt mình tỉnh giấc, không bao lâu thời bà mang thai.

    Khi ấy không xa, vợ người em họ chồng bà cũng mang thai, bà thường thấy con Chồn có cánh bảy đuôi, khi hạ sinh ra bé trai kháu khỉnh thời nghe hơi Chồn nồng nặc, cha bé trai khi ấy là Thống Quân nên đặt tên cho bé trai là Hồ Chiêm Quân. Hồ Chiêm Quân lớn lên thông minh khác thường, mưu mẹo hiểm độc hết chỗ chê, thường theo học tài điều khiển quân binh của Cha, Ông lấy làm vừa lòng, thường khoe với mọi người Hồ Chiêm Quân còn tài hơn ông nữa, không hiểu vì sao ông lại đột ngột chết sớm.

    Chiêm Hầu Vương phong Thống Quân cho Hồ Chiêm Quân thay cho cha nó. Hồ Chiêm Quân nhận chức Thống Quân, siêng năng luyện tập binh sĩ hơn cả cha. Chiêm Hầu Vương rất vừa lòng giao hết binh quyền cho y.

    Đây nói về Chiêm Chiêm phu nhân hạ sanh một bé trai kháu khỉnh, đặt tên Chiêm Chiêm Linh. Chiêm Chiêm Linh lớn lên thông minh khác thường, nhưng có cái tật là nóng nảy nên ít được lòng người. Điều nầy đã làm cho Chiêm Hầu Vương lo lắng, tuy học hành chăm chỉ nhưng lại thiếu chín chắn, lại có tánh hay khinh người nên không phát hiện ra Hồ Chiêm Quân có dã tâm tạo phản từ lâu, thực hiện mưu đồ khôn khéo, nếu không tinh ý quyết đoán thời khó mà phát hiện được.

    Chiêm Hầu Vương sau một cơn bịnh nặng qua đời. Vua Hùng đời thứ 25, tức là đời thứ hai Hậu Hùng Vương, Hùng Yên Lang, Huân Lang sắc phong cho người con lớn là Chiêm Chiêm Linh lên thay thế, trở thành Chiêm Chiêm Vương, Chiêm Chiêm Vương tin tưởng Hồ Chiêm Quân hơn nữa, nên không theo dõi kiểm soát hành động, mỗi ngày mỗi lộ rõ dã tâm của Hồ Chiêm Quân, chỉ cần có cơ hội là hạ gục Chiêm Chiêm Vương tóm thâu quyền lực, thực hiện mưu đồ ngay. Và việc đó xảy ra, chỉ có Chiêm Chiêm Vương cùng một số quan chức thuộc hạ thân cận là không hay biết gì, cho đó là bất ngờ. Còn phần lớn quan chức là họ đã hiểu nhưng không dám nói vì sợ rước họa vào thân. Hồ Chiêm Quân diệt Chiêm Chiêm Vương là do mối thù truyền kiếp, diệt xong Chiêm Chiêm Vương đoạt lấy quyền lực, thống lãnh quân binh, buộc dân chúng theo mình tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, Địa Long Vũ Trụ xây dựng Quốc Vương mới, luôn luôn lo sợ Vua Hùng, mới lên ngôi không lâu, Hùng Tiên Lang, Điển Lang đem quân tiêu diệt quét sạch.

    * * *
     
  4. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 67

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về hơn 40 vạn quân Văn Lang rầm rầm rộ rộ tiến sâu vào Nam Văn Lang, thấy xác người rải rác khắp nơi, cái cảnh giống như vườn không nhà trống, nếu không còn những người dân thưa thớt. Cũng may những người dân sống sót ở lại kể rõ đầu đuôi sự việc.

    Các quan tướng Văn Lang vô cùng tức giận nói:

    Hãy tiến quân truy sát bọn chúng.

    Cao Lạc Tể Vương nói:

    Lãnh Nam núi rừng điệp điệp, biết Hồ Chiêm Quân ở chỗ nào mà bắt, hơn nữa bá tánh muôn dân cũng như ba quân tướng sĩ đều là vô tội, mà kẻ có tội chính là Hồ Chiêm Quân mà thôi, xét cho cùng tất cả đều là con cháu Tiên Rồng, nếu có ý chống lại nhà nước Văn Lang sát hại đồng bào lần nữa thời đưa quân quét sạch cũng không muộn. Điều trước mắt là khôi phục lại các Châu, Quận, Huyện, bổ nhiệm các quan tướng nơi đây.

    Vua Hùng sau khi rút quân về Kinh Đô Văn Lang để lại 10 vạn quân trấn giữ Nam Văn Lang, đóng quân tại Bình Châu Nam Hồ. Đại Quân trở về Long Biên rồi lên Phong Châu tiến về Kinh Đô Văn Lang. (Trong các triều đại Vua Hùng, Kinh Đô Văn Lang được xây mới dời chỗ nhiều lần ở Phong Châu và lân cận Phong Châu, tùy theo nền kinh tế phát triển).

    Kinh Đô Văn Lang thời Hậu Hùng Vương là Kinh Đô mới, khi đại quân tiến về Kinh Đô thời các Châu, Phủ, Quận, Huyện dân chúng ở hai bên đường đông nghịt kéo dài hơn trăm dặm, ca ngợi chiến công oanh liệt.

    Hô vang khẩu hiệu:

    Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm. Vua Hùng vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm. Con cháu Tiên Rồng bách chiến bách thắng, bách chiến bách thắng. Mùa xuân non sông Tổ Quốc lại nở hoa đoàn kết, nở hoa anh hùng, nở hoa Trung Hiếu, kiên cường bất khuất.

    Tiếng hò reo nhảy múa dậy nước dậy non.

    Thơ rằng:

    Kìa xuân nước xuân non ửng hồng xuất hiện

    Tiếng hò reo lên tận chốn trời xanh

    Rền Chiêng Trống rền ca hát ngợi khen

    Ôi người thân ôi bạn bè hòa quyện

    Tình dân cao ôi tràn đầy hứa hẹn

    Đất Trời xuân đưa cuộc sống lên cao.

    Một năm sau:

    Én về én dệt mùa xuân

    Còn ta, ta dệt yêu thương cùng chàng

    Một năm dạ héo lệ mòn

    Sao Chàng biền biệt để nàng tương tư.

    Tiểu thơ, tiểu thơ đến rồi, đến rồi. Gì đến thế hở Xuân Mai. Tiểu thơ biết rồi mà còn hỏi. Nở nụ cười tươi.

    Ngọc Thiên Hương hỏi Xuân Mai:

    Ta thế nầy coi được không?

    Xuân Mai nói:

    Ở đây ai cũng nói Tiểu Thơ là Cung Chủ thiên giới xuống trần, đẹp hơn quí phái hơn Tiên Nữ giáng trần nữa là khác.

    Thiên Hương nói:

    Ngươi khéo ăn nói quá.

    Ngọc Thiên Hương tuy đã biết trước mọi việc nhưng lòng vẫn có gì đó rất khó nói.

    Tiểu Thơ Diệp Lang Vương Tử có đến không?

    Ngọc Thiên Hương nói:

    Không đến.

    Sao thế? Xuân Mai hỏi.

    Thiên Hương giải thích:

    Vì chàng là Đích Tôn Vương Tử, Vua Hùng đời thứ 27, không phải lần nầy chỉ một mình ta đâu mà còn có cả An Lạc Tiên nữa.

    Xuân Mai như chợt hiểu:

    Vua mà mấy vợ mà không được.

    Thiên Hương quở khéo:

    Thôi đừng nghĩ bậy nữa.

    Đây nói về Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Trung Ngọc Thiên Hương đưa tiễn Vua Hùng về Nam một đoạn đường. Thời tức tốc về Châu phủ Kinh Giao Châu. Mẹ Ngọc Thiên Hương nhìn thấy Thiên Hương ôm khóc oài:

    Con thời trở về còn chị con Ngọc Linh Châu thời ra đi vĩnh viễn.

    Tình mẫu tử là thứ tình thiêng liêng cao cả, tình mẹ thương con vô bờ bến, hi sinh tất cả vì con. (Nên trong Văn Hóa Cội Nguồn Đức Cha Trời dạy, trong muôn ngàn thứ tội, bất hiếu với Cha Mẹ là thứ tội đứng đầu trong các tội, ngược lại có hiếu với Cha Mẹ là thứ Đức đứng đầu trong các Đức).

    Ngọc Thiên Hương chưa xuất giá, ngày nào cũng chăm sóc cho Mẹ, ai cũng khen Thiên Hương là người con hiếu thảo. Bà Trung Đại Phu Nhân có phúc quá, còn Trung Đại Nhân thời suốt ngày bận rộn say sưa sửa sang đổi mới, từ quan phủ lên vương phủ. Còn Trung Hoài Nghĩa phụ giúp cùng cha cũng bề bộn suốt ngày, cho người đem hài cốt Ngọc Linh Châu về Kinh Giao Châu an tán gần nơi Vương phủ, để cả nhà tới lui thăm viếng. Vương phủ xây xong mà không thấy tin từ Kinh Đô Văn Lang đến, ông bà Trung Đại Nhân lo lắng vô cùng, nhất là Ngọc Thiên Hương mở cửa nhìn về phía Nam mãi.

    Và một hôm có quan khâm sai đến báo tin:

    Vài hôm nữa kiệu rước dâu sẽ đến, vương gia chuẩn bị thì vừa.

    Vị khâm sai thông báo xong, lời qua tiếng lại xong tuần trà thời quan khâm sai cáo từ Trung Vương Gia Đại Nhân, nhắm hướng Tây Giang ra đi. Hai cha con Trung Đại Nhân nhìn vị khâm sai mất hút về hướng Tây. Trung Hoài Nghĩa nổi lên bao cảm xúc: Có lẽ An Lạc Điền nóng ruột chờ đợi tin nầy.

    Đây nói về An Lạc Điền, An Lạc Sơn, An Lạc Tiên trở về thành Tây Giang Châu suốt ngày bận rộn sửa sang quan phủ lên vương phủ. Nhất là An Lạc Tiên chờ ngày trông đêm nhưng chờ hoài không thấy tin tức gì từ Kinh Đô Văn Lang cả, lòng hồi hộp không yên, bằng cho người đến Kinh Giao dọ tin thời cũng nhận được tin tức từ Kinh Đô Văn Lang. Lạc Tiên biết được tin nầy hơi yên tâm.

    Duyên tình chớm nở từ lâu

    Cớ sao mình lại u sầu thế ni

    Vần mây buồn nhớ biến đi

    Gió ơi hỡi gió lặng đi mây buồn

    Cành Mai chờ đợi mùa xuân

    Còn em chờ đợi tin chàng ở xa

    Mai chờ xuân đến nở hoa

    Em chờ Kiệu đến tình ta mặn nồng.

    Nói về hai vương phủ, được tin Vua Hùng ban chỉ giao hôn, Diệp Lang cùng Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên nên duyên chồng vợ, nhận được tin nầy, hai vị Vương phủ vô cùng mừng rỡ, viết thiệp mời bạn bè các Vương phủ Châu phủ đến chia vui.

    Ngày lành rước dâu đã đến, hai Vương phủ đàn gái đông nghịt, kẻ ra người vào chúc tụng liên miên, giờ lành đã đến, hai phủ Vương gia tuy cách xa gần 300 dặm nhưng cuộc rước dâu xảy ra cùng một lúc.

    Có người vào thông báo cho hai vị vương gia:

    Vương gia, vương gia, kiệu rước xe hoa đã đến.

    Hai bên đường dân chúng đông nghịt trằm trồ không ngớt, xe rước dâu đẹp quá, sang quá, Chạm Phụng, Trổ Rồng, quân binh hộ tống, có lẽ đây là đội ngự lâm quân mới oai phong như vậy, gươm, đao, giáo, mác chỉnh tề, rước dâu theo kiểu nhà Vương có khác, thành Tây Giang Châu cũng như vương phủ Trung Đại Nhân, đèn hoa rực rỡ, quân binh Vương phủ tiếp đón xe hoa hơn 2 – 3 dặm. Đàn ca kèn sáo du dương, ai nghe thấy như đang lạc vào cảnh giới Thiên Đàng. Ôi vàng bạc, châu báu, sính lễ cả xe, trầu cau rượu nếp, đãi cả làng không thiếu.

    Quan khâm sai Đại Thần truyền lệnh:

    Vương phủ họ đàn gái tiếp chỉ. Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. Ngọc Thiên Hương con vương phủ Đại Đại Thần, sánh vai cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang. Ngọc Thiên Hương út nữ con Đại Đại Thần vương phủ Trung Đại Nhân sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

    Cả nhà Trung Đại Nhân lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

    Còn nói về Tây Giang Đại Nhân, An Lạc Tiên nào có khác chi. Kiệu hoa xe hoa vào phủ thời huyên náo cả lên, kẻ lo khuân rượu, bưng trầu bưng cau vào nhà, người lo khuân vàng, vác ngọc, khiêng gấm, đồ sánh lễ nhiều vô kể. Còn phải tiếp chỉ.

    Quan khâm sai Đại Thần đọc:

    Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. An Lạc Tiên út nữ con Đại Đại Thần vương phủ An Lạc Điền sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

    Cả nhà An Lạc Điền lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, liền mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

    Có lẽ Tây Giang Châu xa hơn Kinh Giao Châu, xuất phát sớm mới theo kịp đoàn xe hoa Kinh Giao Châu. Gia đình An Lạc Điền đưa An Lạc Tiên lên xe hoa, đưa tiễn một đoạn đường rồi trở về phủ, tiếp tục tiếp đãi các quan khách gần xa. An Lạc Sơn thay mặt cha mẹ đưa em tới tận Kinh Đô Văn Lang.

    Còn bên vương phủ Trung Đại Nhân ở Kinh Giao Châu, thời khâm sai Đại Nhân không lấy gì làm vội vã tiếp tục khoan thai ăn uống, cho đến ngày hôm sau mới lên đường về Nam. Cả gia đình họ tộc Trung Đại Nhân đưa tiễn Ngọc Thiên Hương một đoạn khá xa, chờ cho đoàn xe hoa mất hút cả nhà mới trở về Vương phủ.

    Nói về Cao Lạc Hải là cháu bốn đời, Hùng Văn Lang Quốc Vương 24, Thượng Hạ Hùng Vương đời thứ nhất, Hạ Hùng Vương lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế thay cho bác ruột là Hùng Dịch Lang cuối dòng trưởng đời thứ 23.1276 đến 1211 trước công nguyên thọ 132 tuổi đại thọ. 58 tuổi lên ngôi Quốc Vương, 65 năm ở ngôi Quốc Vương, 10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Nên được Vua Hùng ban cho sắc chỉ phúc Hôn.

    Đây nói về ông bà Hạ Phúc Thịnh, quê ở Dạ Loan Châu, ba đời tu nhân, tích Đức, nỗi tiếng hiền lành khắp nơi, Quỷ Thần thường theo phù hộ ông bà, tiếng lành bay đến tai Diêu Trì Hoàng Mẫu, Hoàng Mẫu bằng gọi Lôi Tiên đến nói. Ta thấy con duyên trần chưa dứt, tất cả đều do cơ vận ý Trời xoay chuyển. Nước Văn Lang sắp bị yêu quái làm hại, con mau đầu thai xuống thế, hạ sanh vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, đã ba đời tu nhân tích Đức, Hồng Phúc sâu dày, lớn lên theo Quang Âm Thánh Mẫu học Đạo tu Tiên, giúp quân Văn Lang triệt phá yêu Tinh, lập công nơi Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Vũ Trụ, tăng thêm uy lực về sau.

    Ở cung Tiên Vương Mẫu có bốn vị Tiên Cô, Phong, Vân, Lôi, Vũ. Lôi Tiên được lệnh Vương Mẫu đầu thai xuống trần, liền về Cung Lôi Âm, xuất hồn hóa một Đạo hào quang bay xuống hạ giới đầu thai vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, lớn lên theo học Đạo tu Tiên với Quang Âm Thánh Mẫu, gia nhập quân Văn Lang, làm tới chức phó thống soái, thống lãnh ba quân tướng sĩ cùng với Cao Lạc Hải thống soái, đánh bại quân Ân chiến đấu với yêu Tinh, Bạch Cốt Ma Tổ, Bạch Cốt Ma Bà. Được Vua Hùng phong là Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng kiên trung hào kiệt.

    Ông bà Hạ Phúc Thịnh vừa gặp Hạ Tiên trở về, vui chưa được bao lâu thời Hạ Tiên lại lên đường đánh giặc. Ông bà Hạ Phúc Thịnh lòng buồn nao nao, nhưng cảnh nước nhà đang bị ngoại xâm đánh phá, dân chúng cơ cực lầm than, ông bà Hạ Phúc Thịnh đành phải gạt nước mắt, chia tay với người con yêu dấu độc nhất mới trở về.

    Tin thắng trận giòn giã dồn dập vọng về, ông bà Hạ Phúc Thịnh cảm thấy sung sướng tự hào, ông bà cảm ơn Trời Đất ban cho ông bà một Hạ Tiên vừa hiếu thảo, vừa xinh đẹp, nhất là về tài năng làm rạng danh dòng họ. Từ khi Hạ Tiên thống lãnh ba quân tướng sĩ đi đánh giặc, thời cả làng ai nấy cũng tự hào về làng mình. Nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh hồi nào cũng có kẻ ra người vào, kẻ tới người lui liên miên không dứt, ca ngợi không hết lời.

    Thôn Dạ Quang hôm nay vui như ngày hội, đèn hoa rực rỡ, nhất là nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, người đông nhưng ai nấy cũng bận rộn, nét mặt đầy vẻ hân hoan tràn đầy sức sống. Ông bà Hạ Phúc Thịnh trong bộ đồ sang trọng, đi tới đi lui tiếp đón niềm nở.

    Có người nói:

    Sao chưa thấy xe hoa, kiệu hoa đến.

    Có người nói:

    Tới phải có giờ có khắc chứ.

    Có người nói:

    Chị thấy Cao Lạc Tướng Quân chưa? Tôi thì thấy rồi, đẹp trai oai phong lẫm lẫm, nghe đâu lên cấp Vương Gia rồi.

    Người kia nói:

    Không phải Vương Gia thôi đâu mà là Đại Vương Gia.

    Người bé con hơn nói:

    Vậy là Hạ Tiên làng ta trở thành Vương Đại Nương Vương Gia rồi.

    Người cao hơn nói:

    Đó là lẽ hiển nhiên rồi, còn phải nói.

    Có người hỏi:

    Đông Hải Châu, Bộ Lạc Hải giàu lắm phải không?

    Bà chị kế bên nói:

    Đúng rồi Bộ Lạc Hải có tới 7 – 8 Châu, Dạ Loan Châu chúng ta cũng nằm trong Bộ Lạc Hải. Nghe nói Cao Lạc Hải là con cháu của Cao Lạc Hầu Tể Vương, hoàng thân quốc thích với Vua Hùng, quyền uy giàu sang hết nói. Ông bà Hạ Phúc Thịnh có phước quá.

    Người kia nói:

    Chúng ta bì sao được. Ba đời nhà Phúc Thịnh làm phước làm Đức, đổ của đổ công giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người không nơi nương tựa, tu tạo nơi thờ phụng các vị Thần Tiên nhất là hết lòng thờ Trời, không dám làm điều sai quấy. Nỗi tiếng nhân Đức khắp vùng đó sao, nếu chúng ta muốn có cái phúc lớn thời phải tu luyện như gia đình của bà, có gieo thời có gặt, có nhân thời có quả, gieo giống nào trổ ra giống nấy.

    Nghe qua lời nói nầy ai cũng nghĩ là đúng như vậy. Kìa đoàn xe hoa đã đến, tiếng kèn sáo văng vẳng vọng lại. Đến rồi đẹp quá, sang quá, một đoàn xe hoa rực rỡ. Đi trước kiệu hoa là một trang anh tuấn, nét mặt rạng rỡ như buổi bình minh, ai thế. Còn ai nữa đó chính là Cao Lạc Hải thống soái tướng quân.

    Hôm nay Cao Lạc Hải không bận theo sắc phục theo kiểu Quân Đội mà ăn mặt theo kiểu chú rể lại càng làm thêm vẻ khôi ngô tuấn tú. Cao Lạc Hải cỡi con ngựa ô thật đẹp, dẫn đầu đoàn xe hoa. Quân binh tùy tùng đến nhà ông bà Phúc Thịnh rước dâu. Đoàn xe hoa tiến vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh trước sự hâm mộ của làng xốm, nức lòng trầm trồ khen ngợi. Nhìn đồ lễ cưới. Nào là vàng bạc Châu Báu, gấm vóc lụa là. Rượu ngon cả xe, Trầu Cau cả gánh. Đãi cả làng cũng không hết. Đúng là ngày vui cả làng, mặt sức mà thưởng thức. Rượu ngon, cao lương mỹ vị. Cái vui của ngày hội mừng cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Và cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc. Hạ Tiên trong y phục Cô Dâu lộng lẫy. Chẳng khác nào Tiên Nữ giáng trần. Lạy tạ từ giã ông bà Phúc Thịnh bước lên xe Hoa. Đoàn xe xa dần rồi mất hút đưa Hạ Tiên Về Đông Hải Châu. Sống hạnh phúc.

    Năm năm sau. Nơi Dinh Thự Vương Phủ Đông Hải Châu. Tiếng vui đùa của trẻ con. Hình như là một trai một gái. Nơi vườn cây cảnh chạy tung tăng đùa hoa, đuổi bướm.

    Bỗng nghe tiếng ông bà Phúc Thịnh gọi:

    Phúc Tấn, Phúc Duyên coi chừng chạy gấp té.

    Phúc Tấn, Phúc Duyên nghe ông bà Ngoại gọi. Liền chạy tới đứa vuốt râu, đứa thoát vào lòng bà Ngoại. Vậy mới biết cái quả hưởng phúc hôm nay không phải tự nhiên mà có. Mà đã có cái giá dày công tu nhân tích Đức, không chỉ một đời mà thậm chí nhiều đời. Gieo giống nào trổ ra giống ấy.

    Đây nói về đoàn rước dâu về tới Kinh Đô Văn Lang hơn ba ngày mới tới. Hai đoàn xe Hoa nối đuôi nhau vào thành. Dân hai bên đường đông nghẹt. Đội kỵ quân 10 mét một người. Đứng hai bên đường, kéo dài 30 dặm, không cho dân chúng tới gần đoàn xe Hoa rước dâu, chỉ đứng ở xa mà nhìn. Không nói chúng ta cũng hiểu. Buổi lễ kết hôn long trọng đến mức độ nào. Nơi Vương Phủ nguy nga tráng lệ thuộc hàng bật nhất trong các Vương Phủ nơi Kinh Đô Văn Lang. Vương Phủ Đức Thánh Vương Điền Điền Lang Các vị cao cấp Vương Gia đều có mặt. Cũng may là hai Lão sui gia phi ngựa ngày đêm đến kịp.

    Diệp Lang vô cùng hạnh phúc. Sống chung cùng hai người vợ xinh đẹp tuyệt trần. Ra sức chăm lo việc nước. Ngọc Thiên Hương. An Lạc Tiên giúp chồng những lúc khó khăn. Nên công việc luôn luôn trôi chảy. Về điểm nầy Vua Hùng khen ngợi không hết lời. Lại sinh ra con đàn cháu đống, làm nứt lòng ông bà, cha mẹ.

    Ba mươi lăm năm sau: Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế. Hùng Vương đời thứ 27 Thượng Hạ Hùng Vương. Đời thứ bốn Hạ Hùng Vương. Niên hiệu: Hùng Diệp Vương: Pháp hiệu Bảo Lang. Thay cho ông nội là Hùng Tiên Lang: Pháp hiệu Điển Lang. Điền Điền Lang. Cha của Diệp Lang, trở thành Thái Thượng Hoàng. Còn Hùng Tiên Lang: Điển Lang: Lên ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Thánh Tổ.

    Như chúng ta đã biết Vũ Trụ có ba ngôi: Thiên Hoàng. Nhơn Hoàng. Địa Hoàng. Còn thời đại Vua Hùng thường nói đến ba đời. Ông, Cha. Và Đức Tôn: Là ba ngôi đặc biệt. Vì vậy sự lập ngôi kế vị. Ở thời Thượng Hùng Vương. Lập Đức Tôn kế vị là chính. Lớp già thay cho lớp trẻ.

    Ở thời Hạ Hùng Vương, từ Hùng Vương thứ sáu trở về sau thường là truyền ngôi cho con, nhiều hơn là truyền ngôi cho cháu.

    Nói đến trị quốc cũng khác thường. Ở vào thời đó không có một đất nước nào trị quốc như nước Văn Lang.

    Thượng trị Quốc Hội thi hành Luật Pháp ngôi vị cao thượng nhất Thượng trị Quốc Hội. Đứng đầu các quan chức nhà nước Văn Lang chính là Quốc Vương Bệ Hạ, thi hành Quốc Pháp, Luật Pháp tối cao.

    Còn ban hành Hiến Pháp: Độc Nhất vô nhị: Bản Hiến Pháp Quốc Tổ ban hành, lúc dựng nước giữ nước mà thôi, chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Còn ban hành Luật Pháp là do Hạ trị Quốc Hội quyết định qua các thời kỳ rồi thông lên Quốc Vương phê duyệt chứng nhận mới được thi hành.

    Đức Tôn Vương Tử Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ. 1077 đến 1020 trước công nguyên. Thọ 128 tuổi. 62 tuổi lên ngôi Quốc Vương. 57 năm ở ngôi Quốc Vương. 9 Năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo Thánh Tổ.

    * * *

    HẾT

    XEM TIẾP ĐOẠN KINH VĂN SAU

    Nói về Văn Hóa Cội Nguồn, lịch sử nền Quốc Đạo Văn Lang. Là sự đúc kết Tinh Hoa vũ trụ, một thứ Tinh Hoa văn minh mà chỉ Phật Thánh Tiên mới hiểu nổi. Còn ở lãnh vực phàm tục, dù thông minh cho mấy cũng chỉ khám phá phần lớp vỏ mà thôi, phần thô. Còn phần vi tế thời khó mà với tới cho được. Và đã thất truyền từ lâu, nguyên do dẫn đến thất truyền thời nhiều nhưng tóm tắc 10 nguyên do chính sau đây.

    1 - Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc là do truyền miệng kéo dài quá lâu nên dẫn tới sai lệch, càng về sau càng sai lệch lớn, dẫn đến mất gốc mờ mịt về Văn Hóa Cội Nguồn.

    2 - Là thêm bớt trong lúc truyền khẩu, làm lệch đi những ý chính nguyên văn của Văn Hóa Cội Nguồn, có thể nói Văn Hóa của loài Rồng biến thành Văn Hóa của loài Rắn nước.

    3 - Là Văn Hóa Cội Nguồn không được truyền rộng rãi, chỉ truyền cho những người được lựa chọn, cũng vì thế mà dẫn đến sự thất truyền càng về sau càng lớn.

    4 - Là do không để lại Kinh Luân, có lẽ vì lúc ấy chữ viết, giấy mực còn quá sơ sài, thậm chí giấy còn chưa ra đời, chỉ dùng da thú.

    5 - Là do ngoại bang xâm lược thống trị đập phá hết di tích, liên quan đến Văn Hóa Cội Nguồn, sai lệch còn sót lại.

    6 - Là do ách thống trị quá khắc nghiệt của quân xâm lược đối với truyền thống khơi dậy của nhân dân ta, chỗ nào khơi dậy chỗ đó liền bị triệt phá.

    7 - Là do ách thống trị ngoại xâm, bóp méo lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta, chúng thêm bớt vài chi tiết, độc hại hơn nữa những chi tiết thêm bớt của chúng lại được các nhà tri thức của ta nghe theo chúng viết ra, để lại cho thế hệ con cháu tiếp nối học, càng học càng mờ mịt, không còn biết đâu là thật, là giả, để chúng dễ bề cai trị.

    8 - Là do nô lệ kéo dài hàng nghìn năm, không những nô lệ về thể xác mà còn nô lệ cả về mặt tinh thần, bị nền văn minh, văn hóa của ngoại bang ngự trị, chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt.

    9 - Một Dân Tộc đã mất Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như tinh thần dân tộc đó không còn chỗ đứng, dẫn đến sai phạm nghe theo chúng làm hại non sông Tổ Quốc làm hại hạt giống Tiên Rồng còn sót lại trong tâm hồn người dân Đại Việt.

    10 - Là do sự mê hoặc của ngoại bang, chúng dẩn dắt Dân Tộc ta đến con đường mất tự Chủ, đi trên con đường lệ thuộc mà chúng đã sắp đặt an bày.

    Thường thường trong Văn Hóa Tiên Rồng hiểu được mưu đồ của địch, chúng ta mới có kế thắng địch, thắng ở tương kế tựu kế, thắng ở cương không được thời thắng nhu vậy, thắng ở nhu không được thời thắng ở chí, ý chí của mỗi dân tộc hùng anh, mang dòng máu Tiên Rồng.

    * * *

    LỜI TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI HỘ PHÁP

    GIỮ GIÁO, TRUYỀN GIÁO

    HAI CHỮ "TỰ HÀO"

    Chúng ta sinh ra và lớn lên dù ở nước ngoài hay trong nước đều mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, chung nền Truyền Thống lâu đời nhất là Truyền Thống chống ngoại xâm, hào hùng bất khuất, anh dũng kiên cường sáng chóa. Một nền Văn Hóa lâu đời có một không hai, nền văn minh đột phá thời cổ đại, nền văn minh tinh thần lẫn vật chất làm chấn động Địa Cầu thời đó, thời Đại Hùng Vương. Kéo dài Độc Lập 2622 năm, sự Độc Lập kéo dài ấy không phải tự nhiên mà có, chính là nhờ nền văn minh cao tột, Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền văn minh đỉnh cao của nhân loại, lấy Hiến Pháp làm vua, lấy luật pháp làm thầy, tôn thờ Chính Đáng, đó là tôn thờ Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ.

    Tôn Thờ Tổ Tiên là tôn thờ bản thể Cội Nguồn, vô thỉ, vô chung như không thay đổi bản thể khai lập tạo ra con người và Vũ Trụ, hay còn gọi là Đấng Tạo Hóa, Tạo Hóa đã sinh ra nhân loại, cũng ban cho nhân loại nhiều thứ quyền. Trong đó quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự Chủ, những quyền cốt yếu nói trên không ai có quyền xâm phạm, khi họ sử dụng cái quyền của họ đúng theo Thiên Luật chính đáng, không ai hủy diệt được nó, nếu có hủy diệt thời không bao giờ hủy diệt được, thứ quyền thiêng liêng mà Tạo Hóa Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi con người.

    Hãy tôn trọng quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự chủ. Những kẻ tự cho mình có quyền. Ban cho Thiên Hạ quyền tự do, quyền sống, quyền Độc Lập tự Chủ là những chú Hề trên sân khấu tuồng đời.

    HIẾN PHÁP VĂN LANG có đoạn nói: Hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta sống trên một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ, tôn trọng quyền tự do, tôn trọng quyền mưu cầu hạnh phúc, tôn trọng Độc Lập chủ quyền của nhau, đó là chân lí, đó là lẽ phải. Đằng nầy nhà Ân không những không tôn trọng chủ quyền Độc Lập của nhau, đưa quân xâm lược đàn áp quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, biến bình đẳng thành nô lệ. Nói chung là chúng biến dân Văn Lang thành dân nô lệ của chúng và chúng đã thất bại. Khi quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc bị đe dọa. Thời nhất tề đồng loạt đứng lên đánh đuổi kẻ thù ấy. Thời nay cũng thế mà thôi, quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự Chủ bị đe dọa nghiêm trọng. Hay chế độ cửa quyền áp bức. Thời khó tránh khỏi tai họa chiến tranh. Hãy sống theo lối sống văn minh hiện đại. Sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, tôn trọng truyền thống Nền Quốc Đạo Dân Tộc.

    * * *

    LINH THIÊN

    Phải nói là tối Đại Linh Thiên.

    Theo tôi được biết những người xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn thời tai họa giáng xuống liền như, tự nhiên hộc máu mà chết, tự treo cổ mà chết, xe cán chết, nhảy lầu chết, rắn cắn chết, bò xốc chết, té cấm khẩu không chữa được, đột quỵ không chữa được, mất chức, mất quyền, tan nhà nát cửa, gia đạo bất hòa, điên cuồng khó chữa, con cháu nổi lên làm hại gia phong, từ giàu sang dẫn đến phá sản sạt nghiệp. Nói chung tai họa giáng xuống nhiều vô số đối với những người bất kính đối với Văn Hóa Cội Nguồn. Còn những người thành kính thì sao, người điên trở thành hết điên, tự nhiên thông minh kỳ lạ, học hành thường đến nơi đến chốn, tai họa ít xảy đến, những bệnh nan y thường gặp may chữa khỏi, lên chức, lên quyền, từ nghèo khó chuyển lên giàu, của ăn của để không hết, con cháu hiếu thảo làm rạng rỡ gia phong. Nói chung tùy lòng thành kính cầu chi đặng nấy, công Đức đối với Văn Hóa Cội Nguồn càng dày thời phước Đức càng cao. Sự linh Thiên ấy do đâu mà có.

    1 - Là do Hồn Thiên Dân Tộc phò trì tạo ra.

    2 - Là do Thánh Thần Phật Tiên gia hộ tạo ra.

    3 - Là do Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, Lạc Long Quân, Âu Cơ tạo ra.

    4 - Là do các Long Thần Hộ Pháp tạo ra.

    5 - Là do sự hiển linh của ông bà nhiều đời nhiều kiếp tạo ra, khiến cho con cháu gặp nhiều may mắn. Lập công với Văn Hóa Cội Nguồn. Rạng danh tổ tông dòng Họ.

    Đây là những điều tai nghe mắt thấy, không phải những lời bịa đặt mà là sự thật không thể tưởng tượng nổi.

    Báu vật Trời cho khá giữ gìn

    Anh Linh truyền thống đã hồi sinh

    Con đường hạnh phúc giờ đã đến

    Truyền bá cho đời rạng danh nên

    * * *

    Kinh sử Cha Ông mãi sáng ngời

    Soi đường dẫn lối mãi vạn đời

    Gươm thiên trấn quốc truyền hậu thế

    Ngoại xâm khiếp vía khiếp tả tơi

    * * *

    Văn Lang kinh sử đã ra đời

    Long, Lân, Quy, Phụng, đã chầu trời

    Sấm dậy ầm ầm rền đất Bắc

    Khiếp kinh hồn vía khiếp ôi ôi

    * * *

    Việt Nam chữ S trổ oai linh

    Rồng Tiên chuyển hóa diệt yêu tinh

    Đại Cáo Đông Tây Thiên Quyền Nhân Chủ

    Đại Đồng Bình Đẳng Đại Anh Linh

    * * *

    Dân Tộc Việt Nam đã sẵn sàng

    Chung nhau xây dựng ánh đạo vàng

    Truyền thống anh linh thời dựng nước

    Truyền thống anh hùng vẻ vẻ vang

    * * *

    Văn Kinh sử lược đã trao tay

    Lo gì chẳng được đắp xây hòa bình

    Lo gì chẳng được sang giàu

    Lo gì chẳng được về Trời an vui

    Nếu như biên chép ấn in

    Hồn thiên che chở Cha Ông phù trì

    Huống chi truyền bá cho đời

    Cầu chi đặng nấy gia đình bình an

    Chuyển đời đổi số giàu sang

    Cháu con vinh hiển vượt qua khốn cùng

    Văn Kinh sử lược oai hùng

    Chỉ cần ca ngợi cũng thành hiền nhân

    Huống chi theo bước Cha Ông

    Hiếu Trung, Trung Hiếu ra công đáp đền

    Chung nhau xây dựng nước mình

    Rạng danh dân tộc rạng ngời Việt Nam

    * * *

    Thành tâm lễ lạy kính tin

    Những gì để lại Cha Ông cho đời

    Văn kinh tỏa sáng ngời ngời

    Chung nhau gìn giữ để rồi ấm no

    Con đường Độc Lập Tự Do

    Con đường truyền thống Ông Cha con đường

    Kinh văn đã ở trong lòng

    Về trời sống mãi phước phần trời cho

    Nhớ câu Nguồn Cội Ấm No

    Nhớ câu mất gốc héo khô ngọn cành

    Việt Nam con cháu Tiên Rồng

    Trở về Nguồn Cội xây đời vạn xuân

    * * *
     
  5. shopoga

    Bài viết:
    513
    VĂN MINH NHẬN THỨC HIỂU BIẾT VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC VĂN LANG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Càn Khôn Vũ Trụ

    Chia làm ba phần


    1 - Thiên giới.

    2 - Trần gian.

    3 - Âm phủ địa ngục.

    1. Thiên giới chia làm 3 phần

    A: Thượng Thiên vũ trụ, có 4 tầng Trời.

    B: Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời.

    C: Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời.

    - Thượng Thiên vũ trụ, có bốn tầng Trời Vô Sắc Giới.

    - Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời Sắc Giới.

    - Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời gọi chung là Dục Giới.

    2. Trần gian nhân loại cũng chia làm 3 hạng người

    A: Thượng căn.

    B: Trung căn.

    C: Hạ căn.

    - Thượng căn: Không học cũng thông

    - Trung căn: Có học mới biết, không học không biết.

    - Hạ căn: Đầu óc u tối, học mười chỉ hiểu được một. Có khi học Tây nghỉ Đông, học một đường hiểu một nẻo.

    3. Âm phủ có ba đường khổ

    A: Địa ngục tù đày.

    B: Luân hồi Ngạ Quỷ.

    C: Luân hồi súc sanh.

    Nói về Thiên giới

    Từ Cung Trời Đao Lợi Thiên trở lên gọi là Không cư Thiên Thiên Tiên.

    Cõi Trời, Cung Trời, dưới Cung Trời là Cung Điện rồi đến Cung Động.

    Như vậy từ tầng Trời Đao Lợi Thiên trở xuống. Chư Thiên ở Cung Trời, rồi đến Cung Điện, Cung Động. Tổng cộng là 36 Cung Trời, 72 Cung Động Cung Điện. Trên núi, dưới núi, trong lòng núi. Cùng khắp hạ hạ thiên vũ trụ. Có 7 núi chính lớn nhỏ cao to xa gần. Núi Tu Di Sơn nằm ở giữa.

    1: Là núi Trì Địa Sơn.

    2: Là núi Chướng Ngại Sơn.

    3: Là núi Mã Nhĩ Sơn.

    4: Là núi Thiện Kiến Sơn.

    5: Là núi Đảm Mộc Sơn.

    6: Là núi Trì Trục Sơn.

    7: Là núi Song Trì Sơn.

    Bảy núi nầy xa gần ở giáp vòng núi Tu Di Sơn.

    Lại nữa núi Tu Di Sơn không những to, cao, lớn, mà xung quanh còn có 7 Kim Sơn bao bọc đó là:

    1: Là núi Du Kiện Đà La.

    2: Là núi Y Sa Đà La.

    3: Là núi Kiệt Địa Lạc Ca.

    4: Là núi Tô Đạt Lê Xá Na.

    5: Là núi Án Thấp Phược Yết Noa.

    6: Là núi Tỳ Na Đát Ca.

    7: Là núi Ni Dân Đạt La.

    36 Cung Trời 72 Cung Động Cung Điện.

    Hạ hạ Thiên vũ trụ. Thánh – Thần – Phật – Tiên – Tà Giáo – Chánh Giáo phân nhau để ở. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng Sẽ Nói Rõ Hơn)

    Sống ở Hạ hạ Thiên vũ trụ. Từ Cung Trời Đạo Lợi Thiên trở xuống. Nhân loại chư Thiên được phân làm hai loại người.

    * – Một loài người là con cháu nhà Trời do hai Đấng Tiên Rồng sanh ra lưu truyền nòi giống xuống gọi là Con Rồng Cháu Tiên. Đồng Bào Thiên Hạ.

    * – Hai là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người.

    Xét cho cùng Nguồn gốc con người có ra là do hai Nguồn:

    1 - Là do Tổ Tiên Khai Hóa, sau khi thành lập vũ trụ xong. Hiện ra Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền cùng Tiên Cơ Địa Mẫu. Sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống cho đến tận bây giờ. Gọi là Con Rồng Cháu Tiên.

    2 - Là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Con người bằng pháp thuật. Không phải do Tinh Cha Huyết Mẹ loài người truyền xuống. Nên không thể lưu truyền nòi giống con người được. Khi hết Thần Lực thời cốt nào trở về cốt nấy. Cốt Khỉ hoàn Khỉ. Cốt Chồn-Cáo, sẽ trở về cốt Chồn Cáo.

    Vì vậy Nhân Loại Chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ. Chia làm hai giới Phi Nhân và Thánh Nhân, Phi Tiên và Thánh Tiên, Xiển Giáo cùng Triệt Giáo.

    Nói tóm lại: Các loài bò sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Tu theo Chánh Đạo gọi là phi Tiên-giả Nhân. Không tu theo Chánh Đạo. Sống theo ác tánh gọi là Yêu-Tinh hay còn gọi là Quỷ dữ.

    Hạ Thiên vũ trụ có 6 tầng Trời cõi Dục là:

    Tính từ cao xuống thấp

    Tầng 6: Trời Ma La Thiên.

    Tầng 5: Trời Tha Hóa Thiên.

    Tầng 4: Trời Hóa Lạc Thiên.

    Tầng 3: Trời Đâu Suất Thiên.

    Tầng 2: Trời Dạ Ma Thiên.

    Tầng 1: Trời Đao Lợi Thiên.

    Dưới nữa là Tứ Đại Thiên Vương trấn giữ Đông – Tây – Nam – Bắc. Bốn phương lưng chừng núi Tu Di Sơn rồi đến Cung Điện, Cung Động, trên núi, dưới núi, trong lòng núi.

    Nơi hạ Thiên vũ trụ 6 tầng trời cõi Dục. Ở tầng Trời Đâu Suất Thiên. Có vị Phật Tổ Di Lặc Thiên Tôn làm giáo chủ, giáo hóa Thiên chúng làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Long Hoa Cửu Huyền Lạc Long Quân.

    Lại nữa ở tầng Trời Đao Lợi Thiên, trên đỉnh núi Tu Di. Có vị Ngọc Hoàng. Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn ngự trị tại Cung Linh Tiêu. Trên cai quản 6 tầng Trời. Dưới cai quản 18 tầng Địa Ngục. Làm theo Thiên ý lời dạy của Đức Cha Trời duy trì Luật Tạng Công Đạo vũ trụ. Nói chung Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa tất cả đều là con cháu của hai Đấng Tiên Rồng. Lên ngôi Chủ Quản các tầng Trời, các cõi Trời, các Cung Trời, cho đến Cung Động, Cung Điện toàn vũ trụ. Điều hướng về Cội Nguồn truyền lời dạy của Đức Cha Trời. Di trì Luật Tạng, Thiên Tạng, Pháp Tạng Công Đạo vũ trụ. Giữ vững cán cân Công Lý, Đại Đồng bình đẳng, không thiên vị một ai hễ phạm tội thời bị Thiên Luật Công Đạo xoay chuyển phán xử như nhau.

    VĂN MINH NỀN QUỐC ĐẠO VĂN LANG, LÀ SỰ VĂN MINH PHÁT NGUỒN TỪ CỘI NGUỒN VŨ TRỤ CŨNG NHƯ HÀNH SỰ THEO THIÊN Ý CHA TRỜI THIÊN LUẬT VŨ TRỤ. ĐỈNH CAO TỐI CAO THIÊN Ý HÓA CÔNG. RỐT RÁO CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG. QUỐC ĐẠO VĂN LANG LÀ ĐẠO LUẬT TỐI CAO NHÂN LOẠI CON NGƯỜI. ĐẠO LUẬT THIÊN CÔNG ĐỨC CHÍ TÔN THEO THIÊN Ý CHA TRỜI TRUYỀN XUỐNG CHỐN NHÂN GIAN. TRỞ THÀNH HIẾN PHÁP NỀN VĂN HIẾN VĂN LANG.

    Ở miền trung Thiên vũ trụ nơi tần Trời thứ mười một của trung Thiên giới, tính từ địa phận trung thiên giới trở lên. Tầng thứ 18 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương hạ thiên vũ trụ tính lên.

    Tiền Thân Quốc Tổ Hùng Vương ở đây sanh xuống chốn nhân gian làm con Kinh Dương Vương (xem Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nơi Cõi Trời phước sanh hàng năm vào mùa Thất sen nở rộ. Từ các ao thất bảo hào quang chóa lại đủ màu sắc, hương sen ngào ngạt. Là mùa lễ hội Long Vân. Phật – Thánh – Tiên – Thành – Chúa. Từ khắp thập phương vũ trụ cõi Trời, đều đến dự Đại Hội Long Vân, là những vị Đức cao Đạo trọng. Thần thông quảng đại, pháp thuật, trí tuệ, vô tận, vô biên, uy Quyền vạn cõi.

    Các Ngài là những vị đương nhiệm điều hành vũ trụ. Theo bộ máy huyền cơ của Tạo Hóa. Di trì Công Đạo, cán cân công lý của luật bình đẳng nhân quả vũ trụ.

    Lúc bấy giờ nơi tần trời thứ 18 của vũ trụ, Cõi Trời Long Vân bỗng nhiên to lớn dị thường, gấp hàng nghìn hàng vạn lần so với lúc bình thường. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, mỗi người mỗi vẻ. Hào quang muôn màu, muôn sắc vô cùng đẹp mắt, vô biên rực rỡ sinh động kỳ ảo vô cùng. Các Ngài đến dự hội Long Vân, đông vô số, vô biên. Không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Dù cho tính đến cả trăm vạn năm cũng không hết. Thấy các Ngài đã yên vị chỗ ngồi.

    Biết đã đến lúc Khai Hội Long Vân. Đức Chí Tôn, chính là tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương ngự trên tòa Kim Long Bá Bảo. To lớn như ngọn núi Tu Di. Từ tòa Kim Long Bá Bảo tám muôn bốn nghìn con Rồng Châu Báu, bỗng chuyển động. Mỗi con phát ra một đạo hào quang, xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ. Từ nơi Đỉnh Đầu Đức Chí Tôn phát ra 8 muôn 4 nghìn đạo hào quang xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ thưa thỉnh với Cha Trời là chúng Con Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa muốn được nghe lời Cha Trời Truyền Dạy. Tức thời nơi vũ trụ hư không vang ra tiếng sấm lớn. Tiếng sấm uy quyền tối cao của Đức Cha Trời. Tiếng sấm Đại Đồng bình đẳng. Tiếng sấm quang minh Chính Đại. Tiếng sấm luân hồi Nhân quả. Tiếng sấm an Lạc tự do. Tiếng sấm của Địa Ngục đau khổ. Tiếng sấm Đại Nguyện cứu khổ ban vui. Tiếng sấm Đại từ. Đại Bi. Đại Hỷ. Đại Xả. Đại Hạnh. Đại Trung Hiếu. Tiếng sấm khen ngợi Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vì nhân loại vì Tổ Tiên, vì Cội Nguồn, thay thế Cha Trời chuyển đại pháp luân. Và cứ thế Như Lai tạng tánh vang lên, 8 muôn 4 nghìn chủng tánh đà la ni. Mật Tạng của Đức Cha Trời. Pháp tạng huyền vi vũ trụ.

    Mà Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa mãi mãi nghe theo và làm theo, giữ gìn truyền đạt lại cho người sau, làm lợi ích cho toàn nhân loại. Tùy theo sức lực. Hạnh Nguyện lớn nhỏ, lập công với Trời. Đức Cha Trời sẽ ban thưởng cõi nước lớn nhỏ tùy theo công Đức của mỗi người tạo ra.

    Tiếng sấm Tạng Tánh Mật Tạng vũ trụ. Đức tánh của Đức Cha Trời vừa dứt. Tức thời nơi hội Long Vân năm màu da anh em bỗng nghe thấy mùi hương kỳ lạ. Chưa từng thấy từng nghe. Trỗi dậy từ chân không mỗi lúc một thêm ngào ngạt. Chỉ cần hít được là Tinh Lực: Công Lực: Thần Lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn lần sức tu luyện hàng triệu triệu năm. Một chuyện hi hữu chưa từng xảy ra ở những lần Đại Hội. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa Đồng nghĩ. Có lẽ chúng ta là những người con, người cháu, chăm chỉ nghe lời dạy bảo của Đức Cha Trời nên Đức Cha Trời ban thưởng Tinh Hoa Tiên Thiên vũ trụ. Công Lực, Tinh Lực, Thần Lực, quí hiếm như vậy. Bỗng nơi hư không vũ trụ vang lên tiếng nói. Đúng thế đúng thế, các con là những người con chí hiếu đáng yêu đáng quí của ta. Đã có các con duy trì Công Đạo vũ trụ, thời ta không còn lo lắng chi nữa.

    Bây giờ Đức Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa năm màu da anh em người nào người nấy hào quang rực rỡ liền chấp tay thi lễ hướng về Đại Hội. Đức Chí Tôn nói Thưa Đại Hội anh em. Chúng ta là anh em con một Cha, Chung một Cội Nguồn sống trong ngôi nhà chung vũ trụ. Anh em chúng ta từ xưa đến nay. Thay thế Đức Cha Trời điều hành vũ trụ. Luôn luôn phát Đại hạnh, Đại Nguyện dắt dẫn nhân loại con người sau xa lìa tội lỗi. Trở về Cội Nguồn. Trở về thật tướng thật tánh của mình. Nhổ sạch cội ác, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Địa Ngục ngạ quỷ súc sanh, khốn khổ vô cùng.

    Xét cho cùng cái gốc ác là do mê muội tạo ra mà thôi. Ác hay thiện đều do tâm mình tạo ra cả. Bản nguyên linh giác chân tánh nguyên thủy vốn không thiện, không ác. Trong sạch thanh tịnh vì thế mà ta đã đầu thai xuống trần gian. Truyền dạy lời dạy của Đức Cha Trời mở đường làm gương đi trước mở ra Văn Hóa Cội Nguồn nơi trần thế. Lập lên nhà Nước Văn Lang đồng thời cũng thành lập lên Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Chủ quảng Hồn Thiên Dân Tộc toàn cầu. Theo Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ trụ chuyển xây bộ máy huyền vi không cho những Linh Hồn dấy loạn cõi tâm linh trần thế cũng như phạm Thiên Luật, Thiên Ý Cha Trời.

    Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang nơi trần thế. Thống trị Linh Hồn toàn cầu cho hết tiểu kiếp thứ 9 sau 10 nghìn năm ở chốn nhân gian. Ta đã dựng lên nước Văn Lang. Mở ra văn hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc Hiến Pháp đầu tiên của nước Văn Lang. Mật Tạng Tánh Đức Cha Trời. Cũng là Hiến Pháp độc nhất vô nhị Hiến Pháp Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, cao hơn Hiến Pháp Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ mấy bậc. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng sẽ nói rõ hơn)

    Lời dạy của Đức Cha Trời cao thâm huyền diệu. Tối đại Linh Thiên, tin theo làm theo thời phước đức uy lực trí huệ vô cùng, vô tận, vô biên. Bằng ngược lại chỉ cần không tin, hay hủy bán hoặc lợi dụng lời dạy của Trời làm lợi cho cá nhân. Thiệt hại cho bá tánh muôn dân. Thời tội ấy không biết đâu mà lường. Đại họa sẽ giáng xuống liên miên. Khi chết đi khó mà đầu thai trở lại làm người được nữa.

    Khi Ta khai dựng lên nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng chỉ truyền xuống vị vua kế tiếp mà thôi. Vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá thấp, mê tín dị đoan. Thờ tà giáo, các loài cầm thú. Hơn nữa Thiên cơ vũ trụ chưa chuyển đến giai đoạn văn minh vật chất. Các nhà khoa học vũ trụ, Thiên Tiên, Địa Tiên, chưa luân chuyển xuống trần. Nên giấy bút còn tạm bợ thô sơ lạc hậu chưa hoàn hảo chữ viết cũng vậy. Nên không để lại kinh giáo, chỉ truyền miệng, Cũng chỉ vì truyền miệng tam sao thất bổn không bao lâu nền Văn Hiến Quốc Đạo sai lệch mất gốc. Dân tộc Văn Lang dần dần rơi vào khốn khổ vì Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo chân chính không còn.

    Khi ta về Trời các thế hệ Vua Hùng nối tiếp nhau duy trì Chánh Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng vì không có kinh, chỉ truyền miệng nên đã dẫn đến lệch lạc tam sao thất bổn, ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn mặt trời trí tuệ dần dần biến mất. U minh phủ khắp nhân gian thiên hạ đồng bào rơi vào ác Đạo. Thiện ác lẫn lộn đi vào binh đao máu lửa vô cùng thê thảm. Địa ngục âm phủ càng thêm mở rộng, khổ thay khổ thay.

    Thấy Đức Chí Tôn lo lắng như thế. Nơi Pháp Hội Long Vân, có Đức Phật Tổ vô lượng quang Như Lai. Ngự trên tòa Sen Báu 8 muôn 4 nghìn cánh to như núi Kim Sơn, hào quang chói lọi uy lực, thần thông, trí huệ vô biên. Liền chấp tay thi lễ nói với Đức Chí Tôn rằng.

    Thưa Đức Chí Tôn. Chí Tôn hãy an tâm. Tuy nơi chốn nhân gian là nơi vô cùng nguy hiểm. Đối với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khi lâm phàm liền rơi vào cảnh tối tăm. Lôi cuốn theo dòng đời trần thế Xuống trần nhiều, nhưng trở lại Thiên Giới thời rất ít.

    Chỉ trừ các vị Tổ thời mới mong trở về ngôi vị cũ của mình. Nơi chốn nhân gian mạng lưới u minh dày đặt, gió bát phong thổi mạnh. Sáu trần đánh phá biến ảo khôn lường. Sáu căn đầy dẫy bệnh tật. Sáu thức không an trụ chân tánh được, thường luân chuyển vào cảnh tối tăm mù mịt sa vào ác Đạo.

    Nếu không nhờ Thần Lực của Đức Cha Trời gia hộ thời Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, khi lâm phàm khó trở về ngôi vị cũ. Nói gì đến chuyện chuyển Đại Pháp Luân cứu thế. Vì thế Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa lâm phàm phải khế hiệp theo huyền cơ vũ trụ, mới bảo đảm linh căn trở về Thượng giới. Hiện giờ ở chốn nhân gian, huyền cơ vũ trụ đã chuyển đến giai đoạn phong Thần.

    Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở hạ hạ Thiên vũ trụ. Địa Tiên vào cuộc, 36 cung Trời, 72 cung Động cung Điện lần lược lâm phàm luân chuyển tiến hóa, thanh lọc Linh căn. Từ địa vị Địa La Thần lên địa vị Thiên La Thần. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, vị nào trụ tâm không vững sẽ rơi vào kiếp Phong Thần, uổng công hàng nghìn kiếp tu luyện.

    Nước Văn Lang cũng không tránh khỏi Đại họa, vì chúa tể của các loài Hồ tinh ra đời thời không bao giờ bỏ qua món hận con Trời đã hại chúng. Lại nữa sau phong Thần 600 năm, Huyền cơ chuyển sang giai đoạn tam giáo. Phật giáo, Thánh giáo, Tiên giáo ra đời. Sau tam giáo 500 năm. Huyền cơ vũ trụ chuyển đến giai đoạn mở màn văn minh vật chất. Nhân loại chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ, lần lược thi nhau lâm phàm. Liền bị chuyển vào dòng xoáy, của màng danh lợi, rơi vào cảnh giới u minh. May nhờ ánh sáng Tam giáo soi đường, nên ít sa vào Địa ngục. Nếu không trở về thiên đàng được, thời cũng đầu thai trở lại làm người tiếp tục hưởng phước, tiếp tục tu luyện lập công tiến hóa linh hồn, chờ Hội Long Hoa Rồng Tiên ra đời. Ở vào giai đoạn nầy huyền cơ bắt đầu chuyển đến Trung Thiên vũ trụ tần Trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Tức là tần Trời 8, 9, 10 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương trở lên. Các chư Thiên ở ba tầng Trời nầy lần lượt lâm phàm. Trong số chư Thiên lâm phàm có Đức giáo chủ A MEN, 1 trong 100 người con của Đức Cha Trời. Hành Kim. Đem ánh sáng quyền năng Cha Trời xuống chốn nhân gian. Nhưng đó mới chỉ là ánh sáng hừng đông mở màng. Cho đến sau công nguyên 2000 năm, đầu thế kỷ 21, mặt Trời chân lý vũ trụ mới xuất hiện. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới thật sự ra đời. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, giai đoạn phong Thánh, Đại Thánh.

    Từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 30 một nghìn năm nhân loại Trần Gian đi theo Văn Hóa Cội Nguồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể luận bàn cho hết được. Mặt Trời chân lý vũ trụ sẽ sáng mãi đến tiểu kiếp thứ 15 qua 84 triệu năm thời Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới lặng. Thay vào đó là ánh sáng Liên Hoa Hãi Tạng ra đời kéo dài cho đến tiểu kiếp 20 hết kiếp trụ. Ở kiếp hoại không có ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, kéo dài 336 triệu năm cho đến khi trái đất nổ trở về chân không.

    Lại nữa cuối tiểu kiếp tăng đầu tiểu kiếp giảm của tiểu kiếp thứ 10 Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ. Đã trải qua 8 triệu 4 trăm nhìn năm. Lúc ấy tuổi thọ của nhân loại trần gian đã tăng lên tới đỉnh, 8 muôn 4 nghìn tuổi. Thời Đại Hội Long Hoa vũ trụ mở ra ở khoảng chân không Hạ Thiên vũ trụ. Huyền cơ chuyển đến giai đoạn phong địa vị tối cao. Những chủ nhân tương lai Tổng Đà La Ni kế thừa Di Chí Tổ Tiên Như Lai, Cha Trời Mẹ Trời, chuyển đại pháp luân giai đoạn tối cao của nhân loại. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Nơi Hội Long Vân Nhờ nương theo thần lực của Phật Tổ Tổ Tổ nơi Pháp Hội ai cũng điều thấy rõ những sự việc xảy ra trong tương lai như vậy. Theo sự huyền vi Tạo Hóa sắp xếp của Cha Trời.

    Bỗng thấy vũ trụ rung chuyển. Từ nơi tòa Kim Cang bá bảo to lớn như ngọn núi Thiên Sơn. Muôn Đạo Hồng Quang phóng lên dữ dội. Có vị Hồng Quang Lão Thánh Thánh Tổ Tổ Tổ. Chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Chúng ta là con cái nhà Trời, thừa kế di Chí Cha Ông, cũng như thừa kế giang sang vũ trụ. Những Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải có nhiệm vụ. Kiến tạo xây dựng mỗi ngày một thêm xinh đẹp, vật chất lẫn tinh thần. Nhất là đạo đức con người mỗi ngày thêm phong phú rực rỡ hơn lên.

    Từ khi Tổ Tiên lập lên vũ trụ. Hiện thân ra Cha Trời, Mẹ Trời khai tạo ra giống người dìu dắt Linh Hồn anh em chúng ta lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Vận hành bộ máy huyền vi vũ trụ, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Giữ gìn Công Đạo Thiên Ý luật nhân quả vũ trụ.

    Những linh hồn đã gieo được hạt giống tốt lời dạy của Đức Cha Trời tiến hóa lên ngôi vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, thời tùy theo Công Đức, và sự chứng ngộ hội nhập Cội Nguồn. Mà làm chủ các tầng Trời, cõi Trời, cung Trời, cung Điện, cung Động khắp tam giới.

    Lại nữa các vị Tổ đại nguyện viên mãn. Hội nhập Cội Nguồn trở về bản thể Linh giác thật tướng thật tánh tối cao Tạo Hóa. Ví như bọt nước tan biến trở lại là nước. Trở về ý thức thanh tịnh, bình đẳng Đại Đồng, Cội Nguồn vũ trụ ngôi vị Tổ Tiên Khai Hóa. Thành lập vũ trụ mới, thay thế vũ trụ cũ, già cỗi đi vào hủy diệt. Nơi pháp Hội Long Vân Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa nương theo ánh sáng hồng quang ai nấy cũng nhìn thấy rõ quá trình diễn biến. Quá khứ hiện tại vị lai không sót một chi tiết nhỏ.

    Tức thời nơi pháp Hội Long Vân. Chúng hội ở địa vị Thần chuyển lên địa vị Thánh còn Phật Thánh Tiên chuyển lên ngôi Tổ Tổ vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Chờ đến pháp Hội Long Hoa giữa tiểu kiếp thứ 10, các ngài Đồng phóng quang, tuyên thuyết, diễn thuyết bản thể chân tướng chân tánh. Đồng Cội đồng nguồn vũ trụ Đại Đồng bình đẳng có một không hai thật tánh, thật tướng vũ trụ.

    Lại nữa nơi pháp Hội Long Vân, bỗng thấy hào quang ngũ sắc phóng lên dữ dội từ tòa châu báu Thái Cực lưỡng nghi to như ngọn núi Mộc Sơn. Có vị Không Không Lão Tổ Tổ Tổ, chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ đây đến cuối tiểu kiếp thứ 9 chỉ còn 8 nghìn năm nữa theo chốn nhân gian và nhân loại chỉ trụ được hơn 6 nghìn năm mà thôi. Tức là sau công nguyên chỉ hơn 5 nghìn năm. Còn trên nữa 2 nghìn năm tiếp theo thời con người khó mà sống, vì 2 nghìn năm cuối cùng của tiểu kiếp thứ 9, Tứ Đại, Đất Nước, gió lửa đi vào thái chuyển quá mạnh. Động Đất, Nước Biển dâng, Mưa to, Bão lớn Thời tiết khắc nghiệt. Nhiệt Độ tăng quá cao, cũng như hạ quá thấp. Con người sống sót tồn tại còn lại là không bao nhiêu ở những giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ chín. Mở màn người nguyên thủy Thời Hồng Hoang lặp lại đầu tiểu kiếp thứ 10. Sau Công Nguyên 5 nghìn năm thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ. Nước biển dâng ngập hầu như gần hết các lục địa những đồng bằng nhiệt độ trung bình gần 100 độ C, động đất cực mạnh luôn luôn xảy ra khắp các châu lục và cuối cùng là chuyển đổi lục địa, năm châu bốn biển thay dạng đổi hình. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở Hạ Thiên, Trung Thiên lâm phàm xuống trần phò trì văn hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại tiến hóa linh hồn lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Biến Địa Ngục trần gian thành thiên đàng Cực Lạc giả tạm, trước khi nhân loại trở về Thiên đàng Cực Lạc chính thức. Các vị Thiên Tiên Địa Tiên lâm phàm cứu nhân độ thế mở ra khoa học văn minh vật chất, khai thác tài nguyên vũ trụ, tạo ra phương tiện máy móc phục vụ con người, giảm bớt thiệt hại thiên tai đang thái chuyển thay đổi sanh tiểu kiếp mới.

    Nơi pháp Hội Thiên chúng Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, nương theo hào quang của Đức Không Không Lão Tổ Tổ Tổ thấy nhân loại trần gian sắp đi vào hiểm họa vì những nghìn năm đi lần về cuối tiểu khiếp. Chuyển sang tiểu kiếp mới theo luật tuần hoàn vũ trụ, các ngài đồng nghĩ ta phải cứu nhân loại phàm trần, thoát khỏi ba đường ác đưa nhân loại trở về Thiên Đàng Cực Lạc theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập đại công dâng lên Đức Cha Trời, ý nghĩ tốt đẹp của các Ngài đã làm chuyển động cả vũ trụ. Những chỗ u tối xưa nay nơi vũ trụ bỗng tự nhiên sáng trở lên, các vị Thần, Thánh, Phật, Tiên toàn vũ trụ ca ngợi công Đức, phát tâm cúng dường, đồng loạt bay lên tầng Trời thứ 18 cõi Long Vân. Cúng dường đồ ăn, thức uống hiếm quí, hương Hoa Kỳ Hương dị bảo, kim cương ngọc ngà trân châu báu lạ. Thành trận mưa cúng dường mưa báu kéo dài, làm chấn động toàn vũ trụ tam Thiên Đại Thiên thế giới. Khắp nơi địa ngục lúc bấy giờ, người đại tội biến thành nhẹ tội, người nhẹ tội liền siêu sanh lên cõi nhân gian, sống trong sự giàu có.

    Lúc ấy bỗng nơi hư không vang ra tiếng nói lớn. Hi hữu thay đáng khen thay, lòng Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xã đã phát huy tác dụng đến tận cùng vũ trụ, nơi tối tăm nhất cũng được tỏa sáng, nơi đau khổ nhất cũng được nhẹ đi, hi hữu thay đáng khen thay. Đáng khen thay đó là lời khen của Đức Cha Trời từ nơi hư không vũ trụ.

    Nơi pháp Hội Long Vân, có một tòa kim cang bát Quái Châu báu to như núi song trì luôn luôn phát ra ánh sáng kì lạ, từ trắng thành đen, từ đen thành vàng, từ vàng thành đỏ, từ đỏ sang chàm. Ngũ hành luân phiên chuyển hóa, thì ra tòa kim cang bát quái ấy là của Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ đang chuyển đại pháp luân. Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ liền chắp tay thưa Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ khi Tổ Tiên Khai Hóa, khai lập vũ trụ đến giờ, bộ máy huyền vi vũ trụ không có gì thay đổi, luật trước luật sau cũng chỉ là một luật, hể có sinh là có diệt, không sinh là không diệt. Vật chất luân chuyển theo tuần hoàn. Sanh trụ Dị Diệt, còn linh căn linh hồn thời luân chuyển theo nghiệp lực, Thiện Ác mê chấp, nhân quả. Tất cả linh hồn sanh ra đều bình đẳng. Thuận theo Thiên Ý hành Thiện thời thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời gọi là ác, vì ác nên thành yêu tinh quỷ dữ ác đạo. Đã gieo ác đạo, thời gặt ác báo. Mê tín dị đoan, Trời không thờ, mà thờ quỉ thờ yêu thờ tinh. Thờ Thần cầm, Thần thú, theo tà thuyết, gieo nhân bất chính, nên kết quả bất lành, rơi vào tà Đạo. Nên sa vào ba đường khổ, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cũng như sa đọa thành yêu tinh quỉ quái. Làm theo lời dạy của Đức Cha Trời gọi là Ngộ là Thiện, vì Thiện gọi là Chánh, vì Chánh nên thành tựu vô lượng công Đức. Vì có vô lượng công Đức, nên thành Vua, thành Chúa, thành Phật, thành Thánh, thành Tiên.

    Thật ra tất cả Linh Hồn chung một Nguồn gốc Cha Trời. Cha Trời. Đại Linh Hồn ví như nước, còn tất cả tiểu Linh Hồn nhân loại ví như bọt nước. Bọt Nước do Nước sanh ra mà thôi. Tất cả tiểu Linh Hồn Bình Đẳng, đều là con cái của Đại Linh Hồn Cha Trời. Cũng bởi gì Tâm Hồn mê muội, khởi sanh ra tánh ác, làm hại mình hại người. Làm cho cõi âm phủ Địa Ngục mỗi ngày mỗi thêm rộng lớn, vì hành Ác đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời. Nên bị bộ máy huyền vi vũ trụ xoay chuyển, theo luật nhân duyên cũng như luật nhân quả, gieo giống nào thời gặt giống nấy. Đọa lạc luân hồi mãi mãi khốn khổ vô cùng. Dù trải qua vô lượng kiếp cái Ác cứ mãi đeo bám, kết quả đi đến tù đày, sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, khó mà giải thoát. Xin Đức Chí Tôn mở lượng từ bi, đem ánh sáng trí huệ Đức Cha Trời xuống nhân gian. Chuyển Đại Pháp Luân lần nữa làm lợi ích cho toàn nhân loại, thiện ác đều được giải thoát. Trở về bản giác Chân Tánh, ngôi vị Chí Tôn vô thượng.

    Thưa Đức Chí Tôn, giai đoạn cuối tiểu kiếp là giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Có thể nói giai đoạn cực ác biết lợi dụng Phật Pháp, Thánh Pháp, Tiên Pháp phục vụ lợi ích riêng cho mình. Làm lợi cho bè phái, đảng phái phục vụ chiến tranh. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa xưa nay đều hiểu. Khi đầu thai xuống trần trở thành người phàm tục. Thời quên mất tiền thân kiếp trước của mình. Bị dòng đời xoay chuyển theo trào lưu xã hội, nên Làm lành lánh dữ đã khó, huống chi là chuyển Đại Pháp Luân. Trên biển lữa hận thù, tranh đấu chém giết lẫn nhau thủ đoạn cùng hung, cực ác chồng chất như núi như non. Trong hoàng cảnh trần gian xã hội như thế, thời Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần không những không làm được gì mà còn bị lôi kéo theo dòng đời lạc vào Tà Ma Ác Đạo. Trở thành anh hùng lạc đạo hết mong về trời. Có khi còn sa đọa xuống Địa Phủ.

    Thưa Đúc Chí Tôn. Nếu không phải bật thượng căn Trí Huệ vô tận, Đại Nguyện vô tận thời khó mà chuyển Đại Pháp Luân. Làm cho ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác tỏa sáng khắp Trời đất được. Nhất là ở vào tình thế nơi chốn trần gian đang trên đà hưng thịnh Mạc Kiếp Mạc Pháp gần cuối tiểu kiếp đầy khó khăn nguy hiểm nầy.

    Nơi Pháp Hội Long Vân, Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa đồng nghĩ như vậy. Chỉ có Đức Chí Tôn anh cả con Trời xuống trần mới chuyển xây được tình thế ở giai đoạn đầy khó khăn nguy hiểm nầy. Liền thỉnh cầu Chí Tôn chuyển Đại Pháp Luân, đem ánh sáng Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ xuống trần mở màng đời Thánh Đức. Lấp con đường địa ngục mở cửa Thiên Đàng đưa nhân loại trần gian về trời. Đức Chí Tôn nhận lời thỉnh cầu pháp hội Long Vân. Chờ đúng huyền cơ vũ trụ tái sanh xuống chốn nhân gian Thiên Ấn Thiên Bút ra đời.

    Tự hào truyền thống Cha Ông

    Tự hào đất nước con Rồng Cháu Tiên

    Tự hào Văn Hóa văn minh

    Tự hào Quốc Tổ uy linh oai hùng

    Tự hào hai chữ Đồng Bào

    Tự hào Nam Việt đất trời Địa Long.

    Trung Thiên vũ trụ có 18 tầng Trời, tính từ cao xuống thấp:

    18: Tầng Trời sắc cứu cánh.

    17: Tầng Trời Thiện Hiện.

    16: Tầng Trời Thiện Kiến.

    15: Tầng Trời Vô Nhiệt.

    14: Tầng Trời Vô Phiền.

    13: Tầng Trời Vô Tưởng.

    12: Tầng Trời Quảng Quả.

    11: Tầng Trời Phước Sanh.

    10: Tầng Trời Thiên Vân, Chỗ Đức Chí Tôn Ngự.

    9: Tầng Trời Biến Tịnh.

    8: Tầng Trời Vô Lượng Tịnh.

    7: Tầng Trời Thiểu Tịnh.

    6: Tầng Trời Quang Âm.

    5: Tầng Trời Vô Lượng quang.

    4: Tầng Trời Thiểu Quang.

    3: Tầng Trời Đại Phạm.

    2: Tầng Trời Phạm Phụ.

    1: Tầng Trời Phạm Chúng.

    Mười tám tầng Trời nầy gọi chung là: Sắc giới.

    Tam giới là:

    1: Dục giới.

    2: Sắc giới.

    3: Vô Sắc giới.

    BỘ VĂN LANG CHIẾN SỰ 1

    ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT


    CHỦ BÚT: ĐINH HÙNG CHUNG
     
  6. shopoga

    Bài viết:
    513
    QUỐC BẢO

    CHÂN KINH


    VĂN LANG

    CHIẾN SỰ

    II

    THIÊN ẤN THIÊN BÚT

    GÒ HỘI

    ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI

    2013

    Nguyễn Đức Thông



    PHẦN 1: MỞ ĐẦU

    Văn Lang trù phú, cảnh sang giàu.

    Vàng, ngọc, trân châu, sắt, đồng, thau.

    Gạo trắng, cá tươi, người đông đúc.

    Lụa là gấm vóc, ngọc trắng phau.

    Quê, thị, gần, xa, luôn nô nức.

    Hội đình, chợ, quán, cảnh chen nhau.

    Phương Bắc ngày đêm, lòng thèm khác.

    Xâm lăng cướp lấy, trước nối sau.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói đến nước Xích Quỷ, thời Kinh Dương Vương, thời phải nói đến sự giàu có, không những giàu có về vàng, bạc, châu, báu, sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, nhất là văn minh về lúa nước, nhất là lúa hổ Rằng, lúa Hổ Chưởng, lúa Chiêm, lúa Thần Nông, lúa Xích Khoán, lúa Thiền Minh, lúa An Cựu, lúa Hạ Bạch, lúa Thanh Vu, lúa Bạch Kê, lúa Tẻ, lúa Thuần, lúa Mạch, lúa Kim Ô, lúa Hoàng Đế, lúa Xích Kê, lúa Thượng, lúa Hạ, lúa Phì, lúa Lùn, lúa Thơm, lúa Nếp Tẻ, lúa Đuôi Phụng, lúa Bạch Mạc, và còn nhiều giống lúa quý hiếm khác nữa, dân Bắc Văn Lang lúa thóc đầy bồ, phải nói cuộc sống dân nước Xích Quỷ, không những thái bình thịnh trị hàng nghìn nghìn năm, trong cuộc sống no cơm, ấm áo. Mà còn béo bở về thu nhập qua đường trao đổi buôn bán, Một đất nước béo bở như thế, luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm muốn, những nước lân cận nhất là những nước lân cận Phương Bắc, chúng thèm khát đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, lúc nào cũng mơ tưởng chiếm cho được Bắc Văn Lang, coi như làm chủ sở hữu nền văn minh lúa nước, cơm no áo ấm thời còn gì bằng. Cho nên nước Xích Quỷ lúc nào cũng rình rập mối nguy mất nước, bởi quân xâm lược Phương Bắc rình rập ngày đêm.

    Cùng thời lúc ấy, một vị cứu tinh đất nước ra đời, chính là Quốc Tổ Hùng Vương, người con độc nhất của Kinh Dương Vương, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời chuyển xây tình thế, không những đánh tan mộng xâm lược Phương Bắc, mà còn mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, trở thành nước Văn Lang rộng lớn, gấp ba lần nước Xích Quỷ, sự mở rộng bờ cõi về Nam làm cho nước Văn Lang trở nên hùng mạnh, không có một đất nước nào hùng mạnh hơn.

    Đất nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Bắc Văn Lang, hầu hết là toàn bộ Nước Xích Quỷ, rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang.

    Khai dựng lập lên nước Văn Lang, Quốc Tổ không ở Bắc Văn Lang, mà ở Nam Văn Lang, đây là một điều bí mật của Quốc Tổ, vì Quốc Tổ biết trước Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang, một khi văn hóa Cội Nguồn đã mất, nền Quốc Đạo không còn, trở nên độc quyền, độc tài, độc trị, theo xu hướng Phương Bắc, sẽ bị Bắc Phương chiếm lấy, đồng hóa dân chúng theo văn hóa Phương Bắc. Nhưng giặc Phương Bắc không bao giờ chiếm lấy được Nam Văn Lang, vì Nam Văn Lang là Địa Long Vũ Trụ. Thánh địa linh thiên nhất địa cầu, nên văn hóa Phương Bắc không thể đồng hóa nổi dân tộc Nam Văn Lang, dù trải qua hàng nghìn năm xâm lược đồng hóa, theo ý đồ Phương Bắc, những gì biết trước của Quốc Tổ không gì là sai cả.

    Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ, phần lớn đất đai Giao Chỉ, Tới thời Hùng Vương, được mở rộng gấp đôi, Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ, Giao Chỉ, vì thế mà trở nên vô cùng hưng thịnh, lại phân chia thêm ra nhiều Bộ, Châu, Quận, Huyện. Bắc Văn Lang đất đai phì nhiêu, nhờ có nhiều con sông lớn bồi đắp, như sông Dương, sông Trường, sông Lạc, sông Âu, chia ra nhiều sông nhánh khác nữa, bồi lấp thành đất đen và bốc hơi rất mạnh, rất phù hợp cho nền nông nghiệp lúa nước. Những cánh đồng lớn, cò bay thẳng cánh, sông ngòi kinh rạch chằng chịt, thuận tiện cho việc trồng lúa nước, đem lại sự hùng mạnh cho quân lực, nếu có được Bắc Văn Lang thời không lo gì sự đói nghèo nữa, không lo thiếu lương thực nuôi quân, nên không có thế lực mạnh nào mà không muốn chiếm lấy, phải nói là chiếm lấy cho bằng được. Do sự trù phú đất đai, nhiều giống lúa tốt, sông ngòi kinh rạch, khí hậu ôn hòa thiên nhiên ưu đãi nầy, luôn luôn khơi dậy lòng thèm khát những tay háo chiến, mộng bá Vương, nên Bắc Văn Lang càng về cuối thời Hùng Vương càng chiến tranh xâm lược dữ dội từ Phương Bắc, xâm lược về Phương Nam, đất nước Văn Lang.

    Những trận xâm lược kinh thiên động địa chưa từng có trong lịch sử, nhất là sự xâm lược của Nhà Ân, Ân Thọ Trụ Vương, ở vào thời hạ Hùng Vương, thời thứ 3 Hùng Tiên Lang (Điển Lang) trong 18 thời hạ Hùng Vương, 1141 đến 1139 trước công nguyên, quân Nhà Ân bị quân Văn Lang đánh tả tơi, thây phơi chật đất, làm phân cho đất Văn Lang, quân thù kinh hồn bạt vía, không còn dám mơ mộng xâm lược nữa, dân Văn Lang sau khi thắng quân xâm lược, thời không còn coi Phương Bắc ra gì, nên mất đi đề cao cảnh giác, sự yên bình ấy kéo dài gần 200 năm, cho đến thời Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang), Hùng Vương đời thứ 6. Thời Phương Bắc lại một lần nữa xâm lược, 961 đến 930 trước công nguyên, do con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ, còn sống sót lập lên nước Man Du cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm, liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, ba nước Phiên Ngung nầy chiếm một lãnh địa vô cùng rộng lớn, không chịu lệ thuộc Nhà Chu, nên xưng Vương, ngang tầm các Vương Nhà Chu, các Vương Nhà Chu giận lắm nhưng không làm gì được, ba nước Phiên Ngung, vì nhờ địa thế hiểm trở đồi rừng núi non trùng điệp, nên rất khó mà hạ được ba nước Tam Vương nầy. Ba nước Phiên Ngung nầy mỗi ngày mỗi mạnh, nhưng không dòm ngó đến Phương Bắc, vì Phương Bắc không hưng thịnh như Phương Nam, nhất là về đất đai cũng như nền văn minh lúa nước, nhất là ngành Luyện Thép vô cùng bí mật của nước Văn Lang, không dễ gì lọt bí quyết ra bên ngoài, trong Dòng Dõi Vua Hùng cũng ít người được biết, vì thế nếu chiếm được Văn Lang thời sự quý hiếm nào cũng có, ba nước Phiên Ngung nầy thèm khát ngày đêm, hợp lực cùng nhau đánh chiếm Bắc Văn Lang.

    Quân Ân, Quân Hồ, Quân Hung Nô, vượt qua Tây Bắc Văn Lang đánh xuống Bắc Văn Lang, nhà Tây Chu, Di Vương biết thế nhưng giả đò như không biết, ở thế ngư ông đắc lợi, Ân Mao Vương, là cháu chắt Võ Cảnh.

    Võ Cảnh là con của Vua Trụ, Đắc Kỷ, Chu Di Vương nghĩ nếu Ân Mao Vương thắng thời ta cũng có phần, nới rộng thêm trấn chư hầu, Nước Ngô, Nước Sở, Nước Tề, được mở rộng về Phương Nam qua đất Bắc Văn Lang, nếu thua thời Vua Di Vương, cũng trừ đi được mối hậu họa lớn mạnh của con cháu Nhà Ân, kẻ thù không đội trời chung với Nhà Chu.

    Đây nói về Chu Võ Vương, diệt được Đắc Kỷ, Trụ Vương xong, thời cũng bắt được hai đứa con của Đắc Kỷ, là Vũ Canh và Võ Cảnh, trốn sau hậu cung, Vũ Canh chống cự nên đã bị giết, chỉ còn lại Võ Cảnh. Võ Cảnh là con trai Đắc Kỷ mới sanh sau, là con út sau cùng của Trụ Vương.

    Võ Cảnh tuy còn nhỏ nhưng khôn lanh vô cùng, vừa thấy Chu Võ Vương liền sụp lạy. Các chư hầu thấy vậy nổi giận quát:

    Cha ngươi là hôn quân vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh đi đền tội với thiên hạ, lại trừ hậu họa mai sau.

    Có lẽ số Trời chưa cho giết, nên khiến cho Võ Vương can, Võ Vương nói:

    Trụ Vương vô đạo hung tàn bạo ác là do Đắc Kỷ, cùng với nịnh thần, bày mưu hiến kế, Võ Cảnh chỉ là một đứa bé, làm gì có tội, hơn nữa Vũ Canh đã chết, thói thường tội của cha không luận đến con, chúng ta phong cho Võ Cảnh một vùng đất, hầu nối kiếp lửa hương Nhà Thương, như vậy chúng ta đã đền ơn Nhà Thương.

    Các chư hầu không dám cải, nhưng trong bụng thời không ưng lắm, vì nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc, bằng không hậu họa sẽ không sao lường được.

    Một hôm Tử Nha nói với Võ Vương rằng:

    Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh, thời cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh, lo phần hương khói, nhưng phải dùng người giám sát mà kèm kẹp, nếu phát hiện mưu đồ bất chính thời giết đi để trừ hậu họa.

    Võ Vương y lời giao Võ Cảnh cho hai vị Ngự Đệ, trông coi giám sát. Võ Cảnh càng lớn càng khôn ngoan, ý tứ kín đáo vô cùng, khó ai đoán được ý đồ của Cảnh, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại của Võ Cảnh phải nói là hết sức thâm sâu. Khi Võ Vương băng hà qua đời, Võ Cảnh khóc lóc thê thảm ra vẽ thương yêu lắm, Võ Cảnh biết chỉ cần lộ một cử chỉ bất mãn là coi như là toi mạng nhất là khi tuổi đã trưởng thành.

    Một hôm Võ Cảnh nằm ngủ thời thấy hồn Đắc Kỷ hiện về kêu Võ Cảnh:

    Cảnh con đây là cơ hội tốt nhất cho con thoát khỏi sự kèm kẹp, của Nhà Chu, để lập lên nghiệp lớn. Con hãy xin với Thành Vương, cho con đến một mảnh đất xa xôi tận miền Tây Nam gần đất Hung Nô, Phiên Ngung đã di cư từ Tây Bắc đến ở rất thân quen với quân Hồ, quân Hung Nô, với quân Hồ vô cùng hùng mạnh, lại ở nơi hẻo lánh khó mà tận diệt được, Nhà Chu tuy mạnh nhưng cũng không diệt được họ đâu.

    Đắc Kỷ dạy bảo xong liền biến mất, Võ Cảnh gọi mẹ một tiếng thật lớn, giật mình tỉnh dậy. Nghe tiếng gọi mẹ thật lớn của Võ Cảnh có người chạy vào hỏi:

    Công tử gọi ai thế?

    Võ Cảnh vô cùng khiếp sợ nói:

    Tôi thấy chiêm bao sợ quá la lên.

    Người nầy chính là người hầu được cài theo dõi ngày đêm, mỗi hành động cử chỉ, dù chỉ là cử chỉ nhỏ nhặt cũng phải báo cáo lên bề trên.

    Người hầu nói:

    Công tử thấy mẹ phải không?

    Nghe người hầu hỏi thế Võ Cảnh sợ đến tái cả mặt. Không sao đâu đó chỉ là giấc mơ. Võ Cảnh nghe người hầu nói thế mới yên tâm.

    Hôm sau Võ Cảnh vào chầu Thành Vương cúi đầu lạy tạ tâu rằng:

    Muôn tâu bệ hạ, Võ Cảnh trộm nghĩ thân đầy tội lỗi, đáng lý đã chết từ lâu, nhưng nhờ Đức cao của Bệ Hạ nên Cảnh dân mới được sống sót, Cảnh dân nhớ mãi muôn đời, không lúc nào dám quên, ơn trên chưa báo đáp thời dám mong được gì, hạ dân cũng có chút bẩm báo nhưng không dám, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám dâng tấu sớ.

    Thành Vương hỏi:

    Ngươi muốn tấu gì thời đưa đây cho Trẫm cùng các quan xem.

    Võ Cảnh làm như ra vẻ sợ hãi, lấy phong thư ra dâng lên cho Thành Vương xem. Thành Vương xem xong rồi đưa cho các quan xem. Nội dung tấu thư như sau: Võ Cảnh sống đến ngày nay đều nhờ ơn Bệ Hạ, lại được ăn no mặc ấm, ơn Đức của Bệ Hạ không sao đền đáp được, nay Cảnh hạ dân cũng đã lớn, muốn cầu xin Bệ Hạ một việc, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám tâu.

    Các quan xem xong liền tâu rằng:

    Muôn tâu bệ hạ đã ra ơn thời ra ơn cho trót xem Võ Cảnh có ý nguyện gì.

    Thành Vương nói:

    Trẫm cho phép ngươi cứ nói.

    Nghe nói đến tiếng ngươi Võ Cảnh hơi sợ, lấy hết lòng can đảm tâu rằng:

    Muôn tâu Bệ Hạ, Cảnh dân nguyện xin Bệ Hạ phong cho một ít đất tận nơi biên giới Tây Nam, giáp ranh với quân Hung Nô, quân Hồ, ở nơi ấy hạ dân chí thú làm ăn thờ phụng Tổ Tiên.

    Nghe Võ Cảnh tâu ai nấy lấy làm kinh ngạc: Đây không phải là xin mà là đày đến nơi đất chết, rừng thiên nước độc, không ai có thể dám tới gần nơi đó nói gì là đến để ở.

    Các quan nghĩ: Võ Cảnh đã quá sợ chết trở thành điên loạn, nên mới có lời thỉnh cầu điên dại như thế, riêng chỉ có.

    Chu Công Đán là không nghĩ như vậy. Chu Công Đán nghĩ: Dù cho Võ Cảnh hàng phục được quân Hung Nô, quân Hồ, cũng không làm gì được Nhà Chu.

    Thành Vương từ lâu muốn diệt đi mối hiểm họa nầy. Nhưng chưa có cơ hội, đây chính là cơ hội để tiêu diệt mầm họa về sau. Bằng nói:

    Trẫm chấp nhận cho lời thỉnh của Khanh.

    Bằng phê chiếu chỉ phong cho đất Man Vu, rừng thiên nước độc, muốn bao nhiêu cũng được, bằng cho người cấp lương thực vài xe, vàng bạc hơn trăm lượng, cho vài chục tên binh lính hộ tống đến biên giới Hung Nô, hoang vu. Võ Cảnh mừng quá lạy tạ Thành Vương, rồi qua hôm sau là lên đường tiến về Tây Nam đến Đất Hồ đi được hơn mười ngày thời lấy vàng bạc, bán xe mua ngựa, chở lương thực hàng hóa tiến lần về rừng núi, vượt qua nhiều sông suối dốc đèo, những quân lính đi theo lần lượt bỏ trốn, không còn lại mấy người. Càng đi thời rừng núi trùng điệp, chim kêu vượn hú, đêm về thời hơi lạnh thấu xương, đi đến đây có trốn cũng không biết đường về, ai cũng nghĩ đi theo Võ Cảnh là đi vào đất chết.

    Đoàn ngựa chở hàng hóa đang đi, thời bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí vang trời, những người theo hộ tống Võ Cảnh sợ hết hồn hết vía. Đất Man Vu là đất chết chóc nổi tiếng, bọn cướp rừng nổi tiếng là ăn thịt cả người sống, không mấy ai đến đây mà toàn mạng trở về.

    Võ Cảnh nhìn mấy mươi người người nào người nấy hung tàn bạo ác vô cùng, đao, kiếm sáng ngời lao tới bao vây quát:

    Các ngươi là ai mà dám đi qua khu vực nầy. Mau để lại ngựa hàng hóa hết lại cho ta bằng không các ngươi không còn một mạng.

    Các binh lính sợ quá run lập cập, Võ Cảnh bình tỉnh hỏi:

    Nơi đây là nơi nào?

    Tên ăn cướp quát:

    Chết đến nơi mà còn hỏi.

    Tên mặt hổ nói:

    Thôi nói cho nó biết đi, để chúng xuống âm phủ biết nơi đây là đâu.

    Tên mặt trắng quát:

    Đây là đất Man Du hay còn gọi là đất hoang vu, đất vô chủ không thuộc quyền của ai cả, chúng ta là kỵ binh còn sống sót của nhà Ân, trở thành Chúa tể sơn lâm, Chúa tể của núi rừng. Hãy báo danh rồi về chầu âm phủ.

    Võ Cảnh nghe bọn ăn cướp nói đây là đất Man Du thời mừng vô cùng nói:

    Tới rồi, tới rồi cuối cùng ta cũng tới được nơi đây. Trời đã giúp ta, Trời đã giúp ta.

    Võ Cảnh cười lên sản khoái. Tên thủ lĩnh mặt hổ nghe Võ Cảnh nói không hiểu gì cả, liền quát lớn:

    Các ngươi là ai mau nói ra.

    Tên béo mập nói:

    Giết chúng đi cho rồi cần gì hỏi lôi thôi.

    Thế là chúng ra tay. Lúc ấy bỗng một trận cuồng phong nổi lên, tức thời xuất hiện hai vị Đạo Sĩ. Hai vị Đạo Sĩ quát:

    Các ngươi sao không ra mắt lễ lạy Chúa Công.

    Mấy mươi tên ăn cướp quát:

    Hai đạo sĩ kia ngươi nói ai là Chúa Công của ta.

    Hai Đạo Sĩ chỉ Võ Cảnh nói:

    Người nầy chính là Chúa Công của các ngươi.

    Mấy tên ăn cướp quát:

    Hai Đạo Sĩ kia, hai ngươi từ đâu tới?

    Có người nói:

    Chúng là đồng bọn với nhau, chúng ta đông sợ gì hai lão Đạo Sĩ, xông lên giết hết tất cả cho ta.

    Hai Đạo Sĩ quát:

    Đồ hỗn láo không dạy cho các ngươi bài học thời các ngươi không biết trời cao đất rộng là gì.

    Tên mặt hổ quát:

    Anh em đâu mau giết hai Đạo Sĩ đó cho ta.

    Tức thời cả bọn ăn cướp lao nhanh vào chém giết hai Đạo Sĩ. Hai Đạo Sĩ quát:

    Quả thật các ngươi đáng tội chết.

    Tức thời hóa phép làm cho bọn cướp xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống ngựa. Liền ra lệnh cho những tên lính theo Võ Cảnh:

    Trói hết chúng lại, chờ lệnh xét xử.

    Bọn ăn cướp vô cùng kinh hãi không ngờ hai Đạo Sĩ thần thông quản đại như vậy. Hai Đạo Sĩ tới trước mặc Võ Cảnh quỳ xuống tâu rằng:

    Chúng Thần đến cứu giá trễ, xin Chúa Công tha cho tội chết, chúng Thần tu ở Hồ Động, Nương Nương về báo cho chúng thần biết là Chúa Công sẽ đến nơi đây, quả là đúng như vậy. Xin Chúa Công hãy xử những tên phản nghịch nầy, những tên nầy từng là quân lính của Nhà Ân, bị quân Chu truy nã nên ẩn sâu vào rừng núi trốn tránh, không chỉ bấy nhiêu mà cả hàng mấy nghìn tên, trong đó có những vị tướng lĩnh, không chịu ra đầu hàng, ẩn trong rừng sâu làm cướp, nghe nói Thành Vương đã phong đất cho Chúa Công, đất Man Vu, hay còn gọi là đất hoang vu, hàng mấy trăm dặm chính là nơi đây. Và nơi đây sẽ trở thành đất Ân của Chúa Công, chúng Thần nguyện theo Chúa Công khai dựng cơ nghiệp, xin Chúa Công thu nhận cho.

    Võ Cảnh thấy sự việc xảy ra như trong giấc mơ, Võ Cảnh liền đở hai Đạo Sĩ dậy. Hai Đạo Sĩ thi lễ nói:

    Chúng Thần cảm ơn Chúa Công.

    Hai Đạo Sĩ quay sang những tên ăn cướp:

    Các ngươi nghe đây, người trước mặt các ngươi chính là Võ Cảnh Chúa Công, con của Thiên Tử, Ân Thọ Trụ Vương và Nương Nương Đắc Kỷ.

    Các tên ăn cướp nghe hai Đạo Sĩ nói thế thời kinh hãi, bò tới cúi đầu lạy tạ:

    Chúng Thần xin ra mắt Chúa Công.

    Cũng từ đây Võ Cảnh, chiêu mộ những binh lính không chịu đầu hàng Nhà Chu, ra phò Võ Cảnh lập lên nước Man Du hùng mạnh, nhờ kết giao với quân Hồ và quân Hung Nô làm cho Nhà Chu cũng phải e dè đề phòng.

    Võ Cảnh nhanh chóng xây dựng đất nước hùng mạnh thu nạp những người có tội đến ở, trở hành đội quân hung bạo vô cùng, các nước nhỏ ở gần đấy đều đến quy phục. Võ Cảnh nhiều vợ nên cũng nhiều con, làm thông gia với quân Hồ và quân Hung Nô, nên thế lực càng hùng mạnh, với chính sách ngoại giao khôn khéo với Nhà Chu địa thế khó đánh Võ Cảnh xưng Vương, Cảnh Ân Vương. Nhà Chu muốn diệt cũng diệt không được.

    Có người thở dài nói rằng:

    Nhà Chu thả cọp về rừng, nhổ cỏ chừa gốc, nuôi mầm họa về sau.

    Thành Vương qua đời Chu Mục Vương lên thay, Tạo Thụ được Mục Vương Nhà Chu yêu mến. Ông cha của Tạo Thụ là Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ, nên Võ Cảnh được sự giúp đỡ của Tạo Thụ rất nhiều, vì thế Cảnh Ân Vương càng thêm hùng mạnh. Cảnh Ân Vương nhiều con nên cũng sanh ra nhiều Cháu, toàn là những anh hùng hảo hán, học được nhiều pháp thuật cao siêu, lại có Yêu Hồ giúp sức nên khó ai chống lại được. Ở đời người ta thường nói, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, mộng bành trướng, tham lam không dứt. Đến thời Cháu Chắt của Võ Cảnh, Cảnh Ân Vương theo chí nguyện của tổ tiên là Ân Trụ Vương, giặc Ân xâm lược Nước Văn Lang lần nữa, 961 đến 930 trước công nguyên.

    Đây nói về Phương Bắc, không giống như Phương Nam, chỉ có một nước Văn Lang thống nhất rộng lớn, chỉ cần một Quận, một Huyện, cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc, một Châu ở Văn Lang, bằng một nước lớn ở Phương Bắc, vì thế ở Phương Bắc có đến hàng nghìn Vua, luôn tranh bá với nhau, cho thấy Phương Bắc vào thời đó chưa đi vào thống nhất trật tự như Phương Nam Văn Lang. Phương Nam Văn Lang chỉ có một vì Vua đó là VUA HÙNG, được nối truyền nhau đời nầy sang đời khác 41 đời Vua Hùng, kéo dài độc lập 2701 năm. Chia đất nước ra làm nhiều Bộ, một Bộ chia ra làm nhiều Châu, một Châu chia ra làm nhiều Quận, Huyện, một Huyện chia ra làm nhiều Xã, một xã chia ra làm nhiều Thôn. Chỉ cần một Xã Văn Lang cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc gọi là các trấn chư hầu của Nhà Chu, cũng như các trấn Chư Hầu thời Nhà Ân, Nhà Thương. Như nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Quản, nước Thái, nước Tào, nước Thành, nước Hoắc, nước Vệ, nước Đằng, nước Tấn, nước Ngô, nước Ngu, nước Quách, nước Sở, nước Hứa, nước Tấn, nước Cử, nước Kỷ, nước Trâu, nước Tiết, nước Tống, nước Khởi, nước Kế, nước Cao Ly.

    Các nước trấn Chư Hầu lớn, nhỏ nầy, ngang tầm với các Châu, Quận, Huyện Văn Lang mà thôi, không có nước nào bằng Bộ Văn Lang, có nước nhỏ hơn Quận Huyện Văn Lang. Ở vào thời ấy, các nước lớn ở Phương Bắc, không có nước nào bằng Bộ Giao Chỉ, Bộ Việt Thường.

    Các nước lớn ở Phương Bắc thường thôn tính các nước nhỏ làm trấn Chư Hầu cho mình, có thể nói là thường thôn tính nhau, diệt lẫn nhau, mất chỗ nầy mọc ra chỗ khác, mất chỗ nọ mọc ra chỗ kia, lúc thì đất Ngô, lúc thì đất Sở, lúc thì đất Tấn lúc thì đất Vệ, lúc thì đất Tào lúc thì đất Ngụy, một chỗ đất mà có nhiều tên Vua chồng lấp lên nhau, theo sự chuyển biến của lịch sử, thời Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu cũng vậy, không có sự thống nhất như Phương Nam Văn Lang, không có Vua nầy thôn tính Vua kia, Chúa kia thôn tính Vua nọ, có nghĩa là không có nhiều Vua, chỉ có một vì Vua duy nhất đó là Vua Hùng, hết đời nầy nối sang đời khác, tuy biết rằng đất đai vô cùng rộng lớn, nhưng tất cả đi vào bộ máy thống nhất, từ trên xuống dưới, sống trong một nền Hiến Pháp, Quốc Đạo Văn Minh. Không như ở Phương Bắc hàng nghìn vị Vua, thôn tính nhau, chiếm đoạt nhau, tàn sát lẫn nhau, nay là đất của Sở, mai là đất của Ngô, không cố định, diệt chỗ nầy có điều kiện thời sanh lại chỗ khác, vì thế phương Bắc chiến tranh cướp đoạt đất đai thôn tính nhau triền miên. Đúng như câu đất đai không của riêng ai, người nào mạnh thời người đó được, được xưng Vua thua cho là Giặc, xem đi xét lại Giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

    Không như Phương Nam chỉ duy nhất một Nước Văn Lang rộng lớn, một đất nước cố định mãi mãi, trước sau cũng chỉ là nước Văn Lang, chỉ chuyển đổi niên đại mà thôi. Niên Đại Hồng Hoang, Niên Đại Hồng Bàng, Niên Đại Hồng Đế, Niên Đại Viêm Đế Thần Nông, Niên Đại Kinh Dương Vương, Niên Đại Hùng Vương, chuyển sang thời Âu Lạc.

    Nếu đem so sánh, Bắc – Nam, thời nước Văn Lang là một đất nước duy nhất cố định, luôn luôn thống nhất không có cảnh chia đất nước ra làm nhiều nước, mà chỉ phân chia đất nước ra làm nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, nhiều Huyện, thống nhất trong một Nhà Nước Văn Lang, chỉ có một Vua, không có cảnh nhiều Vua tàn sát lẫn nhau như Phương Bắc. Vì thế nước Văn Lang hể mất là mất luôn, không bao giờ mọc ra chỗ khác được, như ở Phương Bắc, như nước Dịch, nước Cao mất đất chỗ nầy, mọc ra chỗ đất khác, Vệ mất đất nầy Vệ mọc ra nơi đất khác, các nước khác cũng thế.

    Trong lịch sử kéo dài hàng nghìn nghìn năm, Phương Nam nước Văn Lang nằm trên đất Văn Lang, mãi mãi như thế hể mất là mất, hể còn là còn, không thể mất ở đất nầy mọc ra nơi đất khác được. Có thể nói Phương Bắc ở vào thời đó chưa có nền Văn Hiến thống nhất, luôn luôn hỗn độn chia nhỏ nhiều nước ăn nuốt lẫn nhau, tiêu diệt nhau, xâm lấn nhau, hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác, lúc nào cũng nghe chiến tranh nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Tống, nước Tấn, nước Trần, thôn tính lẫn nhau, diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, lớn mạnh ở đất nầy, lại bị thu nhỏ lại ở đất khác, bởi tham vọng chiếm đoạt, triệt hạ, giành giật thôn tính lẫn nhau.

    Không như nước Văn Lang, chia ra làm nhiều Bộ, mỗi Bộ chia ra làm nhiều Châu, mỗi Châu chia ra làm nhiều Quận Huyện, tuy rộng lớn vô cùng, nhưng không có chiến tranh tranh giành thuộc địa giữa bộ nầy, với bộ khác, các châu nầy với châu khác, nên không có sự xưng Vua, xưng Chúa nhiều như đất Phương Bắc, thống nhất về một mối một Nhà Nước Văn Lang, thống nhất chỉ có một Quốc Tổ Vua Hùng.

    Và chỉ có một Niên Hiệu Vua Hùng trên Đất Nước Văn Lang, kéo dài sự độc lập 2701 năm kể cả thời dựng nước, thời dựng nước là 79 năm, thời Quốc Tổ, sau thời Quốc Tổ là thời giữ nước, 2622 năm, và cho đến thời hạ Hùng Vương đời thứ 6 Hùng Huy Vương trong 18 đời hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên, dân bắc Văn Lang bị đồng hóa bởi nền Văn Hóa Phương Bắc, bằng con đường ngoại giao buôn bán hội nhập, cọng với sự di cư bất hợp pháp dân các nước Phương Bắc lánh nạn chiến tranh qua bắc Văn Lang, hàng vạn, vạn người trong vòng mấy mươi năm, những Bộ, những Châu, những Quận, những Huyện, dân chúng tăng lên chóng mặt, dân chúng Phương Bắc di cư qua Bắc Văn Lang mang theo cả nền Văn Hóa Phương Bắc, làm cho dân chúng Bắc Văn Lang bị mê hoặc, từ đó Bắc Văn Lang dần dần đi vào đại loạn, phần đông từ Vương Quan cho đến dân Chúng đều mê hoặc bởi thứ văn hóa bói toán, nhập đồng, nhập bóng, xin xăm, bói quẻ, tiên tri độc hại nầy, không dè chừng Văn Hóa Phương Bắc, vì nghĩ Văn Hóa Phương Bắc không có gì độc hại, nên không kiểm soát về văn hóa, dẫn đến tai hại biến Bắc Văn Lang đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, ngã lần về phương Bắc rồi trở thành lệ thuộc dần phương Bắc, cũng từ đó Bắc Văn Lang nhiều nội loạn nổi lên đòi tự trị, làm biến động tình hình Bắc Văn Lang.

    Hàng vạn vạn người dân các nước Phương Bắc di cư sang ở Bắc Văn Lang, họ mang theo nền văn hóa Phương Bắc, nền văn hóa bói toán, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng cầu cạnh thần linh, những nhân vật được tôn thờ từ phương Bắc du nhập vào Bắc Văn Lang, làm mê hoặc dân Văn Lang. Vì lúc ấy dân tộc Văn Lang, đã lạc Nguồn lạc Cội, nên ngã theo tôn thờ thần linh ở phương Bắc, và dần dần dân tộc Bắc Văn Lang đi vào mất gốc, không những mất gốc về Văn Hóa Cội Nguồn, mà còn mất luôn cái gốc Truyền Thống dựng nước giữ nước Văn Lang.

    Vì hấp thụ Văn Hóa phương Bắc, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên, đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua nầy Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy, được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc.

    Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắc đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến. Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi dục của các thế tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, có sự hậu thuẫn từ phương Bắc, nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hóa phương Bắc, Văn Hóa của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hóa chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh, những ông Vua Việt nổi lên, như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau nầy bị Doãn Thường Việt nổi lên diệt sạch chiếm lĩnh Bắc Văn Lang, xưng hùng xưng bá.

    Tổ Tiên của Doãn Thường Việt, là dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang, đời Nhà Hạ, qua nhiều triều đại thôn tính lật đổ nhau, con cháu Vua Vũ lánh nạn di cư đến đất Cối Kê, cắt tóc xăm mình như dân Văn Lang, trải qua hai mươi đời trở thành dân Văn Lang, đến đời Doãn Thường thời nổi lên như một vị anh hùng, dân chúng theo về rất đông, tiêu diệt nhiều thế lực tự trị, như thế lực Việt Hoa, thế lực Kinh Việt, thế lực Mân Việt, thế lực Âu Việt, thế lực Lạc Việt, thế lực Điền Việt, thế lực Kiều Việt, nói chung là nhiều thế lực Bách Việt nổi lên tự trị, bị Doãn Thường thôn tính, xưng là Vua Việt. Doãn Thường chết con là Câu Tiễn được lập làm Việt Vương, Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia.
     
  7. shopoga

    Bài viết:
    513
    Cùng vào thời kỳ ấy Bắc Văn Lang đã nổi lên nhiều thế lực từ những nước láng giềng xâm lược qua, như Ngô, Tề, Sở, vân vân.. Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy không khác gì phương Bắc các thế lực tự trị, luôn luôn thôn tính lẫn nhau, Vua Điền Việt mất chỗ nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Mân Việt mất chỗ đất nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Dương Việt cũng vậy mất chỗ đất này mọc lên chỗ đất khác, cứ như thế mà tranh bá tranh hùng, thôn tính lẫn nhau. Theo khẩu hiệu Phương Bắc (thiện hạ đất đai không của riêng ai, người nào mạnh người đó được).

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bắc Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, những cuộc chiến xâu xé lẫn nhau, của nhiều thế lực tự trị xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính lẫn nhau hủy diệt lẫn nhau, mạnh được yếu thua, đất đai thuộc về người khác, cứ thế mà chiếm qua chiếm lại. Nay thuộc đất Dương, mai thuộc đất Mân, mốt thuộc đất Lạc, vị trí đất đai, theo nhân vật con người, cùng một chỗ đất, ba hồi là đất Dương, ba hồi là đất Mân, ba hồi là đất Lạc, không khác gì phương Bắc. Dân bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, chính là một trong những nguyên do dẫn đến mất Bắc Văn Lang, đồng hóa với phương Bắc.

    Khi Bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, dân tộc Văn Lang tàn sát dân tộc Văn Lang, những khu tự trị nổi lên, đất Văn Lang mất lần mất lần, chiến tranh càng lớn đất Văn Lang càng mất về tay Phương Bắc, nhất là những cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt, đây chính là cơ hội các thế lực Phương Bắc chiếm lần đất đai Văn Lang, bằng con đường đưa quân sang giúp cho những thế lực tự trị yếu hơn, nhân cơ hội đó chiếm luôn đất đai.

    Hoặc buộc những thế lực chiến thắng cắt đất giao cho họ, thế là Bắc Văn Lang lần lần mất đất về tay phương Bắc. Cứ mỗi lần chiến tranh nội bộ nồi da nấu thịt xảy ra, là mỗi lần mất đất về tay phương Bắc, và cứ thế phương Bắc nuốt lần đất phương Nam, hết nghìn năm nầy sang nghìn năm khác, và nuốt mãi cho đến tận ngày nay.

    Nói về thời hạ Hùng Vương, đời thứ 3 Hùng Tiên Lang, đánh bại quân xâm lược Nhà Ân, cắt đứt quan hệ với phương Bắc, cho đến khi Nhà Ân bị hủy diệt, Nhà Chu lên thay thế, Võ Vương chết, Thành Vương lên thay, thời nước Văn Lang nối lại quan hệ ngoại giao với phương Bắc Vào năm (1063 trước công nguyên) đây không phải là lần đầu quan hệ ngoại giao sang thăm Phương Bắc.

    Khi ấy nước Văn Lang đời thứ tư hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương (Bảo Lang) trị vì thiên hạ, Hùng Diệp Vương chỉ thị cho Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đại diện cho nước Văn Lang, sang thăm Phương Bắc, Thành Vương Nhà Chu thị hiến chim Trĩ Trắng, nối lại quan hệ ngoại giao, hai phương Nam – Bắc láng giềng.

    Ở vào thời đó Bộ Việt Thường ở Nam, Bộ Giao Chỉ ở Bắc hai bộ lớn nhất nước Văn Lang thời đó. Lạc Vương, đứng đầu (bộ Việt Thường) được chọn đại diện cho nước Văn Lang nối lại quan hệ ban giao Nam – Bắc.

    Nói về Chu Thành Vương hỏi các quan:

    Nghe nói có sứ giả Văn Lang phương Nam đến thăm phương Bắc chúng ta việc đó có thiệt không?

    Triệu Công Thích tâu:

    Bẩm Chúa công Bệ Hạ, quả có sứ giả Văn Lang đã đến triều ca đang ở ngoài thành, nhưng chỉ là Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đem phẩm vật chim trĩ trắng dâng lên Bệ Hạ quan hệ ban giao Nam – Bắc, xin bệ hạ định đoạt.

    Thành Vương nói:

    Còn ai có ý kiến gì nữa không?

    Chu Công Đán nói:

    Tâu Chúa Công Bệ Hạ, Văn Lang là một đất nước lớn, không thua kém gì Phương Bắc chúng ta, nước Văn Lang có hai bộ lớn nhất, đó là Bộ Việt Thường, Bộ Giao Chỉ, là hai bộ lớn nhất của nước Văn Lang, hơn nữa Bộ Việt Thường là nơi Vua Hùng đang ở. Lạc Vương đứng đầu Bộ Việt Thường, quan hệ ban giao thời không khác gì Vua Hùng, xin Bệ Hạ cân nhắc.

    Thành Vương nói:

    Nếu Vua Hùng sang sứ ban giao thời Trẫm đích thân trải thảm tiếp đón. Còn Lạc Vương thời giao cho Chu Công tiếp đón nghị luận ban giao vậy.

    Đây nói về Lạc Vương, cùng các Quan đang đợi người đến tiếp dẫn vào triều ca ra mắt Thành Vương. Đang lúc đang đợi bỗng thấy quân lính chỉnh tề cờ xe kiệu rước vô cùng trang nghiêm long trọng. Lạc Vương là người rất thông minh thấy cảnh đón rước thời biết ngay là vừa tôn trọng vừa thị huy. Lạc Vương được tiếp đón vào một ngôi dinh thự thật lớn, tiếp đãi tử tế. Qua lời chào hỏi giới thiệu Lạc Vương biết người tiếp đón mình chính là Chu Công, dưới Thành Vương mà thôi, nên lấy làm hài lòng, và Chu Công cũng hiểu rõ điều đó, hai bên nói qua nói lại rất thâm tình.

    Đến lúc nầy Chu Công mới nói:

    Chính lệnh không ban đến, thời người quân tử không coi nhau như là bề tôi của mình, thẳng thắng công bằng mà nghị sự.

    Ở được mười hôm Chu Công cho người làm xe mới, ngựa mới, cho người đưa tiễn sứ giả về nước. Phương Bắc bao giờ cũng mang lòng dạ đen tối, trăm phương nghìn kế chiếm cho được đất phương Nam, nhất là những nước lận với Văn Lang. Được sự ban giao giữa Văn Lang và Tây Chu cho phép giao thương Nam Bắc thông thương quan hệ láng giềng đây là cơ hội mộng bành trướng phương Bắc, mà không có một chút trở ngại nào. Những nước gần Bắc Văn Lang, như nước Tề, nước Ngô, nước Sở.

    Đây nói về Tề Thái Công. Thái Công Vọng tức là Lữ Thượng người Đông Hải, Tổ Tiên ông ta am hiểu về thuật phong thủy, làm tứ nhạc giúp Vua Vũ rất có công, đời Ngu và đời Hạ, được phong ở đất Lữ bao gồm cả đất Thân, họ Khương. Đến đời Thương thời Tề Thái Công được sanh ra, ông ta vốn họ Khương, nhưng lấy họ theo tên đất, cho nên gọi là Lữ Thượng. Lữ Thượng thường bị nghèo khổ, tuổi đã già nhờ câu cá mà gặp Tây Bá nhà Chu, ở vào thời kỳ nầy thuật bói toán, thuật xin xăm đón quẻ phải nói là vô cùng hưng thịnh, cầu tài cầu lợi, cầu quỉ, cầu ma, cầu Thần, cầu Thánh. (Khi đó phương Nam Văn Lang không có thứ văn hóa nầy, mà chỉ có một nền văn hóa duy nhất là văn hóa Cội Nguồn. Nhưng đã bị thất truyền, vì do sự thất truyền nên người dân Văn Lang mất phương hướng, nên bị văn hóa phương Bắc bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu thần, cầu quỉ, cầu ma, truyền sang làm cho mê hoặc, nhất là Bắc Văn Lang).

    Lữ Thượng nghèo khổ sống nhờ câu cá. Một hôm Tây Bá sắp đi săn, sai bói quẻ, quẻ ứng cho biết: "Cái bắt được không phải là Rồng, không phải là Ly, không phải là Hổ, không phải là Gấu, vật bắt được là con người sẽ giúp đỡ cho mộng Bá Vương làm nên nghiệp lớn'.

    Tây Bá Chu đi săn quả nhiên gặp được Thái Công, ở phía Bắc sông Vị. Thái Công là người hiểu biết rộng, đã có lần thờ Vua Trụ, nhưng Vua Trụ vô đạo, không phải là bậc Thiên Tử chánh chân, nên Thái Công bỏ đi. Đi du thuyết các nước chư hầu, không được ai nghe, cuối cùng trở về phía Tây về với Tây Bá nhà Chu, làm thầy Văn Vương, Võ Vương. Sau khi Văn Vương chết, Võ Vương lên ngôi năm thứ chín, Võ Vương đem quân đi về phía Đông để xem các nước chư hầu có đến họp không.

    Thái Công tay trái cầm búa Hoàng Việt, tay phải cầm cờ Bạch Mao tuyên thệ:" Hỡi những con Tê Giác xanh! Các ngươi hãy tập họp lại, ta trao thuyền và mái chèo cho các ngươi, kẻ nào đến sau thì bị chém đầu ".

    Lời tuyên thệ ấy đến tai các nước. Khi đến bến Mạnh Tân, các nước chư hầu đến họp tám trăm nước. (Để hiểu rõ đoạn Kinh trên chúng ta có thể hiểu các nước ở phương Bắc, chỉ bằng những Châu, Huyện, Quận, ở nước Văn Lang mà thôi). Chỉ nội ở phía Đông nhà Ân mà có đến 800 nước, thời chúng ta cũng hiểu rõ những nước ở phương Bắc phải nói là như Nấm, Vua nhiều như Giá, tự xưng tự trị khắp nơi, không có sự đoàn kết thống nhất. Đó chính là văn hóa tự trị, nói cho rõ hơn nữa đó chính là văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, văn hóa cạnh tranh hủy diệt nhau, không phải văn hóa cạnh tranh của sự phát triển, văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, là văn hóa không có sự công bằng, bình đẳng, mà chỉ có mạnh được yếu thua. Tất cả các nước phương Bắc thời đó, mỗi nước đều có mỗi thể chế giáo điều riêng, không dựa trên một nguyên tắc nào cả, ai mưu mô xảo quyệt hơn thời nước đó mạnh. Chia bè, chia nhốm, tự xưng mình là Vua, biết rằng mình chỉ làm chủ một khu đất nhỏ, vài trăm nóc nhà, vài nghìn nóc nhà. (So ra chỉ bằng Châu, Phủ, Quận, Huyện, nước Văn Lang mà thôi).

    Sau khi Võ Vương bình định xong nhà Ân, cơ nghiệp nhà Thương không còn, Võ Vương phong cho Lữ Thượng, (tên tộc là Vọng) chức Thái Công làm chủ đất Tề, Thái Công là người giỏi về chính sự, nên dân chúng theo về rất đông, làm cho nước Tề càng thêm lớn mạnh.

    Đến thời Thành Vương, nhà Chu còn nhỏ. Quản Thúc, Thái Thúc làm loạn, những người di cư ở đất Hoài phản lại nhà Chu. Nhà Chu sai Thiệu Khang Công, ra lệnh cho Thái Công. Từ phía Đông cho đến biển, phía Tây cho đến sông Hoàng Hà, phía Nam cho đến Mục Lăng, phía Bắc cho đến Vô Lệ, năm hầu chín bá đều được phép chinh phục.

    Do đó nước Tề trở thành một nước lớn, tiếp giáp với Bắc Văn Lang, đóng đô ở Dinh Khâu. Thái Công là người am hiểu về thuật số toán số biết rõ Văn Lang khí số mạc dần, Bắc Văn Lang sẽ mất về tay phương Bắc, vì dân Bắc Văn Lang không hiểu gì về văn hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc đã bị mất, tinh thần người dân như ruộng bỏ hoang, rất dễ đầu độc, nên dạy cho Lữ Cấp tức là Định Công với những âm mưu lớn.

    Thái Công thường dạy Lữ Cấp rằng: Nếu chúng ta có được Bắc Văn Lang thời coi như chúng ta sẽ có tất cả, muốn có được đất Văn Lang không có con đường nào khác hơn là hàng phục dân Văn Lang bằng con đường văn hóa, đầu độc văn hóa, bằng con đường bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh, sẽ làm mê hoặc dân Văn Lang. Cộng thêm mở mang nghề buôn, nghề thợ với Văn Lang, giao dịch với Bắc Văn Lang nghề trồng lúa, nghề cá, nghề muối, nhất là tìm hiểu về nghề luyện thép, bí mật của nước Văn Lang. Điều bí mật thành công là phải làm cho Bắc Văn Lang nổi lên từng vùng đòi tự trị, như phương Bắc chúng ta, khi đó họ đánh nhau họ cầu cứu ta, ta giúp cho họ thế là ta nuốt trọn họ, họ không theo ta thì họ còn theo ai, vì họ đã phản lại nhà nước Văn Lang, thời họ không còn con đường để mà lựa chọn, họ chống lại nhà nước Văn Lang, tức là họ đã ngã về ta, và ta lần đồng hóa họ, trở thành dân phương Bắc, mà hể dân phương Bắc tới đâu thời đất Văn Lang mất tới đó. Phương kế nuốt lần đất Văn Lang, không phải một đời mà nhiều đời, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, đất Văn Lang mất lần, mất lần, nhà nước Văn Lang tuy có biết nhưng không sao ngăn chặn được. Cướp đất Văn Lang theo kiểu nầy, thời hiệu quả không chê vào đâu được. Cứ mỗi lần làm cho họ nồi da nấu thịt, dân Văn Lang tự tàn sát lẫn nhau, là mỗi lần chúng ta được lợi lớn, chúng ta không những lấy được đất Văn Lang mà còn gồm thâu được dân Văn Lang, sự thành công nầy không phải một đời mà nhiều đời.

    Thái Công chết người con là Lữ Cấp, Định Công kế vị đi theo con đường của cha, quả là hiệu quả vô cùng, không những được mặc lợi về giao thương buôn bán, mà còn được lợi về mặc chính trị, quả thật dân Văn Lang mê say về thuật bói toán, xin xăm bói quẻ, cầu cạnh thần linh, nghiện đến nổi thiếu thứ gì thời được, nhưng thiếu về thuật số, bói toán, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh thời chịu không nổi, quẻ ứng ông nầy làm Vua, bà nọ làm Chúa thời tin răm rắp, không những dân chúng mà ngay cả Vương Quan cũng bị mê hoặc và từ đó hình lên mộng tự trị, chia bè chia nhóm ra, thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, và được sự giúp đỡ của những nước lân cận Bắc Văn Lang, như Ngô, Sở, Tề, thậm chí các nước ở xa như Triệu, Tấn.

    Sự mở cửa giao thương hợp tác toàn diện, Nam – Bắc ở vào thời kỳ nầy, thời kỳ văn hóa Cội Nguồn không còn, là một điều bất lợi cho nước Văn Lang. Không như thời Hùng Vương dựng nước, văn hóa Cội Nguồn hưng thịnh, càng giao thương hợp tác toàn diện càng có lợi.

    Nói về nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang thường có tục lệ vẽ mình làm cho thủy quái, ác thú không dám đến gần, nhất là dân tộc Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt.

    Ngô Thái Bá cùng với em Thái Bá là Trọng Ung, đều là con của Thái Vương nhà Chu, hai người đều có mộng lớn làm Vua, và là anh của Quý Lịch. Quý Lịch hiền, nên Thái Vương lập Quý Lịch làm Vua, bị cú sốc nặng biết tình thế không xong, không lẽ tranh ngôi với em mình, hai người bằng trốn đến đất Kinh, người Nam Bắc di cư đến ở giáp ranh với Tây Bắc Văn Lang. Ngô Thái Bá, Ngô Trọng Ung bắt chước cắt tóc vẽ mình giống như người Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt, tự gọi mình là Câu Ngô.

    Những người Nam Bắc, thuộc đất Kinh cho hai ông là người có nghĩa khí, họ theo hai ông hơn nghìn nóc nhà tôn hai ông làm Vua, Vua Ngô Thái Bá, Ngô Thái Bá không con, người em là Trọng Ung, lên kế vị ngôi Vua, Vua Ngô." Lịch sử đã cho ta thấy, văn hóa cách sống tự trị của người phương Bắc, chỉ cần nghìn gia đình, hoặc vài trăm gia đình thời đã có Vua rồi, không như nước Văn Lang cả hàng triệu gia đình mới có Vua". Nói đến đất Kinh dễ lầm đất Kinh Bắc Văn Lang, nhưng thật ra bên kia biên giới cũng có đất Kinh, đó là đất Kinh Bắc, không phải đất Kinh Nam. Ngô Thái Gia và Ngô Trọng Ung hai người đều có tham vọng lớn không chịu một nước Ngô nhỏ bé, theo kiểu tự trị của mình, nên lúc nào cũng dòm ngó Bắc Văn Lang bằng lập ra kế sách lâu dài, chiếm lấy cho được Bắc Văn Lang. Ngô Thái Gia, Ngô Trọng Ung đều có kế sách giống nhau, (Muốn chiếm được đất Văn Lang, chỉ có một con đường duy nhất, là đồng hóa dân Văn Lang theo văn hóa phương Bắc, văn hóa tự trị, Vua nổi lên mọc khắp vùng, thôn tính lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau, mạnh được yếu thua, được là Vua thua là giặc, đó chính là cơ hội cho ta thôn tính Bắc Văn Lang, nhờ sự hậu thuẫn của nhà Chu).

    Lúc bấy giờ Võ Vương nhà Chu đã lật đổ thôn tính nhà Ân, bằng cho người tìm con cháu của Thái Bá và Trọng Ung, tìm được Chu Chương. Khi đó Chu Chương đã làm Vua ở nước Ngô, cho nên nhân đó mà phong chính thức Vua Ngô, sự thừa nhận của nhà Chu, lại phong cho Ngu Trọng em của Chu Chương ở phía Bắc đất Chu là đất Hạ. Chu Chương chính thức được thừa nhận Võ Vương, nhà Chu, phong chính thức Vua Ngô. Nên nước Ngô càng thêm lớn mạnh, nhờ gồm thâu một số nước nhỏ. Chu Chương lòng đầy tham vọng, lúc nào cũng dòm ngó Văn Lang, khi Chu Chương còn nhỏ thường chu du Bắc Văn Lang nên hiểu rõ Bắc Văn Lang như trong lòng bàn tay. Nay cơ hội ban giao hai nước láng giềng Nam Bắc hợp tác toàn diện, đây chính là cơ hội mộng bá đồ bành trướng nước Ngô chiếm lấy Bắc Văn Lang.

    Chu Chương cho người qua ban giao hợp tác với các Châu phủ Văn Lang, láng giềng, lúc bấy giờ một số Châu Phủ, Quan, Vương, tha hóa, bê tha, tham nhũng, tửu sắc, bị Chu Chương câu miếng nào miếng nấy chắc mẩm, cho người sang qua đầu độc văn hóa, làm cho dân Văn Lang quên đi Nguồn Cội truyền thống anh Linh của mình, chạy theo bói toán, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, mê tín, dị đoan. Quẻ ứng nói con ông nầy là Vua, con bà kia là Chúa, kích động nổi lên tự trị nhiều vùng, Bắc Văn Lang dần dần đi đến hỗn loạn, nguy cơ Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi hiện rõ.

    Kể từ khi Thái Bá và Trọng Ung, lập nước Ngô, được năm đời, thời Võ Vương tiêu diệt được nhà Ân, phong con cháu của Thái Bá ở hai nơi. Một nơi là nước Ngô ở Man Di, một nơi Bắc đất Chu là đất Hạ, truyền xuống được mười hai đời, thời nước Tấn tiêu diệt nước Ngô ở đất Kinh, chỉ còn nước Ngô hưng thịnh ở Nam Man Di, tức là ở Tây Bắc Văn Lang, như vậy mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang đã thành công.

    Nước Sở, Sở Tử họ Mỹ, dòng giống Vua Chuyên Húc, Mỹ Tử là Dực Hùng, làm thầy Vua Văn Vương, bởi có công lao, nay Võ Vương phong nước Sở. Đến thời Sở Linh Công thời mở mang nghiệp bá quan hệ với Bắc Văn Lang, Sở Linh Công thấy Bắc Văn Lang quả thật đất đai trù phú, đất đen bốc hơi mạnh, đồng ruộng xanh rì bao la bát ngát, cá tôm đầy ắp, buôn bán tấp nập thời thèm khác vô cùng, Quý Nhân có tài toán số biết phương Nam khí thế mạc dần, đất Bắc Văn Lang sẽ mất dần về tay Phương Bắc, bằng bày mưu hiến kế cho Sở Linh Công, chiếm đoạt đất đai Văn Lang.

    Sở Linh Công hỏi:

    Chiếm đoạt bằng cách nào?

    Quý Nhân nói:

    Không phải chiếm liền được đâu, mà phải có kế sách lâu dài, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, phải giao thương văn hóa với Bắc Văn Lang, làm cho dân Bắc Văn Lang tôn thờ văn hóa phương Bắc, thời mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang mới thành.

    Linh Công hỏi:

    Giao thương văn hóa theo cách nào?

    Quý Nhân nói:

    Giao thương qua con đường buôn bán, xuất khẩu lao động, qua làm thê cho các Lạc Điền, Hùng Điền. Mua chuộc các Quan, Châu Phủ, Bố Chính, Hữu Tư từng bước từng bước khi nào thấy Bắc Văn Lang hỗn loạn, nhiều nhân vật nổi lên đòi tự trị, chúng thôn tính lẫn nhau đó là thời cơ cho ta chiếm đất Văn Lang. Hơn nữa chúng đã đòi tự trị chống lại nhà nước Văn Lang, thời chúng không còn con đường nào khác hơn là theo về với chúng ta mà thôi, vì thế nước Sở chúng ta không phải chỉ ở đất Bắc còn có ở đất Nam nữa.

    Linh Công nghe phải bằng thực hiện theo kế sách đó. Đến đời, Sở Bình Vương, thời đã chiếm được một phần đất Bắc Văn Lang, Quân Việt đòi lại nhưng không làm gì được, vào năm 548 trước công nguyên.

    Tóm lại; Ở vào thời kỳ Văn Lang suy tàn vì mất đi văn hóa Cội Nguồn chính sách ban giao Nam Bắc, hợp tác toàn diện, dẫn đến bất lợi cho Văn Lang, với bao thủ đoạn mánh khóe, hiểm độc, thủ đoạn, xé Bắc Văn Lang ra từng mảnh nhỏ, tạo ra cơ hội thuận thời cơ thôn tính, một cách dễ dàng, với thủ đoạn ăn mòn, như tằm ăn dâu, như mối, mọt, ăn cây, nuốt lần đất Văn Lang, các Vua Hùng ở thời cuối đành bó tay, dẫn đến không những mất Bắc Văn Lang, mà ngay cả Trung Văn Lang cũng mất luôn, đây là một thảm kịch vì đã mất đi văn hóa Cội Nguồn, bị văn hóa Bắc phương xâm hại, thôn tính tinh thần dân tộc Văn Lang, luôn theo chiều hướng có lợi cho chúng, thảm thay thảm thay.

    Vận thế vần xoay cuộc cơ trời

    Họa phúc đối đầu mãi ai ơi

    Thiện ác gieo ra rồi phải gặt

    Tránh đâu cho khỏi đạo luật trời.

    Đây nói về Võ Cảnh, thoát khỏi họng cọp rời khỏi triều ca như con chim thoát ra khỏi lồng, băng suối lội rừng, cuối cùng cũng đến nơi mình muốn đến, được hai Đạo sĩ tả Tiên và hữu Tiên, phò trì. Kêu gọi tàn quân Ân những người không chịu ra hàng nhà Chu, ẩn vào rừng sâu làm cướp, số người lên đến hàng nghìn nghìn người, toàn là những tay dũng sĩ tài ba, lập lên nước Nam Du, Tây Du, xưng là Cảnh Ân Vương. Mỗi ngày một thêm lớn mạnh, những tên cướp theo về càng đông.

    Võ Cảnh lấy vợ người Hồ, sanh ra Hồ Tôn Vương. Hồ Tôn Vương lấy con gái Chúa Hung Nô là Man Man sanh ra Ân Mao Vương, đây nói về Man Man, Vương Hậu. Man Man một hôm nằm ngủ thấy một trận cuồng phong thấy toàn là yêu tinh quỉ dữ dưới sự chỉ huy con Hồ tinh to lớn đánh về phương Nam khói lửa đậy trời, lại thấy một con Rồng Vàng xuất hiện, đánh nhau với con Hồ Tinh to lớn long trời lở đất, Man Man khiếp hồn tỉnh dậy. Không bao lâu thời biết mình đã mang thai, đến ngày khai hoa nở nhị Man Man sanh ra một em bé kháu khỉnh, lúc ấy các loài chim dữ bay đến, khi chúng bay đi rơi xuống một chiếc lông Võ Cảnh liền đặt tên cho con là Ân Mao. Ân Mao càng lớn càng thông minh kỳ lạ, khôn ngoan đáo để, túc trí đa mưu, mà còn có mộng bành trướng, có ý gồm thâu thiên hạ. Võ Cảnh thấy vậy rất vừa lòng.

    Một hôm Ân Mao đang chơi thời bỗng thấy ba Đạo Sĩ xuất hiện nói:

    Con theo ta về động để tu Tiên học Đạo.

    Nói xong ba Đạo Sĩ cùng Ân Mao biến mất, những người hầu Ân Mao hoảng kinh, báo cho Tôn Vương cùng Man Hậu. Man Nương nghe xong lấy làm kinh hải, Hồ Tôn Vương nói:

    Không sao đâu. Mao Nhi theo thầy học Đạo không có gì phải lo.

    Đây nói về Ân Mao được ba Đạo Sĩ đưa đến một nơi rất xa xôi, đến một ngọn núi đá gần một cái hồ rộng lớn, phong cảnh vô cùng xinh đẹp.

    Đạo Sĩ mặt trắng dễ coi hơn nói với Ân Mao:

    Thầy là Hồ Nhất Tinh, còn đây là Hồ Nhị Yêu.

    Ân Mao bước tới quỳ lạy Nhị Yêu mặt xám, Nhị Yêu mặt xám khen:

    Thằng bé nầy thông minh lắm.

    Nhị Yêu chỉ Tam Quỹ nói:

    Đây là Hồ Tam Quỹ con đến chào hỏi đi.

    Ân Mao đến quỳ lạy ra mắt nói:

    Con là Ân Mao kính lạy tam sư phụ.

    Tam Quỹ thấy Ân Mao không những khôn ngoan mà còn đầy lòng xảo quyệt, thời thích lắm.

    Cùng thời với Ân Mao bên đất hung nô em của Man Man là Mạo Mạo sanh ra một em bé sát khí đầy trời, nên đặt tên cho em bé là Sát Sát.

    Cũng cùng thời lúc ấy, bên đất Hồ, Hồ Nương Nương cũng hạ sanh một bé gái, lúc hạ sanh bé gái thời một trận gió nổi lên làm cát bay đá chạy, nên đặt tên cho em bé là Nghịch Phong. Nghịch Phong lớn lên không những xinh đẹp mà thường làm những điều không ai tưởng tượng nổi, như treo ngược mình lên cây, chơi với loài hung dữ như cọp, beo, sói. Một hôm Nghịch Phong đang chơi, bỗng một luồng cuồng phong xuất hiện cuốn phen Nghịch Phong đi mất.

    Đây nói về Sát Sát càng lớn càng xinh đẹp lại ưa chơi với loài hung độc như rắn, rít, bò cạp, tính tình tàn độc vô cùng, tuổi còn nhỏ mà đã giết chết Nữ Tỳ. Tỳ Nữ không ai là không khiếp sợ. Một hôm Sát Sát đang chơi thời một Đạo Cô xuất hiện thu nhận Sát Sát làm đệ tử, bay lên mây rồi biến mất.

    Đây nói về thời hạ Hùng Huy Vương, đời thứ 6 (Pháp Hải Lang) nước Văn Lang đã bắc đầu suy vong, vì nền văn hóa Cội Nguồn đã mất lần hết những điều cơ bản dẫn đến độc tài độc trị, dân chúng mỗi ngày mỗi mất lòng tin, cuộc sống lần lần không còn bình đẳng, quyền con người cũng dần dần biến mất, thay vào đó là chế độ độc trị, độc tài, không khác gì phương Bắc, Vua là trên hết.

    Không như thời dựng nước tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua, mà là nền Quốc Đạo dân tộc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội. QUỐC TỔ VUA HÙNG, là vị vua tối cao, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, nắm giữ cán cân Công lý xã hội, lập ra tam quyền phân lập. LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, ĐẠO PHÁP ĐỘC LẬP. Lãnh đạo và điều hành đất nước.

    Ở thời kỳ hạ Hùng Vương đời thứ 6, thời bộ máy nhà nước Văn Lang chỉ là nhà nước độc quyền, độc trị, theo kiểu độc quyền, độc trị ở phương Bắc, tất cả quyền hành đều dồn hết cho một quyền lực đó là Vua. Không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội trên hết nữa, Vua muốn làm gì thì làm, không cần thông qua bộ máy nhà nước. Mà sống theo chế độ thể chế độc trị, độc tài. Cái độc trị, độc tài ấy lần lần ăn sâu vào các cấp Lãnh đạo nhà nước Văn Lang, từ Vua, Quan, các cấp, cho đến chí dân. Lần lần ai nấy cũng chỉ biết nghĩ đến cái lợi của mình, dân lần trở thành vô cảm, tính đoàn kết không còn như thời ông cha nữa, còn Vương Quan thời vơ vét tôm thâu bao cái lợi về mình. Sự khởi đầu, dân chúng bất bình chính là độc tài, độc trị nầy, càng về sau các Vua Hùng càng nặng, cũng như Vương Quan các đời về sau càng nặng, dẫn đến xa rời dân chúng, ai cũng vì túi riêng của mình, hà khắc sách nhiễu dân chúng. Mở đường cho bao mối họa sanh ra nội loạn, cơ hội cho ngoại xâm, xâm chiếm đất đai.

    Hùng Huy Vương lâm triều lúc nào cũng nghe tấu sớ báo cáo Bắc Văn Lang dân chúng nổi lên dấy loạn khắp nơi đòi tự trị.

    Vua Hùng nổi giận nói:

    Con cháu Tiên Rồng mà bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, đến thế sao. Các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, sao để xảy ra những chuyện ấy.

    Bằng ra cáo văn chỉ thị: Những Bộ, những Châu, những Huyện, những Quận, có nội loạn về kinh đô hội kiến.

    Không bao lâu thời các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, có nội loạn dân chúng nổi lên đòi tự trị, về kinh đô báo cáo thật tế tình hình.

    Nhìn Kinh Đô thật yên bình, nay đã là tháng ba thế mà trời đất vẫn chưa được trong xanh sáng tỏ, lúc nào cũng u ám như có điều chi buồn bã, buôn tiếng thở dài ông cụ nói:

    Lòng tham con người không kìm chế được thời chuyện gì cũng xảy ra, hôm nay là ngày hộp trọng đại nơi triều nội, tí nữa là ta quên mất.

    Người đó là ai thế? Người đó không ai khác hơn là Lạc Vương, Hữu Thừa Tướng, đứng đầu trăm quan. Các Quan đầy đủ, Vua Hùng lâm triều, tấu sớ dâng lên nhiều hơn mọi lần. Hùng Vương xem cáo văn báo cáo, các Bộ, Châu, biên giới Bắc Văn Lang như sau: Thần là Lạc Hầu Vương cũng như các Châu, các Bộ hết lòng vì dân vì nước, nhưng không hiểu vì sao dân chúng lại dấy loạn đòi tự trị, nổi dậy chiếm lấy Tây Bắc biên giới Văn Lang biên giới Bắc Văn Lang, Đông bắt Văn Lang, Bách Việt Bắc Văn Lang không còn đoàn kết như xưa, mà nổi lên đòi tự trị nhiều vùng, tệ hại hơn nữa. Bộ Bắc Đái, các Châu, Quận, Huyện chỉ cần tập họp vài trăm nóc nhà cũng tự xưng là Vua, Thần đem quân dẹp loạn. Nhưng dẹp yên chỗ nầy, thời chỗ khác lại mọc lên, máu dân Văn Lang đã bắt đầu đổ, không cách gì vổ yên dân chúng cho được. Càng dẹp loạn thời các thế lực tự trị chúng liên kết lại với nhau. Tạo lên một sức mạnh chống trả, chống trả không lại chúng cầu viện phương Bắc. Cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm. Trận chiến ở Huyện Tây Bắc Châu, Huyện Tây Trung Châu, Huyện Hạ Tây Châu, dân Văn Lang cả hai bên thiệt mạng hơn nữa vạn người. Bố chính Tây Châu bỏ mạng, bố chính Trung Châu bỏ mạng, bố chính Hạ Châu bỏ mạng, chúng cầu viện quân Ngô đành phải thất thủ Tây Châu. Châu Phủ bị chúng bắt không còn biết sống chết ra sao.

    Các Quan nghe báo cáo tình hình như vậy ai nấy đều thất kinh. Các Quan nghe tấu sớ bộ Lục Hải, lại càng kinh hải hơn nữa, nguyên văn như thế thế nầy: Bẩm Quốc Vương, hạ thần là Lạc Công Hầu, ở bộ Lục Hải tình hình Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu dân chúng đòi nổi lên tự trị, vì cho rằng Thần Thánh nói Bắc Văn Lang sẽ mất, cơ vận Hùng Vương đã hết đất Văn Lang chia ra nhiều nước, như bên Bắc nhà Hạ, nhà Thương, nhà Ân, nhà Chu. Trời chỉ định ai được thiên hạ thời người đó được, đất đai không thuộc của người nào. Vì thế Bách Việt Văn Lang dân tộc nào Trời chỉ định dân tộc đó là Vua. Vì có sự tiên đoán của Thần Linh, và cũng như sự ứng quẻ của Đất Trời. Dân chúng những Châu Phủ trên, đã trở nên cuồng tín chỉ biết nghe theo Thần Thánh, nhất là Thần Thánh ở đất Bắc. Dân chúng đã dựng miếu thờ khắp nơi, nhập đồng nhập xác hiển Linh lắm, thời thế hiện nay dân chúng chỉ biết nghe theo bói toán, ứng quẻ, nhập đồng, nhập xác, cầu cạnh thần linh, thần linh nói sao dân chúng nghe theo vậy, quẻ ứng. Nói cậu nầy làm Vua, ông kia làm Chúa, thời dân chúng nghe theo răm rắp, vì thế mà nhiều khu tự trị đã nổi lên, hơn trăm nóc nhà cũng xưng Vua, xưng Chúa. Hạ Thần ra lệnh gôm thu quân binh các Châu hơn 10 vạn, rồi giao cho Lạc Tướng thống lãnh hơn vạn quân binh dẹp loạn, dẹp được chỗ nầy, thời Vua chỗ khác đã mọc lên, sự phản loạn đòi tự trị ấy, phải nói là có bàn tay phương Bắc tham gia, diệt tự trị chỗ nầy, tự trị chỗ khác lại mọc lên. Chúng liên kết với nhau chống trả lại quân Văn Lang mỗi ngày mỗi quyết liệt, chúng thua chúng chạy sang qua Bắc cấu kết với nước Hải Nam, nước Mục Lăng, hiện nay đã theo về với nước Tề, nhờ sự trợ giúp của nước Tề quân ta đã đại bại, thiệt hại hơn phân nửa binh lính, quân nổi dậy nhờ sự yểm trợ của quân Tề nên đã thất thủ Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu, cũng không thể giữ nổi trong nay mai, nếu tình hình nầy kéo dài e rằng mất luôn Bắc Văn Lang, nguy cơ mất Bắc Văn Lang là điều không sao tránh khỏi, nếu không có quân chủ lực dẹp yên chúng.

    Vua Hùng lại xem tấu sớ của Bộ Giao Chỉ thời thất sắc, nội dung tấu sớ thế nầy: Bẩm Quốc Vương hạ Thần, Lạc Vương, phụng báo như sau. Tình hình Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Dương Giang Giao Châu, là những Châu lân cận với đất Bắc, thuộc bộ Giao Chỉ, không hiểu vì sao Bách Việt Văn Lang lại nổi lên đòi tự trị, nổi lên Vua Chúa khắp nơi, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần hơn vài ba trăm nóc nhà thời có Vua nổi lên, Vua nầy thôn tính Vua kia làm rối loạn khắp nơi, những trận giao tranh tiêu diệt lẫn nhau dữ dội, gươm đao giáo mác, cung tên, nhập từ phương Bắc, vũ khí binh lính không kém gì Văn Lang chúng ta, với tình hình như thế quân ta không biết đánh ai bỏ ai, cuối cùng họp bàn đi đến thống nhất, là quét sạch những quân nổi dậy đòi tự trị, do Lạc Tướng, Hầu Tướng chỉ huy một cuộc ra quân rầm rộ chúng biết đánh không lại liền chạy qua đất Bắc liên kết thành một sức mạnh dưới sự trợ giúp của quân Sở, chúng trở lại phản công thế là một trận giao tranh quyết liệt giữa quân ta với quân phiến loạn đòi tự trị. Lạc Tướng tử trận, Hầu Tướng bỏ mạng, chúng Bắc sống hơn mười vị Quan Tướng Bố Chánh. Chúng đã chiếm cứ, Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Dương Giang Giao Châu, chỉ còn Giao Giao Châu đang cầm cự, không biết thất thủ lúc nào, nói chung là đã mất hơn 25 Quận Huyện.

    Đọc xong tấu sớ ai nấy cũng kinh hoàng, còn một điều vô cùng khẩn cấp hơn nữa, là quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô đã khởi động sắp tràn qua đánh chiếm Bắc Văn Lang, chiếm lấy toàn bộ vựa lúa lớn nhất của chúng ta, nếu mất Bắc Văn Lang, thời nguy cơ thiếu ăn trầm trọng, dân chúng Văn Lang chúng ta sẽ chết những đói, những năm thời tiết không thuận.

    Nghe tin quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô xâm lược, thời Vương Quan ai nấy cũng kinh hoàng. Việc nội loạn chưa giải quyết xong, thời quân ngoại xâm đã kéo đến.

    Hùng Huy Vương nói:

    Các Quan văn võ có kế sách gì không?

    Khi ấy có vị Quan Vương nổi tiếng là học nhiều hiểu rộng, Lạc Vương Thừa Tướng là con của Lạc Vương Công, thời Hùng Vương đời thứ 4, Hùng Diệp Vương, có công ban giao hợp tác toàn diện Nam Bắc Văn Lang với nhà Chu tâu rằng:

    Bẩm Quốc Vương bệ hạ, chúng ta nên cho người đưa thư của bệ hạ đến nhà Chu trình lên Chu Mục Vương Thiên Tử, giúp đở không cho Tề, Ngô, Sở giúp sức cho quân phiến loạn Văn Lang, bớt đi một sức mạnh, hầu mong chống trả lại quân xâm lược.

    Thế là Hùng Huy Vương sai Việt Thường Lạc Hầu Thị đi sứ dâng thư lên Thiên Tử Chu Mục Vương, Nhà Chu. Đi sứ dâng thư ba lần nhưng không kết quả, Mục Vương nhận thư nhưng lờ đi. Hùng Huy Vương vô cùng tức giận nhưng biết phải làm sao, không còn giải pháp nào cao hơn nữa là cầu Hiền Tài ra giúp nước.

    Ở vào thời kỳ ấy, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu có hai anh em sinh đôi tên là Nguyên Dực và Nguyên Minh là cháu nhiều đời của Quan Lạc Tướng Nguyên Đô có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường, tinh thông binh pháp, tiếng tăm đồn xa. Hùng Huy Vương cho người mời hai anh em về triều phong cho làm Lạc Tướng thống lãnh 40 vạn quân đến Bắc Văn Lang kết hợp với quân binh các Châu, các Bộ, trừ quân phiến loạn, cũng như chống trả lại quân xâm lược.
     
  8. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 2: ÂM MƯU XÂM LƯỢC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lòng tham quả thật kinh người.

    Ngày đêm toan tính nuốt thời Văn Lang.

    Ngoại xâm bè lũ sói lang.

    Cáo, chồn, múa vuốt, ăn gan hại người.

    Mưu mô quỉ quyệt hại đời.

    Văn Lang binh lửa khắp cùng thương đau.

    Đây nói về Ân Mao theo học với ba sư phụ, võ nghệ cao cường, thần thông pháp thuật vô biên, mới đó mà đã trên hai mươi tuổi, lấy được hai người vợ không những xinh đẹp mà còn võ nghệ cao cường, tài hay phép lạ, ít người địch lại. Hồ Tôn Vương mất, Ân Mao lên thay gọi là Ân Mao Vương. Ân Mao Vương là tay khôn ngoan xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế, liên kết Hung Nô, liên kết Hồ Vương, tạo lên thế lực Tam Vương hùng mạnh, nhà Chu cũng không làm gì nổi. Với mộng bành trướng, Ân Mao Vương lúc nào cũng muốn gồm thâu thiên hạ, nhìn thấy Bắc Văn Lang dân chúng chia năm xẻ bảy lại hiểu rõ Tề, Sở, Ngô, muốn nuốt Bắc Văn Lang, đây là cơ hội làm nên nghiệp bá chiếm lấy Bắc Văn Lang trước Tề, Ngô, Sở, nhưng còn ngại nhà Chu ngồi chờ hai hổ đánh nhau thợ săn đắc lợi, không những lấy được Bắc Văn Lang mà còn tận diệt mình. Ân Mao Vương bằng nghĩ ra một kế sách, muốn nuốt được Bắc Văn Lang, một mình quân Ân không làm nổi, mà còn gặp nhiều nguy hiểm. Chi bằng liên kết với quân Hồ, quân Hung Nô, hợp lực chiếm lấy Bắc Văn Lang, Ân Mao Vương hiểu rõ quân Hung Nô, quân Hồ, không những tàn bạo, mà còn lấy sự chém giết cướp bóc làm sở thích.

    Trên khắp Thế Giới hiện nay không nơi nào giàu có như nước Văn Lang, không thứ gì là không có. Chỉ cần nói lên sự giàu sang, không thứ gì là không có nảy khơi động lòng tham, đánh thức lòng háo chiến, đánh thức lòng cướp bóc, thời nhất định quân Hung Nô, quân Hồ sẽ tham gia. Bằng mở ra cuộc hội Tam Vương vô cùng long trọng, đàn ca múa hát, rượu thịt đầy bàn, toàn là những món ngon.

    Hung Nô Vương khen:

    Quả thật đây mới đúng là sơn hào hải vị, không mấy dễ mà có được.

    Hồ Nghi Vương cũng nói:

    Có những món tôi chưa bao giờ được thấy, chớ đừng nói là được ăn.

    Trong lúc vui vẻ, Ân Mao Vương nói với Hồ Nghi Vương, Hung Nô Vương rằng:

    Những sơn hào hải vị nầy, chỉ là những sơn hào, hải vị tầm thường Bắc Văn Lang, Bắc Văn Lang nổi tiếng là giàu có không những sơn hào hải vị thuộc bật nhất Thế Giới, mà còn châu báu cũng bật nhất thế giới.

    Ân Mao Vương bằng lấy ra hai viên Dạ Minh Châu tặng cho Hung Nô Vương một viên, Hồ Nghi Vương một viên, hào quang tỏa lên rực rỡ.

    Hung Nô Vương khen:

    Tôi chưa hề thấy viên Dạ Minh Châu nào quý hiếm như viên Dạ Minh Châu nầy.

    Hồ Nghi Vương cũng nói:

    Quả là hiếm quý không dễ gì có được.

    Mao Ân Vương nói:

    Đây là những viên Dạ Minh Châu hạng thường của Bắc Văn Lang.

    Hung Nô Vương tỏ vẽ thèm thuồng nói:

    Sao ta không hiệp lực lại đánh chiếm Bắc Văn Lang, làm bá chủ sự giàu sang, ăn chơi sung sướng.

    Hồ nghi vương nói:

    Ba ta mà hiệp lực lại với nhau nói gì Bắc Văn Lang, đánh chiếm nước Văn Lang còn được.

    Mao Ân Vương vô cùng mừng rỡ nói:

    Thế lực của ba chúng ta hiện nay nhà Chu cũng phải kính nể, không dám đụng đến, biết rằng ba chúng ta xưng Vương ngang hàng với nhà Chu, thế mà nhà Chu không làm gì được chúng ta.

    Ân Mao Vương nói:

    Phương Bắc nhà Chu không có đất nào là béo bở như Bắc Văn Lang mà toàn là những nước nhỏ, đã dày dạn chiến tranh, khó thôn tính hơn Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang hiện nay đang trong thời kỳ hỗn loạn, tuy nhiều bộ lạc nổi lên xưng Vua Việt, nhưng chỉ là những Vua Việt không dày dạn chiến tranh như những vị Vua ở phương Bắc, những con cừu con xưng Vua mà thôi, chỉ cần quân ta tràn tới, thời chúng chỉ là con mồi cho chúng ta xơi.

    Mao Ân Vương nói:

    Phương Bắc luôn dòm ngó mãi phương Nam, chỉ cần có cơ hội là chiếm lấy, vì Bắc Văn Lang giàu có trù phú vô cùng, vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nhiều vô số kể. Những thứ hiếm quý Bắc phương không bao giờ có. Hiện nay nước Văn Lang đến hồi suy vong, Bắc Văn Lang chia năm, xẻ bảy, nhiều Vua đã nổi lên, đây là cơ hội cho ta chiếm lấy Bắc Văn Lang, trước nước Tề, nước Sở, nước Ngô.

    Hung Vương là tay đệ nhất háo chiến nói:

    Quân Hung Nô nhận lãnh đánh tiên phong.

    Hồ Vương cũng là tay háo chiến không kém gì nói:

    Bắc Văn Lang rộng lớn vô cùng tha hồ mà tung hoành cướp bóc, chiếm lấy, cả ba chúng ta không ai nhường ai, hễ ai chiếm được bao nhiêu thời là của người đó.

    Thế là Tam Vương đánh chiếm Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Hung Nô, quân Ân đều mạnh về thiết kỵ binh, vó ngựa vang rền biên giới Tây Bắc Văn Lang. Đã nhuốm màu binh đao máu lửa, quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, tràng qua như nước lũ.

    PHẦN 3: XÂM LƯỢC

    Cội nguồn văn hóa đã mất đi

    Vận nước Văn Lang khổ li bì

    Binh đao máu lửa ôi cùng khắp

    Nồi da nấu thịt mạng còn chi

    Cơ hội nghìn năm giặc tràn đến

    Chúng xơi chúng nuốt béo phi phi

    Tan nhà nát cửa xưa nay thế

    Đồng bào tàn hại nước lâm nguy.

    Đây nói về Bắc Văn Lang, tình hình càng về sau càng trầm trọng, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, tranh giành quyền lực, xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính tiêu diệt lẫn nhau, không khác gì phương Bắc vài ba trăm nóc nhà cũng xưng Vua, nồi da nấu thịt, thắng là Vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

    Bỗng quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, từ phía Tây Nam nhà Chu tràng qua Tây Bắc Văn Lang như kiến. Chúng chia làm ba mũi thọc sâu vào đất Bắc Văn Lang trước sức mạnh quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân những Vua Việt nổi lên tự trị chống trả không lại đành phải bỏ mạng. Quân Ngô, quân Sở, quân Tề chiếm đóng trên đất Văn Lang biết chống trả không lại đành phải rút lui về đất Bắc. Quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân thế mạnh như chẻ tre, như trận hồng thủy tràn tới đâu là cuốn sạch tới đó. Chúng như ba con quỉ dữ nuốt nhanh chóng Châu Phủ, Quận, Huyện, Văn Lang. Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, nuốt luôn Châu Phủ Tây Châu, Tây Bắc Châu, giết chết Vua Di Việt, Vua Phiên Việt, nhanh chóng tràn xuống Bắc Văn Lang, chiếm lấy các Châu Phủ như lấy đồ trong túi, chiếm lĩnh Dương Giang Châu, Giao Giao Châu, Bắc Giang Châu. Giết chết Vua Dương Việt, Vua Giao Việt, Vua Trung Việt. Tam quân như ba con quỉ dữ hung tàn bạo ác vô cùng quy hàng thời sống, chống lại thời chết, ba con quỉ dữ nhanh chóng nuốt luôn Kinh Giao Châu, giết chết Vua Kinh Việt thọc sâu xuống sang bằng Đông Bắc Hải Châu, giết chết Vua Kiều Việt, tiến thẳng về phía Nam thôn tính Đông Hải Châu, giết chết Vua Đông Việt, tỏa rộng bao vây tóm gọn Hạ Giang Châu, giết chết Vua Điền Việt, chưa đầy một năm ba con quỉ nuốt trọn tất cả các Châu như thế, làm chủ gần một nửa Bắc Văn Lang. (Những vị Vua việt bị giết chết nói trên là những vị Vua lớn ngang hàng với nước Sở, nước Ngô, nước Tống, nước Tấn, nước Ngụy, nước Yên, ở phương Bắc).

    Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy

    Quan hệ sói lang nạn là đây

    Bất trung bất hiếu lìa cội gốc

    Tôn thờ lũ giặc, giặc chuyển xây

    Theo giặc, giặc hại luôn là thế

    Làm giặc, thời giặc đến bủa vây

    Chia năm, xẻ bảy, xưng hùng bá

    Nắm đũa rã rời, giặc bẻ từng cây.

    PHẦN 4: KHỐN KHỔ

    Nước loạn cơ nguy vốn xưa nay

    Nồi da nấu thịt cảnh đọa đày

    Đến khi thức tỉnh thời đã muộn

    Cơ nghiệp còn đâu trắng trắng tay

    Gông cùm xiềng xích thân nô lệ

    Tự do mất hết họa tai bay

    Sa vào cạm bẫy mưu phương Bắc

    Nước mất nhà tan ngục thế thay.

    Đây nói về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, Bắc Văn Lang, cố thủ chống trả quân Ân, đã hơn một trăm ngày chờ mãi viện binh không thấy đến, lương thực đã bắt đầu cạn lần, nguy khốn mỗi ngày một thêm chồng chất.

    Hùng Lang Công vô cùng nóng lòng đi tới đi lui, lo lắng không yên lẩm bẩm: Quân Xích Linh sao không thấy tới cứu viện, còn quân Giao Châu nữa sao mà chậm trễ thế, hay có chuyện gì xảy ra không. Còn Lạc Hầu Công vào Kinh Đô Văn Lang cầu viện hơn tháng sao chưa thấy về, hay là bị giặc bắt rồi.

    Hùng Lang Công càng nghĩ càng lo. Đang trong lúc lo lắng không yên, thời có quân vào báo:

    Bẩm Vương Công, quân Ân lại tới khiêu chiến.

    Hùng Lang Công, cùng các Quan lên thành xem thấy từ doanh trại của giặc Ân ước lượng hơn năm nghìn quân chúng rầm rộ kéo tới kinh thành khiêu chiến. Tướng giặc quả là oai phong lẫm liệt, đầu đội kim khôi, mặc giáp đồng, cầm thanh đại đao sáng loáng có ngời, cỡi con ngựa trắng giọng nói vang như sấm, chỉ nhìn sự uy dũng của tướng giặc, cũng đã uy hiếp tinh thần đối thủ hết mấy phần rồi.

    Tướng giặc đến trước cổng thành lớn giọng chửi rủa:

    Con cháu Tiên Rồng mà nhác như thế sao? Oai phong ông cha các ngươi đâu hết rồi, chỉ là một lũ bị thịt, thôi thì mở cửa đầu hàng, thời ta cho các ngươi con đường sống, trở thành dân nô lệ, còn nếu sợ quá cố thủ thời ta chờ các ngươi sạch ruột, làm thịt mới ngon.

    Hùng Điền con của Hùng Lang công nghe tướng giặc chửi rủa tức giận chịu không nổi, bằng nói với Hùng Lang Công rằng:

    Chúng ta đánh một trận với chúng có chết cũng cam, nỗi nhục nầy không thể nào nhịn được.

    Các tướng ai nấy cũng đồng tình lời nói của Hùng Điền: Thà chết nhất định không chịu nhục.

    Hùng Lang Công nghĩ: Đã là con cháu Tiên Rồng thời còn sợ ai mà co đầu rụt cổ, có chết thời chết cho anh hùng. Bằng trao ấn lịnh cho Hùng Điền. Hùng Điền vô cùng mừng rỡ, bằng điểm hơn năm nghìn binh, mở cổng thành ra xông ra nghinh chiến với giặc.

    Tướng giặc thấy người ra trận là một trung niên mặt trắng, đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng, tay cầm trường thương, cỡi con ngựa hắc long, oai phong lẫm lẫm.

    Hùng Điền phi ngựa lao tới quát lên như sấm nổ:

    Tên giặc ngoại xâm hỗn láo kia mau xưng tên họ rồi nạp mạng.

    Tướng giặc ra oai không kém hét lớn:

    Loài Rồng thời ta còn ngán, còn loài giun thời ta chẳng coi vào đâu, mau xuống ngựa quỳ xuống ta cho cái chết toàn thây.

    Hùng Điền không nói không rằng phi ngựa lao tới, trường thương vun vút nhắm đối thủ tấn công như vũ bão. Tướng giặc cũng không kém hét lên một tiếng phi ngựa lao tới xáp chiến, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc, binh lính hai bên chiêng trống dậy trời.

    Nhìn trận địa rền vang chiêng trống

    Bụi mịt mù ngựa cuốn vòng xoay

    Thương đao chơm chớp trời mây

    Ầm ầm trận địa giao tranh ầm ầm.

    Đánh hơn năm mươi hiệp mà chưa diệt được kẻ thù Hùng Điền hét lên một tiếng, dùng chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh, cọng với chiêu Âm Dương Sát Thủ như tia chớp đâm đánh tướng giặc, tướng giặc thấy trường thương chớp chớp cuốn tới như một trận lốc, thời thất kinh múa đao lên chống đỡ đùng đùng ầm ầm, tướng giặc sít chút nữa thời bỏ mạng. Tướng giặc không còn dám xem thường nữa, dùng tuyệt kỹ Yêu Đao phi ngựa chém tới ầm ầm, Yêu Đao chơm chớp như mưa sa, người ngựa phóng lên không chém xuống. Hùng Điền bình tỉnh dùng chiêu Ngọa Hổ Tàng Long, chống đỡ, hai bên đánh nhau kẻ tám lạng người nửa cân hơn trăm hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

    Quả là:

    Con cháu Tiên Rồng vốn anh hùng

    Trường thương vun vút đảo càn khôn

    Mưa tuôn quyền pháp rền sông núi

    Vó ngựa réo vang đánh dập dồn.

    Hùng Điền quyết giết cho bằng được tướng giặc, nên trường thương càng lúc càng lợi hại, tướng giặc biết đánh không lại, bằng nghĩ ra một kế giả thua bỏ chạy giết chết Hùng Điền, quả là Hùng Điền đã trúng kế rượt đuổi theo tướng giặc, bất thình lình tướng giặc quăng lên không một vật tức thì một luồng khói độc tuông ra. Hùng Điền bất ngờ tránh không kịp bị khói độc tuông trúng xây xẩm mặt mày, tướng giặc quay ngựa trở lại nhanh như chớp chém Hùng Điền một đao bỏ mạng.

    Quân Ân thắng thế ào ào lao tới đánh cho quân Văn Lang một trận tơi bời hơn năm nghìn người chỉ còn có mấy trăm. Hùng Lang Công thấy con chết vô cùng đau xót.

    Hùng Tướng thấy em chết, vừa đau xót, vừa căm hận quân giặc, quyết tâm trả thù cho em, liền nói với Hùng Lang Công rằng:

    Thưa cha, cho con ra trận giết thằng giặc đó trả thù cho em.

    Hùng Lang Công cũng vô cùng căm tức, bằng nói:

    Con ra trận hết sức cẩn thận, không nên rượt đuổi theo tên giặc.

    Hùng Tướng bằng điểm năm nghìn quân tinh nhuệ, mở cổng thành ào ào lao tới hò hét xáp chiến với quân Ân, tướng giặc Ân cũng ra oai không kém, hò hét thúc quân xáp chiến.

    Thế là dậy núi dậy non

    Quân reo, giáo đổ, kiếm tuôn ầm ầm

    Quân ân khiếp vía rụng rời

    Thây người gục ngã đất trời rung rinh

    Bất ngờ yêu, quỉ, ma, tinh

    Đầy trời xuất hiện rung rinh đất trời

    Văn Lang quân tướng tàn đời

    Phơi thây chiến trận ôi thời thảm thương

    Vì dân vì nước hy sinh

    Văn Lang Quân, Tướng, anh linh muôn đời.

    Nói về Hùng Lang Công, cùng các tướng ở trên thành xem trận địa, thấy quân Văn Lang đánh quân Ân tơi bời, thây phơi chật đất, vui mừng vô kể. Cùng lúc ấy từ doanh trại của giặc Ân, thấy một bóng vụt lên hư không, thì ra đó là một nữ tướng, cỡi con ngựa thiên lý mã, chớp mắt đã tới trận địa.

    Hùng Lang Công thất kinh thét lớn:

    Con ta nguy mất.

    Chỉ thấy nữ tướng tay chỉ lên hư không, tức thời yêu, tinh, ma, quỉ, hiện ra đầy trời, mây đen cuồn cuộn, quân Văn Lang chỉ trong phút chốc chết không còn một mạng, từ đó Kinh Đô cố thủ cầu mong quân tiếp viện đến mà thôi.
     
  9. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 5: TỬ CHIẾN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng dân lạc Cội nước khốn nguy

    Binh đao máu lửa khổ li bì

    Chồn, cáo, can qua ăn nuốt sống

    Tan nhà nát cửa mạng còn chi.

    Đây nói về Kinh Giao Châu, cách Kinh Đô không xa chỉ hơn 30 dặm, nghe Kinh Đô bị bao vây, liền bàn kế đưa quân tiếp ứng.

    Lạc Đô Tướng nói với Quan Tổng Chính:

    Khi ta đưa quân đến cứu viện Kinh Đô, nếu có giặc đến tấn công thời cố thủ mà thôi.

    Dặn dò xong đâu vào đấy. Đô Tướng liền mở cổng thành dẫn hơn một vạn quân nhanh chóng đến Kinh Đô, quân binh vừa đến Huyện Giao Trung, đến đồi Lạc Địa, thời nghe tiếng reo hò dậy trời dậy đất, quân Ân hiện ra lớp lớp, gươm đao giáo mác sáng ngời. Lạc Đô Tướng, thấy người dẫn đầu quân Ân là một nữ tướng trung niên vô cùng xinh đẹp, liền có ý coi thường.

    Lạc Đô Tướng giục ngựa tới hét:

    Mau xưng tên họ, đàn bà con gái mà cũng ăn cướp xâm lược, gặp ta là coi như đã tới số, mau xuống ngựa chịu trói, thời ta cho cái chết toàn thây, bằng không xương thịt nát nhừ.

    Không ngờ nữ tướng không sợ mà còn thét lên lanh lảnh:

    Ngươi đã gặp Sát Sát ta, thời ngươi đã hết con đường sống, trời sanh ra đất đai là không phải của riêng ai, người nào có tài thời người đó được. Văn Lang đã đến thời mạc, đất đai sẽ thuộc về người khác, mau quy hàng thời ta cho cái chết toàn thây.

    Lạc Đô Tướng quát:

    Đồ hỗn láo.

    Rồi phi ngựa tới thét lớn:

    Nộp mạng đi.

    Thanh đại đao chém tới với một sức mạnh kinh hồn, hai bên quân lính tướng tá, reo hò dậy núi dậy non. Không ngờ nữ tướng không cần né tránh đưa đao lên chống đỡ.

    Đô Lạc Tướng thấy thế vui mừng quát:

    Xong đời nầy.

    Không ngờ một tiếng ầm kinh thiên động địa, cả người lẫn ngựa bị dội ngược trở lại, lòng bàn tay đau buốt. Lạc Đô Tướng kinh hoàng như không tin ở mắt mình. Nữ Tướng quát lên lanh lảnh, giục ngựa lao tới đại đao vun vút chém tới, kình phong tuôn ra ù ù. Lạc Đô Tướng không còn xem thường nữa dốc hết sức bình sanh ra chống đỡ, hai ngựa quần thảo với nhau khói bụi mịt mù, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.

    Lạc Đô Tướng càng đánh càng yếu thế, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, Lạc Đô Tướng chỉ còn nhờ vào tuyệt chiêu cuối cùng may hạ gục đối thủ, liền hét lên một tiếng vận dụng hết sức bình sanh đánh ra tuyệt chiêu Liên Hoàn Đao Pháp ánh đao chớp chớp, liền biến ra ảo ảnh chín đường đao chém tới, quả là một chiêu vô cùng lợi hại.

    Nữ tướng thấy chiêu đao pháp quá lợi hại như vậy, liền tàn hình biến mất. Lạc Đô Tướng thất kinh, chưa biết phải làm sao, thời nghe trên không có tiếng gió lao xuống, thất kinh Lạc Đô Tướng múa lên thiên vạn đao chống đỡ, chỉ biết ầm ầm đinh tai nhức óc, bốn vó ngựa Lạc Đô Tướng lún sâu. Lạc Đô Tướng chưa hết kinh hồn, thời một tia chớp nổi lên Đô Tướng tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng, sau có thơ khen rằng:

    Sống ở đời, không ai là không chết

    Vì non sông Tổ Quốc nguyện hy sinh

    Dù có chết, chết vì dân vì nước

    Mãi hùng anh trong nòi giống uy linh.

    Quân Ân thắng thế reo hò vang dậy, ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang, quân Văn Lang như rắn mất đầu, hỗn loạn bị quân Ân tiêu diệt một cách dễ dàng.

    Thảm thương con cháu Tiên Rồng

    Ngoại xâm tàn sát đau lòng biết bao

    Trời u tối một màng đêm đen thẳm

    Lạc Cội Nguồn ôi thê thảm, thảm thê

    Kìa trước mắt đầy hố thẳm chông gai

    Cơ tạo hóa chuyển vần xoay nguy khốn

    Giặc lan tràn khó tránh khỏi kiếp tai.

    Đây nói về Quan Tổng Chính trong lòng cứ mãi hồi hộp không yên, đang ra sức cùng binh lính cũng cố trấn giữ Kinh Giao Châu.

    Thời có quân binh vào thông báo:

    Bẩm Tướng Quân, quân ta đã thất trận tại Huyện Giao Trung, quân Ân đang kéo tới, bao vây Kinh Châu Đông như kiến.

    Quan Tổng Chính nghe báo cáo rụng rời cả tay chân, liền cùng các quan lên thành xem coi, thời không khỏi thất kinh. Quân Ân kéo tới càng lúc càng đông bao vây Kinh Giao Châu. Quan Tổng Binh cùng các Quan, chỉ còn biết cố thủ tới đâu hay tới đó.

    Cùng lúc ấy, Xích Linh Giao Châu đang chống trả với quân Hung Nô. Đây nói về Xích Linh Giao Châu, Lạc Hầu Vương nghe tin giặc Ân bao vây tấn công Kinh Đô, thời trong lòng kinh hãi, đâu mà nhanh đến thế, nếu giặc chiếm được Kinh Đô thời Bắc Văn Lang coi như đã thuộc về chúng.

    Tức thời sai con là Lạc Hồng Hầu, thống lãnh một vạn quân nhanh chóng đến giải vây cứu viện Kinh Đô, đi ngay trong đêm. Khi đến đồi Mục Linh đường đi rậm rạp lại có gió lớn, nghe như có quân mai phục, quả đúng như vậy hai bên cây cối rậm rạp quân Ân mai phục, tên bắn ra như mưa, Lạc Hồng Hầu thất kinh vì sa vào ổ phục kích của giặc, lại sợ bị hỏa công bằng cho lui quân trở lại.

    Bỗng thấy đuốc lửa sáng ngời, quân reo dậy đất, một tướng đi đầu mình cao sáu thước mặt đen hung dữ râu ria lồm xồm, viên tướng ấy là ai? Còn ai nữa Hắc Quỉ một tướng tài của quân Ân.

    Hắc Quỉ quát:

    Ta đợi ngươi ở đây đã lâu, mau cúi đầu chịu trói.

    Lạc Hồng Hầu quát lên như sấm nổ:

    Xông lên tử chiến với quân cướp nước, thế là quân Văn Lang ào ào xông tới xáp chiến gươm, đao dậy trời.

    Trong phút chết, còn chi để mất

    Chí hùng anh trong phút chốc cũng vui

    Nào xông lên nầy hỡi anh em

    Đường quyết tử, ta xông lên quyết tử

    Kiếm đã gào thời quân thù phải ngả

    Nào tiến lên, nào quyết tử xông lên.

    Trước khí thế đầy hào hùng của quân Văn Lang, khó mà hạ gục nhanh chóng cho được, hai bên đánh nhau tới sáng, quân Ân tuy chủ động nhưng cũng không tiêu diệt hết nổi quân Văn Lang. Lạc Hồng Hầu dẫn tàn quân lui về Xích Linh Châu, hai vạn quân đã chết hơn phân nửa.

    Lạc Hồng Hầu mình mẩy đầy thương tích nói với Lạc Hầu Vương rằng:

    Tình hình vô cùng nguy cập quân Ân, phục kích khắp mọi nơi, chúng phục kích khắp các ngả đường chính yếu tiếp viện, khó mà cứu viện cho được.

    Lạc Hầu Vương cũng hiểu rõ tình hình vô cùng nghiêm trọng nói:

    Con giữ được mạng sống là may rồi.

    Lạc Hầu Vương, lúc nào cũng lo lắng không yên chỉ biết nhìn Bắc Văn Lang mất lần về tay giặc, nhất là từ khi Lạc Hồng Hầu thất trận.

    Trong lúc bàn bạc cùng các Quan, thời có quân vào báo:

    Giặc Hung Nô đã chiếm lấy Quý Linh Giao Châu, khói lửa ngập trời, chúng như những con quỉ dữ đi đến đâu thời chết chóc nhà tan cửa nát đến đó, đàn bà con gái bị chúng hảm hiếp cho đến chết, gà chó cũng không còn, vơ vét vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nói chung là không chừa một thứ gì, kể cả lương thực. Quân binh các Quận Huyện, không có sự liên kết, như những đốm lửa nhỏ, nên bị quân Hung Nô dập tắt, quét sạch một cách dễ dàng, tất cả đều thiệt mạng.

    Lạc Hầu Vương than:

    Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, tinh thần dân tộc bị suy sụp, dân chúng bị văn hóa phương Bắc làm hại, đầu độc, làm tan rã sự đoàn kết, chia năm xẻ bảy, tranh giành quyền lực thời tránh sao khỏi ngoại xâm thôn tính. Hơn nữa sự giàu có, đất đai trù phú của Bắc Văn Lang luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm khác của những tên bạo chúa, nhất là những tên tham vọng lớn hung sùng ác sát phương Bắc, chúng dùng hết mưu kế nầy đến mưu kế khác, miễn sao chiếm lấy được Bắc Văn Lang. Sự lơ là mất cảnh giác đã dẫn đến hậu quả sa vào kế sách của chúng, như cá nằm trong lưới, khó mà thoát khỏi kiếp nạn, mong gì bình ổn lại cho được. Quân Ân, quân Hung Nô, quân Hồ vốn quá mạnh lại có yêu tinh phò trì, không dễ đánh bại được chúng. Chỉ còn chút hy vọng là nhờ quân chủ lực Văn Lang đến giải cứu, đẩy lui quân giặc. Nhưng nào có thấy gì đâu?

    Lạc Hầu Vương chỉ biết thở dài, chỉ còn biết tới đâu hay tới đó. Đang lúc buồn rầu, thời có quân vào báo:

    Bẩm Hầu Vương, quân Hung Nô đang ồ ạt tiến về Xích Linh Giao Châu, tiến đánh chúng ta.

    Nghe quân báo tình thế mỗi lúc một nguy cơ dồn dập, Lạc Hầu Vương, cùng các quan lên thành xem nhìn về hướng Bắc thấy khói bụi mịt mù, quân Hung Nô chia nhau thành nhiều mũi tiến về Xích Linh với thần tốc kinh người.

    Đây nói về quân Hung Nô như nhiều cơn lốc kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu, chúng không tấn công ngay mà chỉ đóng trại bao vây mà thôi.

    Hung Nô Vương tập hợp các tướng lãnh lại nói rằng:

    Chúng ta chưa thể tấn công chiếm lấy Xích Linh Châu được đâu, vì Xích Linh Châu không phải như những Châu phiến loạn, mà là những quan quân đầy lòng trung hiếu quyết bảo vệ Văn Lang. Chúng ta sở dĩ chiếm lấy các Châu Thành cũng như hàng loạt Quận, Huyện, tiêu diệt hơn mười Vua Việt là những vị Vua nổi lên đòi tự trị, phản loạn, phản bội lại nhà nước Văn Lang, đánh mất có lòng trung thành đối với Tổ Quốc, tự mình đánh mất sự đoàn kết dân tộc, tôn thờ văn hóa phương Bắc, nên chúng ta mới tiêu diệt chúng dễ dàng như vậy. Còn đây là Xích Linh Châu, những Châu chưa nổi lên đòi tự trị, xưng Vua, xưng Chúa, thời khó mà tiêu diệt nhanh chóng cho được, phải có nhiều kế sách hay mới tiêu diệt được chúng, vì thế càng tiến sâu vào đất Văn Lang chúng ta gặp nhiều khó khăn.

    Các Tướng lĩnh Hung Nô tuy nghe Hung Nô Vương nói thế, nhưng trong lòng thời xem thường quân Văn Lang.

    Nói về Lạc Hầu Vương cùng các Quan Tướng thấy quân Hung Nô cờ xí rợp trời từ các mũi lao tới bao vây cung thành đông như kiến, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây xung quanh cung thành, một ngày rồi đến hai ngày, nỗi lo lắng Lạc Hầu Vương đã hiện rõ trên sắc mặt, gầy đi thấy rõ, chưa tìm ra kế sách gì để chống trả lại quân giặc chỉ biết ra quân cố thủ cung thành được ngày nào hay ngày nấy.

    Thấy các Quan cứ im lặng mãi, Lạc Kim Tiên nói:

    Theo lời xưa có kể lại rằng, Quốc Tổ Vua Hùng là đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai, con lớn của Đức Cha Trời, yêu tinh quỉ dữ nhìn thấy uy danh của người đều khiếp sợ, Xích Linh Châu ta có thờ chân dung của người, sao không cho người họa hình ra cũng như viết uy danh của người lên cờ đem cắm lên những chỗ yếu điểm trong cung thành, thời may ra chống đỡ được yêu tinh quỉ dữ.

    Đến lúc nầy đâu còn cách nào hơn, là làm theo lời của Lạc Kim Tiên. Lạc Hầu Vương, cho người họa hình Quốc Tổ, cũng như viết lên uy danh Quốc Tổ trên những lá cờ chính, cắm lên những nơi chính yếu quan trọng của cung thành.

    Nói về quân Hung Nô đến ngày thứ ba, thời các doanh trại đều chuyển động như có cuộc xáp chiến xảy ra, chúng duyệt binh liên tục, khí thế hừng hực, những đoàn quân thiết kỵ của chúng chuyển động thần tốc như đội quân ma quỉ, thấy mà rùng mình. Biết có biến cố sắp xảy ra, các quan tướng trong thành tập trung cao độ, cho tinh thần quyết tử, vì non sông Tổ Quốc mà hy sinh.

    Mặt Trời xuống núi không lâu, thành Xích Linh chìm trong màng đêm u tối, trên bầu trời các vì sao lấp lánh lúc mờ lúc tỏ, bởi những đám mây che khuất, nhưng cũng thấy được giặc Ân, giặc Hung Nô dẫm đạp lên quê hương mang theo mùi máu tanh của lũ ác quỉ.

    Chúa Vương Hung Nô đang đọc Thần chú triệu yêu, ma quỉ dữ đến, rồi ra lịnh cho quỉ dữ yêu ma, bay vào thành đánh phá quân Văn Lang, làm cho quân Văn Lang khiếp đảm rối loạn, nhất là những quan binh trấn giữ cổng thành, lũ yêu tinh, ma, quỉ tuân lịnh rồi tức tốc bay vào thành Xích Linh, chúng làm phép trời đất tối tăm mù mịt, cuồng phong nổi dậy ù ù cờ xí gãy sạch chỉ còn một số không hề hấn gì. Vương Quan binh lính kinh hồn bạt vía, bóng ma bóng quỉ chập chờn khắp nơi, quân binh rối loạn.

    Lạc Hầu Vương, cùng các quan kinh khiếp thét lớn:

    Yêu tinh ma quỉ đã tấn công thành chúng ta, bình tỉnh chống trả lại chúng.

    Trong lúc nguy cơ hỗn loạn ấy, từ những cây cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế cũng như những cây cờ có treo hình Quốc Tổ đồng loạt phát ra tia sáng, làm cho yêu tinh, quỉ ma, tan biến hết thảy. Bỗng bầu trời trở nên trong sáng, muôn vạn vì sao nhấp nháy, như che chở cho thành Xích Linh.

    Chúa Vương Hung Nô lấy làm kinh dị nói:

    Chuyện gì xảy ra thế! Chuyện gì xảy ra thế!

    Đang lúc hoang mang, thời thấy một con quỉ xuất hiện, run sợ nói:

    Có Thượng Đế che chở, có Thượng Đế che chở.

    Nói xong biến mất. Hung Nô Vương tuyền lệnh không tấn công nữa, trời sáng tỏ, Hung Nô Vương cùng các tướng lĩnh, nhìn lên thành thấy có một số cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế, cũng như có một số cờ treo hình một người.

    Các Tướng lĩnh Hung Nô nói:

    Ai mà có quyền lực đến thế?

    Hung Nô Vương nói:

    Còn ai nữa đó là người khai lập dựng lên nước Văn Lang.

    Các Tướng lĩnh nói:

    Người chết đã hơn hai nghìn năm mà còn oai linh như thế sao?

    Hung Nô Vương nói:

    Ta cũng không tin, nhưng yêu tinh quỉ dữ khiếp sợ như vậy không tin cũng không được.

    Một số Tướng lĩnh Hung Nô nói:

    Chỉ là hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

    Chúa Hung Nô như tỉnh ngộ nói:

    Các Tướng nói đúng chỉ vài chục hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

    Hung Nô Vương ra lệnh:

    Bắt tất cả tù binh làm thang dây, gôm hết tất cả dầu trong dân, cũng như dầu trong các Châu Thành lấy được, những dụng cụ công phá thành chiếm được khắp nơi chuyển hết tới đây, lấy vũ khí của địch giết địch.

    Lạc Hầu Vương cùng các Quan trên thành thấy quân Hung Nô đang ra sức tạo ra khí cụ công thành thời kinh hãi, quân Hung Nô vốn đã đông, lại biết sử dụng tù binh làm ra khí cụ công thành, thời biết ngày tận cùng thành Xích Linh đã đến.

    Cây mất Gốc rũ cành héo ngọn

    Người mất Nguồn đại họa hung tin

    Nhà tan nước mất tang thương

    Thân tàn nô lệ còn chi cuộc đời

    PHẦN 6: KIẾP NẠN

    Nói về bách tộc Văn Lang có một số bộ lạc Bách Việt, hấp thụ theo văn hóa phương Bắc, nổi lên đòi tự trị xưng Vua, xưng Chúa, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà thời xưng Vua, xưng Chúa tự trị một vùng.

    Đây chính là cơ hội cho phương Bắc chiếm lấy Bắc Văn Lang, một cách dễ dàng.

    Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, tràn qua chiếm lấy Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, rồi chia nhau làm ba mũi đánh chiếm Bắc Văn Lang.

    Quân Hồ đánh phía Tây Bắc Văn Lang, quân Hung Nô tiến dọc theo biên giới Bắc Văn Lang thọc sâu xuống Đông Bắc Văn Lang, rồi tiếng sâu vào đất Văn Lang. Quân Ân tiến theo trung lộ đánh thẳng vào Kinh Đô Bắc Văn Lang, tức là Nam Kinh Xích Quỷ.

    Quân Hồ khi tiến qua Huyện Tây Trung tiến đánh Phủ Tây Châu, giết chết Vua Tây Việt chiếm lấy Hồ Châu, giết chết Vua Man Việt, chiếm lấy Âu Sơn Châu, giết chết Vua Sơn Việt, những bộ lạc hùng mạnh Tây Bắc nổi lên đòi tự trị xưng Vua, làm sao chống lại quân Hồ đành phải thiệt mạng, chết thê chết thảm.

    Về sau có thơ rằng:

    Cái dại nào hơn cái dại nầy

    Chia bè rẽ phái lợi gì đây?

    Cấu xé giành nhau tranh quyền bá

    Ngoại xâm kéo đến nát tan thây.

    Quân Hồ tràn qua Tây Bắc Văn Lang, tàn sát chết chóc tan thương, gào thét làm mưa làm gió, những người yêu nước căm giận vô cùng, đau buồn khôn tả, nhìn cảnh giặc cướp phá, giết chóc, hảm hiếp phụ nữ, tàn hại trẻ con, những người còn sống, chúng bắt làm nô lệ, đánh đập dã man, trước thảm cảnh nước mất nhà tan, đau đớn vô cùng.

    Quân phiến loạn ra sức chống cự quân Hồ, nhưng khác nào bầy dê xông vào bầy cọp, làm cho cọp béo mập thêm. Quân Hồ tiến sâu vào Tây Bắc Văn Lang như đi vào chỗ không người, chiếm hết Châu Phủ nầy đến Châu Phủ khác, quân phiến loạn nổi lên đòi tự trị, quỳ mạp sát đất dưới chân quân Hồ.

    Sau có thơ rằng:

    Con cháu Tiên Rồng đó phải chăng

    Hay là lũ chuột, chỉ tranh ăn

    Chia năm xẻ bảy quên truyền thống

    Hậu quả là đây, giặc nuốt ăn.

    Nói đến chiến tranh xâm lược phương Bắc, không chỉ xâm lược bằng binh hùng tướng mạnh, mà còn xâm lược bằng con đường hợp tác ngoại giao, toàn diện, xâm lược bằng con đường văn hóa, làm cho dân tộc Văn Lang mê muội quên đi Nguồn Cội, quên đi truyền thống Anh Linh của cha ông, mắt vào kế sách mưu gian của chúng, đến khi phát hiện thời không còn kịp nữa để mà chống trả.

    Về sau có thơ rằng:

    Nhân tình thế thái vốn xưa nay

    Lầm mưu gian kế, giặc mưu bày

    Đến khi hiểu rõ thời đã muộn

    Nước mất nhà tan cảnh trắng tay.

    Nói về quân Hồ càng lúc càng tàn ác chúng lấy sạch, giết sạch, đốt sạch, chúng như đàn quỉ dữ ăn thịt người, uống máu người, trước tình cảnh nầy ai mà không căm hờn, đau lòng, xót dạ.

    Về sau có thơ rằng:

    Một lũ yêu tinh quá bạo tàn

    Giết người, hút máu, chúng ăn gan

    Con gái, đàn bà, ôi thê thảm

    Chúng vùi, chúng dập nát nát tan.

    Đây nói về Kiến Giao Châu, có vị quan Trung Chính, Châu Phủ. Châu An ngày đêm đốc thúc binh lính cũng cố trấn giữ châu thành.

    Đang lúc hợp bàn cùng các Quan các Tướng, thời có quân vào báo:

    Bẩm Thượng Quan quân Hồ đang kéo đến bao vây Châu Thành.

    Châu An cùng các Quan lên thành thấy hướng Tây Bắc khói bụi mịt mù, chúng chia ra làm nhiều mũi lao tới bao vây thành Kiến Giao, vó ngựa vang rền uy hiếp tinh thần đối thủ, chúng như những đàn kiến mỗi đàn dài hơn mười dặm, uốn lượn, ngoằn ngoèo lúc thời bung ra lúc thời nhỏ lại ai nhìn thấy cũng phải khiếp kinh.

    Châu An có người con gái là Châu Tiên có học được pháp thuật, nên Châu An đặc hết niềm tin vào người con gái nầy, may ra chống trả lại quân thù xâm lược.

    Châu Tiên nói với cha:

    Khi con còn học Đạo với thầy con nếu gặp lúc vô cùng nguy cấp, thời lập đài tế lễ khấn vái Quốc Tổ, thời có thể tai qua nạn khỏi.

    Nghe lời con Châu An cho lập đài tế lễ sẵn, khi cần thời lên đài tế lễ ngay. Cùng lúc ấy quân Hồ kéo đến bao vây thành Kiến Châu một lúc một đông, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây.

    Qua ba ngày sau từ doanh trại lớn của quân Hồ, xuất hiện một tướng lĩnh dẫn theo chừng năm trăm quân tiến đến cổng thành Kiến Châu, mở giọng hách dịch lớn lối nói rằng:

    Nầy Quan Hữu Chánh, Châu An mở cửa thành đầu hàng đi thời ta tha cho con đường sống, bằng không con gà con chó cũng không còn, không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ biến mất, ngươi không thấy sao, Bắc Văn Lang mất rồi chỉ còn thành Kiến Châu nhỏ bé, ta chỉ cần ra tay thành Kiến Châu sẽ trở thành bình địa. Đến giờ nầy mà con cháu Tiên Rồng gì nữa, con giun thì có, mau mở cửa thành đầu hàng đi.

    Châu An cùng các Tướng tức giận đến muốn vỡ lồng ngực, nhất là Châu Tiên. Châu Tiên nói:

    Cha cho con ra trận giết quách thằng khốn nạn kia cho hả cơn tức giận, làm cho quân Hồ khiếp vía mà rút lui.

    Châu An biết con gái mình võ nghệ cao cường, pháp thuật cao siêu, nhưng đối thủ là Tướng nam khó mà đối địch. Châu Tiên biết ý cha liền nói:

    Cha yên tâm con biết tự lượng sức mình.

    Châu An cực chẳng đã mới để Châu Tiên ra trận, cổng thành vừa mở một nữ Tướng mắt Phụng, mày ngài, mặt hoa, da phấn, lưng ong, ngực nở, không cần mặc áo giáp gì cả, xinh đẹp mảnh mai, như Tiên giáng trần, tướng giặc vừa thấy như bị hút hồn, bởi sắc đẹp chim sa cá lặn.

    Châu Tiên, thấy Tướng giặc ngơ ngác như bị hút hồn, thời quát lớn:

    Quân cướp nước kia đã gặp ta thời hết con đường sống, mau xuống ngựa chịu trói.

    Nghe tiếng quát Tướng giặc liền tỉnh hồn. Với con mắt thèm khát, nhìn Châu Tiên chầm chầm như muốn ăn tươi nuốt sống.

    Tướng giặc thốt lên:

    Đẹp quá, đẹp quá ta chưa từng thấy bao giờ, bắt sống về làm đồ chơi.

    Nói xong tướng giặc thúc ngựa lao tới chém một đao, nhanh như tia chớp, chụp bắt Châu Tiên, không ngờ Châu Tiên biến mất, một tia chớp nổi lên. Tướng giặc kinh hoàng nhưng không còn kịp nữa, bị Châu Tiên chém rụng mất cánh tay, khiếp đảm quay ngựa bỏ chạy.

    Châu Tiên quát:

    Chạy đâu cho thoát, tức thời Tiên Kiếm phóng theo một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng.

    Kết cuộc xâm lăng mạng đi đời

    Bỏ mạng sa trường thảm ghê nơi

    Tham tàn bạo ác đời là thế

    Trận địa vùi chôn xác thân phơi.

    Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên đánh quân Hồ tơi tả, sợ con sa vào bẫy giặc bằng cho người đánh trống thu quân.

    Nói về Hồ Nghi Vương, đứng trên vọng đài thấy con là Hồ Bá Thi chết thê thảm, tức quá hét lên:

    Mau bắt tên yêu nữ kia cho ta.

    Hồ Mị Hoa nói:

    Để con.

    Bằng phi thân xuống đài cỡi con Thần mã Bạch Long Câu, phi nhanh ra trận địa, Châu Tiên định tới chặt đầu Tướng giặc, thời nghe tiếng trống thâu quân, liền quay đầu ngựa trở lại.

    Bỗng nghe trên không có tiếng quát:

    Nạp mạng đi.

    Tức thời một luồng kình phong ập xuống, nhanh như chớp Châu Tiên thúc ngựa né tránh, ầm ầm hai luồng chưởng đánh xuống không trúng Châu Tiên tạo hai cái hố. Châu Tiên thấy người đánh mình là một nữ Tướng xinh đẹp, tuổi xấp xỉ nhau không hơn không kém.

    Châu Tiên quát:

    Ngươi là ai? Sao đánh lén ta.

    Tướng nữ xuất hiện quát:

    Ta sợ gì ngươi mà đánh lén.

    Châu Tiên quát:

    Quân xâm lược kia tên họ là chi, mau rút quân về Bắc thời ta tha cho tội chết.

    Hồ Mị Hoa nói:

    Ngươi không xứng đáng hỏi tên ta.

    Nói xong cô ta thúc ngựa lao tới thanh kiếm trên tay như Rồng bay Phụng múa, chém tới nhanh như tia chớp. Châu Tiên nào chịu thua kém, đôi kiếm trên tay như mưa sa bão táp, dồn dập tấn công liên miên, cánh Phụng tung bay phất phới, quần nhau càng lúc càng nhanh, kiếm qua kiếm lại rền vang trận địa.

    Đúng là:

    Một bên bão táp mưa sa

    Một bên giông tố cuồng phong ầm ầm

    Đánh nhau cát bụi mịt mù

    Đánh nhau núi lở nghiêng đồi khiếp kinh

    Châu Tiên hóa phép liên miên

    Sấm rền trời đất, gươm Thiên khắp đầy

    Mị Hoa càng đánh càng hay

    Vung tay trời đất tối thui mịt mùng

    Yêu tinh xuất hiện trùng trùng

    Thét gào nhức óc đùng đùng tấn công

    Châu Tiên biết đánh không xong

    Hóa ra một trận cuồng phong chạy dài

    Thâu quân trở lại cung thành

    Ngày đêm cố thủ chờ thời chuyển xây.

    Nói về Châu Tiên thấy yêu nữ quân giặc vô cùng lợi hại, khó mà đánh thắng được, bằng lui quân vào thành cố thủ, quân giặc đến khiêu chiến không ra nữa. Châu An cùng các Tướng lĩnh thấy quân Hồ như có điều chi khác lạ hình như là chuẩn bị cho sự tấn công quy mô.

    Tướng lĩnh Cao Khang nói:

    Tối nay nhất định quân Hồ tấn công Châu Thành ta.

    Châu Tiên cũng nghĩ như thế nói với Châu An:

    Cha hãy cho quân binh chủ động biết trước tối nay tử chiến với chúng.

    Quả đúng không sai bên vọng đài quân Hồ, đang tế lễ Hồ Nghi Vương làm phép triệu tập yêu tinh, quỉ dữ, hàng trăm hàng nghìn, tối nay bay lên thành gây rối loạn quân binh, thời tức tốc đồng loạt tấn công chiếm lấy Châu Thành, vì đã chuẩn bị trước.

    Châu Tiên ngửi có mùi yêu khí liền nói với cha:

    Hãy mau lên đài tế lễ cầu nguyện Anh Linh Đức Quốc Tổ, không còn chần chờ gì nữa.

    Bỗng thấy trời đất tối mù tối mịt, cuồng phong nổi dậy ầm ầm, quân binh đốt lửa không được, cờ xí gãy đổ, lại nghe rào rào dưới chân thành, quan binh la hoảng quân Hồ leo tường tấn công, đốt lửa lên không được vì cuồng phong quá lớn, tiếng binh khí đã bắt đầu chạm nhau.

    Châu An bình tỉnh cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ, chiến trận đã nổ dòn, bỗng trên hư không sấm sét nổi lên đánh xuống ầm ầm mây tan, gió tạnh, yêu tinh quỉ dữ, tan biến không còn. Quan quân đốt lửa sáng rực trời, thấy quân Hồ leo tường lớp lớp bằng ném đá, bắn tên, đổ dầu, phá hỏng các thang dây, quân Văn Lang chiến đấu anh dũng lợi thế có cung thành, một người có thể hạ gục năm mười tên, quân hồ chết thôi là chết, đánh tới sáng quân Hồ thiệt hại vô kể, quân Văn Lang thắng trận vẻ vang.

    Từ đó quân Hồ biết khó nuốt thành Kiến Châu, chỉ còn cách là bao vây, cho quân binh trong thành kiệt huệ lương thực rồi mới ra tay, chúng tản ra vơ vét của cải dân chúng, cắt đứt các ngã đường cứu viện tiếp viện.

    Cha ông trở lại cõi trần

    Cứu con cứu cháu thoát vòng tai ương

    Miễn sao con cháu đừng quên

    Cội Nguồn nhớ mãi hiển Linh đời đời.

    Đây nói về trên tần trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần mở ra thời đại Kinh Dương Vương, lập lên nước Xích Quỷ, Giao Chỉ.

    Câu chuyện như sau: Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc, những người còn sống sót, trở thành thỉ tổ Hồng Hoang, đầu tiểu kiếp thứ 9, kiếp tăng, tuổi thọ thỉ tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi. Trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm, tức là hết kiếp tăng đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng, và cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, và giảm mãi xuống nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa. Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Đế, và giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi, thời đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế, (giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế, đều nằm trong niên đại Hồng Bàng). Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng hạ sanh quí tử, khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh, tài trí khác phàm, tên là Hồng Viêm, vì lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói, Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần, mở ra thời đại mới, các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặt tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, trở thành Nhà Bác Học nông nghiệp, đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công tom góp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy, giống ngô khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng. Lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng xuất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai. Đem lại sự no cơm ấm áo cho con người. Khi lên ngôi thay cha Hồng Viêm đổi niên hiệu, từ niên hiệu Hồng Đế, chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG, Quốc Tổ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG Truyền xuống được 5 đời, tới đời thứ năm Viêm Đế Thần Nông. Đế Nương, một hôm ngủ say trong giấc chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn, bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thời mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn, làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Nên Viêm Đế Thần Nông đời thứ năm, đặt tên cho con là Đế Tôn Long Đế, Đế Tôn Long Đế, càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân, dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế, Đức Sùng Lãm, lên ngôi thay cha trị vì thiên hạ, liền đổi niên hiệu. Từ niên hiệu Viêm Đế Thần Nông, chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG, Quốc Tổ KINH DƯƠNG VƯƠNG, truyền xuống được chín đời. Đến đời Kinh Dương Vương, đời thứ 9. Sau một chuyến tuần du nơi động Đình Hồ Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, Bộ Lạc Long Giao. Kết duyên phu phụ, thành vợ thành chồng. Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi, thời thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hóa thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu, tinh, quỉ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời hoa lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cộng thêm với điềm chiêm bao của Thần Long Nữ, một đấng anh hùng cái thế, nên đặt tên cho con là Hùng Lan. Hùng Lan, lớn lên không những khôi ngô tuấn tú, mà Đạo Đức, trí huệ, có một không hai, có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng – Bi – Trí – Đức, với bốn Đức tính nầy, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Khi Hùng Lan, lên ngôi trị vì thiên hạ thay cha, liền chuyển niên hiệu. Từ niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Chuyển sang niên hiệu HÙNG VƯƠNG, Niên đại HỒNG BÀNG, chuyển sang niên đại ÂU LẠC, đổi tên nước từ nước XÍCH QUỶ, thành nước VĂN LANG. Mở màng văn hóa Cội Nguồn ra đời, trở thành nền Quốc Đạo đầu tiên của nhân loại. Giai đoạn ĐỒNG BÀO, đoàn kết thống nhất, một 100 bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT, gọi là Bách Việt, dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp tạo hóa cha ông. Sau cuộc giao tranh với quân ÂU LẠC Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, thua trận rút lui về phương Bắc bên kia sông Trường Giang, con gái của Đế Lai, là Đế Cơ Công Chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường, chăn tằm dệt vải đều thông giỏi, tài Đức, công – dung – ngôn – hạnh, có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa, phi ngựa qua sông Trường Giang thả mình vân du, lạc đến động Lăng Xương, xem hoa dạo cảnh. Tạo hóa xe duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ, tạo hóa an bày hai người gặp nhau, rồi yêu nhau kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ. Về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang. Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hòa Âu ca thịnh trị. Quốc Tổ Hùng Vương, cùng Quốc Mẫu ăn ở ít lâu, sanh con đẻ cái, lập trưởng nam kế tục ngôi Vương, truyền xuống được 23 đời, gọi đó là thượng Hùng Vương. Hùng Vương đời thứ 23 không con, nên nhường ngôi cho con của em, là cháu dòng thứ Hùng Cừ, truyền xuống được 18 đời, gọi đó là hạ Hùng Vương. Vua Hùng Vương thứ 18 có con trai nhưng chết yểu lúc còn nhỏ, thành ra không có con trai kế vị. Nên nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn, (tức là Tản Viên). Thục Phán là cháu thứ của Vua Hùng, làm Lạc Tướng ở Bộ Tây Vu Ai Lao, đem quân về tranh ngôi, Vua Hùng sợ máu thịt anh em tương tàn, nên đành nhường ngôi lại cho Thục Phán. Tản Viên, là Chúa của núi rừng, dẫn theo Mị Nương công chúa Ngọc Hoa, về núi sanh sống. Khi Thục Phán lên ngôi Vương, thời niên đại Hùng Vương, kéo dài 2701 năm kết thúc. Thục Phán lên ngôi Vương, chuyển đổi niên hiệu Hùng Vương, thành niên hiệu An Dương Vương. Chuyển đổi tên nước Văn Lang, thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Trị vì thiên hạ trên dưới 50 năm kết thúc thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Kể từ đây con cháu Tiên Rồng, như đi trong đêm, dẫn đến nô lệ phương Bắc, nước Văn Lang chỉ còn có một phần, Nam Văn Lang, còn Trung Văn Lang Bắc Văn Lang, thời đã thuộc về phương Bắc, chỉ còn Nam Văn Lang mà sống cũng không yên, bị phương Bắc đô hộ xâm lược hết thời nầy sang thời khác, hầu nuốt trọn nước Văn Lang, nhưng nuốt mãi không được, vì Nam Văn Lang là đất Địa Linh, Địa Long Vũ Trụ, và kỳ tích xảy ra trên mảnh đất Địa Linh nầy.

    Đây nói về trên tầng Trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần, mở ra thời đại Kinh Dương Vương, khai lập lên nước Xích Quỷ. Giao Chỉ, QUỐC TỔ KINH DƯƠNG VƯƠNG. Quốc Tổ Kinh Dương Vương quy Tiên bỏ lại xác phàm về Trời ở Đông Nam Thiên Cung. Vì thương con dân nơi chốn trần gian, nên Quốc Tổ thường hiện về, dân chúng thường thấy trên bầu trời mây đen hình Rồng xuất hiện, thời những trận mưa trái mùa đổ xuống làm cho cây cối xanh tốt, ruộng nương trúng mùa. Những năm mây đen hình Rồng xuất hiện, là dân chúng no cơm ấm áo, chuyện kỳ lạ nầy thường xảy ra trên đất nước Văn Lang. Ở thời hạ Hùng Vương đời thứ 5, Hùng Hy Vương (Viên Lang) dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương hiện về, xuất hiện mây ông khổng lồ, dấu chân ông bước tới đâu là in đến đó. Đám mây hiện hình người khổng lồ to lớn đó, thường xuất hiện nhiều nhất trên đất Đổng, nên dân chúng gọi là ông Đổng, hồn Tổ Tiên hiện về. Có lần dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương, Long Đế Sùng Lãm, hiện về, hiện thành đám mây ông Đổng cao lớn vô cùng, đầu đội trời, chân đạp đất, cao hơn mười ngọn núi, chỉ trong một đêm mưa to gió lớn, ông cào đất thành ruộng, ông vun đất thành đồi, xẻ đất thành sông, bước chân ông dài từ đỉnh núi nầy sang đỉnh núi khác, dấu chân ông thủng cả đá, thủng cả đất, tiếng nói ông chính là sấm, mắt ông chớp lòa, phóng ra tia lửa, sét, hơi thở ông phun ra mây đen, gió bão và mưa dông. Linh Hồn Quốc Tổ, Long Đế Sùng Lãm thường xuất hiện trong những mùa hè nắng hạn, dân chúng cần nước, tưới cho ngô, khoai, lúa, đậu, ông đi lúc xoáy tròn, lúc đi thẳng, đi hết nơi nầy đến nơi khác, từ Đông sang Tây. Ngày nay vẫn còn thấy dấu chân Long Đế Sùng Lãm, còn in lại khắp nơi.

    Nói về Long Đế Sùng Lãm, Quốc Tổ đang ngự tại cung Đông Nam Thiên ở trên Trời. Bỗng có một trận gió lạ, thời biết là Thiên Ý Cha Trời chỉ giáo điều gì, liền co tay bấm ấn, mở con mắt Thiên Nhãn nhìn xuống chốn nhân gian, thời thấy rõ nước Văn Lang đang lâm nạn, nguy cơ đến nơi. Khí số Văn Lang vẫn còn chưa mất, vẫn còn kéo dài hơn mấy trăm năm nữa. Liền triệu tập Thiên Tướng, nói rõ nguy cơ nước Văn Lang.

    Long Đế nói:

    Khí số Văn Lang còn dài hơn mấy trăm năm nữa, chúng ta hãy đầu thai xuống chốn trần gian, đánh lũ giặc Ân, đi ngược lại Ý Trời, làm hại đất nước Văn Lang.

    Các Thiên Tướng mở con mắt Thiên Nhãn đều thấy rõ như thế, nguy cơ nước Văn Lang sắp mất đến nơi. Các Thiên Tướng cùng Long Đế, tức tốc xuất hồn ra khỏi thể xác kim thân, linh hồn bay xuống chốn trần gian đầu thai làm người phàm tục, đánh giặc Ân.
     
  10. shopoga

    Bài viết:
    513
    PHẦN 7: BÀY MƯU HIẾN KẾ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đây nói về hai anh em Nguyên Dực và Nguyên Minh, thống lãnh 40 vạn quân, tiến về Bắc Văn Lang dẹp nội loạn nổi lên đòi tự trị làm hỗn loạn Bắc Văn Lang, cũng như chống trả lại quân xâm lược.

    Khi 40 vạn quân chủ lực Văn Lang đến Vân Châu, thời chia làm hai lực lượng. Nguyên Dực thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Ninh Châu. Còn Nguyên Minh thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Hợp Châu.

    Nói về Ninh Giao Châu, có Quan Châu Phủ Lạc Đại Vương, cùng các Quan trấn giữ Châu Thành. Ngày nào cũng có tin báo dập dồn khẩn cấp, quân Ân đã tiến đánh Kinh Giao Châu, tiêu diệt hơn một vạn quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, Lạc Đô Tướng bỏ mạng tại sa trường, và đã chiếm được thành Kinh Châu. Lạc Đại Vương cùng các Quan không khỏi kinh hãi, lo lắng cho số phận Ninh Châu, than rằng:

    Chỉ lo chạy chọt Quan quyền

    Ăn chơi phè phỡn đảo điên nước nhà

    Đến khi có giặc can qua

    Co đầu rụt cổ còn ra thống gì

    Lòng dân đã mất chí nguy

    Cơ đồ sự nghiệp khó mong vững bền.

    Lạc Đại Vương, cùng các Quan đến bây giờ mới thấm thía. Dân là nước, nước ô nhiễm độc hại văn hóa phương Bắc, thời cá phải chết. Dân là gốc, nhưng gốc đã mục nát, dân tình trở nên loạn lạc, thời thân cành, nhánh lá Vương Quan cũng đi đời, nhưng tất cả đều đã muộn. Chỉ còn trông chờ cứu tinh xuất hiện, thời may ra vận nước mới thoát qua cơn hiểm họa nầy.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan chưa biết xoay trở bằng cách nào, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Thời có quân vào báo:

    Bẩm Đại Vương, quân chủ lực Văn Lang đã đến.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan mừng quá thốt lên:

    Cứu tinh đã đến rồi.

    Lạc Đại Vương hỏi:

    Quân chủ lực đến đâu rồi?

    Quân binh đáp:

    Quân chủ lực còn cách đây vài ba dặm.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan ra khỏi thành tiếp đón quân chủ lực Văn Lang. Đi được hơn năm dặm thời thấy quân Văn Lang cờ xí rợp trời, gươm đao sáng giới, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù, khí thế hừng hực, thời lấy làm vui sướng, như người sắp chết đuối mà gặp Cứu Tinh. Đi đầu có rất nhiều Tướng lĩnh, mỗi người mỗi vẻ oai phong lẫm lẫm, có một Tướng lĩnh nổi trội hơn hết, mặt sáng như sao, vô cùng oai phong, đó là Tướng soái Nguyên Dực. Nguyên Dực thấy Lạc Đại Vương cùng các Quan đến tiếp đón mình, thời lấy làm vừa lòng.

    Lạc Đại Vương cùng các Tướng đến ra mắt thi lễ chào hỏi nói rằng:

    Hạ Quan nghinh tiếp hơi trễ xin Tướng Soái tha lỗi cho, Nguyên Dực thi lễ nói không sao không sao, miễn có ra đón là được rồi.

    Lạc Đại Vương đi đầu dẫn đường gần đến Ninh Thành thời đại quân dừng lại đóng trại gần đó, cách Ninh Thành hơn dặm. Tướng Soái Nguyên Dực cùng các Tướng, được Lạc Đại Vương tiếp đón vào thành, thiết đãi trọng hậu, đàn ca múa hát, món ngon vật lạ, chẳng thiếu thứ chi.

    Nguyên Dực thưởng thức các món ngon vật lạ khen:

    Tiếng đồn quả không sai Bắc Văn Lang thứ gì cũng có, thảo nào quân giặc thèm khác lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang.

    Lạc Đại Vương nói:

    Lời nói của Tướng Soái quả không sai, đây chỉ là đặc sản của vùng Ninh Châu nầy, còn những nơi khác phải nói là vô cùng phong phú, nhất là vùng lân cận Kinh Đô, thời phải nói là trù phú vô cùng, không có món ngon vật lạ hiếm quý nào mà không có, kể cả chim trĩ trắng, gà chín cựa, sâm nghìn năm, chồn hương chín đuôi, còn không biết bao nhiêu là món ngon hiếm quý nữa.

    Tiệc đãi xong xuôi qua ngày hôm sau, Nguyên Dực cùng các Tướng nghe báo cáo tình hình Bắc Văn Lang, cũng như tình hình quân xâm lược. Lạc Đại Vương đọc bản báo cáo, trong bản báo cáo nói như sau:

    Bẩm Tướng Soái. Tình hình Bắc Văn Lang vô cùng nghiêm trọng, không những nghiêm trọng về nội loạn, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, vì thế Bắc Văn Lang chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lực dẫn đến thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, từng vùng tự trị theo kiểu phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng xưng Vua. Có thể nói văn hóa phương Bắc đã làm hại phương Nam chúng ta, tình thế nầy khó mà cứu vãn cho được, nghe nói văn hóa Văn Lang chúng ta đã mất gốc, lại không truyền xuống dân, chỉ truyền trong Vương Quan, thừa kế cơ nghiệp ông cha, nên dân chúng ít người được biết về văn hóa Cội Nguồn, nếu dân biết thời còn tai hại hơn nữa. Vì văn hóa Cội Nguồn không có sự độc tài, độc trị, chỉ lấy Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng trị Quốc mà thôi, phải nói không còn phù hợp với tình hình hiện nay, mà tình hình hiện nay là sống theo chế độ độc quyền, độc tài, độc trị, ý Vua là ý Trời, không ai dám cải, cải lại thời bị tru di tam tộc. Còn phương Bắc tru di cửu tộc. Thể chế độc quyền lần lần ăn sâu vào tâm hồn, không những Vua, Quan, như chúng tôi, mà còn ngay cả những người dân, không còn cách nào khác là thuận theo số phận mà thôi. Phương Nam chúng ta dần dần đi theo chiều hướng phương Bắc, nên mới có cảnh Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị, theo xu thế phương Bắc, còn Nam Văn Lang thời chưa xảy ra điều đó, có lẽ là chưa ảnh hưởng gì văn hóa tự trị phương Bắc, nên chưa có sự nội loạn tình hình dân chúng phương Bắc Văn Lang là như thế. Còn về tình hình cấp bách hiện nay. Trước tình thế quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, chúng càn qua Bắc Văn Lang như thác đổ, với một thời gian ngắn, chúng nuốt không biết bao nhiêu là Châu, Quận, Huyện, giết chết hơn mười mấy Vua Việt nổi lên đòi tự trị.

    Nguyên Dực cắt ngang lời báo cáo nói:

    Đây cũng là điều may cho chúng ta, ngoại xâm tiêu diệt nội loạn thay cho chúng ta, chúng ta không cần ra tay, kể như chúng ta đã thành công ở bước một.

    Nguyên Dực nói:

    Ông đọc tiếp đi.

    Lạc Đại Vương với giọng rõ ràng đọc tiếp báo cáo rằng:

    Theo tin tức báo cáo. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, chia làm ba mũi tấn công Bắc Văn Lang, quân Hồ đánh theo Tây Lộ, quân Hung Nô đánh theo Đông Lộ, quân Ân đánh theo Trung Lộ, trong ba thế lực ấy quân Ân là mạnh nhất. Tuy chia làm ba mũi nhưng chúng luôn luôn hỗ trợ cho nhau lúc cần thiết, vì thế chúng đánh chiếm các Châu Phủ một cách dễ dàng. Theo tin báo thời giặc Ân đang bao vây Kinh Đô, giặc Hung Nô đang đánh phá Xích Linh Châu. Quân Hồ đang đánh phá Kiến Châu. Quân Ân phong tỏa cắt đứt những huyết mạch các Châu Thành liên kết với Kinh Đô. Phải nói tình hình hết sức là nguy cấp nếu chúng chiếm được Kinh Đô, chiếm được Xích Linh Giao Châu, chiếm được Kinh Châu, thời coi như chúng chiếm được Bắc Văn Lang.

    Đọc xong bản báo cáo. Lạc Đại Vương nói thêm:

    Như tin dò thám được thời Kinh Châu đã thất thủ.

    Nguyên Dực, cũng như các Tướng chủ lực quân Văn Lang nghe qua bản báo cáo như thế thời không khỏi lấy làm kinh hãi. Trước sức mạnh như vũ bão của quân xâm lược.

    Đời sau thơ kể lại rằng:

    Sức mạnh quân thù thật gớm ghê

    Như cơn Hồng thủy cuộn tràn về

    Thành trì sụp đổ trong chốc lát

    Sanh Linh vùi dập thật thảm thê.

    Đang lúc bàn về quân giặc, thời có quân thám báo về báo nói nhỏ với Lạc Đại Vương. Lạc Đại Vương nghe xong rồi dặn tiếp tục theo dõi động tỉnh của quân Ân.

    Nguyên Dực hỏi:

    Có chuyện gì thế có thể đem ra bàn được không?

    Lạc Vương nói:

    Có tin báo là quân Ân tiến đánh thành Ninh Châu chúng ta, tin rất chính xác.

    Nguyên Dực hỏi:

    Quân Ân chúng sẽ đi theo đường nào tiến đánh Ninh Châu chúng ta.

    Lạc Đại Vương nói:

    Kinh Châu đến Ninh Châu hơn 100 dặm qua sông, suối, đồi, gò cũng nhiều, đường đi qua nhiều khúc quanh rậm rạp. Theo nhận xét của Đại Vương tôi với khí thế mạnh như vũ bão của giặc thời giặc không sợ gì cả, đường nào gần nhất dễ đi nhất là chúng đi. Tôi tin chắc là quân Ân đi theo đường tắc dễ đi nhất, chỉ có một đoạn đường hiểm yếu, đó là chúng phải băng qua cánh đồng lớn, rồi đến đồi Vạn Lâm, đồi nầy kéo dài hơn 10 dặm cây cối rậm rạp, đồi Vạn Lâm cách đây gần 50 dặm, nếu chúng qua khỏi đồi Vạn Lâm thời không đầy một ngày đại binh chúng sẽ kéo đến, còn kỵ binh thì chỉ cần một ngày là đến nơi.

    Nguyên Dực hỏi:

    Quân binh trong thành nầy được bao nhiêu?

    Lạc Đại Vương thưa:

    Bẩm Tướng Soái hiện giờ hơn một vạn quân, phần nhiều do quân binh các Châu Phủ khác thua trận chạy đến đây.

    Từ đầu đến cuối cuộc hợp, có một vị quan lúc nào cũng yên lặng đó là Hầu Thái Công tuy tuổi đã lớn nhưng được gọi là bậc mưu Thần bậc nhất ở Ninh Châu.

    Đến lúc nầy Hầu Thái Công mới lên tiếng:

    Chúng ta có thể tiêu diệt được giặc Ân ở đồi Vạn Lâm nầy. Chúng tiến qua đất Văn Lang, như tiến vào chỗ không người, đánh chiếm các Châu Thành một cách dễ dàng, vì thế chúng sẽ không coi quân lực Văn Lang vào đâu nữa, ung dung mà tiến qua đồi Vạn Lâm. Chúng sẽ cho quân mở đường đi trước, đó chưa phải là quân chủ lực, nếu có quân mai phục chận đánh, thời chúng tỏa ra bao vây đồi Vạn Lâm rồi tìm kế tiêu diệt chúng ta. Theo thời tiết hiện giờ thời ta không sợ hỏa công vì trời hay mưa, cây cối luôn ẩm ước, chúng ta có thể an tâm mà mai phục nơi đồi Vạn Lâm nầy, cứ để cho đội quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực loạt vào vòng vây là tấn công. Quân ta chủ động, quân giặc bị động, chỉ cần ba vạn quân lựa vào những chỗ hiểm yếu phục kích, lợi thế tấn công, cũng đánh tiêu mười vạn quân của chúng.

    PHẦN 8: KINH CHÂU THẤT THỦ

    Lại nói về quân Ân sau khi đánh bại quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, tiến tới bao vây Kinh Châu, kết hợp với quân Hồ, đánh chiếm Kinh Châu một cách dễ dàng, vì Kinh Châu chỉ còn có hơn năm nghìn quân, không phải là quân chủ lực, quân Ân, quân Hồ, chiếm Kinh Châu như lấy đồ trong túi, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, quân Ân làm phép cuồng phong nổi lên, quân binh trong thành kinh hồn bạt vía, quân Ân làm phép yêu tinh quỉ dữ bay lên thành gào thét tấn công, quân binh hỗn loạn, quân Hồ leo tường nhanh như chớp, quân Ân phá cổng thành, chỉ trong chốc lát quân Ân, quân Hồ, tràn ngập vào thành. Kinh Châu thất thủ.

    Vị tướng nữ thống lĩnh chỉ huy quân Ân là Sát Sát không những võ nghệ cao cường thần thông pháp thuật ít ai sánh nổi, mà còn đa mưu túc trí, ít ai bì kịp. Sát Sát là vợ chính của Ân Mao Vương, thống lãnh hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân chủ lực, nhất là đội quân kỵ binh, đội quân xạ binh, di chuyển nhanh chóng lợi hại vô cùng, chiếm được thành Kinh Châu. Sát Sát báo tin thắng trận cho Ân Mao Vương, lên kế sách tiến đánh thành Ninh Châu, Sát Sát đang cùng các Tướng lĩnh bàn bạc lên phương án tiến đánh thành Ninh Châu.

    Thời có một con yêu tinh vào báo:

    Bẩm Nương Nương. Quân chủ lực Văn Lang đã đến Ninh Châu, quân binh đông như kiến, ước lượng trên dưới 20 vạn quân.

    Tướng lĩnh quân Hồ là Hồ Nam Quân nói:

    Chúng có 20 vạn quân chủ lực, hai lực lượng chúng ta kết hợp lại cũng trên 15 vạn quân, hơn kém bấy nhiêu thời có đáng gì, chỉ cần quân binh tinh nhuệ, tuy ít nhưng cũng chẳng kém gì nhiều.

    Sát Sát trợn mắt nói:

    Chúng kéo đến là may cho ta, khỏi mất công tìm chúng thanh toán.

    Rồi ra lịnh cho Phong Yêu và Quỉ Yêu, tàn hình đến Ninh Châu xem chúng bàn những gì. Phong Yêu và Quỉ Yêu, bay lên không biến mất. Đây nói về Phong Yêu và Quỉ Yêu, được lệnh Nương Nương bay tốc hành đến Ninh Châu, ẩn mình vào thành nghe lén quân Văn Lang bàn những gì.

    Nói về nguyên Dực, cùng các quan Tướng Ninh Châu bàn luận sôi nổi, về kế sách chuyến thuật tiêu diệt quân giặc, nào hay đâu có kẻ tàn hình ẩn núp gần đó nghe lén Hầu Thái Công hiến kế. Quân Ân thế nào cũng đi qua đồi Vạn Lâm. Chúng ta cho ba vạn quân mai phục những chỗ trong yếu nơi đây, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực tiến sâu vào ổ mai phục thời ra tay. Lại cho năm vạn quân nhanh chóng đi bọc về hướng Đông Bắc qua khỏi đồi Vạn Lâm hơn 10 dặm phục kích ở xa để cho quân giặc tiến sâu vào đồi Vạn Lâm thời mới duy chuyển quân binh chận đường rút lui của chúng mà đánh, còn đại quân của ta đi bọc về hướng Tây chận đứng đường tháo chạy của chúng, rồi tiến nhanh vào thành lấy lại thành Kinh Châu. Về vận chuyển lương thực thời do quân Ninh Châu đảm nhiệm, Tướng Soái Nguyên Dực, cho đây là kế sách hay, bằng thi hành theo kế sách nầy. Hai con quỉ nghe xong liền tức tốc bay trở về Kinh Châu báo cho Sát Sát Nương Nương biết.

    Sau có thơ rằng:

    Cơ mưu bại lộ nào có hay

    Ra sức điều quân bố trận bày

    Rồng cọp vô tình sa bẫy lưới

    Vận nước còn đen khó đổi thay

    Kế sách mưu Thần đánh giặc Ân

    Nào hay bại lộ kế mưu hay

    Tự mình dẫn xác vào chỗ chết

    Trận địa vùi chôn thê thảm thay.

    Trong binh pháp hai bên đánh nhau, nếu bên nào bại lộ cơ mưu, thời coi như đã bị thua, nói gì đến chiến thắng. Quân giặc tương kế, tựu kế, mà không hay biết gì cả, đến khi thất bại thời mới hổi ôi, chưa nói đến sự nghi ngờ lẫn nhau trong các Quan Tướng, làm suy giảm sức mạnh của chiến đấu, suy giảm sức mạnh của của thống nhất, hợp lực chống quân thù.

    Nói về Sát Sát nắm bắt được thông tin bí mật của quân Văn Lang. Liền tức tốc hành động, đi trước một nước cờ điều khiển quân binh theo ý đồ của mình.

    Sát Sát bàn với Hồ Man Quân:

    Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân Hồ, đến Huyện Ninh Điền chọn nơi hiểm yếu phục kích, chờ cho quân Văn Lang đánh bọc hậu đi tới sa vào ổ phục kích là tấn công ngay.

    Võ Vu, Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh ba vạn quân, nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm trước quân Văn Lang kéo đến phục kích. Khi quân Văn Lang đi sâu vào đồi Vạn Lâm, chưa kịp tản ra phục kích thời tiêu diệt ngay, làm cho chúng không kịp trở tay.

    Hổ Tiên Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo năm nghìn kỵ binh nhanh chóng vượt qua hàng chục dặm đánh bọc hậu từ sau đánh tới, cướp lấy lương thực của chúng, cũng như chận đánh quân hoảng loạn tháo chạy quân Văn Lang.

    Còn ta thời thống lãnh 8 vạn quân chận đánh quân chủ lực tại Tây Bắc Sơn Ninh Châu chận đánh quân chủ lực Văn Lang.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...